Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Từ đầu năm 2020, mặc dù thị trường ngoại tệ chịu áp lực nhất định từ các diễn biến liên quan đến dịch covid 19 nhưng tỷ giá biến động không quá lớn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.85 KB, 12 trang )

Nhóm 06
CÂU HỎI LIÊN HỆ THỰC TẾ
Câu 1: (câu tự luận)
Anh chị hãy vận dụng những kiến thức đã học giải thích bình luận sau: “Từ đầu
năm 2020, mặc dù thị trường ngoại tệ chịu áp lực nhất định từ các diễn biến liên
quan đến dịch Covid-19 nhưng tỷ giá biến động khơng q lớn thêm vào đó Việt
Nam vẫn tiếp tục xuất siêu hơn 8 tỷ USD trong 7 tháng đầu năm 2020 với lượng
dự trữ ngoại hối hiện tại khá dồi dào NHNN sẵn sàng can thiệp thị trường khi cần
thiết để bình ổn thị trường ngoại tệ góp phần ổn định kinh tế vĩ mơ”
Trả lời:
-Thực trạng:
+ Từ đầu năm 2020 trong điều kiện nguồn cung ngoại tệ dồi dào và thị trường
quốc tế thuận lợi, tỷ giá thị trường khá ổn định, NHTW tiếp tục mua một lượng lớn
ngoại tệ làm tăng dự trữ ngoại hối. Mặc dù thị trường ngoại tệ chịu áp lực nhất
định từ diễn biến liên quan đến Covid-19 nhưng tỷ giá biến động khơng q lớn,
một số ngày thì giá giảm về sát tỷ giá mua của NHNN và tổ chức tín dụng tiếp tục
bán ngoại tệ cho NHNN.
- Nguyên nhân:
+ Do diễn biến phức tạp của Covid-19, các đồng tiền trên thế giới biến động,
đồng tiền của nhiều nước đối tác thương mại lớn của Việt Nam mất giá. Mặc dù
NHTW của các nước đã liên tục có các động thái chính sách để hỗ trợ thanh khoản
cho thị trường.
+ Do tác động tới tâm lý thị trường trong nước tỷ giá USD/VND cũng tăng.
Về cơ bản cung cầu ngoại tệ khơng có diễn biến lớn. Trạng thái ngoại tệ vẫn tiếp
tục duy trì ở mức dương. Các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp của khách hàng đều được
tổ chức tín dụng đáp ứng kịp thời vì thế trong 7 tháng đầu năm 2020 Việt Nam tiếp
tục xuất siêu với hơn 8 tỉ USD.


- Biện pháp:
+ Thực hiện chỉ đạo của chính phủ các ban ngành đã và đang tiếp tục triển


khai các biện pháp tháo gỡ khó khăn hỗ trợ kinh tế trước thềm Covid-19. Điều
hành tỷ giá trung tâm linh hoạt, phù hợp, tiếp tục đồng bộ các biện pháp công cụ
CSTT để ổn định ngoại tệ, mua lượng lớn ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại hối, từ đó
tăng khả năng can thiệp thị trường ngoại tệ khi cần thiết NHNN sẵn sàng can thiệp
thị trường khi cần thiết tại các mức tỷ giá thấp hơn tỷ giá niêm yết hiện nay về quy
mơ lớn, dưới hình thức giao ngay và kỳ hạn (nếu cần) để ổn định thị trường ngoại
tệ, góp phần ổn định kinh tế vĩ mơ.
Câu 2 (câu tự luận)
Tháng 08/2019, lần đầu tiên sau hơn 1 thập kỷ, CNY vượt ngưỡng 1USD = 7CNY.
Việc phá giá CNY có thể giúp hàng xuất khẩu Trung Quốc trở nên rẻ hơn khi vào
Mỹ. Dù vậy, nó sẽ gây ra nhiều tác động tiêu cực trong nước. CNY mất giá sẽ
châm ngịi cho làn sóng rút vốn ra khỏi Trung Quốc và gây bất ổn kinh tế.”
Sử dụng kiến thức tài chính quốc tế đã học để bình luận nhận định này.
Trả lời:
Đồng nhân dân tệ (CNY) của Trung Quốc trong ngày 5/8/2019 đã bất ngờ giảm
mạnh 1,3% so với USD, đánh dấu lần đầu tiên vượt ngưỡng 7 CNY/USD kể từ
năm 2009:
+) Việc Trung Quốc phá giá đồng nhân dân tệ (CNY) sẽ làm cho hàng hóa của
nước này trên thế giới (trong đó có Mỹ) rẻ hơn rất nhiều và nền kinh tế Trung
Quốc sẽ lấy lại được đà tăng trưởng nhờ lợi thế xuất khẩu.
+) Việc Tổng thống Mỹ Donald Trump đe dọa áp thuế 10% lên 300 tỷ USD hàng
hóa cịn lại của Trung Quốc kể từ đầu tháng 9 năm 2019 là nguyên nhân chính kích
hoạt đà giảm mạnh của CNY. Tỷ giá CNY/USD xuyên qua mức 7 sẽ khiến đồng
tiền của các thị trường mới nổi khác ít nhiều chịu áp lực. Các chuyên gia cho rằng
mốc 7 là lằn ranh đỏ để các nhà đầu tư tại Trung Quốc nhìn vào, quyết định ở lại
hay tháo chạy. Trung Quốc phá giá với mục tiêu để giảm bớt thiệt hại của họ trong
chính sách thuế của ông Trump trong cuộc chiến thương mại. Thế nhưng, đó là


giảm thiệt hại cho họ, nhưng việc phá giá đó cũng gây thiệt hại cho rất nhiều nước

có quan hệ thương mại với Trung Quốc như Nhật Bản, châu Âu, các nước Đơng
Nam Á, …
Chính vì thế, các nước khác sẽ khơng để n, tức là có thể các quốc gia khác cũng
đồng loạt phá giá tiền tệ nhiều hay ít để giảm thiểu thiệt hại của họ đối với Trung
Quốc.
Như vậy, vơ hình chung sẽ biến thành cuộc chạy đua phá giá tiền tệ hay nói cách
khác là chiến tranh tiền tệ. Điều này dẫn đến việc tiền sẽ được in ra nhiều hơn trên
phạm vi toàn cầu, làm cho tỷ giá hối đối tồn cầu biến động rất phức tạp và nó
cũng thúc đẩy lạm phát tồn cầu tăng lên. Rất có thể, có một số loại đồng tiền nào
đó rơi vào tình trạng cực kỳ khó khăn, thậm chí là khủng hoảng => BẤT ỔN
KINH TẾ
Câu 3: (câu tự luận)
Lần đầu tiên trong lịch sử, giá vàng thế giới vượt ngưỡng 2.000 USD/ounce vào
đầu phiên giao dịch ngày 5/8 theo giờ Việt Nam và tiếp tục đà tăng, cán mốc 2.018
- 2.020 USD/ounce trên bảng điện tử Kitco.com. Nguyên nhân sâu xa đẩy giá vàng
thẳng tiến, theo giới phân tích lĩnh vực vàng, đó chính là mối lo ngại của giới đầu
tư toàn cầu khi số ca nhiễm Covid-19 tại Mỹ tăng vọt. Anh/chị hãy sử dụng những
kiến thức thực tế để phân tích và đánh giá tác động của giá vàng tăng tới giá trị
USD trên thị trường tài chính Quốc tế?
Trả lời:
Lần đầu tiên trong lịch sử, giá vàng thế giới vượt ngưỡng 2.000 USD/ounce vào
đầu phiên giao dịch ngày 5/8 theo giờ Việt Nam và tiếp tục đà tăng, cán mốc 2.018
- 2.020 USD/ounce trên bảng điện tử Kitco.com.
- Như vậy, mặt hàng kim loại quý này đã dễ dàng phá mức cao kỷ lục 1.920.70
USD/ounce vào tháng 8/2011. Nguyên nhân sâu xa đẩy giá vàng thẳng tiến, theo
giới phân tích lĩnh vực vàng, đó chính là mối lo ngại của giới đầu tư toàn cầu khi


số ca nhiễm Covid-19 tại Mỹ tăng vọt. Trong 2 tuần qua, bình quân hơn 1.000
người chết vì dịch Covid-19 mỗi ngày tại Mỹ.

- Sau khi phá vỡ ngưỡng 2.000 USD/ounce lần đầu tiên vào thứ Ba (4/8), giá vàng
giao ngay đã tăng 0,9% lên mức 2.035,79 USD/ounce vào lúc 0 giờ 58 phút (sáng
ngày 6/8 theo giờ Việt Nam). Trước đó trong cùng phiên, giá vàng đã có thời điểm
đạt mức cao kỷ lục mới là 2.055,10 USD/ounce.
- Giá vàng Mỹ giao kỳ hạn cũng có lúc đạt mức cao kỷ lục 2.070,30 USD/ounce,
nhưng đã giảm xuống sau đó. Kết thúc phiên 5/8, giá vàng này vẫn tăng 1,4% lên
2.049,30 USD/ounce.
- Các nhà đầu tư đang lo ngại những biê ̣n pháp kích thích kinh tế được tiến hành để
đối phó với đại dịch COVID-19 sẽ khiến lạm phát tăng cao, qua đó làm giảm giá
trị của các tài sản khác. Lợi nhuận thực từ trái phiếu của Mỹ đã giảm mạnh, khiến
mô ̣t kênh đầu tư không sinh lãi như vàng trở nên hấp dẫn hơn.
- Nguyên nhân sâu xa đẩy giá vàng thẳng tiến, theo giới phân tích lĩnh vực vàng,
đó chính là mối lo ngại của giới đầu tư toàn cầu khi số ca nhiễm Covid-19 tại Mỹ
tăng vọt. Trong 2 tuần qua, bình quân hơn 1.000 người chết vì dịch Covid-19 mỗi
ngày tại Mỹ.
- Cịn về ngắn hạn, nguyên nhân trực tiếp khiến giá vàng tăng không phải do nhu
cầu mua vàng vật chất tăng lên, mà là do USD - đồng tiền dùng để định giá vàng,
đang liên tục giảm giá trị.
- Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) liên tục “bơm” ra các gói cứu trợ kinh tế, với kế
hoạch hơn 12.000 tỷ USD và cũng trong tuần này, giới đầu tư đang chờ đợi gói
kích thích mới trị giá 1.000 tỷ USD sau khi GDP Mỹ sụt giảm 32,9% về mức thấp
nhất trong 100 năm.
- Tiền được tung ra ồ ạt khiến USD giảm giá mạnh, xuống mức thấp nhất trong
vòng 4 tháng qua. Chỉ số USD-Index giao dịch ở mức 93,6 điểm, nhưng đây vẫn là
mức thấp nhất 2 năm qua. Không chỉ Mỹ, mà các nước khác cũng đang buộc phải
phiêu lưu với các gói hỗ trợ của mình. Đơn cử, EU vừa thơng qua gói cứu trợ “lịch
sử” trị giá 750 tỷ euro.


- Khi tiền quá nhiều thì những gì được coi là tài sản (không khấu hao) đều tăng giá,

mà vàng là đại diện tiêu biểu. Nhưng bên cạnh vàng, có một kim loại khác ít được
chú ý hơn là bạc cịn có tốc độ tăng khủng khiếp hơn. Giữa tuần này, bạc có giá
26,8 USD/ounce, cao gần gấp đơi mức giá 14,7 USD/ounce hồi đầu tháng 5/2020.
- Giá vàng bật tăng khi Tổng thống Mỹ đắc cử Joe Biden đề xuất gói hỗ trợ tài
chính mới 2.000 tỉ USD nhằm vực dậy nền kinh tế bị thiệt hại do Covid-19. Lập
tức, đồng USD suy yếu so với nhiều đồng tiền mạnh khác, có lợi cho giá vàng.
- Trong khi đó, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đánh giá tiến trình sản xuất vắcxin ngừa Covid-19 đã thúc đẩy tâm lý lạc quan của doanh nghiệp về tăng trưởng
kinh tế 2021. Tuy nhiên, mối lo ngại sự bùng phát trở lại của dịch bệnh trong thời
gian gần đây đã phủ bóng đen lên tâm lý này.
Từ đó, giới đầu tư tài chính nhận định bức tranh kinh tế của quốc gia này đan xen
gam màu sáng - tối. Nếu Quốc hội Mỹ thơng qua gói hỗ trợ kinh tế mới, đồng
nghĩa trong tương lai, USD sẽ tràn ngập thị trường, có thể làm cho đồng tiền này
giảm giá trên diện rộng, tạo đà cho giá vàng đi lên. Vì thế, tại thời điểm này, họ
quyết định bỏ vốn vào kim loại quý. Bằng chứng là trong 3 phiên giao dịch gần
đây, các quỹ đầu tư liên tục mua vàng. Giá vàng bật tăng là dễ hiểu.
Câu 4: (câu tự luận)
Tính đến hết quý I/2020, giá dầu thế giới đã giảm trên 60%, có nhiều tác động đối
với nền kinh tế tồn cầu cả tích cực lẫn tiêu cực. Phân tích tác động của giảm giá
dầu tới cán cân thương mại của Việt Nam?
Trả lời:
 Trong

báo cáo (tháng 1/2020), IMF dự báo giá dầu Brent và WTI bình quân năm

2020 và 2021 giảm lần lượt 4,3% và 4,7%; trung bình ở mức 58 USD năm 2020 và
55,3 USD/thùng năm 2021. Tuy nhiên, từ đầu năm 2020, sau khi đại dịch Covid19 bùng phát tại Trung Quốc, đặc biệt là từ giữa tháng 2 khi dịch lan rộng, khó
lường; giá dầu đã sụt giảm mạnh, khoảng 65% so với đầu năm; trong đó có nhiều
phiên sụt giảm tới 20% với nguyên nhân giảm từ cả phía cầu và cung.



Về phía cầu, dịch bệnh Covid-19 đã lan rộng khắp thế giới, đã và đang ảnh
hưởng tiêu cực tới kinh tế từng nước, khu vực, cũng như kinh tế thế giới nói
chung; thậm chí có thể dẫn tới suy thối kinh tế, trong đó nhiều nền kinh tế lớn có
nguy cơ rơi vào suy thoái hoặc giảm mạnh tốc độ tăng trưởng. Theo kịch bản cơ sở
của Citi Research (27/3/2020), kinh tế thế giới sẽ rơi vào suy thoái, tăng trưởng
-1,6% năm 2020 (so với mức tăng trưởng 2,6% năm 2019), trong đó tăng trưởng
GDP của Trung Quốc chỉ khoảng 2,4% (so với mức tăng 6,1% năm 2019), của Mỹ
suy giảm -0,5% (so với mức 2,3% năm 2019), của Nhật Bản giảm -1,9% (so với
mức tăng 0,7% năm 2019), của Hàn Quốc tăng khoảng 0,3% (so với mức tăng 2%
năm 2019), còn khu vực đồng tiền chung Châu Âu thậm chí giảm -8,4% (so với
mức tăng trưởng 1,2% năm 2019). Một số dự báo gần đây cảnh báo rủi ro suy thối
kinh tế tồn cầu năm 2020 khá rõ nét, khi đó mức tăng trưởng GDP tồn cầu sẽ
cịn thấp hơn. Hệ quả là, nhu cầu thế giới về hàng hóa nói cung, trong đó có xăng
dầu sụt giảm mạnh
Về phía cung, OPEC (gồm OPEC và các nước liên minh xuất khẩu dầu) và Nga
không đạt được thỏa thuận cắt giảm sản lượng dầu khai thác (thỏa thuận sẽ hết hạn
vào 31/3/2020), do Nga từ chối đề xuất cắt giảm thêm; khiến lo ngại lượng cung
dầu mỏ sẽ tăng sau thời hạn 31/3, khi các nước sẽ loại bỏ mọi giới hạn sản xuất của
chính họ.
* Tác động của giá dầu giảm mạnh đối với kinh tế Việt Nam
Đối với Việt Nam, việc giá dầu thế giới tiếp tục giảm trong năm 2020 có những tác
động tích cực lẫn tiêu cực đối với nền kinh tế.
 Tác động tích cực:
- Một là, giá dầu giảm làm giảm chi phí nhập khẩu xăng dầu, qua đó giúp giảm
nhập siêu cũng như tiết kiệm cho Việt Nam một lượng ngoại tệ nhập khẩu xăng
dầu, nhất là trong bối cảnh Việt Nam nhập siêu xăng, dầu từ năm 2015 đến nay.
Theo Tổng cục Hải quan, tổng giá trị nhập khẩu xăng dầu năm 2019 của Việt
Nam là 9,55 tỷ USD, giảm được 830 triệu USD so với năm 2018; trong khi đó xuất
khẩu xăng dầu là 3,94 tỷ USD, giảm 284 triệu USD so với năm 2018. Nhập siêu



xăng dầu năm 2019 là 5,6 tỷ USD, giảm khoảng 500 triệu USD so với năm 2018.
Như vậy, là một nước nhập siêu xăng, dầu, việc giá dầu giảm là yếu tố tích cực
giúp Việt Nam giảm chi phí nhập khẩu xăng dầu.
- Hai là, giá dầu giảm tác động tích cực đối với tiêu dùng của người dân và hoạt
động của doanh nghiệp
  Nhờ giá xăng dầu giảm, người dân tiết kiệm được chi phí (nhất là giao thơng), từ
đó tăng tiêu dùng cho nền kinh tế. Từ đầu năm 2020 đến nay (kỳ điều chỉnh gần
nhất là 29/3/2020), giá xăng dầu đã 6 lần được điều chỉnh giảm, khoảng 30-40%
(tùy loại) đã giúp người dân hạn chế chi phí, từ đó tăng chi tiêu cho các dịch vụ
khác, góp phần cải thiện tổng mức bán lẻ hàng hóa và tiêu dùng. Về phía doanh
nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vận tải, giá xăng dầu giảm giúp giảm chi phí
đầu vào, góp phần giảm giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh, cũng như
cải thiện lợi nhuận nói chung, ví dụ, ngành vận tải sẽ được hưởng lợi nhiều nhất vì
đây là ngành tiêu thụ nhiều xăng dầu và chi phí xăng dầu chiếm tỷ trọng lớn trong
cơ cấu chi phí (35-40%). Ngồi ra, một số ngành khác cũng được hưởng lợi như
sản xuất nhựa, phân bón, luyện kim, khai thác và đánh bắt thủy sản, xây dựng cơng
trình giao thơng… do xăng dầu chiếm khoảng 20-30% chi phí đầu vào.
- Ba là, giá xăng dầu giảm, làm giảm áp lực lên lạm phát, góp phần ổn định kinh tế
vĩ mô. Giá dầu giảm mạnh tác động trực tiếp, làm giảm tới nhóm giao thơng và
nhóm dịch vụ điện nước, chất đốt, vật liệu xây dựng…v.v.; từ đó làm giảm áp lực
lên CPI (hiện nay, xăng dầu có quyền số chiếm tỷ trọng 4% trong rổ tính CPI). Bên
cạnh đó, việc giảm giá xăng dầu cũng tác động tới nhóm giao thơng (quyền số
9,37%); đồng thời có tác động gián tiếp đến nhóm lương thực, thực phẩm, ăn uống
ngồi gia đình (nhóm có quyền số lớn nhất trong rổ hàng hóa tính CPI- 36,12%),
góp phần ổn định biến động của nhóm này.
Hiện nay, CPI tháng 3/2020 tăng 0,34% so với tháng 12/2019 và tăng 4,87% so
với cùng kỳ năm 2019. Tính chung, chỉ số CPI bình qn quý 1 năm 2020 đã tăng
5,56% so với cùng kỳ năm trước, mức cao nhất trong 4 năm (cách xa mục tiêu 4%)



trong khi lạm phát cơ bản tăng 3,05% so với bình quân cùng kỳ năm 2019 (cách
khá xa mức điều hành thơng thường khoảng 2-2,5%). Do đó, việc giảm giá xăng,
dầu sẽ góp phần giảm áp lực lên lạm phát; góp phần ổn định kinh tế vĩ mơ.
 Tác động tiêu cực:
- Một là, làm giảm nguồn thu NSNN từ dầu thô. Từ năm 2000 đến nay, tỷ trọng
nguồn thu từ dầu thô trong cơ cấu thu NSNN giảm, từ mức bình qn 25% giai
đoạn 2000-2008; xuống cịn khoảng 13% giai đoạn 2009-2014 và hiện chỉ còn
khoảng 4,7% giai đoạn 2015-2019. Tổng thu ngân sách từ dầu thô cũng giảm từ
mức 115 nghìn tỷ đồng năm 2013 xuống chỉ cịn khoảng 53 nghìn tỷ đồng năm
2019 chỉ bằng khoảng 46% năm 2012-2013 và bằng 54,3% năm 2014.
Bên cạnh việc ảnh hưởng trực tiếp đến thu từ dầu thô, các loại thuế từ xăng, dầu
(như thuế xuất nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt) cũng bị ảnh
hưởng, do giá dầu suy giảm. Chẳng hạn, hiện cơ cấu giá xăng (từ 1/1/2020) được
cộng 8 khoản, gồm: giá CIF tính thuế, thuế nhập khẩu (10%), thuế giá trị gia tăng
(10%), thuế tiêu thụ đặc biệt (10% với xăng RON95 và 8% với xăng E5), thuế bảo
vệ môi trường (4.000 đồng), chi phí định mức kinh doanh (tùy theo loại xăng
RON95 hoặc E5), lợi nhuận định mức và trích quỹ bình ổn (tùy loại xăng dầu)
...v.v. Do đó, giá xăng dầu giảm sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các loại thuế thu được
từ xăng, dầu.
Do vai trò và tỷ trọng thu từ dầu thô trong tổng NSNN đã giảm nên ảnh hưởng
của việc giảm giá dầu đến ngân sách là không nhiều, song khi giá dầu giảm mạnh
(đặc biệt giảm mạnh hơn so với giá dự toán), sẽ dẫn tới nguồn thu ngân sách giảm,
trong bối cảnh Chính phủ tăng cường đẩy mạnh đầu tư công, để bù đắp sự sụt giảm
từ đầu tư của doanh nghiệp và tư nhân do chịu tác động của dịch bệnh Covid-19;
sẽ khiến cân đối ngân sách khó khăn hơn, làm tăng thâm hụt ngân sách, nợ công,
…v.v.
- Hai là, tác động tiêu cực đến ngành khai khống (nhất là dầu khí) (hiện đang
đóng góp khoảng 7,8% trong cơ cấu GDP). Đối với một số tập đoàn/doanh nghiệp



khai thác dầu khí là hoạt động cốt lõi như PVN, PVD, GAS… thì giá dầu giảm
xuống thấp sẽ làm giảm nguồn doanh thu; từ đó ảnh hưởng đến kế hoạch khai thác,
thăm dò của năm 2020, cũng như các năm tiếp theo. Ngồi ra, một số doanh
nghiệp dầu khí niêm yết còn chịu ảnh hưởng do giá cổ phiếu giảm mạnh, và phải
chịu sức ép thoái vốn từ các nhà đầu tư. Theo đó, tiền nộp thuế thu nhập của những
doanh nghiệp này vào NSNN cũng giảm tương ứng. Chẳng hạn, theo đánh giá của
PVN, với kế hoạch và kịch bản giá dầu năm 2020 khoảng 60USD/thùng, doanh thu
của PVN là 4,67 tỷ USD. Khi giá dầu còn khoảng 30 USD/thùng, doanh thu sẽ chỉ
còn 2,36 tỷ USD. Hệ quả là nộp NSNN của PVN dự kiến sẽ giảm từ gần 1,6 tỷ
USD xuống chỉ còn 800 triệu USD.
Câu 5: (câu tự luận)
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, lạm phát cơ bản tháng 6-2020 tăng 0,07% so
với tháng trước và tăng 2,45% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản bình
quân sáu tháng đầu năm 2020 tăng 2,81% so với bình quân cùng kỳ năm 2019.Tỷ
lệ lạm phát các tháng đầu năm 2020 chưa tăng cao.” Phân tích các yếu tố tác động
tới lạm phát trong 6 tháng đầu năm 2020?
Trả lời:
Do chịu ảnh hưởng của các yếu tố cung - cầu trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19,
mặt bằng giá cả thị trường diễn biến tăng, giảm đan xen, nên tỷ lệ lạm phát các
tháng đầu năm 2020 chưa tăng cao
Các yếu tố ảnh hưởng đến lạm phát:
- Do thiếu nguồn cung do dịch bệnh từ cuối năm trước, giá thịt lợn 6 tháng đầu
năm đã tăng 68,2% so với cùng kỳ năm trước làm cho CPI tăng thêm 2,86%. Việc
giá thịt lợn tăng cao đã kéo theo giá nhóm hàng thực phẩm 6 tháng đầu năm tăng
15,9% so với cùng kỳ, đây là mức tăng cao nhất trong nhiều năm gần đây. Đồng
thời, giá thịt lợn tăng dẫn tới tăng giá một số nhóm hàng hóa khác khiến cho chỉ số
CPI bình qn 6 tháng đầu năm) tăng 4,19% và CPI cơ bản bình quân tăng 2,81%
so với cùng kỳ - mức tăng cao trong 5 năm gần đây.



- Giá cả các mặt hàng thiết yếu như xăng, dầu trong 6 tháng đầu năm giảm 19,49%
so với cùng kỳ năm 2019 (tác động làm CPI giảm 0,81%)
- Dịch Covid-19 đã ảnh hưởng đến du lịch, hoạt động đi lại của người dân sau Tết
giảm khiến giá của nhóm du lịch trọn gói giảm 1,49% so với cùng kỳ năm 2019…
- Tăng trưởng tín dụng giảm mạnh. Ở phía cầu, do tác động tiêu cực của đại dịch
Covid-19 khiến nhiều doanh nghiệp thực sự khó khăn và khơng có nhu cầu vay
vốn. Từ phía cung, mặc dù một số doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn, nhưng khơng
đáp ứng các điều kiện vay (như: có tài sản đảm bảo, có phương án kinh doanh tốt,
khơng có nợ q hạn, ...), trong khi các ngân hàng thương mại (NHTM) không hạ
chuẩn tín dụng để cho vay bởi nguy cơ nợ xấu và rủi ro mất vốn.
- Thu ngân sách giảm trong khi chi ngân sách tăng cao. Chi ngân sách tăng cao chủ
yếu là tăng chi cho công tác phòng, chống, dâ ̣p dịch Covid-19 và thực hiê ̣n chính
sách hỗ trợ cho người dân bị ảnh hưởng của dịch bê ̣nh, đảm bảo an sinh xã hô ̣i và
an toàn xã hô ̣i
Câu 6: (câu tự luận)
Theo thông tin tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 8/2020, dự trữ ngoại hối
của Việt Nam đã đạt khoảng 92 tỷ USD và đến cuối năm nay có thể đạt con số 100
tỷ USD. Phân tích nguyên nhân tăng dự trữ ngoại hối của Việt Nam?
Trả lời:
Theo thông tin tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 8/2020, dự trữ ngoại hối
của Việt Nam đã đạt khoảng 92 tỷ USD và đến cuối năm nay có thể đạt con số 100
tỷ USD. Theo ước tính, trong năm 2021 dự trữ ngoại hối đã tăng thêm 21 tỷ USD
và chạm mốc 100 tỷ USD, tương đương khoảng 4 tháng nhập khẩu.
Có được kết quả này, giới phân tích cho rằng, một trong những yếu tố quan trọng
đó là nền tảng kinh tế vĩ mơ được duy trì ổn định, lạm phát được kiểm sốt tốt
trong nhiều năm qua.
Bên cạnh đó, nguồn cung ngoại tệ mấy năm gần đây được cải thiện rất tích cực
nhờ dịng vốn đầu tư nước ngoài và cán cân thương mại liên tục thặng dư cùng với
thị trường ngoại hối ổn định được xem là nguyên nhân chính giúp nhà điều hành



có điều kiện mua được một lượng lớn ngoại tệ dẫn đến dự trữ ngoại hối của Việt
Nam tăng mạnh trong nhiều năm nay.
Theo đánh giá của TS. Võ Trí Thành - Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài
chính, tiền tệ quốc gia, sự đúng đắn trong điều hành chính sách của Ngân hàng
Nhà nước theo nguyên tắc giảm tình trạng đơ-la hố trong nền kinh tế đã củng cố
lòng tin vào đồng VNĐ, nâng cao giá trị đồng tiền… là nhân tố quan trọng góp
phần gia tăng dự trữ ngoại hối.
Nhìn lại năm 2020, ngoại trừ thời điểm trung tuần tháng 3 đến đầu tháng 5 tỷ giá
bật tăng do dịch Covid-19 khiến thị trường tài chính tồn cầu lao dốc, nhu cầu rút
vốn khỏi các tài sản rủi ro để tìm đến các tài sản an tồn và giá USD tăng mạnh thì
hầu như tỷ giá mua vào của các ngân hàng thương mại luôn ở mức ngang hoặc
thấp hơn tỷ giá mua vào của Sở Giao dịch. Nhờ đó, Ngân hàng Nhà nước đã mua
được lượng lớn ngoại tệ để củng cố dự trữ ngoại hối vốn ở mức rất thấp so với các
nước trong khu vực, hướng tới mục tiêu tăng cường an ninh tài chính tiền tệ quốc
gia, giúp củng cố mức xếp hạng tín nhiệm quốc gia. 
Câu 7: (câu tự luận)
Theo tổng cục thống kê, 6 tháng đầu năm 2020, Việt Nam xuất siêu 4,04 tỷ USD.
Phân tích các tác động tích cực của xuất siêu?
Trả lời:
Theo Tổng cục thống kê, 6 tháng đầu năm 2020, Việt Nam xuất siêu 4,04 tỷ USD,
cao hơn cùng kì năm 2019.Việc xuất siêu đã có tác động tích cực về nhiều mặt của
nền kinh tế Việt Nam.
- Với việc cán cân thương mại liên tục duy trì đà xuất siêu đã tác động tích cực
đến tăng trưởng của nền kinh tế, giúp tăng nguồn cung ngoại tệ, ổn định thị trường
ngoại hối và cán cân thanh tốn quốc tế. Từ đó, khả năng can thiệp của cơ quan
điều hành cũng tốt hơn. sự đảo chiều của cán cân thương mại về hướng xuất siêu
đã giúp điều hành chính sách vĩ mơ trở nên “dễ thở” hơn. Trước hết, xuất siêu giúp
tỷ giá ổn định hơn giá (Sau 6 tháng tăng 0,47%, bình quân 6 tháng tăng 0,12% so

với cùng kì). Điều này rất có lợi cho nền kinh tế. Sức cạnh tranh của DN Việt Nam


trên thị trường quốc tế đã được nâng cao, hàng hóa của DN Việt Nam được nhiều
thị trường truyền thống tiếp tục lựa chọn và đang từng bước thâm nhập vào các thị
trường mới.
- Xuất siêu có tác động đến tăng trưởng kinh tế (kích cầu); trong điều kiện tích lũy
tài sản và tiêu dùng cuối cùng ở trong nước cịn yếu so với sản xuất thì việc tăng
xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu sẽ có tác động “kích cung”- tức kích sản xuất trong
nước. Nếu thế giới thương mại giảm sâu, đã đưa đến dự báo tăng trưởng kinh tế
tồn cầu sẽ giảm sâu, thì ở Việt Nam vẫn xuất siêu, nên tăng trưởng kinh tế chỉ
chậm lại chứ không mang dấu âm.
Trong điều kiện dịch bệnh Covid làm nền thương mại Thế giới giảm sút, tăng
trưởng kinh tế tồn cầu giảm sâu thì Việt Nam vẫn xuất siêu, từ đó nền kinh tế
chỉ tăng trưởng chậm lại cứ không mang dấu âm.
 Qua con số xuất siêu khẳng định hàng hóa Việt Nam ngày càng được cơng
nhận trên Thế giới.
Thành viên nhóm:
1. Phạm Thị Thảo
2. Trần Khánh Vy
3. Nguyễn Thị Mai Duyên
4. Đoàn Thị Quỳnh
5. Trần Thị Tuyết
6. Phan Ngọc Ánh
7. Nguyễn Đức Quang
8. Đàm Thị Thu Thủy




×