Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Lịch sử các học thuyết kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.81 KB, 30 trang )

Lịch sử các học thuyết kinh tế
Luận văn
Đề tài :Lịch sử các học thuyết
kinh tế
Trang 1
Lịch sử các học thuyết kinh tế
Mục lục
1.Chủ nghĩa trọng thương: 3
2. Chủ nghĩa trọng nông: 4
3. Kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh 4
1. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của trường phái biên tế: 5
2. Một số lý thuyết chủ yếu của trường phái “cổ điển mới”: 6
3. Vai trò của Nhà nước trong học thuyết kinh tế tân cổ điển 7
1.Hoàn cảnh ra đời của học thuyết Keynes 8
2.Vai trò của Nhà nước trong học thuyết Keynes: 9
3.Hạn chế của lí thuyết Keynes: 13
4. Chủ thuyết phát triển cho Việt Nam 16
IV-Vai trò của Nhà nước trong lý thuyết kinh tế hỗn hợp 21
1. Hoàn cảnh ra đời của học thuyết kinh tế hỗn hợp: 21
2. Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế hỗn hợp: 22
V – Ý nghĩa của việc nghiên cứu vai trò của Nhà nước trong các học thuyết, lý thuyết kinh tế 23
VI -Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường nhìn từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu 24
1- Những nguyên nhân dẫn tới cuộc khủng hoảng 24
2- Cội nguồn những nguyên nhân trên 25
3- Tất cả các Nhà nước đã phải vào cuộc 26
VII- Việt Nam với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 28
Trang 2
Lịch sử các học thuyết kinh tế
I-Vai trò của Nhà nước trong học thuyết kinh tế cổ điển.
1.Chủ nghĩa trọng thương:


Chủ nghĩa trọng thương hình thành và phát triển từ Anh và Pháp, chiếm một vị trí
quan trọng trong đời sống kinh tế ở các nước Châu Âu thế kỉ XV, XVI, XVII, sự xuất
hiện của Chủ nghĩa trọng thương gắn liền với những chuyển biến lịch sử to lớn xảy ra
trong thời kì này. Trong thời gian đó chính trị xã hội có sự thay đổi rất lớn. Chế độ quân
chủ được củng cố vững chắc, mọi quyền hành tập trung vào trung ương. Guồng máy cai
trị được tăng cường, triều đình phong kiến phải dựa vào sự giúp đỡ về tài chính của tầng
lớp tư bản thương nhân trong xã hội.
Biểu hiện: Chủ trương phải có sự can thiệp Nhà nước đối với các họat động kinh
tế. Sáng kiến cá nhân là cần thiết và quan trọng, nhưng các họat động kinh tế phải có sự
hướng dẫn, điều tiết của Nhà nước.
Trong các thời kì phát triển:
Thời kì đầu(thế kỉ XV-XVI):
Các chính sách được Nhà nước thực hiện :
i) Cấm xuất khẩu tiền,
ii) Hạn chế tối đa việc nhập hàng từ nước ngoài,
iii) Khuyến khích xuất khẩu hàng ra nước ngoài và đem tiền về,
iv) Phá giá đồng tiền để giảm giá hàng và thu hút tiền từ nước ngoài…
Đây là thời kì tích lũy tiền tệ của CNTB với khuynh hướng chung là dùng các
biện pháp hành chính, tức sự can thiệp của Nhà nước để giải quyết các vấn đề kinh tế.
Thời kì sau (thế kỉ XVI-XVII):
Các chính sách được áp dụng là:
i) Hỗ trợ tối đa cho xuất khẩu hàng hóa.
ii) Lập hàng rào thuế quan, đánh thuế cao vào các mặt hàng nhập khẩu dể bảo vệ
hàng hóa trong nước.
iii) Phát triển thương mại bằng mọi cách…
Ở một số nước tiêu biểu:
Trang 3
Lịch sử các học thuyết kinh tế
- Tây Ban Nha: thương gia, nhà tư sản kêu gọi Nhà nước nên cấm mang ra khỏi
đất nước các loại quí kim dưới bất cứ h́nh thức nào, đồng thời hạn chế nhập khẩu hàng

hóa, tăng giá các loại tiển của nước ngoài…
- Pháp: thương gia, nhà tư sản đưa ra các biện pháp nhằm thúc đẩy Công nghiệp
phát triển và hỗ trợ cho việc xuất khẩu chế phẩm: Nhà nước đứng ra thành lập các hiệp
hội, công xưởng; Tổ chức các truường dạy nghề; thuê thợ giỏi từ nước ngoài về làm
việc; cho vay vốn phát triển các làng nghề công nghiệp; lập hàng rào thuế quan bảo hộ…
- Anh: Nhà nước ban hành một chế độ quan thuế tối ưu đánh nặng vào hàng tiêu
dùng nhập khẩu, ưu đăi đối với hàng tái xuất, ban hành các qui chế buộc các nước thuộc
địa phải bán nguyên liệu cho chính quốc và mua các chế phẩm từ chính quốc…
2. Chủ nghĩa trọng nông:
Chủ nghĩa trọng nông ra đời vào giữa thế kỉ XVIII trong bối cảnh đặc thù của
nước Pháp, khủng hỏang kinh tế, xã hội. Nguyên nhân là do chế độ phong kiến chuyên
chế và chính sách trọng nông gây nên. Chế độ phong kiến đă kìm hãm sự phát triển nền
sản xuất. Tầng lớp quí tộc và tăng lữ ăn bám lại nắm quyền chiếm hữu ruộng đất. Tình
trạng của người nông dân vô cùng khốn đốn.
Lập trường cơ bản: Các nhà trọng nông cho rằng sự tự do chính là điều kiện tiên
quyết cho sự phát triển. Nhà nước phải cho người nông dân tự do chọn lựa đất đai, cây
trồng và phương pháp canh tác, tự do cạnh tranh tự do trao đổi của cải sản xuất được…
Nhà nước nên tránh can thiệp vào các họat động kinh tế, vì các can thiệp này có thể làm
sai lệch trật tự tự nhiên.
Biểu hiện qua thuyết “trật tự thiên định”:
Quesnay cho rằng: phải phá bỏ tất cả những gì gây trở ngại cho việc sản xuất lưu
thông của cải. Phải có sự tự do thì trật tự tự nhiên mới thực hiện được và thực hiện một
cách ḥoàn hảo. Con người phải lệ thuộc vào những định luật tối cao do Thượng đế đặt ra.
Đó là những định luật bất di bất dịch.
3. Kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh
Hoàn cảnh xuất hiện kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh:
Tiền đề :
Trang 4
Lịch sử các học thuyết kinh tế
+ Sự tan rã của tư tưởng kinh tế của Chủ nghĩa trọng thương.

+Sự phát triển nhanh của công trường thủ công (trong ngành dệt và ngành khai
thác) nước Anh .
+Cuộc cách mạng tư sản Anh và theo đó là các phát minh khoa học( triết, toán
học ,…)
Sự xuất hiện nhận thức: Muốn làm giàu phải bóc lột công nhân làm thuê, người
nghèo là nguồn gốc làm giàu vô tận cho người giàu.
Kinh tế chính trị cổ điển Anh xuất hiện ở Anh vào những năm 70 của thế kỉ
XVIII. Họat động thương mại bành trướng mạnh đă thúc đẩy sự phát triển của công
nghiệp, và nước Anh trở thành công xưởng của thế giới.
Quan điểm: Nhà nước không nên can thiệp vào các hoạt động kinh tế. Tự do kinh
tế là điều kiện tiên quyết cho một nền kinh tế ổn định lành mạnh và sung túc. Nếu guồng
máy kinh tế đang ở thế cân bằng mà Nhà nước can thiệp vào thì trạng thái cân bằng đó bị
phá vỡ. Nếu guồng máy kinh tế đang ở trạng thái không cân bằng mà Nhà nước can thiệp
bằng cách này hay cách khác thì sự cân bằng càng không thể tái lập.
Quan điểm AD.Smith trong thuyết “bàn tay vô hình”: ủng hộ mạnh mẽ tự do kinh
tế, đề cao vai trò tự điều tiết của thị trường và chống lại sự can thiệp của chính phủ. Với
tư tưởng đó ông cho rằng Nhà nước cần thực hiện một chính sách hoàn toàn tự do. Trong
xã hội Nhà nước chỉ nên đóng vai tṛò thu hẹp như bảo đảm an ninh, công bằng, kiến tạo,
duy trì một số công trình công cộng mà tư nhân không đảm đương được vì lợi nhuận
không đủ bồi hoàn chi phí …
Quan điểm DV Ricardo: ông xem quá trình phát triển kinh tế như qúa trình tuân
thủ các qui luật tự nhiên, đề cao lợi ích cá nhân, coi đó là tiêu chuẩn của sự tiến bộ xã hội
và chủ trương bãi bỏ mọi hình thức chuyên chế cả về chính trị lẫn xã hội.
II-Vai trò của Nhà nước trong học thuyết kinh tế tân cổ điển
1. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của trường phái biên tế:
a. Hoàn cảnh ra đời:
-Cuối TK XIX đầu TK XX, nền kinh tế của các nước TBCN gặp nhiều khó khăn,
nạn thất nghiệp gia tăng làm cho mâu thuẫn xã hội gia tăng.
Trang 5
Lịch sử các học thuyết kinh tế

- Nhịp độ chuyển mạnh từ CNTB cạnh tranh tự do sang CNTB độc quyền, do đó
cần có sự phân tích mới.
- Sự xuất hiện chủ nghĩa Marx chỉ ra xu hướng vận động tất yếu của xã hội loài
người.
b. Đặc điểm :
- Dựa vào tâm lý chủ quan để giải thích các hiện tượng kinh tế - xã hội.
- Chuyển sự chú ý phân tích kinh tế sang lĩnh vực lưu thông, trao đổi, và nhu cầu.
- Đối tượng nghiên cứu là các đơn vị kinh tế cá biệt, tức phương pháp phân tích vi
mô.
- Muốn tách rời kinh tế khỏi chính trị, tức xây dựng lý luận kinh tế thuần túy.
- Tích cực áp dụng các phương pháp tự nhiên trong nghiên cứu kinh tế như: công
thức , đồ thị, mô hình toán học vào phân tích kinh tế.
2. Một số lý thuyết chủ yếu của trường phái “cổ điển mới”:
-Lý thuyết kinh tế chủ yếu của trường phái “biên tế” thành Viene (Áo). Trường phái
này có các lý thuyết nổi tiếng : +Lý thuyết lợi ích biên tế.
+Lý thuyết giá trị biên tế.
-Lý thuyết biên tế ở Mỹ của John Bates Clark (1847 – 1938), giáo sư đại học tổng
hợp Colombia. Trường phái này có các lý thuyết nổi tiếng:
+Lý thuyết năng suất biên tế.
+Lý thuyết phân phối.
-Trường phái thành Lausanne (Thụy Sĩ), đại biểu xuất sắc là Leon Walras (1834 –
1910). Trường phái này có các lý thuyết nổi tiếng :
+Lý thuyết cân bằng tổng quát: Theo ông, điều kiện tất yếu để có cân bằng tổng
quát là sự cân bằng giữa giá cả hàng hóa và chi phí sản xuất.
+Sự cân bằng của nền kinh tế được thực hiện qua sự dao động của cung
cầu.
-Trường phái Cambridge (Anh). Người đứng đầu trường phái này là Alfred Marshall
(1842-1924). Ông là giáo sư trường đại học Tổng hợp Cambridge. Lý thuyết chủ yếu
của ông là lý thuyết giá cả; ông đã đưa ra khái niệm về “sự co dãn của cầu phụ thuộc
Trang 6

Lịch sử các học thuyết kinh tế
vào giá cả”; lý thuyết này là sự tổng hợp các lý thuyết chi phí sản xuất, cung cầu và
ích lợi biên tế.
3. Vai trò của Nhà nước trong học thuyết kinh tế tân cổ điển
Do học thuỵết tư sản kinh tế đã bộc lộ ra những khuyết điểm, không thể lý giải
được những vấn đề mới phát sinh, không bảo vệ lợi ích của chủ nghĩa tư bản, và sự can
thiệp sâu của Nhà nước vào nền kinh tế đã gây nhiều vấn đề phức tạp.
Từ đó đòi hỏi phải có những lý thuyết kinh tế mới -học thuyết kinh tế của trường
phái tân cổ điển ra đời.
Lúc đầu do đối tượng nghiên cứu của các đơn vị kinh tế, trường phái tân cổ điển
nghiên cứư kinh tế hoc thuần tuý không có quan hệ với các điều kiện kinh tế chính trị-xã
hội, ủng hộ tư tưởng tự do kinh tế và chống lại sự can thiệp của Nhà nước. Họ tin tưỏng
rằng kinh tế thị trường tự do sẽ xác lập sự cân bằng cung-cầu và đảm bảo cho nền kinh
tế phát triển một cách bình thường, tránh được khủng hoảng kinh tế. Tuy nhiên, về sau
khi đối tượng nghiên cứu được mở rộng họ đã chú ý phân tích kinh tế vĩ mô và đề cập
Nhà nước cần phải can thiệp vào việc điều tiết các hoạt động kinh tế ở mức độ nhất định.
Một số trường phái tiêu biểu thời kì này:
i. Trường phái thành Vienna (Áo)
- Đề cao yếu tố con người cho rằng mọi sự kiện kinh tế đều phải được xem là
những sự kiện thuộc về con người, do con người đóng vai trò chủ động. Nghĩa là yếu tố
tâm lý chủ quan của con người đóng vai trò quyết định giá trị trao đổi.
- Cho rằng sự phân phối lợi tức thu nhập không lệ thuộc vào một thể chế xã hội
nào hết mà là kết quả của những định luật tự nhiên.
 Đề cao tự do kinh tế, Nhà nước can thiệp không sâu.
ii. Trường phái Colombia(Mỹ)
- Đưa ra học thuyết phân phối tiền lương, lợi nhuận địa tô  trong xã hội tư bản
không hề có bóc lột vì các nhân tố tham gia sản xuất đã nhận được phần thu nhập tương
ứng.
 Cuộc đấu tranh chống thất nghiệp của công nhân đối với nhà tư bản là không có căn
cứ kinh tế.

iii. Trường phái Lausane(Thuỵ Sĩ)
Trang 7
Lịch sử các học thuyết kinh tế
- Trong nền kinh tế tự do cạnh tranh, trạng thái cân bằng giữa giá cả hàng hoá và
chi phí sản xuất sẽ được thực hiện thông qua sự giao động giữa cung và cầu.
III-Học thuyết Keynes
Keynes(1884-1946) là một nhà kinh tế học người Anh. Tác phẩm nổi tiếng là "lí
thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ" (1936)
Đặc điểm chủ yếu của học thuyết Keynes.
- Kịch liệt phê phán chính sách kinh tế của chủ nghĩa bảo thủ. Ông không đồng ý
với quan điểm của trường phái "cổ điển và tân cổ điển" về sự cân bằng kinh tế dựa trên
cơ sở tự điều tiết của thị trường. Theo ông, muốn có cân bằng Nhà nước phải can thiệp
vào kinh tế.
- Vấn đề quan trọng nhất, nguy hiểm nhất là khối lượng thất nghiệp và việc làm.
Vị trí trung tâm trong học thuyết của ông là lí thuyết "việc làm". Trong đó kể đến lí
thuyết kinh tế vĩ mô, về hệ thống điều tiết của đường Nhà nước, ông biểu hiện lợi ích và
là công trình sư của chủ nghĩa tư bản đường Nhà nước.
- Theo ông, việc phân tích phải bắt nguồn từ những tổng lượng lớn để nghiên cứu
mối liên hệ giữa các tổng lượng và khuyênh hướng chuyển biến của chúng để tìm ra
khuynh hướng, công cụ tác động vào những khuynh hướng làm luôn thay đổi tổng
lượng.
1.Hoàn cảnh ra đời của học thuyết Keynes
Vào những năm 30 của thế kỉ XX, khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp và suy thoái
diễn ra một cách phổ biến và ngày càng nghiêm trọng ở các nước tư bản. Hơn ai hết
người Anh phải gánh chịu một đợt đại suy thoái với tỷ lệ thất nghiệp 2 con số trong suốt
thập niên 1920 (trừ năm 1924 là 9,4%).
Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ và tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực
lượng sản xuất TBCN đã đòi hỏi phải có sự điều tiết của Nhà nước vào quá trình phát
triển kinh tế.
Trước đó, các nhà kinh tế cho rằng, mỗi khi có khủng hoảng kinh tế, giá cả và tiền

công sẽ giảm đi; các nhà sản xuất sẽ có động lực đẩy mạnh thuê mướn lao động và mở
rộng sản xuất, nhờ đó nền kinh tế sẽ phục hồi. Nhưng John Maynard Keynes – một nhà
Trang 8
Lịch sử các học thuyết kinh tế
kinh tế học người Anh- lại quan sát cuộc Đại khủng hoảng và thấy: tiền công không hề
giảm, việc làm cũng không tăng, và sản xuất mãi không hồi phục nổi. Keynes cho rằng,
con người thích giữ tiền hơn là đầu tư vì lo ngại rủi ro, đầu tư giảm thì thất nghiệp sẽ
tăng, thị trường tự nó không giải quyết được vấn đề này. Từ đó, Keynes kết luận: khủng
hoảng, thất nghiệp không phải là nội sinh của chủ nghĩa tư bản mà do cơ chế kinh tế lỗi
thời, bảo thủ, thiếu sự can thiệp của Nhà nước sinh ra. Do đó, để khắc phục tình trạng
này, Nhà nước phải có chương trình đầu tư quy mô lớn để huy động số tư bản nhàn rỗi
và lao động dư thừa nhằm giải quyết việc làm đưa đất nước thoát khỏi tình trạng trên vì
thế phải cần đến vai trò của Nhà nước. Nhà nước phải kích cầu, chấp nhận vay nợ và
thâm hụt ngân sách để kích cầu.
2.Vai trò của Nhà nước trong học thuyết Keynes:
Theo Keynes cùng với sự tăng lên của thu nhập thì tiêu dùng cũng tăng lên. Điều
đó có nghĩa là tiêu dùng sẽ không tăng kịp với mức tăng của sản xuất tạo ra sự thiếu hụt
cầu tiêu dùng và đó là nguyên nhân gây ra tình trạng suy thoái thất nghiệp. Từ đó ông
đưa ra chính sách điều tiết kinh tế của Nhà nước.
a. Tăng đầu tư của Nhà nước:
Ông đề nghị Nhà nước phải duy trì cầu đầu tư bằng cách sử dụng ngân sách của
Nhà nước để kích thích đầu tư của tư nhân và Nhà nước thông qua các biện pháp cụ thể
như: đơn đặt hàng, hệ thống mua “tiếp sức”, trợ cấp về tài chính, tín dụng… để đảm bảo
lợi nhuận và khuyến khích đầu tư cho tư bản. Theo Keynes, Nhà nước cần chủ động tung
tiền vào các hoạt động đầu tư công cộng, bất kể tính chất của các khoản chi đó như thế
nào, ngay cả khi đẻ ra “thiếu hụt ngân sách”. Bởi vì khi “cầu có hiệu quả” (bao gồm cầu
đầu tư và cầu tiêu dùng) bị sút kém, sẽ không có lý do đặc biệt nào để thúc đẩy các nhà
kinh doanh mạo hiểm tăng đầu tư của họ. Mặt khác “hệ số việc làm đầy đủ” chỉ có thể
được tạo ra bằng cách Nhà nước giành những số tiền lớn đầu tư vào các công trình công
cộng thuộc lĩnh vực hạ tầng cơ sở như: đường xá, hầm mỏ, hải cảng nghĩa là, Nhà

nước phải chủ động đầu tư vào những lĩnh vực ít sinh lợi nhất (thường không hấp dẫn tư
bản tư nhân) nhưng lại là các điều kiện cần thiết cho toàn bộ quá trình tái sản xuất của tư
Trang 9
Lịch sử các học thuyết kinh tế
bản xã hội. Và đây là điều kiện thuận lợi cho tư bản tư nhân đầu tư vào những ngành
khác có lợi hơn làm cho tình hình đầu tư được cải thiện.
Trong đợt khủng hoảng suy thoái hiện nay, tổng thống của Mỹ, Barack Obama dùng
787 tỉ đô la để thực hiện kích cầu, khoản kích cầu lớn nhất kể từ sau những năm 1950,
vào việc xây dựng và phát triển hạ tầng như hệ thống đường cao tốc liên bang, trường
học, Internet, công nghệ trong lĩnh vực năng lượng Cụ thể ngày 30.09, tổng thống Mỹ
Barack Obama đã công bố kế hoạch sử dụng 5 tỷ đôla Mỹ trong gói kích thích kinh tế trị
giá 787 tỷ đôla nhằm tạo mới nhiều việc làm trong lĩnh vực nghiên cứu y tế và khoa học,
cung cấp thiết bị và dịch vụ y tế, cũng như nâng cấp các phòng thí nghiệm… Trung
Quốc dự tính chi 586 tỉ đôla để cải thiện cơ sở hạ tầng như đường sắt, sân bay.
b. Sử dụng hệ thống tài chính tín dụng và lưu thông tiền tệ:
- Nhà nước kết hợp chính sách tài chính và chính sách tiền tệ để điều chỉnh kinh
tế, ngăn chặn và giải quyết được các cuộc khủng hoảng kinh tế chu kỳ, đảm bảo cho nền
kinh tế phát triển nhịp nhàng ổn định.
Nhìn lại các gói kích cầu lên tới cả ngàn tỉ USD của Mỹ, gần 600 tỉ USD của
Trung Quốc, hàng trăm tỉ USD của Nhật Bản và Châu Âu, người ta thấy các biện pháp
để xử lý tình huống chặn đà suy giảm tăng trưởng của chính phủ các nước này, về cơ
bản, vẫn là chính sách tài khóa và chính sách tín dụng theo các nguyên tắc của Keynes.
Về chính sách tài khóa, các chính phủ chủ trương giảm thuế để hỗ trợ tái đầu tư cho các
nhà sản xuất, thực hành tăng đầu tư vào cơ sở hạ tầng, mở rộng các dịch vụ công và trợ
cấp cho các khu vực thu nhập thấp, dễ tổn thương nhằm tạo cầu nội địa, đảm bảo an sinh
xã hội và giảm thiểu các xung đột xã hội, thậm chí có thể chấp nhận cả thâm hụt ngân
sách để mở rộng thị trường nội địa - một sự bù đắp khoảng sụt giảm đột ngột của thị
trường xuất khẩu. Do đó, sau các gói giải cứu mang tính chất tình thế, các chính phủ tiếp
tục gia tăng các gói kích cầu nhằm tạo đà cho tăng trưởng khi đã chạm tới điểm uốn tại
đáy của cuộc khủng hoảng. Cũng tương tự như vậy, chính sách tín dụng rẻ với mức lãi

suất thấp nhất so với nhiều chục năm qua, hiện đã trở thành đặc trưng phổ biến trong
chính sách tiền tệ của các quốc gia. Chính phủ các nước tạo mọi điều kiện để mọi chủ thể
Trang 10
Lịch sử các học thuyết kinh tế
tiếp cận dễ dàng các nguồn tín dụng, chủ trương hỗ trợ lãi suất theo hướng tăng tổng dư
nợ tín dụng nhằm khởi động lại cầu tiêu dùng và cầu đầu tư nội địa.
- Theo Keynes để kích thích đầu tư cần phải xây dựng lòng tin và sự lạc quan của
doanh nhân bằng biện pháp tăng lợi nhuận và giảm lãi suất. Nhà nước tăng thêm khối
lượng tiền tệ vào lưu thông để giảm lãi suất cho vay và các chính sách khuyến khích các
nhà kinh doanh vay vốn mở rộng quy mô, mở rộng đầu tư. Keynes cho rằng lãi suất được
ấn định bởi một bên là khối lượng cung tiền tệ do ngân hàng trung ương tạo ra và một
bên là số cầu tiền tệ hay là “sự ưa thích tiền mặt”. Khi khối lượng tiền tệ tăng hoặc giảm
mà số cầu tiền tệ không thay đổi, lãi suất có thể giảm hoặc tăng một cách tương ứng. Do
vậy, để khuyến khích đầu tư, Nhà nước vừa phải duy trì ở mức lãi suất thấp, vừa có thể
tăng khối lượng tiền tệ.
- Dựa trên quan điểm điều chỉnh lãi suất thấp, Keynes chủ trương thực hiện “lạm
phát có mức độ”. Theo quan điểm này, lạm phát càng mạnh khi lãi suất càng thấp và do
đó, đầu tư càng sôi động. Ngược lại, đầu tư mạnh, nhu cầu về đầu tư lớn thì lạm phát
càng có điều kiện phát sinh. Về thực chất, giảm lợi tức là để nâng cao lợi nhuận cho tư
bản độc quyền khích thích tính tích cực hoạt động của tư bản độc quyền, thực hành lạm
phát là làm tăng giá cả nhằm hạ thấp tiền lương thực tế của các tầng lớp lao động khác
nhau khi nền kinh tế đạt tới mức sản lượng cao và việc làm tăng thì lạm phát sẽ tự động
dừng lại.
- Thâm hụt ngân sách là điều khó tránh khỏi ở những nước có kế hoạch kích cầu
trên quy mô lớn. Để bù đắp cho sự thiếu hụt của ngân sách Nhà nước, ông chủ trương in
thêm tiền giấy để cấp phát cho ngân sách từ đó mở rộng đầu tư của Nhà nước và đảm
bảo chi tiêu cho chính phủ.
Những năm 1960, 1970 kích cầu theo học thuyết Keynes tiếp tục phổ biến khắp
nơi trên thế giới mà kết quả là nền kinh tế Mỹ, châu Âu và một số nền kinh tế khác ở
châu Mỹ Latin đã phát triển hơn. Phần lớn việc chi tiêu của chính phủ thông qua các gói

kích cầu nhằm mục đích đưa nền kinh tế vượt qua khủng hoảng nhưng nó đã kéo theo sự
phát triển quá nóng. Kinh tế Mỹ Latin thường xuyên trong tình trạng lạm phát phi mã.
Trang 11
Lịch sử các học thuyết kinh tế
Chỉ số chung về lạm phát và thất nghiệp ở Mỹ cũng luôn ở mức cao, lên đến 20,8% năm
1980, tăng hơn 10% so với 10 năm trước đó
- Khuyến khích việc chi tiêu của Nhà nước nhất là Nhà nước trung ương kể cả với
những chi tiêu không có lợi cho nền kinh tế như quân sự hóa, chạy đua vũ trang, phát
động chiến tranh…
Chiến tranh thật sự là một cơ hội kinh doanh tốt, nó tạo ra hàng loạt thị trường
mới và khiến cho chính phủ phải trợ cấp nhiều cho đầu tư. Đã có nhiều hoạt động rất lớn
do chính phủ điều hành trong suốt thời kỳ chiến tranh, nhưng sau này cũng chuyển giao
lại cho các doanh nghiệp tư nhân. Điển hình là những nhà máy nitrogen được xây dựng
để sản xuất TNT. Sau chiến tranh, chúng được chuyển sang cho doanh nghiệp tư nhân để
kích thích mở rộng sản xuất phân vô cơ.
- Chủ trương sử dụng công cụ thuế để điều tiết kinh tế. Đối với nhà kinh doanh,
ông khuyến cáo Nhà nước giảm thuế để nâng cao hiệu quả tư bản nhằm khuyến khích
nhà kinh doanh tích cực đầu tư phát triển. Đối với người lao động, cần phải tăng thuế để
điều tiết bớt một phần tiết kiệm từ thu nhập của họ, đưa phần này vào ngân sách Nhà
nước để mở rộng đầu tư.
Ở Việt Nam giảm 30% thuế thu nhập doanh nghiệp (kích thích sản xuất từ phía
cung) từ quý IV/2008 kéo dài thời gian chậm nộp thuế từ 6 tháng lên 9 tháng và hoàn
thuế VAT nhanh hơn để hỗ trợ doanh nghiệp.
c. Khuyến khích tiêu dùng:
Nhà nước thông qua chính sách thuế để điều chỉnh thu nhập quốc dân có lợi cho
tiêu dùng xã hội, đặc biệt là khuyến khích tiêu dùng đối với những tầng lớp có thu nhập
cao ưa tiêu dùng từ đó giảm khối lượng tiết kiệm nói chung. Đối với người lao động, ông
cho rằng cần phải đáp ứng tâm lý của người tiêu dùng hỗ trợ tiêu dùng cá nhân.
Ngày 13/2/2008: Tổng thống George W. Bush đã ký Economic Stimulus Act of
2008 nhằm kích cầu với tổng hợp trị giá 168 tỷ dollar chủ yếu dưới hình thức hoàn thuế

thu nhập cá nhân. Ngày 26/2/09 chính phủ Mỹ sẽ lên kế hoạch về việc tăng thuế đối với
những người có thu nhập cao,theo kế hoạch chính phủ sẽ thu thêm khoảng 1000 tỷ USD
Trang 12
Lịch sử các học thuyết kinh tế
từ những người có thu nhập cao nhất nước Mỹ và mức thuế sẽ lên tới 36-39.6% so với
mức hiện nay là 33-35%. Hoạt động tăng thuế này sẽ có hiệu lực bắt đầu từ năm 2011.
Ở Việt Nam để kích thích tiêu dùng Nhà nước đã trì hoãn thuế Thu nhập cá nhân
đến hết năm 2009, đồng thời chính phủ cũng giảm thuế VAT đối với một số mặt hàng
thiết yếu.
3.Hạn chế của lí thuyết Keynes:
- Trong một thời gian dài, lí thuyết Keynes được vận dụng rộng rãi, tuy nhiên nó
cũng thể hiện số hạn chế:
+ Mục đích của lí thuyết Keynes là chống khủng hoảng và thất nghiệp. Song trong
những năm thực hiện lí thuyết này thì cứ 4 năm lại có một lần chấn động kinh tế.
+Nạn thất nghiệp ở các nước tư bản không được khắc phục mà có xu hướng gia
tăng. Tư tưởng "Lạm phát có điều tiết" của Keynes góp phần làm tăng sự trầm
trọng của lạm phát, một căn bệnh nan giải của nền kinh tế hiện đại.
+ Công cụ lãi suất điều tiết đầu tư cũng không có hiệu quả và nhiều khi còn có tác
động ngược lại.
+ Nắm được nhu cầu xã hội hoá đòi hỏi sự can thiệp Nhà nước vào kinh tế,
Keynes đưa ra lí thuyết chủ nghĩa tư bản được điều tiết. Song khi đánh giá cao vai
trò Nhà nước, ông lại bỏ qua vai trò của tư tưởng tự do của bàn tay vô hình, của
cân bằng tổng quát .
=) Điều đó làm gia tăng xu hướng phê phán lí thuyết kinh tế Keynes.
Mô hình kinh tế của ông gồm ba đại lượng:
+ Đại lượng xuất phát : không biến đổi hoặc biến đổi chậm. Đó là những nguồn
vật chất tlsx, mức độ trang bị kĩ thuật , trình độ chuyên môn hoá của chủ nghĩa, cơ cấu
của chế độ xã hội .
+ Đại lượng khả biến độc lập: là những khuynh hướng tâm lí (tiết kiệm, tiêu dùng,
đầu tư )nhóm này là cơ sở hoạt động của mô hình, là đòn bảy cho sự họat động của các

tổ chức kinh tế.
+Đại lượng khả biến phụ thuộc : cụ thể hoá tình trạng của nền kinh tế (số lượng
quốc gia, thu nhập quốc dân) ⇒ R=C+S
Trang 13
Lịch sử các học thuyết kinh tế
Q= C+I
⇒ I=S
R=Q
- Lí thuyết của Keyns đánh giá cao vai trò của tiêu dùng và trao đổi, coi tiêu dụng
và trao đổi là nhiệm vụ số một mà nhà kinh tế học phải giải quyết. Theo ông, cùng với sự
tăng lên của việc làm thì cũng có sự tăng lên của thu nhập và do đó có sự tăng lên của
tiêu dùng và do đó cầu có hiệu quả giảm xuống. Đây là nguyên nhân gây ra khủng
hoảng, thất nghiệp, trì trệ trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Vì thế để đẩy mạnh sản
xuất bảo đảm cân đối cung cầu thì phải nâng cầu tác dụng lên, tìm biện pháp kích thích
cầu có hiệu quả chính vì thế lí thuyết của Keynes còn được gọi là lí thuyết trọng cầu.
- Tuy nhiên phương pháp luận của Keynes là siêu hình, ông cho rằng lí thuyết này
đúng với mọi chế độ xã hội.
∗ Lí thuyết về sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế của Keynes
- Đầu tư Nhà nước. Sự tăng giá của Nhà nước vào kinh tế sẽ làm tăng đầu tư tư
nhân cũng như tăng tiêu dùng của Nhà nước lên. Vì vậy làm cho cần có hiệu quả tiến sát
với đường biến đổi của thu nhập. Nhờ vậy mà tăng C, tăng Y chống khủng hoảng và thất
nghiệp.
- Sử dụng hệ thống tài chính.
+ Tín dụng và lưu thông tiền tệ.
+ Kích thích lòng tin, tính lạc quan và tích cực đầu tư của nhà kinh doanh. Lạm
phát là biện pháp hữu hiệu để kích thích thị trường mà không gây ra nguy hiểm (có kiểm
soát) để tăng giá cả.
+ Để bù đắp thiếu hụt ngân sách, Nhà nước chủ trương in thêm tiền để cấp phát
cho ngân sách hoạt động, mở rộng đầu tư Nhà nước và đảm bảo chi tiêu cho chính phủ.
+ Sử dụng công cụ thuế để điều tiết nền kinh tế : tăng thuế để điều tiết bớt một

phần tiết kiệm từ thu nhập của người lao động, đưa vào ngân sách để Nhà nước mở rông
đầu tư, giảm thuế với nhà đầu tư để tăng đầu tư.
- Tạo việc làm, mở nhiều hình thức đầu tư để giải quyết việc làm, tăng thu nhập,
chống khủng hoảng, có thể với nghề ăn bám như sản xuất vũ khí, chạy đua vũ trang.
Trang 14
Lịch sử các học thuyết kinh tế
- Khuyến khích tiêu dùng, khuyên khích tiêu dùng cá nhân đối với nhà tư sản,
tầng lớp giàu có và người nghèo.
Kinh tế học Keynes coi trọng vai trò của chính phủ và chính sách tài khoá.
Trường phái này cho rằng nền kinh tế không có cơ chế tự điều chỉnh (self-correcting) và
sự can thiệp đúng lúc của chính phủ là rất quan trọng để ổn định nền kinh tế. Hiểu một
cách đơn giản là chính phủ phải thực hiện chính sách tài khoá thâm hụt trong giai đoạn
trì trệ vì đầu tư từ khu vực tư nhân là không đủ để thúc đẩy sản xuất và giúp nền kinh tế
vượt qua giai đoạn khó khăn của chu kỳ.
Chính sách can thiệp của Chính phủ Việt Nam thời gian qua dưới hình thức hỗ trợ
lãi suất có thể coi là một biện pháp kích cầu khá đặc biệt vì về bản chất cũng là mở rộng
tài khoá nhưng lại “mượn” công cụ tiền tệ, thay vì hạ lãi suất cơ bản lại giữ lãi suất ở
mức cao và trợ cấp lãi suất cho vay.
Cho đến nay chưa có đánh giá cụ thể nào về hiệu quả của chính sách này nhưng
có thể thấy sự hoán chuyển khái niệm tài khoá - tiền tệ, hay kích cầu - giải cứu đã cứu
nhiều ngân hàng vượt qua cơn khốn khó về thanh khoản (do đã coi thường rủi ro tín
dụng và rủi ro chênh lệch kỳ hạn trong giai đoạn 2007-2008).
Một số ít doanh nghiệp “may mắn” được nhận hỗ trợ nhưng thị trường tiền tệ, thị
trường ngoại hối cũng như môi trường kinh doanh bị bóp méo; hàng loạt nguy cơ bất ổn
vĩ mô như thâm hụt ngân sách, đầu tư công vốn được đánh giá hiệu quả thấp chèn lấn
đầu tư tư nhân, lạm phát, nợ Chính phủ tăng cao tiềm ẩn nhiều rủi ro
Sau khi Chính phủ công bố tiếp tục kích cầu thông qua hỗ trợ lãi suất ngắn hạn
đến hết tháng 3-2010 và hỗ trợ lãi suất trung-dài hạn đến hết năm 2011, câu hỏi nhiều
người đặt ra là chúng ta sẽ kích cầu đến khi nào? Đã nhiều năm qua biết bao nhiêu doanh
nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước luôn trong tình trạng “sức khoẻ có vấn

đề”. Do đó, khi gói thứ hai kết thúc, liệu chúng ta sẽ tiếp tục có gói thứ ba, thứ tư để
“tiếp sức” cho các doanh nghiệp?
Cần lưu ý rằng những đề xuất chính sách kiểu Keynes chỉ hợp lý trong điều kiện
suy thoái và có tác dụng ngắn hạn để giúp nền kinh tế vượt qua giai đoạn khó khăn của
chu kỳ. Cho đến nay kinh tế nước ta đã có những dấu hiệu phục hồi rõ rệt, GDP tăng liên
tục ba quí và đạt 4,56% sau chín tháng, sản xuất công nghiệp từ mức âm 4,4% vào tháng
Trang 15
Lịch sử các học thuyết kinh tế
1-2009 đã tăng lên 13,8% vào tháng 9-2009 Do đó, kích thích tài khoá (hoặc mượn
công cụ tiền tệ) bất chấp các cân đối vĩ mô ngày càng xấu đi không nên tiếp tục được
duy trì.
4. Chủ thuyết phát triển cho Việt Nam
Trái với những người theo Keynes, Kinh tế học tiền tệ/Tân cổ điển lại khuyến
khích sự phát triển thị trường tự do, giảm thiểu sự can thiệp của chính phủ. Nền kinh tế
hoạt động theo cơ chế tự điều chỉnh (self-correcting) và những chính sách ổn định kiểu
Keynes là không cần thiết. Điều các chính phủ cần làm là đưa ra chính sách kinh tế vĩ
mô càng dễ dự đoán càng tốt, nghĩa là chính sách càng ổn định thì kinh tế sẽ ổn định
trong trung-dài hạn và đó là điều kiện cơ bản để phát triển kinh tế.
Trên thực tế, từ đầu những năm 1980 đến nay không có nước nào chỉ áp dụng duy
nhất một trong hai chủ thuyết nói trên, kể cả Mỹ là nước đề cao Kinh tế học tiền tệ/Tân
cổ điển và theo đó đã phát triển hệ thống thị trường tự do ở trình độ cao. Nhiều nước
đang áp dụng chủ thuyết thực dụng (pragmatism) trong hoạch định chính sách kinh tế vĩ
mô, lựa chọn giải pháp hiệu quả nhất mà các trường phái đưa ra trong từng hoàn cảnh cụ
thể.
Việc nước Mỹ sử dụng gần 2.000 tỉ đô la để kích cầu/giải cứu các tổ chức tài chính
và đang nhanh chóng tự điều chỉnh vai trò Nhà nước trong nền kinh tế thị trường tự do
(đặc biệt là thị trường tài chính) nhằm khắc phục những nhược điểm bộc lộ trong thời
gian qua đã cho thấy rõ quan điểm trên.
Theo chủ thuyết này, khi bước vào pha phục hồi và đi lên, bên cạnh việc duy trì ổn
định kinh tế vĩ mô, những đề xuất chính sách cụ thể của chủ nghĩa tân tự do

(neoliberalism) xây dựng trên cơ sở Kinh tế học tiền tệ/Tân cổ điển như khuyến khích
phát triển kinh tế tư nhân, tăng cường kỷ luật tài khoá, lãi suất theo cơ chế thị trường, tự
do hoá thương mại, mở cửa thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, cổ phần hoá doanh
nghiệp Nhà nước, đẩy mạnh chính sách giải quyết (nhưng cần giám sát thận trọng các tổ
chức tài chính) chính là cơ sở để cơ cấu kinh tế tự điều chỉnh theo hướng hiệu quả,
hợp lý hơn và thúc đẩy sự phát triển bền vững của nền kinh tế.
Thực tế cũng cho thấy những chính sách trên không chỉ mang lại thành công cho
các nước phát triển như Mỹ, Anh mà còn giúp mang lại nhiều thay đổi quan trọng cho
Trang 16
Lịch sử các học thuyết kinh tế
những nền kinh tế chuyển đổi như Việt Nam, Trung Quốc hay các nước Đông Âu.
Đây là triết lý cơ bản của chủ thuyết thực dụng mà chúng ta cần cân nhắc kỹ lưỡng
trước khi bắt tay vào tái cấu trúc nền kinh tế hay xây dựng mô hình phát triển kinh tế cho
tương lai.
 So sánh tân cổ điển với Keynes
- Để hiểu được Keynes thì phải hiểu được những gì diễn ra trước ông. Trước Keynes,
kinh tế học đã khá phát triển, với sự thống trị của phái tân cổ điển (neo-classical
economics) mà cha đẻ của nó thường được xem là David Ricardo. Kinh tế học tân cổ
điển đặt nền tảng lý luận trên tiền đề thị trường cạnh tranh hoàn toàn, và lao động được
thuê mướn hoàn toàn. Đó là một tiền đề phi thực tế, có điều ở thời điểm đó các nhà kinh
tế học lại mặc nhiên chấp nhận nó giống như chấp nhận các mệnh đề Euclide trong toán
học vậy. Vào năm 1929 cuộc đại khủng hoảng kinh tế nổ ra là một câu chuyện sống
động mà Keynes quan sát thấy như một bằng chứng cho thấy lập luận này không thể áp
dụng vào cuộc sống thực tế. Ông đã đưa ra một lập luận mới về thị trường không cạnh
tranh hoàn toàn, và do đó cần phải có sự can thiệp vào thị trường. Keynes viết điều đó
trong cuốn sách vĩ đại là "The general theory of employment, interest and money"
(1936). Cuốn sách này đã đem lại một tư duy mới cho ngành kinh tế học thế giới. Ảnh
hưởng của Keynes ở Mỹ ngày nay đã giảm nhiều, tuy nhiên ở Châu Âu và có lẽ đặc biệt
là ở Châu Á, học thuyết của Keynes vẫn rất được coi trọng.
- Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ (tên gốc tiếng Anh: The

General Theory of Employment, Interest, and Money) là một cuốn sách của nhà kinh tế
học nổi tiếng người Anh John Maynard Keynes (1883-1946). Tác phẩm này thường
được xem là cuốn sách gối đầu giường của các nhà kinh tế học ở Anh và được cho là đã
đặt nền móng cho môn kinh tế học vĩ mô hiện đại. Ngay từ lần xuất bản thứ nhất vào
tháng 2 năm 1936, tác phẩm đã gây tiếng vang mạnh mẽ bởi sự mới mẻ trong tư tưởng
kinh tế cũng như bởi sự quan tâm tới tính khả thi của các chính sách kinh tế và sự can
thiệp vào tổng cầu. Người ta hay gọi đây là "Cuộc cách mạng của Keynes". Những tư
tưởng nêu ra trong tác phẩm này trở thành hòn đá tảng trong kinh tế học Keynes. Nó phê
phán kinh tế học cổ điển và tân cổ điển. Nó đưa ra các lý luận quan trọng về hàm tiêu
Trang 17
Lịch sử các học thuyết kinh tế
dùng, về nguyên lý số nhân, về hiệu suất biên của vốn và về sự ưa thích tính thanh
khoản.
- Tại sao một cú shock tiền tệ danh nghĩa (nominal money shock) có thể ảnh hưởng
đến những hoạt động kinh tế thực tế là một trong những câu hỏi làm đau đầu các nhà
kinh tế vĩ mô nhất trong kinh tế vĩ mô hiện đại. Các nhà kinh tế vĩ mô bị chia rẽ bởi cách
giải thích của họ đối với những biến động kinh tế. Trước hết chúng ta cần bắt đầu từ sự
phân đôi cổ điển (Classical dichotomy). Các nhà kinh tế Cổ Điển đưa ra giả thiết của tính
Trung lập tiền tệ (monetary neutrality), tức có nghĩa là tiền trên danh nghĩa chỉ có thể
ảnh hưởng tới các biến số danh nghĩa, ví dụ như giá cả và lương bổng (prices and
wages), nhưng không ảnh hưởng tới các biến số thực tế, ví dụ như sản phẩm thực tế và
lao động. (real output and labor). Trường phái Cổ Điển, tiếng Anh gọi là the Classical
school, ví dụ ta có thể liệt kê ra: Adam Smith, Ricardo, Karl Marx, …, Sau đó trường
phái Tân Cổ Điển I (Neoclassical school I) ra đời mà hầu như đã chiếm lĩnh toàn bộ
Trung Nguyên (theo Nguyễn Hải Sa): với những trọng tâm như là lý thuyết Ích lợi cận
biên (marginal utility theory), lý thuyết Kinh tế phúc lợi (welfare economics), v.v. Nhìn
chung, cách nghiên cứu của trường phái này là theo phương pháp cân bằng cục bộ
(partial equilibrium approach).
Trước năm 1936, các trường phái Anh-Mỹ giả thiết rằng giá cả dao động tự do, tiền tệ
vì vậy trung lập. Sau năm 1936, Keynes phát biểu : “In the long-run we are all dead.“, có

lẽ là câu nói nổi tiếng nhất trong ngành kinh tế chăng
Keynes đưa ra giả thuyết tiền lương cứng nhắc để chứng minh rằng nạn thất nghiệp trầm
trọng trong cuộc Đại Suy Thoái (1929; the black friday) là do vậy mà ra. Khi hệ thống
ngân hàng liên bang sụp đổ vì khủng hoảng thị trường chứng khoán, mức giá cả P giảm
sút trầm trọng, nhưng mức lương thực tế W/P lại tăng là vì mức lương danh nghĩa W bị
cứng nhắc (wage rigidity). Các ông chủ sa thải công nhân vì mức lương thực tế quá cao.
Keynes không trả lời tại sao nó bị cứng nhắc. Nó như thế đấy, cứ nhìn thực tế mà xem sẽ
thấy.
Các mô hình kinh tế vĩ mô dựa trên giả thuyết tiền lương cứng nhắc của Keynes chỉ ra
rằng tiến trình thích nghi không hoàn hảo của mức lương (incomplete nominal
adjustment of wages) khiến cho tiền tệ danh nghĩa gây ảnh hưởng đến sản phẩm sản
Trang 18
Lịch sử các học thuyết kinh tế
xuất. Khung mẫu money-nonneutrality từ đó nuôi không biết bao nhiêu nhà kinh tế vĩ
mô .
Nếu như mức lương cứng nhắc đó còn bị ảnh hưởng bởi mức lương cứng nhắc từ
những kỳ trước đó, W(t), W(t-1), , các mô hình kinh tế vĩ mô theo truyền thống
Keynesian cho thấy một sự đánh đổi thường xuyên giữa thất nghiệp và lạm phát
(permanent trade-off between unemployment and inflation). A. W. Phillips (1958) khi
nghiên cứu thị trường lao động Anh đã phát hiện ra mối liên hệ đảo ngược giữa lạm phát
và thất nghiệp, sau này được nhà kinh tế Samuelson gọi là đường Phillips. Keynes hy
vọng rằng khung mẫu của ông là một cuộc cách mạng to lớn có thể thay đổi toàn bộ nền
tảng của ngành kinh tế vĩ mô thời bấy giờ. Vậy mà Samuelson lại gói gọn cái lý thuyết
tiền lương cứng nhắc của ông Keynes vào cái bao bì Tân Cổ Điển II thành một khung
mẫu mới: “The Neoclassical Synthesis.” Bấy giờ trường phái Tân Cổ Điển II xuất hiện,
sử dụng phương pháp cân bằng tổng quan kiểu walrasian (Walrasian general equilibrium
approach).
- Sự can thiệp gọi là chính sách kinh tế vĩ mô (macro economic), là những biện pháp có
tác dụng với nền kinh tế như một khối thống nhất qua các yếu tố thuế, lãi suất. Nhưng để
can thiệp nền kinh tế như vậy thì chính phủ phải bành trướng với một hệ thống các cơ

quan theo dõi thị trường để thu thập thông tin, phân tích thông tin và dự báo tình hình để
can thiệp kịp thời.
Ngoài ra, đặc điểm của nền kinh tế tư bản thời kỳ tiền - Đại khủng hoảng là sự hình
thành các tổ hợp độc quyền, có thể lũng đoạn nền kinh tế: bây giờ thì 'bàn tay vô hình'
đã chính là bàn tay của tổ hợp. Bởi thế việc kiểm soát này còn hướng tới nỗ lực ngăn
chặn độc quyền: tại Mỹ có luật 'Anti-Trust' còn tại Úc có luật Trade Practice.
Càng kiểm soát nhiều thì càng cần nhiều nhân sự, ban bệ. Chính vì thế mô hình kinh tế
kiểm soát này gắn liền với một chính quyền lớn, kềnh càng, gọi là 'big government'.
Chính sách của Keynes được tin tưởng tuyệt đối cho đến khi diễn ra cuộc suy thoái
kinh tế toàn cầu năm 1970: từ đây giới kinh tế gia nhận thấy rằng việc kiểm soát nền
kinh tế cũng có nhiều bất cập.
Lý do là bên cạnh những yếu tố kinh tế tạp khác nhau còn có yếu tố toàn cầu: khi
mối giao thương thế giới càng rộng mở thì vấn trở nên phức tạp hơn Keyne tưởng.
Trang 19
Lịch sử các học thuyết kinh tế
Không một nền kinh tế nào khép kín, tụ cung tự cấp cả mà còn mối quan hệ quốc tế mà
không một chính phủ nào có thể kiểm soát nổi.
Lúc này nhiều kinh tế gia chủ trương quay về với quan điểm của Adam Smith, gọi là
trường phái tân cổ điển (neo-classicalism): gọi là tân cổ điển vì họ không hẳn áp dụng
hoàn toàn nguyên tắc 'tự do' cổ điển của Smith. Bây giờ các chính phủ vẫn kiểm soát
nhưng chỉ là kiểm soát lỏng hơn, hay kiểm soát một cách gián tiếp, thí dụ như cách quản
trị thị trường tiền tệ với chính sách bán và mua công khố phiếu để bơm và rút tiền mặt
vào thị trường nhằm kích thích hay tiết chế sự lưu thông của nó để tác động đến yếu tố
chế lãi suất, do đó sẽ tác động đến yếu tố quan trọng của kinh tế là đầu tư và tiêu thụ
v.v
- Các công trình của Cournot đánh dấu sự chuyển đổi từ kinh tế cổ điển qua kinh tế tân
cổ điển (neoclassical economics) (xem Hildenbrand, 1982). Cả hai thuyết đều quan tâm
đến sản xuất, phân bố, trao đổi và tiêu thụ của cải (của cải theo nghiã hàng hoá). Các
kinh tế gia cổ điển chú ý đến sản xuất và phân phối của cải qua thời gian. Họ nhấn mạnh
tỷ lệ tăng truởng dân số và nguồn lực vật chất, và xem xét hậu quả của các nhân tố này

lên tiến bộ kinh tế cũng như phúc lợi của nhân dân và xã hội. Các kinh tế gia tân cổ điển
ít quan tâm đến các khía cạnh động. Thay vào đó, họ đặt câu hỏi: “trong một nền kinh tế
với dân số có sở thích, nguồn lực và kỹ thuật cho sẵn, làm sao các nguồn lực có thể phân
phối qua một hệ thống thị trường để cực đại hoá sự thoả mãn của người tiêu thụ?” Dùng
thuật ngữ kinh tế ngày nay, sự chuyển đổi từ kinh tế cổ điển qua tân cổ điển là sự xê dịch
từ phân tích kinh tế vĩ mô sang vi mô. Đường hướng mới này (xem vấn đề quyết định cá
nhân như một vấn đề tối ưu) có thể giải quyết một cách toán học bằng phương pháp giải
tích. Walras (1874) lý luận: “Chỉ có toán mới có thể giúp chúng ta hiểu ý nghiã của điều
kiện hữu dụng tối đa (maximum utility).
Kinh tế tân cổ điển khởi đầu với ba kinh tế gia: Stanley Jevon (Anh), Carl Menger
(Áo) và Léon Walras (Pháp). Ba kinh tế gia này thường được xem là ông tổ của “Cách
mạng Biên tế” (Marginalist Revolution). Danh từ biên tế liên quan đến kết quả toán của
điều kiện biên tế cho cân bằng thị trường. Quan trọng nhất trong ba kinh tế gia này là
Walras, người được Joseph Schumpeter (1954: 827) xưng tụng là “kinh tế gia vĩ đại
nhất”. Lý do Walras được gọi như vậy là vì Walras (1874) đã khám phá ra lý thuyết cân
Trang 20
Lịch sử các học thuyết kinh tế
bình tổng thể (general equilibrium theory). Thuyết này giải thích quân bình của một hệ
thống kinh tế thị trường qua quá trình điều chỉnh giá cả mà trong đó các tác nhân kinh tế
riêng rẽ không thể ảnh hưởng lên giá thị trường. Nói tóm gọn, Walras đã xếp đặt một
chương trình nghiên cứu mà rất nhiều kinh tế gia thế kỷ 20 đã theo đuổi. Cùng với học
trò là Vilfredo Pareto, Walras sáng lập trường phái Lausanne, có thể xem là trường phái
kinh toán đầu tiên trên thế giới.
- Các học thuyết kinh tế học giải thích thất nghiệp theo các cách khác nhau. Kinh tế học
Keynes nhấn mạnh rằng nhu cầu yếu sẽ dẫn đến cắt giảm sản xuất và sa thải công nhân
(thất nghiệp chu kỳ). Một số khác chỉ rằng các vấn đề về cơ cấu ảnh hưởng thị trường lao
động (thất nghiệp cơ cấu). Kinh tế học cổ điển và tân cổ điển có xu hướng lý giải áp lực
thị trường đến từ bên ngoài, như mức lương tối thiểu, thuế, các quy định hạn chế thuê
mướn người lao động (thất nghiệp thông thường). Có ý kiến lại cho rằng thất nghiệp chủ
yếu là sự lựa chọn tự nguyện. Chủ nghĩa Mác giải thích theo hướng thất nghiệp là thực tế

giúp duy trì lợi nhuận doanh nghiệp và chủ nghĩa tư bản. Các quan điểm khác nhau có
thể đúng theo những cách khác nhau, góp phần đưa ra cái nhìn toàn diện về tình trạng
thất nghiệp.
IV-Vai trò của Nhà nước trong lý thuyết kinh tế hỗn hợp
1. Hoàn cảnh ra đời của học thuyết kinh tế hỗn hợp:
Những năm 50 của thế kỉ XX khi nền kinh tế thị trường phát triển ổn định trở lại,
các nhà kinh tế học trường phái tự do mới đã phê phán học thuyết keynes quá đề cao vai
trò kinh tế của Nhà nước, làm cho nền kinh tế kém năng động và chậm phát triển, từ đó
đòi hỏi phải giảm bớt sự can thiệp sâu của Nhà nước vào kinh tế và mở rộng tự do kinh
tế.
Như vậy từ những năm 50,60 của thế kỉ 20 đã có sự xích lại gần nhau giữa hai tư
tưởng kinh tế là kinh tế thị trường tự do và sự điều tiết kinh tế của Nhà nước và đến
những năm 60,70 của thế kỉ XX hình thành truờng phái kinh tế học của trường phái
chính hiện đại. Trường phái này đã và đang giữ vai trò thống trị ở hầu hết các nước trên
thế giới nổi bật là Mỹ ,Tây Âu, Nhật.
Lý thuyết nền kinh tế hỗn hợp: theo quan điểm của Samuelson là nền kinh tế vận
Trang 21
Lịch sử các học thuyết kinh tế
động chịu sự điều tiết của 2 yếu tố: cơ chế thị trường và Nhà nước, hai yếu tố này giữ vai
trò ngang nhau.
2. Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế hỗn hợp:
Vai trò của Nhà nước thể hiện qua 4 chức năng sau đây:
a.Thiết lập khuôn khổ pháp luật: đây là một trong những chức năng đầu tiên, có vai trò
quan trọng trong việc khắc phục các khuyết tật của thị trường. Nhà nước cần phải tạo
hành lang pháp lý, tạo môi trường thuận lợi cho các đơn vị sản xuất kinh doanh.
Là hệ thống luật pháp quy định cho quá trình vận động của nền kinh tế, quá trình
sản xuất kinh doanh, không chỉ riêng mỗi cá nhân, mỗi người.
b.Chính phủ phải đảm bảo tính hiệu quả của các hoạt động kinh tế
Thứ nhất, xuất phát từ đặc trưng của kinh tế thị trường là tự do sẽ dẫn đến độc
mquyền điều đó có thể làm cho các hoạt động kinh tế kém hiệu quả.

Thứ hai, chống lại những tác động bên ngoài, chẳng hạn, khi một xí nghiệp hay
một cá nhân gây ra những chi phí bất lợi cho một doanh nghiệp khác song họ không phải
chi trả và ngược lại .
Thứ ba, chính phủ đảm nhiệm việc sản xuất những hàng hóa công cộng:vì những
hàng hóa này lợi nhuận thấp hoặc không thể giao cho tư nhân (an ninh, quốc phòng ).
Thứ tư, thông qua các công cụ chính sách kinh tế (thuế ) để đảm bảo và kích
thích việc đầu tư sản xuất những hàng hóa công cộng.
c. Bảo đảm tính công bằng
Nền kinh tế thị trường gây ra những bất bình đẳng lớn trong thu nhập để khắc
phục hạn chế chính phủ phải thông qua các chính sách kinh tế nói chung và nhất là chính
sách phân phối nói riêng để điều chỉnh phân phối thu nhập.
Các công cụ để thực hiện là: thuế thu nhập, bảo hiểm xã hội, phúc lợi xã hội.
d. Ổn định kinh tế vĩ mô:
Kinh tế thị trường vận động theo các quy luật khách quan, mang tính tự do, tự
phát tất yếu dẫn đến lạm phát, khủng hoảng thất nghiệp, đây là khuyết tật không thể
tránh khỏi của nền kinh tế thị trường. Hai vũ khí chủ yếu mà chính phủ sử dụng để khắc
phục là chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa.
Để thưc hiện chức năng kinh tế của mình, chính phủ sử dụng 3 công cụ: các
Trang 22
Lịch sử các học thuyết kinh tế
khoản thuế, các khoản chi tiêu, và những luật định:
+ Thuế: chính phủ sẽ điều tiết tiêu dùng và đầu tư.
+ Chi tiêu: chính phủ sẽ thúc đẩy, hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất ra hàng
hóa, dịch vụ để đảm bảo tính hiệu quả.
+ Luật: hướng dẫn dn phát triển theo định hướng của đất nước.
Tóm lại: Vai trò của chính phủ là khắc phục những hạn chế thị trường nhưng bản
thân chinh phủ đôi khi có những khiếm khuyết, những chính sách sai lầm, hoặc can thiệp
quá sâu vào nền kinh tế làm cho nền kinh tế kém năng động do đó, cần phải kết hợp cả
cơ chế thị trường và vai trò của chính phủ.
V – Ý nghĩa của việc nghiên cứu vai trò của Nhà nước trong các

học thuyết, lý thuyết kinh tế
-Nhà nước là người quản lý các hoạt động kinh tế - chính trị - xã hội, đề ra các
đường lối, chính sách phát triển đất nước,các đường lối chính sách này ít nhiều tác động
lên các hoạt động kinh tế do đó ảnh hưởng lên nền kinh tế.
-Việc nghiên cứu này giải thích tại sao vai trò của Nhà nước trong thời kì này rất
quan trọng góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển nhưng trong những thời kì khác lại có tác
động không tốt kiềm hãm sự phát triển của nền kinh tế. Từ đó có được nhận thức đúng
đắn vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường tạo ra môi trường thuận lợi cho
nền kinh tế phát triển thuận lợi, nhanh và bền vững.
-Chính sách kinh tế vĩ mô ở các nước phát triển cũng như nhiều nước đang phát
triển khác được xây dựng dựa trên một chủ thuyết phát triển cơ bản làm nền tảng, trong
đó có chính sách phát triển kinh tế trong điều kiện bình thường cũng như chính sách ứng
phó trong giai đoạn khó khăn của chu kỳ kinh tế.
-Lịch sử gần một thế kỷ qua đã chứng kiến sự ra đời và phát triển của nhiều chủ
thuyết kinh tế nhưng có lẽ những tranh luận vĩ mô giữa Kinh tế học Keynes và Kinh tế
học tiền tệ/Tân cổ điển đã có ảnh hưởng sâu sắc nhất đến việc hoạch định chính sách
kinh tế vĩ mô ở các nước.
-Trong các thời kì lịch sử khác nhau thì vai trò của Nhà nước cũng khác nhau,tuy
nhiên, ảnh hưởng của các tác động của Nhà nước lên nền kinh tế là không thể loại trừ.
Nghiên cứu vai trò của Nhà nước trong các học thuyết kinh tế giúp cho các nhà kinh tế
Trang 23
Lịch sử các học thuyết kinh tế
có thể dự báo, đưa ra các quyết định linh hoạt phù hợp với từng thời điểm ,thời kì kinh tế
khác nhau để đạt được tối đa lợi ích,hạn chế các rủi ro kinh tế không đáng có.
VI -Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường nhìn từ cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu
Cơn bão dữ tài chính - kinh tế có sức tàn phá toàn cầu đã qua đỉnh điểm, sức gió
hạ dần và rồi sẽ tan đi, hầu hết các nền kinh tế trên thế giới đã chạm đáy suy thoái và
đang có dấu hiệu phục hồi với các mức độ khác nhau. Tuy
nhiên, sự huỷ hoại ghê gớm của cơn bão đó vẫn để lại

những hậu quả to lớn, khôn lường. Kinh tế thế giới đang
ngổn ngang bao công việc cần giải quyết và nhất là bao
điều cần bàn luận một cách nghiêm túc. Trong những vấn
đề hết sức cơ bản cần làm rõ, nổi lên một vấn đề hệ trọng, đó là việc cắt nghĩa vai trò của
Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Để nghiên cứu một cách thấu đáo vai trò của Nhà
nước trong nền kinh tế thị trường nhìn từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu lần này có
thể xem xét các nội dung chính như sau:
1- Những nguyên nhân dẫn tới cuộc khủng hoảng
Như chúng ta đã biết, ngay sau khi cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế toàn cầu
nổ ra, trong rất nhiều công trình nghiên cứu và các cuộc đại tranh luận, các học giả kinh
tế hàng đầu thế giới đã đưa ra những nguyên nhân chính dẫn tới khủng hoảng, đó là:
- Sự hình thành và đổ vỡ của bong bóng thị trường bất động sản, của các khoản
cho vay khổng lồ để thế chấp nhà đất ở Mỹ.
- Sự yếu kém của hệ thống ngân hàng và sai lệch lớn trong điều tiết tài chính, khi
có tình thế xấu xảy ra, hệ thống ngân hàng Mỹ bị hoảng loạn, lan ra toàn thế giới, gây
nên sự co hẹp cung tiền tệ, dẫn tới sự suy thoái trong tổng cầu tiêu dùng và đầu tư.
- Các chính sách kinh tế vĩ mô của Mỹ và nhiều nước đã có những khiếm khuyết
lại được thực hiện thiếu nhất quán, đầy đủ và thiếu cải cách cơ cấu dẫn tới kinh tế vĩ mô
mất cân bằng và thiếu bền vững.
- Sự suy giảm giá trị của đồng đô la và khủng hoảng chế độ tiền tệ không bản vị.
Trang 24
Lịch sử các học thuyết kinh tế
Từ tháng 8/1971, Mỹ tuyên bố đóng cửa thị trường vàng và đồng đô la từ đó không còn
dùng vàng làm thước đo giá trị nữa. Từ đó, đồng đô la được phát hành vô tội vạ và giá trị
của nó ngày càng giảm đi.
- Kết quả của việc giải quyết mâu thuẫn giữa việc xã hội hoá vô cùng mạnh mẽ,
rộng lớn của sức sản xuất xã hội được cộng hưởng trong quá trình toàn cầu hoá với quan
hệ chiếm hữu tư nhân chật hẹp, ích kỷ, vô trách nhiệm tại các nền kinh tế lớn có ảnh
hưởng toàn cầu, đặc biệt là ở Mỹ và các nước phát triển. Để bảo đảm mục tiêu hàng đầu
là lợi nhuận, giới chủ tư bản và các tập đoàn tư bản bằng mọi giá thúc đẩy tư nhân hoá,

tự do hoá thị trường, cổ vũ chủ nghĩa thực dụng, khuyếch đại chính sách tư bản giả, chi
phối các chính sách kinh tế - xã hội của các quốc gia. Chính vì thế, gần như toàn bộ quá
trình sản xuất, phân phối sản phẩm đều trong tay giới tư bản tài phiệt, bất khả xâm phạm,
không thể kiểm soát.
2- Cội nguồn những nguyên nhân trên
-Những nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp nêu trên, bắt nguồn từ một điều cốt lõi
nhất, quan trọng nhất dẫn tới cuộc khủng hoảng này. Đó chính là việc nhận thức và thực
hiện sai lệch vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Cuộc khủng hoảng lần
này rõ ràng bắt nguồn trực tiếp từ việc Chính phủ Mỹ và các chính phủ khác ở các nước
phát triển đã xử lý sai lầm quan hệ giữa Nhà nước và thị trường, trao quá nhiều quyền
cho cơ chế thị trường tự do, buông lỏng sự quản lý và giám sát điều hành của Nhà nước.
Cụ thể hơn ở Mỹ là Cục dự trữ Liên bang đã thả lỏng tín dụng trong một thời gian dài
cho sự bùng nổ thị trường bất động sản; thị trường ảo và kinh tế “bong bóng” đã tự do
phi mã đến lúc vỡ tung ra. Lỗi quan trọng ở đây là “quá ít Nhà nước, quá nhiều thị
trường tự do”.
-Cắt nghĩa từ cội nguồn vấn đề này cần khái lược lại cơ chế vận hành của nền
kinh tế Mỹ và các nước phát triển. Đã có một thời gian dài, nền kinh tế thị trường tư bản
chủ nghĩa được vận hành theo cơ chế hoàn toàn tự do dựa trên học thuyết kinh tế của nhà
kinh tế học cổ điển Adam Smith. Trong tác phẩm “Của cải của các dân tộc (1776)”,
Adam Smith đã đưa ra quan điểm có tính triết lý là: Hãy để cho thị trường vận hành dưới
sự dẫn dắt của “bàn tay vô hình”, cơ chế thị trường tự do sẽ đưa tới kết quả cuối cùng là
“sự hài hoà xã hội”. Tuy nhiên, cuộc Tổng khủng hoảng 1929 - 1933 đã làm cho tất cả
Trang 25

×