Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

Đảng cộng sản việt nam quá trình sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử và dân tộc việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (939.68 KB, 53 trang )


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................... 3
PHẦN NỘI DUNG ................................................................................................ 4
1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX ................. 4
1.1. Bối cảnh thế giới ...................................................................................... 4
1.1.1. Sự chuyển biến của chủ nghĩa tư bản và hậu quả của nó..................... 4
1.1.2. Ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin .............................................. 5
1.1.3. Tác động của Cách mạng Tháng Mười Nga và Quốc tế Cộng Sản...... 6
1.2. Bối cảnh trong nước ................................................................................ 8
1.2.1. Xã hội Việt nam dưới chính sách cai trị của thực dân Pháp ................ 8
1.2.2. Tình hình giai cấp và mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam dưới
sự thống trị của thực dân Pháp ................................................................... 10
2. Quá trình sàng lọc của lịch sử và dân tộc đối với sự ra đời của Đảng Cộng
Sản Việt Nam ................................................................................................... 12
2.1. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến .......................... 12
2.1.1. Khởi nghĩa Yên Thế (1884 – 1913) .................................................. 12
2.1.2.

Phong trào Cần Vương (1885-1896)............................................ 17

2.1.3 Khởi nghĩa Bãi Sậy (1883-1992) ....................................................... 19
2.1.4 Nguyên nhân chung .......................................................................... 21
2.2 Phong trào yêu nước Việt Nam theo hệ tư tưởng tư sản. ..................... 22
2.2.1 Phan Bội Châu và phong trào Đông Du (1905 – 1908) ................... 22
2.2.2 Phong trào Duy Tân (1906-1908). .................................................. 25
2.2.4 Nguyên nhân thất bại chung ........................................................... 29
2.3 . Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng vô sản: ..................................... 29
2.3.1.

Phong trào vô sản trước 1925 ................................................... 29


1


2.3.1 Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với sự phát triển của phong trào
yêu nước theo khuynh hướng vô sản ...................................................... 31
2.3.1.1 Xác định con đường cách mạng vô sản ................................. 31
2.3.1.2 Chuẩn bị lí luận, tư tưởng ..................................................... 31
2.3.1.3 Chuẩn bị lực lượng, tổ chức................................................... 34
3. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam ..................................................... 39
3.1 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và cương lĩnh chính trị đầu tiên ...... 39
3.1.1 Hội nghị thành lập Đảng ................................................................. 39
3.1.2 Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ......................................... 40
3.1.2.1 Nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ................... 40
3.1.2.2 Đường lối chiến lược của Đảng Cộng Sản Việt Nam ............... 41
3.1.2.3 Cương lĩnh xác định các nhiệm vụ cụ thể của cách mạng Việt
Nam: ..................................................................................................... 42
3.1.3.4 Lực lượng cách mạng ............................................................... 43
3.1.4.5 Lãnh đạo cách mạng ................................................................. 44
3.1.4.6 Đoàn kết quốc tế ........................................................................ 44
3.2. Hạn chế trong các phong trào yêu nước nửa cuối thế kỉ XIX đầu thế
kỉ XX được giải quyết trong nội dung cương lĩnh chính trị đầu tiên ........ 45
3.3 Giá trị của việc thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam ........................... 48
PHẦN KẾT LUẬN .............................................................................................. 50
PHẦN TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................... 52

2


PHẦN MỞ ĐẦU
Trong giai đoạn giữa lúc cách mạng Việt Nam đang chìm trong cuộc khủng hoảng

về đường lối cứu nước, người con quê hương Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc đi tìm
đường cứu nước. Người hiểu sâu sắc những vấn đề cơ bản của đường lối giải phóng
dân tộc, đó là con đường cách mạng vơ sản, giải phóng dân tộc gắn với giải phóng
giai cấp, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, giai cấp vô sản phải nắm lấy ngọn
cờ giải phóng dân tộc, gắn cách mạng giải phóng dân tộc từng nước với phong trào
cách mạng vô sản thế giới. Từ đây Người dứt khoát đi theo con đường cách mạng của
Lênin. Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên tiếp thu sáng tạo chủ nghĩa MácLênin, tìm ra con đường đúng đắn giải phóng dân tộc Việt Nam.
Chỉ trong một thời gian ngắn ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản được tuyên
bố thành lập. Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của cách mạng Việt Nam. Nhưng phong
trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ địi hỏi phải có sự lãnh đạo của
một đảng cộng sản thống nhất. Sự tồn tại và hoạt động riêng rẽ của ba tổ chức cộng
sản làm cho lực lượng và sức mạnh của phong trào cách mạng bị phân tán. Điều đó
khơng phù hợp với lợi ích của cách mạng và nguyên tắc tổ chức của đảng cộng sản.
Yêu cầu đặt ra đó là thống nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản duy nhất
ở Việt Nam.
Vậy tại sao nói sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự sàng lọc nghiêm
khắc của lịch sử dân tộc trên con đường đấu tranh suốt mấy thập niên đầu thế kỷ XX?
Vì đó chính là sự tiếp nối phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc kinh qua các con
đường từ phong kiến đến dân chủ tư sản nhằm thực hiện mục tiêu số một là giải phóng
dân tộc, là sự kiện lịch sử cực kỳ trọng đại, một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong
lịch sử cách mạng Việt Nam, đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát
triển của dân tộc ta.

3


PHẦN NỘI DUNG
1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
1.1. Bối cảnh thế giới
1.1.1. Sự chuyển biến của chủ nghĩa tư bản và hậu quả của nó

Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã chuyển từ tự do cạnh tranh sang giai đoạn
độc quyền (chủ nghĩa đế quốc). Các nước tư bản đế quốc, bên trong thì tăng cường
bóc lột nhân dân lao động, bên ngồi thì xâm lược và áp bức nhân dân các dân tộc
thuộc địa. Sự thống trị tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc làm cho đời sống nhân dân lao
động các nước trở nên cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa
thực dân ngày càng gay gắt, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh
mẽ ở các nước thuộc địa. Sự thống trị tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc làm cho đời
sống nhân dân lao động các nƣớc trở nên cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc
địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt, phong trào đấu tranh giải phóng dân
tộc diễn ra sôi nổi ở các nƣớc thuộc địa.
Ngày 1/8/1914, Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ. Cuộc chiến tranh này đã gây
ra những hậu quả đau thương cho nhân dân các nước (khoảng 10 triệu người chết và
20 triệu người tàn phế do chiến tranh), đồng thời cũng đã làm cho chủ nghĩa tư bản
suy yếu và mâu thuẫn giữa các nước tư bản đế quốc càng tăng thêm. Tình hình đó đã
tạo điều kiện cho phong trào đấu tranh ở các nước nói chung, các dân tộc thuộc địa
nói riêng phát triển mạnh mẽ.
=> NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA TÌNH HÌNH THẾ GIỚI SAU CHIẾN TRANH
THẾ GIỚI THỨ NHẤT ĐẾN CÁCH MẠNG VIỆT NAM:
• Sự thành lập Quốc tế Cộng sản (3-1919) đánh dấu một giai đoạn mới trong sự phát
triển của phong trào cách mạng thế giới.
• Những sự kiện này đã tác động mạnh mẽ đến sự lựa chọn con đường giải phóng dân
tộc của Nguyễn Ái Quốc.
• Sự ra đời của hàng loạt các Đảng Cộng Sản như: Đảng Cộng Sản Pháp (1920), Đảng
Cộng Sản Trung Quốc (1921),... tạo điều kiện thuận lợi cho việc truyền bá chủ nghĩa
Mác - Lênin vào Việt Nam.

4


1.1.2. Ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin

Vào giữa thế kỉ XIX, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển
mạnh, đặt ra yêu cầu bức thiết phải có hệ thống lý luận khoa học với tư cách là vũ khí
tư tưởng của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Trong
hoàn cảnh đó, chủ nghĩa Mác ra đời, về sau được Lênin phát triển trở thành chủ nghĩa
Mác - Lê nin.
Chủ nghĩa Mác - Lê nin chỉ rõ, muốn giành được thắng lợi trong cuộc đấu
tranh thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp cơng nhân phải lập ra đảng cộng
sản
→ Hệ thống lý luận khoa học cho giai cấp công nhân.
Sự ra đời đảng cộng sản là yêu cầu khách quan đáp ứng cuộc đấu tranh của
giai cấp cơng nhân chống áp bức, bóc lột. Tun ngơn của Đảng cộng sản (1848) xác
định: những người cộng sản luôn ln đại biểu cho lợi ích của tồn bộ phong trào; là
bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở các nước; họ hiểu rõ những điều
kiện, tiến trình và kết quả của phong trào vơ sản1. Những nhiệm vụ chủ yếu có tính
quy luật mà chính đảng của giai cấp công nhân để thực hiện là: tổ chức, lãnh đạo cuộc
đấu tranh của giai cấp công nhân để thực hiện mục đích giành lấy chính quyền và xây
dựng xã hội mới. Đảng phải luôn đứng trên lập trường của giai cấp công nhân, mọi
chiến lược, sách lược của Đảng đều ln xuất phát từ lợi ích của giai cấp công nhân.
Nhưng, Đảng phải đại biểu cho quyền lợi của tồn thể nhân dân lao động. Bởi vì giai
cấp cơng nhân chỉ có thể giải phóng được giai cấp mình nếu đồng thời giải phóng cho
các tầng lớp nhân dân lao động khác trong xã hội. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã lôi cuốn
quần chúng nhân dân và cả những phần tử ưu tú, tích cực ở các nước thuộc địa vào
phong trào cộng sản.
Kể từ khi chủ nghĩa Mác - Lênin được truyền bá vào Việt Nam, phong trào
yêu nước và phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ theo khuynh hướng cách mạng
vô sản, dẫn tới sự ra đời của các tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã
vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mang Việt
1.

Xem C.Mác và Ph.Ăngghen: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr.614-615.


5


Nam, Người đã dày công chuẩn bị trực tiếp những tiền đề lý luận, tư tưởng, tạo ra
bước ngoặt trong cách mạng Việt Nam, đánh dấu bằng sự ra đời của Đảng Cộng sản
Việt Nam (3-2-1930) mà Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng là cương
lĩnh đầu tiên của Đảng. Từ đó, Đảng mới đề ra được đường lối chiến lược đúng, mới
có được năng lực xác định phương hướng, tìm ra bước đi, vạch được phương pháp
cách mạng và vận dụng nghệ thuật lãnh đạo một cách khoa học qua mỗi thời kỳ lịch
sử. Chính vì chủ nghĩa Mác - Lênin được Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng uyển
chuyển, sáng tạo mà cách mạng Việt Nam giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác
- những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử trọng đại trong sự nghiệp giải phóng dân tộc,
thống nhất Tổ quốc, của cơng cuộc tìm đường khai phá đầu tiên chưa có tiền lệ trong
lịch sử, để đưa một đất nước lạc hậu, kém phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội.
=> Chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.1.3. Tác động của Cách mạng Tháng Mười Nga và Quốc tế Cộng Sản
Năm 1917, cách mạng tháng Mười Nga giành được thắng lợi. Nhà nước Xôviết
dựa trên nền tảng liên minh công - nơng dưới sự lãnh đạo của Đảng Bơnsêvích Nga
ra đời. Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười, chủ nghĩa Mác - Lênin từ lý luận
đã trở thành hiện thực, đồng thời mở đầu một thời đại mới “thời đại cách mạng chống
đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”2. Cuộc cách mạng này cổ vũ mạnh mẽ phong
trào đấu tranh của giai cấp công nhân, nhân dân các nước và là một trong những động
lực thúc đẩy sự ra đời nhiều đảng cộng sản: Đảng Cộng sản Đức, Đảng cộng sản
Hunggari (năm 1918), Đảng Cộng sản Pháp (năm 1919), Đảng cộng sản Anh, Đảng
cộng sản Pháp (1920), Đảng cộng sản Trung Quốc và Đảng cộng sản Mông Cổ
(1921), Đảng cộng sản Nhật Bản (1922)…
Đối với các dân tộc thuộc địa, Cách mạng Tháng Mười nêu tấm gương sáng
trong việc giải phóng các dân tộc bị áp bức. Về ý nghĩa của Cách mạng Tháng Mười,
Nguyễn ái Quốc khẳng định: Cách mạng Tháng Mười như tiếng sét đã đánh thức

nhân dân châu Á tỉnh giấc mê hàng thế kỉ nay. Và “Cách mệnh Nga dạy cho chúng
2.

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, t.11, tr.164.

6


ta rằng muốn cách mệnh thành cơng thì phải dân chúng làm gốc, phải có đảng vững
bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa
Mã Khắc Tư và Lênin”3.
Tháng 3- 1919, Quốc tế Cộng sản được thành lập. Sự ra đời của Quốc tế Cộng
sản có ý nghĩa thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế. Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc
địa của Lênin được công bố tại Đại hội II Quốc tế cộng sản vào năm 1920 đã chỉ ra
phương hướng đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa, mở ra con đường giải
phóng các dân tộc bị áp bức trên lập trường cách mạng vô sản. Đối với Việt Nam,
Quốc tế Cộng sản có vai trị quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin
và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc không những đánh giá cao
sự kiện ra đời Quốc tế Cộng sản đối với phong trào cách mạng thế giới, mà còn nhấn
mạnh vai trò của tổ chức này đối với cách mạng Việt Nam “An Nam muốn cách mệnh
thành cơng, thì tất phải nhờ Đệ tam quốc tế”4.
=> Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga đã có tác động gắn phong trào
giải phóng dân tộc ở các nước phương Đơng với phong trào công nhân ở các nước
phương Tây cùng đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Cổ vũ mạnh
mẽ phong trào đấu tranh của giai cấp công dân, nhân dân các nước và là động lực
thúc đẩy sự ra đời của Đảng Cộng Sản

3.
4.


Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.2, tr.304.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.2, tr.312

7


1.2. Bối cảnh trong nước
1.2.1. Xã hội Việt nam dưới chính sách cai trị của thực dân Pháp
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược Việt Nam. Sau khi tạm thời
dập tắt được các phong trào đấu tranh của nhân dân ta, thực dân Pháp từng bước thiết
lập bộ máy thống trị ở Việt Nam.
Về chính trị, chúng tiếp tục thi hành chính sách chuyên chế với bộ máy đàn áp nặng
nề. Mọi quyền hành đều thâu tóm trong tay các viên quan cai trị người Pháp, từ tồn
quyền Đơng Dương, thống đốc Nam Kỳ, khâm sứ Trung Kỳ, thống sứ Bắc Kỳ, công
sứ các tỉnh, đến các bộ máy quân đội, cảnh sát, toà án...; biến vua quan Nam triều
thành bù nhìn, tay sai. Chúng bóp nghẹt tự do, dân chủ, thẳng tay đàn áp, khủng bố,
dìm các cuộc đấu tranh của dân ta trong biển máu. Chúng tiếp tục thi hành chính sách
chia để trị rất thâm độc, chia nước ta làm ba xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và thực
hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị riêng, mỗi kỳ đặt một chế độ cai trị riêng và nhập ba
kỳ đó với nước Lào và nước Campuchia để lập ra liên bang Đơng Dương thuộc Pháp,
xóa tên nước ta trên bản đồ thế giới. Chúng gây chia rẽ và thù hận giữa Bắc, Trung,
Nam, giữa các tôn giáo, các dân tộc, các địa phương, thậm chí là giữa các dịng họ;
giữa dân tộc Việt Nam với các dân tộc trên bán đảo Đơng Dương. Đồng thời với
chính sách nham hiểm này, thực dân Pháp câu kết với giai cấp địa chủ trong việc bóc
lột kinh tế và áp bức chính trị đối với nhân dân Việt Nam.
Về kinh tế, thực dân Pháp thực hiện chính sách bóc lột về kinh tế: tiến hành cướp
đoạt ruộng đất để lập đồn điền; đầu tư khai thác tài nguyên; xây dựng một số cơ sở
công nghiệp; xây dựng hệ thống đường giao thông, bến cảng phục vụ cho chính sách
khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Chính sách khai thác thuộc địa của thực dân

Pháp đã tạo nên sự chuyển biến của nền kinh tế Việt Nam (hình thành một số ngành
kinh tế mới...) nhưng cũng dẫn đến hậu quả là nền kinh tế Việt Nam bị lệ thuộc vào
tư bản Pháp, bị kìm hãm trong vòng lạc hậu. Pháp ra sức vơ vét tối đa nhân lực vật
lực và tài lực để gánh đỡ những tổn thất và thiếu hụt của Pháp trong chiến tranh. Pháp

8


tăng thuế, bắt nhân dân Việt Nam mua công trái, vơ vét lương thực, nông lâm sản,
kim loại... đem về Pháp.
Sự cướp bóc của Pháp ảnh hưởng trầm trọng đến kinh tế – xã hội Việt Nam.
Công nghiệp: ngành khai mỏ được bỏ vốn thêm, một vài công ty than mới xuất hiện,
các kim loại cần cho chiến tranh được khai thác mạnh. Trong giai đoạn này, Pháp nới
lỏng cho các xí nghiệp của người Việt mở rộng quy mơ sản xuất và kinh doanh (công
ti của Nguyễn Hữu Thụ, Bạch Thái Bưởi), nhiều xí nghiệp mới xuất hiện.
Cơng thương nghiệp, giao thơng vận tải: phát triển do chính sách nới tay độc quyền
cho tư bản người Việt được kinh doanh tương đối tự do. Công việc kinh doanh của
người Việt được mở rộng như Công ty của Nguyễn Hữu Thu, Bạch Thái Bưởi, nhiều
xí nghiệp mới xuất hiện.
Nơng nghiệp: chuyển từ chuyên canh cây lúa sang trồng cây công nghiệp phục vụ
chiến tranh (thầu dầu, đậu, lạc...). Đời sống nơng dân khó khăn.
=> Nền kinh tế Việt Nam trở thành một nền kinh tế phát triển què quặt, lệ thuộc vào
tư bản Pháp, bị kìm hãm trong vịng lạc hậu.
Về văn hóa, chúng thi hành triệt để chính sách văn hóa nơ dịch, gây tâm lý tự ti, vong
bản, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan, đồi phong bại tục. Mọi hoạt động
yêu nước của nhân dân ta đều bị cấm đốn. Chúng tìm mọi cách bưng bít và ngăn
chặn ảnh hưởng của nền văn hóa tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam và thi hành chính
sách ngu dân để dễ bề thống trị. Thực dân Pháp thực hiện chính sách văn hóa, giáo
dục thực dân; dung túng, duy trì các hủ tục lạc hậu... Nguyễn Ái Quốc đã vạch rõ tội
ác của chế độ cai trị thực dân ở Đông Dương: “Chúng tôi không những bị áp bức và

bóc lột một cách nhục nhã, mà còn bị hành hạ và đầu độc một cách thê thảm... bằng
thuốc phiện, bằng rượu... chúng tôi phải sống trong cảnh ngu dốt tối tăm vì chúng tơi
khơng có quyền tự do học tập”.

9


1.2.2. Tình hình giai cấp và mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam dưới sự
thống trị của thực dân Pháp
Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hóa, giáo dục thực
dân, xã hội Việt Nam diễn ra q trình phân hóa sâu sắc:
Giai cấp địa chủ: Giai cấp địa chủ câu kết với thực dân Pháp tăng cường bóc
lột, áp bức nơng dân. Tuy nhiên, trong nội bộ địa chủ Việt Nam lúc này có sự phân
hóa, một bộ phận địa chủ có lịng u nước, căm ghét chế độ thực dân đã tham gia
đấu tranh chống Pháp dưới các hình thức và mức độ khác nhau.
Giai cấp nông dân: giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội
Việt Nam, bị thực dân và phong kiến áp bức bóc lột nặng nề. Tình cảnh khốn khổ,
bần cùng của giai cấp nông dân Việt Nam đã làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc và
phong kiến tay sai, làm tăng thêm ý chí cách mạng của họ trong cuộc đấu tranh giành
lại ruộng đất và quyền sống tự do.
Giai cấp công nhân Việt Nam: Ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất
của thực dân Pháp, giai cấp công nhân tập trung nhiều ở các thành phố và vùng mỏ
như: Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng, Nam Định, Vinh, Quảng Ninh.
Đa số công nhân Việt Nam, trực tiếp xuất thân từ giai cấp nông dân, nạn nhân của
chính sách chiếm đoạt ruộng đất mà thực dân Pháp thi hành ở Việt Nam. Vì vậy, giai
cấp cơng nhân có quan hệ trực tiếp và chặt chẽ với giai cấp nông dân. Giai cấp công
nhân Việt Nam bị đế quốc, phong kiến áp bức, bóc lột. Đặc điểm nổi bật của giai cấp
công nhân Việt Nam là ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam, và vừa lớn lên
nó đã sớm tiếp thụ ánh sáng cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin5, nhanh chóng trở
thành một lực lượng chính trị tự giác, thống nhất khắp Bắc Trung Nam…

Giai cấp tư sản Việt Nam: Bao gồm tư sản công nghiệp, tư sản thương
nghiệp… Trong giai cấp tư sản có một bộ phận kiêm địa chủ. Ngay từ khi ra đời, giai
cấp tư sản Việt Nam đã bị tư sản Phảp và tư sản người Hoa cạnh tranh, chèn ép, do
đó, thế lực kinh tế và địa vị chính trị của giai cấp tư sản Việt Nam nhỏ bé và yếu ớt.

5.

Lê Duẩn: Tuyển tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, t.II, tr.551.

10


Vì vậy, giai cấp tư sản Việt Nam khơng đủ điều kiện để lãnh đạo cuộc cách mạng dân
tộc, dân chủ đi đến thành công.
Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam: bao gồm học sinh, trí thức, viên chức và những
người làm nghề tự do… Trong đó, giới trí thức và học sinh là bộ phận quan trọng của
tầng lớp tiểu tư sản. Đời sống của tiểu tư sản Việt Nam bấp bênh và dễ bị phá sản trở
thành những người vơ sản. Tiểu tư sản Việt Nam có lịng yêu nước, căm thù đế quốc,
thực dân, lại chịu ảnh hưởng của những tư tưởng tiến bộ từ bên ngoài truyền vào. Vì
vậy, đây là lực lượng có tinh thần cách mạng cao và nhạy cảm chính trị.
Được phong trào cách mạng rầm rộ của công nông thức tỉnh và cổ vũ, họ bước vào
hàng ngũ cách mạng ngày càng đơng và đóng một vai trị quan trọng trong phong trào
đấu tranh của nhân dân, nhất là ở thành thị.


Tóm lại, chính sách thống trị của thực dân Pháp đã tác động mạnh mẽ đến xã

hội Việt Nam trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội. Trong đó đặc biệt là sự ra đời
hai giai cấp mới là công nhân và tư sản Việt Nam. Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội
Việt Nam lúc này đều mang thân phận người bị mất nước và ở những mức độ khác

nhau, đều bị thực dân Pháp áp bức, bóc lột. Vì vậy, trong xã hội Việt Nam, ngồi mâu
thuẫn cơ bản giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến, đã
nẩy sinh mâu thuẫn vừa cơ bản, vừa chủ yếu và ngày càng gay gắt trong đời sống dân
tộc, đó là: mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược,
giành độc lập cho nhân dân, tự do cho nhân dân; hai là, xóa bỏ chế độ phong kiến,
giành lại dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là ruộng đất cho nơng dân. Trong đó, chống
đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.

11


2. Quá trình sàng lọc của lịch sử và dân tộc đối với sự ra đời của Đảng Cộng Sản
Việt Nam
2.1. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến
2.1.1. Khởi nghĩa Yên Thế (1884 – 1913)
a. Nguyên nhân bùng nổ
-

Do nhu cầu tự vệ của nông dân lưu tán cư trú ở đây, nhằm giữ vững vùng đất

này như là một vùng đất ngồi pháp luật, khơng chịu sự kiểm soát của bất kỳ chính
quyền nào.
-

Sự yêu nước và chống ngoại bang Pháp của nghĩa quân Yên Thế.

-

Yên Thế là vùng đất phía Tây Bắc Giang, diện tích rộng cây cối rậm rạp, cây


cỏ um tùm từ đấy có thể đi thông sang Tam Đảo, Thái Nguyên, Phúc Yên, Vĩnh Yên
nên rất thích hợp với lối đánh du kích, dựa vào địa thế hiểm trở và công sự dã chiến,
đánh nhanh và rút nhanh lại rất thuận tiện khi bị truy đuổi.
b. Diễn biến cuộc khởi nghĩa
Giai đoạn thứ nhất (1884 -1892): Lúc bấy giờ xuất hiện hàng chục toán nghĩa
quân của Đề Nắm, Bá Phức, Thống Luận, Tổng Tài, Đề Thuật, Đề Chung... Mỗi thủ
lĩnh cầm đầu một toán quân và làm chủ một vùng. Theo Chapuis, tới cuối năm 1889,
lực lượng của Đề Thám gồm khoảng 500 quân được huấn luyện chu đáo. Đề Thám
liên kết với lực lượng của Lương Tam Kỳ, một chỉ huy quân Cờ đen, và thủ lĩnh người
Thái Đèo Văn Trị. Ngoài căn cứ địa Yên Thế, Đề Thám còn tổ chức đồn điền tại Phủ
Lạng Thương, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc Yên và Bắc Giang.
Trong giai đoạn này, tuy phong trào chưa được thống nhất vào một mối, nhưng
nghĩa quân vẫn hoạt động có hiệu quả. Tháng 11-1890, nghĩa quân Đề Thám đã giành
thắng lợi trong trận chống càn ở Cao Thượng. Từ đầu đến cuối tháng 12-1890, ba lần
quân Pháp tấn công vào Hố Chuối, nhưng cả ba lần chúng đều bị nghĩa quân Đề Thám
đánh bại. Đến cuối năm 1891, nghĩa quân đã làm chủ hầu hết vùng Yên Thế, mở rộng
hoạt động sang cả Phủ Lạng Thương.

12


Năm 1891, quân Pháp lại tấn công Hố Chuối, nghĩa quân Đề Thám phải rút lên
Đồng Hom. Tranh thủ thời cơ, chúng tiến nhanh vào vùng Nhã Nam, rồi vừa tổ chức
các cuộc càn quét, vừa xây dựng các đồn bốt để bao vây nghĩa quân.
Nhằm ngăn chặn các cuộc hành quân càn quét của địch, nghĩa quân đã lập một
cụm cứ điểm gồm 7 hệ thống công sự ở phía bắc Yên Thế do Đề Nắm, Đề Thám, Bá
Phức, Đề Tâm, Đề Tuất, Đề Chung, Tổng Tài chỉ huy. Lúc này, Đề Nắm là một trong
những thủ lĩnh có uy tín nhất của nghĩa quân Yên Thế.
Tháng 3 - 1892, Pháp huy động hơn 2.200 quân bao gồm nhiều binh chủng (công
binh, pháo binh...) do tướng Voarông (Voiron) chỉ huy ào ạt tấn công vào căn cứ

nghĩa quân. Do tương quan lực lượng quá chênh lệch, nghĩa quân sau nhiều trận kịch
chiến đã phải rút khỏi căn cứ. Lực lượng nghĩa quân bị suy yếu rõ rệt. Khó khăn ngày
càng nhiều, một số thủ lĩnh ra hàng, một số khác hi sinh trong chiến đấu, trong đó có
Đề Nắm bị giết vào tháng 4 - 1892.
Để cứu vãn tình thế, Đề Thám đã đứng ra tổ chức lại phong trào và trở thành thủ
lĩnh tối cao của nghĩa quân Yên Thế. Tuy gặp khó khăn, nhưng thế mạnh của qn
n Thế là thơng thuộc địa hình và cơ động, giúp họ thốt được vịng vây của qn
Pháp.
Giai đoạn 2 (1893-1897): Trong giai đoạn này, nghĩa quân đã hai lần đình chiến
với Pháp, lần thứ nhất vào tháng 10 - 1894, lần thứ hai vào tháng 12-1897. Sau khi
Đề Nắm hi sinh, Đề Thám đảm nhận vai trò lãnh đạo phong trào n Thế. Ơng đã
khơi phục những tốn qn cịn sót lại ở n Thế và các vùng xung quanh, rồi tiếp
tục hoạt động. So với giai đoạn trước, số lượng nghĩa quân tuy có giảm, nhưng địa
bàn hoạt động lại mở rộng hơn.
Năm 1894, nghĩa quân trở về Yên Thế tiến hành xây dựng lại căn cứ Hố Chuối,
đồng thời mở rộng hoạt động ra các vùng thuộc Bắc Ninh, Bắc Giang. Lúc này, các
phong trào Bãi Sậy, Ba Đình, cũng như các đội quân kháng chiến của Đốc Ngữ, Đề
Kiều đều đã tan rã, nên thực dân Pháp có điều kiện tập trung lực lượng đàn áp khởi
nghĩa Yên Thế.

13


Ngày 17-9-1894, quân Yên Thế bắt cóc Chesnay , biên tập viên tờ Avenir du
Tonkin. Do phải chịu áp lực từ phía chính quyền thuộc địa và khó khăn trong việc
dập tắt cuộc khởi nghĩa, quân đội Pháp phải tiến hành hịa hỗn để nghĩa qn n
Thế thả Chesnay. Về phía nghĩa quân, tuy có giành được một số thắng lợi, nhưng lực
lượng cũng suy yếu rõ rệt. Trong tình hình đó, Đề Thám thấy cần phải hịa hỗn với
Pháp để tranh thủ thời cơ củng cố lực lượng. Tháng 10-1894, cuộc thương lượng giữa
nghĩa quân Yên Thế và thực dân Pháp kết thúc.Theo đó, phía Pháp trả 15.000 francs

tiền chuộc, họ phải rút khỏi Yên Thế và để Đề Thám kiểm soát 4 tổng Nhã Nam, Mục
Sơn, Yên Lễ và Hữu Thượng, với quyền thu thuế trong 3 năm. Trong thời gian này,
Đề Thám tới sống ở đồn Phồn Xương và cho cày cấy với quy mơ lớn. Ơng cũng
được Kỳ Đồng hỗ trợ, tuyển mộ người cho ông từ thành phần phu từ một đồn điền
của Pháp do Kỳ Đồng quản lý.
Năm 1895, Đề Thám tham gia tổ chức đánh Bắc Ninh, và từ chối trả lại những vũ
khí mà ông chiếm được tại đây cho phía Pháp. Tới tháng 11-1895, thiếu tá Gallieni
đưa một pháo thuyền chở quân lên uy hiếp, buộc Đề Thám đầu hàng, nhưng nghĩa
quân Đề Thám đã chống đỡ quyết liệt. Để tránh những cuộc đụng độ lớn với quân
Pháp, Đề Thám chủ trương chia nghĩa quân thành những toán nhỏ phân tán hoạt động
trong rừng và ở các làng mạc. Nghĩa quân phải di chuyển hoạt động trong bốn tỉnh:
Bắc Ninh, Bắc Giang, Thái Nguyên, Phúc Yên.
Trước sự truy lùng và vây quét ráo riết của quân Pháp, lực lượng nghĩa quân ngày
càng suy yếu. Để bảo toàn lực lượng, Đề Thám lại xin giảng hòa với Pháp lấn thứ
hai. Thực dân Pháp lúc này cũng muốn chấm dứt xung đột để tiến hành khai thác
thuộc địa. Vì vậy, tháng 12-1897, hiệp ước hịa hỗn giữa thực dân Pháp và nghĩa
qn Đề Thám đã được ký kết với những điều kiện ràng buộc chặt chẽ hơn, nghĩa
quân phải nộp cho Pháp tất cả vũ khí và phải bãi binh. Đề Thám bề ngoài tỏ ra là
phục tùng, nhưng bên trong vẫn ngầm củng cố lực lượng.
Giai đoạn 3 (1898-1908): Trong suốt 11 năm đình chiến, nghĩa quân Yên Thế
vẫn giữ tinh thần chiến đấu. Tại căn cứ Phồn Xương, nghĩa quân vừa sản xuất tự túc

14


lương ăn, vừa tăng cường sắm sửa vũ khí, ra sức luyện tập. Đồng thời, Đề Thám còn
mở rộng quan hệ giao tiếp với các nhà yêu nước ở Bắc và Trung Kì.
Tại n Thế, nghĩa qn Hồng Hoa Thám đã hai lần đón tiếp nhà yêu nước Phan
Bội Châu. Giữa năm 1906, Phan Châu Trinh cũng lên Yên Thế gặp Đề Thám. Đề
Thám cần lập một căn cứ cứ gọi là đồn Tú Nghệ dành cho các nghĩa sĩ miền Trung

ra huấn luyện quân sự.
Về phía Pháp, trong thời gian chúng ráo riết lập đồn, bốt, mở đường giao thơng,
tạo mọi điều kiện cần thiết để đánh địn quyết định vào căn cứ nghĩa quân Yên Thế.
Giai đoạn thứ 4 (1909-1913): Năm 1908, Đề Thám tham gia cuộc nổi dậy
của lính khố xanh tại Bắc Ninh, Nam Định và Nhã Nam, khiến một sĩ quan Pháp bị
giết. Tới 27-7 năm 1908, xảy ra vụ đầu độc binh lính Pháp ở Hà Nội có sự tham gia
của Đề Thám. Cuộc binh biến này được chuẩn bị rất chu đáo, theo đó nghĩa quân sẽ
bắn phá đồn binh Pháp tại Đồn Thủy (nay là Bệnh viện Quân đội 108, Hà Nội) bằng
đại bác nhằm vơ hiệu hóa đồn này. Các đồn binh tại Sơn Tây và Bắc Ninh sẽ bị chặn
đánh, không cho tiếp cứu Hà Nội. Quân Đề Thám chờ ngoài thành Hà Nội, chờ tín
hiệu từ trong thành, sẽ đánh Gia Lâm và cắt đường xe lửa và điện thoại. Tuy nhiên
cuộc binh biến thất bại, quân Đề Thám phải rút về, 24 người tham gia cuộc binh biến
bị Pháp xử tử, 70 người bị xử tù chung thân.
Nhân cơ hội này, thực dân Pháp chủ trương tập trung lực lượng tiêu diệt nghĩa
quân. Tháng 1-1909, dưới quyền chỉ huy của đại tá Batay (Bataille), khoảng 15.000
quân cả Pháp và ngụy đã ào ạt tấn công vào Yên Thế. Nghĩa quân vừa chống đỡ, vừa
chuyển dần xuống Phúc Yên, Vĩnh Yên, Bắc Ninh, rồi rút sang Tam Đảo, Thái
Nguyên. Trên đường di chuyển, nghĩa quân vẫn tổ chức đánh trả quyết liệt, gây cho
địch những thiệt hại nặng nề. Điển hình là trận chặn giặc ở đồn Hom, Yên Thế (ngày
30 tháng 1 năm 1909); trận núi Hàm Lợn ở Tam Đảo, Phúc Yên (ngày 15 tháng 3
năm 1909).
Trước các cuộc vây quét tiêu diệt gắt gao của quân Pháp, lực lượng nghĩa quân
ngày càng giảm sút. Đến cuối năm 1909, hầu hết các tướng lĩnh đã hi sinh, hoặc sa
vào tay giặc, như Cả Trọng, Cả Huỳnh, Cả Tuyển (con Nguyễn Thiện Thuật), Ba

15


Biều, bà Ba Cẩn... Có một số người ra hàng như: Cả Dinh, Cai Sơn... Từ 29-1 tới 1111 năm 1909, quân Đề Thám thua 11 trận quan trọng, bị quân Pháp vây hãm tại Yên
Thế. Bà Ba Cẩn bị bắt, bị đày đi Guyana. Đến đây, phong trào coi như đã thất bại về

cơ bản.
Do lực lượng giảm sút, nhiều người bỏ trốn, Đề Thám phải nhờ đến Lương Tam
Kỳ hỗ trợ. Tuy nhiên, ngày ngày 10 tháng 2 năm 1913, Đề Thám bị hai tên thủ hạ
Lương Tam Kỳ giết hại tại một khu rừng cách chợ Gồm 2 km, nộp đầu cho Pháp lấy
thưởng. Sự kiện này đánh dấu sự thất bại hoàn toàn của phong trào khởi nghĩa Yên
Thế.
c. Nguyên nhân thất bại
Sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Thế, theo nhiều học giả, có thể do các nguyên
nhân:
• Tư tưởng lãnh đạo của Đề Thám (chủ hịa) khơng hợp với nhiều nghĩa qn
(chủ chiến).
• Nhiều nghĩa qn đã bị trói buộc vào tình trạng tá điền không công cũng gây
nên sự rạn nứt trong nội bộ của nghĩa quân.
• Nghĩa quân Yên Thế chưa lấy được lịng dân do đơi khi nghĩa qn vẫn cướp
bóc, sách nhiễu dân chúng.
• Mục tiêu của cuộc khởi nghĩa chỉ là để giữ một vùng đất nhỏ độc lập với chính
quyền của Pháp, chỉ phù hợp với nông dân lưu tán cư trú ở Yên Thế, mà không cuốn
hút được các thành phần xã hội khác ở Việt Nam lúc đó.
• Thiếu cộng tác với các phong trào chống Pháp khác tại Việt Nam lúc đó.
• Do Pháp cấu kết với lực lượng phong kiến.
d. Ý nghĩa lịch sử của khởi nghĩa Yên Thế
• Diễn ra trong một thời gian dài gây cho Pháp khơng ít tổn thất.
• Thể hiện tinh thần yêu nước, quyết tâm chiến đấu của nhân dân ta.
• Bước đầu giải quyết được yêu cầu ruộng đất cho nơng dân.
• Để lại nhiều bài học kinh nghiệm cho cuộc chiến đấu về sau.

16


2.1.2. Phong trào Cần Vương (1885-1896)

a. Nguyên nhân bùng nổ
Thực dân Pháp xác lập ách thống trị đô hộ trên toàn Việt Nam vào năm 1884,
dưới sự ủng hộ nhiệt tình của nhân dân, phe chủ chiến đã sẵn sàng hành động, cuộc
phản công dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Thất Thuyết vào rạng sáng ngày mồng 05
tháng 07 năm 1885, cuộc phản công của phái chủ chiến thất bại, khiến vua Hàm Nghi
buộc phải chạy đến Quảng Trị sơ tán => Chiếu Cần Vương lần 1 được ban ra, chiếu
Cần Vương lần 2 được ban ra tại Ấu Sơn của Hà Tĩnh vào ngày 20 tháng 9 năm 1885
=> Từ đó bùng nổ mạnh mẽ cuộc kháng chiến Cần Vương.
b. Diễn biến của phong trào
Giai đoạn I (1885-1888): Phong trào bùng nổ khắp cả nước
Hưởng ứng chiếu Cần Vương, nhiều văn thân sĩ phu và nhân dân yêu nước đã
hưởng ứng qua việc tập hợp các n ghĩa binh, xây dựng lên căn cứ. Họ cùng nhau
đấu tranh mạnh mẽ đầy quyết liệt trước thực dân Pháp cùng bè lũ tay sai trên đại
bàn rộng lớn thuộc Bắc và Trung Bộ.
Nhiều tướng lĩnh và văn thân tham gia như Phan Đình Phùng, Trần Xuân Soạn,
Phàm Bành, Mai Xuân Thưởng…
Triều đình Hàm Nghi với sự phị tá trợ giúp của Tôn Thất Đàm và Tôn Thất
Nghiệp (vốn là hai người con của Tôn Thát Thuyết). Dưới sự đàn áp của thực dân
Pháp, vua Hàm Nghi đã rút lui và chiến đấu ở vùng núi Quảng Bình, sau về Ấu Sơn
(Hà Tĩnh).
Tháng 6 năm 1886, Triều đình Đồng Khánh của thực dân Pháp theo lệnh toàn
quyền P.Bert xuống dụ kêu hàng, nhưng khơng ai trong triều đình Hàm Nghi chịu
đầu hàng buông súng.
Đặc điểm của phong trào Cần Vương trong giai đoạn này là các hoạt động chỉ
dừng lại ở phạm vi nhất định, cịn lẻ tẻ riêng rẽ.
Ở Bắc Kì có nhiều cuộc khởi nghĩa được biết đến như Khởi nghĩa Cai Kinh ở Bắc
Giang, khởi nghĩa Đốc Tít ở Đông Triều, khởi nghĩa Nguyễn Quang Bích, khởi nghĩa
Tạ Hiện ở Thái Bình và Nam Định, khởi nghĩa Nguyễn Thiện Thuận ở Hưng Yên và

17



Hải Dương, khởi nghĩa Đinh Công Tráng và Phạm Bành ở Thanh Hóa, khởi nghĩa
của Phan Đình Phùng và Lê Ninh ở Hương Khê-Hà Tĩnh…
Tại khu vực Trung Kì, nổi bật là khởi nghĩa của Lê Trực và Nguyễn Phạm Tuân
ở Quảng Bình, khởi nghĩa của Trần Quang Dự, Nguyễn Duy Hiệu và Nguyễn Hàm ở
Quảng Nam, khởi nghĩa của Lê Trung Đình ở Quảng Ngãi, khởi nghĩa Mai Xuân
Thưởng ở Bình Định….
Cuối năm 1888, do sự phản bội của Trương Quang Ngọc nên vua Hàm Nghi bị
bắt và đày đi Angieri, giai đoạn thứ nhất của khởi nghĩa Cần Vương kết thúc.
Giai đoạn II (1888-1896): Phong trào quy tụ các cuộc khởi nghĩa lớn
Giai đoạn này từ cuối năm 1888, mặc dù khơng có sự lãnh đạo từ triều đình nhưng
phong trào Cần Vương vẫn quy tụ nhiều văn thân sĩ phu yêu nước và phát triển thành
nhiều cuộc khởi nghĩa lớn, tiếp tục duy trì với tổ chức cao hơn.
Một số cuộc khởi nghĩa lớn như cuộc khởi nghĩa Hương Khê của Phan Đình
Phùng và Cao Thắng, khởi nghĩa Hùng Lĩnh do Tống Duy Tân lãnh đạo, khởi nghĩa
Bãi Sậy do Nguyễn Thiện Thuận chỉ huy….
Trong giai đoạn này, xuất hiện nhiều khởi nghĩa lớn nhưng thực dân Pháp cũng
tăng cường càn quét mạnh. Do đó, để duy trì và phát triển hoạt động, các nghĩa quân
phải chuyển địa bàn hoạt động đến nhiều vùng khác, từ đồng bằng lên trung du và
miền núi.
Năm 1896, phong trào Cần Vương kết thúc.
c. Nguyên nhân thất bại
• Tính chất địa phương: Phong trào Cần Vương thất bại không thể không kể đến
tính chất địa phương với sự chống cự của các cuộc kháng chiến. Các lãnh tụ của
phong trào chỉ có uy tín tại địa phương nơi xuất thân, đồng thời lại chống lại mọi sự
thống nhất phong trào
• Thiếu sự quy tụ và đường lối lãnh đạo: Phong trào Cần Vương vẫn chưa hội
tụ và tập hợp được thành một khối thống nhất, chưa có phương hướng hoạt động cũng
như đường lối chiến lược rõ ràng.


18


• Quan hệ với nhân dân: Các cuộc khởi nghĩa của phong trào Cần Vương không
lấy được sự tin tưởng từ dân chúng bởi gốc rễ chưa xuất phát từ nơng dân, cịn đi
cướp bóc của nhân nhân.
• Mâu thuẫn tôn giáo: Xung đột với Công giáo với sự tàn sát vô cớ khiến nhiều
giáo dân phải tự vệ bằng cách kết nối thơng đồng với thực dân Pháp.
• Mâu thuẫn sắc tộc: Sự sai lầm trong chính sách sa thải các quan chức Việt, cho
dân tộc thiểu số quyền tự trị khiến các sắc dân này đã đứng về phía Pháp. Điều này
khiến cho các dân tộc thiểu số cắt đường liên lạc của quân Cần Vương, người Thượng
đã bắt vua Hàm Nghi
• Vũ khí: Với vũ khí thơ sơ, phong trào Cần Vương khó đối chọi với vũ khí hiện
đại của Pháp
• Lực lượng chênh lệch: Lực lượng của phong trào Cần Vương quá chênh lệch
so với quân Pháp
• Tinh thần chiến đấu: Nhiều thủ lĩnh phản bội nhanh chóng đầu hàng bng bỏ
vũ khí khi nhận thấy sự bất lợi cho cuộc khởi nghĩa.
d. Ý nghĩa lịch sử
• Chiếu Cần Vương kêu gọi nhân dân cùng tham gia chống Pháp, khôi phục nền
độc lập, khôi phục chế độ phong kiến có vua là người tài giỏi.
• Khẩu hiệu này đã nhanh chóng thổi lên ngọn lửa tình yêu quê hương và lòng
căm thù quân xâm lược của toàn thể nhân dân = > Một phong trào vũ trang chống
thực dân Pháp diễn ra sôi nổi và kéo dài hơn 12 năm.
2.1.3 Khởi nghĩa Bãi Sậy (1883-1992)
a. Nguyên nhân bùng nổ
Năm 1885, khi quan quân triều đình nổi dậy tấn công Pháp ở kinh đô Huế nhưng thất
bại. Vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết phải chạỵ ra Tân Sở thuộc tỉnh Quảng Trị.
Tại đây, Tôn Thất Thuyết mượn danh nghĩa vua Hàm Nghi phát chiếu Cần Vương để

kêu gọi người Việt nổi dậy đánh Pháp giúp vua.

19


Hưởng ứng lời kêu gọi này, nhiều cuộc nổi dậy đã nổ ra, tiêu biểu là khởi nghĩa Bãi
Sậy do Nguyễn Thiện Thuật chỉ huy.
b. Diễn biến của phong trào
Địa bàn hoạt động của khởi nghĩa Bãi Sậy thuộc các huyện Văn Lâm, Văn Giang,
Khoái Châu (tỉnh Hưng Yên) và Kinh Mơn (thuộc Hải Dương). Sau đó, cuộc khởi
nghĩa đã phát triển ra các tỉnh xung quanh như Bắc Ninh. Thái Bình, Nam Định…
Lãnh đạo khởi nghĩa là Nguyễn Thiện Thuật.
Trong những năm 1885 – 1889, nhiều trận đánh ác liệt xảy ra giữa nghĩa quân và
quân Pháp.
Sau những trận chống càn, lực lượng nghĩa quân suy giảm và bị bao vây.
Đến cuối năm 1889, nghĩa quân dần dần tan rã.
c. Nguyên nhân thất bại
Các cuộc khởi nghĩa thất bại do thiếu liên kết, chưa tạo nên một phong trào chung,
thiếu một đường lối đánh giặc đúng đắn, nội bộ những người lãnh đạo có mâu thuẫn,
làm cho sức chiến đấu của cuộc khởi nghĩa suy yếu, dẫn đến các cuộc khởi nghĩa đều
lần lượt bị đàn áp.
d. Ý nghĩa lịch sử
Bên cạnh nguyên nhân, diễn biến của khởi nghĩa Bãi Sậy thì ý nghĩa và bài học kinh
nghiệm của khởi nghĩa Bãi Sậy cũng là câu hỏi được nhiều người quan tâm. Dưới
đây là những ý nghĩa mà cuộc khởi nghĩa này mang lại như:
Cuộc khởi nghĩa này đã kế tục truyền thống yêu nước, bất khuất của ông cha, cổ vũ
nhân dân ta tiếp tục đấu tranh.
Bên cạnh đó, khởi nghĩa Bãi Sậy cũng đã để lại nhiều lại bài học bổ ích, nhất là
phương thức hoạt động và hình thức tác chiến du kích ở một đồng bằng đất hẹp người
đông.


20


2.1.4 Ngun nhân chung
• Triều đình khơng có đường lối kháng chiến đúng đắn, tư tưởng lại thiên về chủ hồ,
khơng đồn kết với nhân dân, bạc nhược trước sức mạnh của kẻ thù. Triều đình nhà
Nguyễn phải chịu trách nhiệm chính trong việc để mất nước ta vào tay thực dân Pháp.
• Nhân dân yêu nước, chiến đấu anh dũng nhưng các cuộc kháng chiến diễn ra lẻ tẻ, tự
phát, dễ bị thực dân Pháp từng bước đàn áp.
• Tương quan lực lượng chênh lệch, đặc biệt là sự chênh lệch về trang bị vũ khí. Quân
Pháp tinh nhuệ, được trang bị vũ khí hiện đại, hơn hẳn về trình độ tác chiến và tổ
chức qn đội.
• Quan hệ với nhân dân: Các cuộc khởi nghĩa không lấy được sự tin tưởng từ dân chúng
bởi gốc rễ chưa xuất phát từ nơng dân, cịn đi cướp bóc của nhân nhân.
• Do triều đình bảo thủ, từ chối mọi cải cách và khơng muốn đổi mới.
• Các đề nghị cải cách của phong trào còn tản mạn, xa rời thực tế, khơng phù hợp với
hồn cảnh đất nước lúc bấy giờ.
• Các lãnh tụ của phong trào chỉ có uy tín tại địa phương nơi xuất thân, đồng thời lại
chống lại mọi sự thống nhất phong trào

21


2.2 Phong trào yêu nước Việt Nam theo hệ tư tưởng tư sản.
Đầu thế kỷ XIX, châu Á thức tỉnh: Phong trào cách mạng dân chủ tư sản ở các
nước thuộc địa và nửa thuộc địa như Ba Tư, Thổ Nhĩ Kỳ, Trung Quốc, Ấn Độ…
mang một nội dung mới đấu tranh yêu nước giải phóng dân tộc kết hợp với đấu tranh
giành quyền dân chủ ở nước ta vào những năm đầu thế kỷ XX, trước những yêu cầu
mới của lịch sử, những phần tử ưu tú trong trong hàng ngũ trí thức phong kiến đã

nhận thấy “quan niệm trung qn ái quốc” thời kỳ Cần Vương khơng có tác dụng tập
hợp nhân dân nữa đúng lúc đó, các tân thư, tân báo của Trung Quốc dội vào nước ta,
đáng kể nhất là các tác phẩm, ẩm băng Thất, Trung Quốc hồn, Mậu Tuất chính biến,
Tân dần tuần báo… của Lương Khải Siêu và Khang Hữu Vi cũng giới thiệu những
tư tưởng dân chủ tư sản của phương tây, dưới lăng kính của tư tưởng lập hiến các trào
lưu tư tưởng đó đã cổ vũ, hướng học theo lý tưởng của cuộc cách mạng Pháp năm
(1789), cuộc vận động Duy Tân năm (1898) và cuộc cách mạng Tân Hợi năm (1911)
ở Trung Quốc, giúp họ đoạn tuyệt những tư tưởng quân chủ lập hiến chuyển sang tư
tưởng cộng hoà. Mặt khác công cuộc xây dựng đất nước thành công của tư bản Nhật
càng củng cố niềm tin của các sĩ phu yêu nước vào con đường cách mạng tư sản. Tiêu
biểu cho khuynh hướng này là các phong trào:
2.2.1

Phan Bội Châu và phong trào Đông Du (1905 – 1908)

a. Nguyên nhân bùng nổ
• Nhật Bản là nước duy nhất ở châu Á nhờ đi theo con đường Tư bản chủ nghĩa
mà thoát khỏi ách thống trị của tư bản Âu - Mĩ, lại có cùng màu da, cùng nền văn hóa
Hán học với Việt Nam.
• Muốn nương nhờ Nhật là tâm lí phổ biến của nhân dân các nước châu Á cuối
thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX, trong đó có Việt Nam.
b. Diễn biến phong trào
Đầu năm 1905, Phan Bội Châu vượt biển qua Nhật Bản “cầu viện”. Việc không
thành, Cụ Phan Bội Châu lập tức chuyển thành “ cầu học” và kịp thời phát động
phong trào tuyển chọn thanh niên yêu nước qua Nhật Bản học tập, đào tạo nhân tài
để chuẩn bị cho cuộc đấu tranh giành độc lập và xây dựng đất nước “Việt Nam mới”

22



văn minh và tiến bộ. Ban đầu Phan Bội Châu đưa ba thanh niên là: Nguyễn Thức
Canh, Nguyễn Điển, Lê Khiết sang, tiếp đó là đồn năm người trong số đó có hai anh
em Lương Ngọc Quyến và Lương Nghị Khanh (là con cụ Lương Văn Can). Năm
1906, Cường Để (hội chủ Duy Tân Hội) cũng bí mật sang Nhật được bố trí học ở
trường Trấn Võ. Phong trào này được gọi là phong trào Đơng Du. Lực lượng lịng cốt
phong trào là Duy Tân hội (do Phan Bội Châu và hơn 20 đồng chí khác thành lập
năm 1904, chủ trương đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục nước Việt Nam) và Phan Bội
Châu thực hiện. Những hoạt động yêu nước của phong trào đầy sôi nổi và khí thế từ
năm 1905 đến năm 1908. Phong trào Đơng Du có mục đích kêu gọi thanh niên Việt
Nam ra nước ngoài (Nhật Bản) học tập, chuẩn bị lực lượng chờ thời cơ cho việc giành
lại độc lập cho nước nhà.
Trong quá trình hoạt động Đơng Du tại nước ngồi, Phan Bội Châu cũng thành
lập ra “ một tiểu cơ quan” gọi là Việt Nam thương đồn Cơng hội ở Hương Cảng, nó
là một địa điểm liên lạc, là “hộp thư trung chuyển” giữa chặng đường từ Việt sang
Nhật.
Đến năm 1908 số học sinh Việt Nam tại Nhật lên tới 200 người. Chương trình học
tập khá đa dạng, sáng và trưa dạy tiếng Nhật, “học tri thức phổ thông”, buổi chiều
dạy “tri thức quân sự”, đặc biệt là “tập luyện thao tác quân sự”, nhằm đào tạo những
người có trình độ văn hóa và quân sự cần thiết chuẩn bị cho công cuộc bạo động đánh
Pháp giành lại độc lập. Tháng 10 năm 1907, Phan Bội Châu và các đồng chí của ông
đã lập ra Hội Việt Nam Công Hiến (Công Hiến Hội), có trương trình riêng. Phan Bội
Châu làm Tổng lý kiêm Giám đốc và Kỳ ngoại Hầu Cường Để làm chủ tịch hội. Dưới
quyền hành chung của Ban lãnh đạo. Hội được chia ra thành 4 Bộ, mỗi Bộ đảm nhiệm
từng mặt hoạt động của lưu học sinh. Các ủy viên của Bộ kinh tế đón vai trị trong
việc thu, chi và các việc trù bị. Đồng thời họ cũng là người giỏi vận động, tranh thủ
sự giúp đỡ cả trong và ngoài nước. Việt Nam cống hiến rất chú trọng tổ chức những
buổi “sinh hoạt chính trị” giúp học sinh rèn luyện tư tưởng, đạo đức cách mạng. Tại
các chương trình nghị sự, có mặt đơng đủ học viên thì Hội trưởng và Tổng lý huấn
thị trước như khuyến cáo các vấn đề có liên quan đến sinh hoạt, học tập, có khi bình


23


giảng nội dung một cuốn sách, nhắc nhở nhiệm vụ của các thành viên trước Tổ quốc.
Sau đó tự do trao đổi, giúp đỡ cùng nhau tiến bộ. Hệ thống tổ chức bố trí nhân sự và
điều hành hoạt động ở đây tựa như một “Chính phủ lâm thời” mà lời Phan Bội Châu
bộc bạch.
Cũng chính vào lúc này đế quốc Pháp đã tìm ra nhiều manh mối của phong trào.Đế
quốc Pháp và phong kiến tay sai lo ngại trước sự phát triển của phong trào Đơng Du
đã nhanh chóng câu kết với giớ cầm quyền Nhật Bản để bóp chết phong trào ngay từ
buổi đầu còn trứng nước. Pháp và Nhật cùng nhau ký kết hiệp ước: Pháp đồng ý cho
Nhật vào bn bán ở Việt Nam, cịn Nhật cam đoan không cho các nhà yêu nước
Việt Nam trú ngụ và hoạt động trên đất Nhật.
Tháng 9 năm 1908, khi các học sinh trường Trấn Võ đang làm lễ tốt nghiệp thì
Bộ Nội vụ Nhật hạ lệnh giải tán tổ chức học sinh Việt Nam, tịch thu các văn kiện,
đuổi học sinh ra ngoài nước Nhật. Tháng 2 năm 1909, Phan Bội Châu, Cường Để
cũng bị trục xuất ra khỏi nước Nhật. Phan Bội Châu và các đồng chí của Cụ phải trốn
về Trung Quốc rồi qua Xiêm hoạt động một thời gian chờ đợi những cơ hội mới.
c. Nguyên nhân thất bại
Chủ trương bạo động, tập hợp nhân dân đứng lên đấu tranh giành lấy tự do và độc
lập là đúng đắn. Tuy nhiên tư tưởng cầu viện Nhật là sai lầm, do bản chất Nhật bản
lúc bấy giờ là tư bản hiếu chiến, tham lam, luôn lăm le xâm lược nước khác.
d. Ý nghĩa của phong trào:
Mặc dù chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian ngắn, nhưng phong trào Đông du
được coi là một trong những phong trào yêu nước mạnh mẽ nhất của nhân dân Việt
Nam đầu thế kỷ 20 và đặc biệt nhiều thanh niên du học của trào lưu này đã trở thành
những hạt nhân của các phong trào cách mạng tiếp theo trong cơng cuộc giải phóng
dân tộc.

24



×