Tải bản đầy đủ (.docx) (180 trang)

Bình luận bộ luật hình sự năm 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (670.49 KB, 180 trang )

BÌNH LUẬN BỘ LUẬT HÌNH SỰ HỢP NHẤT 2017
Chương I
ĐIỀU KHOẢN CƠ BẢN
Điều 1. Nhiệm vụ của Bộ luật Hình sự
Bộ luật Hình sự có nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh của đất nước, bảo
vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ quyền bình
đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tổ chức, bảo vệ trật
tự pháp luật, chống mọi hành vi phạm tội; giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp
luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.
Bộ luật này quy định về tội phạm và hình phạt.
Bình luận:
Nhiệm vụ của BLHS rất nhiều nhưng có thể khái quát ở 2 nhiệm vụ chính.
Một là nhiệm vụ bảo vệ, bảo vệ gì? Chính là bảo vệ những mối quan hệ xã hội được
pháp luật hình sự bảo vệ. Trong xã hội có rất nhiều những quan hệ cần được điều
chỉnh, tuy nhiên do tính chất, mức độ và tầm quan trọng khác nhau nên sẽ được điều
chỉnh bởi những nhóm quy phạm pháp luật khác nhau. Luật hình sự chọn những
quan hệ xã hội trọng tâm, gần như là quan trọng nhất, ưu tiên hàng đầu để điều chỉnh
như chủ quyền quốc gia, an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa,
quyền con người, quyền công dân v.v…
Hai là giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh
chống tội phạm. Bản chất của pháp luật hình sự khơng phải là để trừng phạt người
phạm tội giống như hệ thống pháp luật thời phong kiến. Điều này dễ dàng nhìn thấy
qua các hình phạt cổ như lăng trì, tùng xẻo, ngũ mã phanh thây v.v…hình phạt trong
Bộ Luật hình sự ngày nay đang đi theo xu hướng càng ngày càng giảm án tử hình
thay bằng hình thức chung thân và thi hành án tử cũng trở nên nhân đạo hơn để tử tù
được ra đi một cách nhẹ nhàng, ít đau đớn nhất.

1


Để thực hiện 2 nhiệm vụ trên thì BLHS quy định xung quanh 2 vấn đề và cũng là


xuyên suốt qua các thời kỳ đó là Tội phạm và Hình phạt. Nói đến hình sự người ta
nghĩ ngay đến tội phạm và hình phạt và ngược lại. Đó là đặc trưng cơ bản và rất dễ
nhận thấy ở pháp luật hình sự so với các ngành luật khác như dân sự, hành chính.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý giữa vi phạm hành chính (xử phạt vi phạm hành chính) và
tội phạm (xử lý hình sự) có một mối quan hệ khá mật thiết, chúng khá tương đồng
trong nhiều mặt và ranh giới giữa xử lý hành chính và hình sự đơi khi rất mong
manh phụ thuộc vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm và đơi khi
là cách nhìn nhận chủ quan của người xử phạt vi phạm hành chính và cơ quan cơng
tố. Do đó, trong thực tế khơng hiếm những trường hợp hồ sơ vi phạm hình sự nhưng
sau đó chuyển sang xử lý hành chính và hồ sơ xử lý hành chính chuyển sang xử lý
hình sự do có dấu hiệu của tội phạm.
Điều 2. Cơ sở của trách nhiệm hình sự
1. Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật Hình sự quy định mới phải chịu
trách nhiệm hình sự.
2. Chỉ pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 của
Bộ luật này mới phải chịu trách nhiệm hình sự.
Bình luận:
Đây là quy định chỉ rõ khi nào thì một cá nhân hay một pháp nhân thương mại phải
chịu trách nhiệm hình sự và đó là khi cá nhân, pháp nhân thương mại đó phạm một
tội đã được BLHS quy định. Riêng đối với pháp nhân thương mại do tính đặc thù
của chủ thể mà giới hạn những điều luật có thể phạm phải chỉ bao gồm: Điều 188,
189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196, 200, 203, 209, 210, 211, 213, 216, 217, 225,
226, 227, 232, 234, 235, 237, 238, 239, 242, 243, 244, 245, 246, 300, 324.
Cách hành văn của quy định trên làm nhiều người có thể hiểu sai lệch (phi logic)
rằng nếu một người, pháp nhân thương mại nào đó phạm từ 2 tội trở lên thì khơng
phải chịu trách nhiệm hình sự vì quy định chỉ nêu “khi phạm một tội” chứ khơng
phải “vi phạm ít nhất một tội”. Tuy nhiên nếu nghiên cứu theo những nguyên tắc của
bộ mơn logic học thì cách diễn đạt như vậy hồn tồn logic. Nhưng cũng cần nhấn
mạnh rằng khơng phải ai cũng có thể hiểu và am tường về bộ mơn logic học này,
hơn nữa luật pháp là nhằm mục đích phổ biến áp dụng trong thực tế vì vậy nó càng

2


phổ thông càng dễ hiểu càng tốt. Hiện quy định như vậy khơng sai nhưng để đảm
bảo bớt tính hàn lâm và tránh những sự nhầm lẫn khơng đáng có thì nên diễn đạt lại
theo hướng “…phạm ít nhất một tội…”(cách hành văn mới này cũng hồn tồn
khơng sai nhưng lại dễ hiểu hơn).
Điều 3. Nguyên tắc xử lý
1. Đối với người phạm tội:
a) Mọi hành vi phạm tội do người thực hiện phải được phát hiện kịp thời, xử lý
nhanh chóng, cơng minh theo đúng pháp luật;
b) Mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, khơng phân biệt giới tính,
dân tộc, tín ngưỡng, tơn giáo, thành phần, địa vị xã hội;
c) Nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, côn đồ, tái
phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội;
d) Nghiêm trị người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính chất
chun nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
Khoan hồng đối với người tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, tố giác đồng phạm,
lập cơng chuộc tội, tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện
tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa
hoặc bồi thường thiệt hại gây ra;
đ) Đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, thì có thể áp dụng hình phạt nhẹ
hơn hình phạt tù, giao họ cho cơ quan, tổ chức hoặc gia đình giám sát, giáo dục;
e) Đối với người bị phạt tù thì buộc họ phải chấp hành hình phạt tại các cơ sở giam
giữ, phải lao động, học tập để trở thành người có ích cho xã hội; nếu họ có đủ điều
kiện do Bộ luật này quy định, thì có thể được xét giảm thời hạn chấp hành hình
phạt, tha tù trước thời hạn có điều kiện;
g) Người đã chấp hành xong hình phạt được tạo điều kiện làm ăn, sinh sống lương
thiện, hòa nhập với cộng đồng, khi có đủ điều kiện do luật định thì được xóa án tích.
2. Đối với pháp nhân thương mại phạm tội:

3


a) Mọi hành vi phạm tội do pháp nhân thương mại thực hiện phải được phát hiện
kịp thời, xử lý nhanh chóng, cơng minh theo đúng pháp luật;
b) Mọi pháp nhân thương mại phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, khơng phân
biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế;
c) Nghiêm trị pháp nhân thương mại phạm tội dùng thủ đoạn tinh vi, có tính chất
chun nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng;
d) Khoan hồng đối với pháp nhân thương mại tích cực hợp tác với cơ quan có trách
nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án, tự
nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại gây ra, chủ động ngăn chặn hoặc khắc phục
hậu quả xảy ra.
Bình luận:
Nguyên tắc là những thứ bắt buộc phải tuân thủ, nguyên tắc được lập ra để đảm bảo
tính thống nhất và cho thấy được phần nào chính sách của BLHS nói riêng và chính
sách của nhà nước nói chung đối với tội phạm. Đó là phân định rõ nhóm đối tượng
sẽ được hưởng chính sách khoan hồng, thể hiện sự nhân đạo của nhà nước và nhóm
chính sách cứng rắn thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật đối với nhóm đối tượng
có khả năng và đã hoặc sẽ thực hiện những hành vi gây nguy hại lớn đến xã hội.
Nguyên tắc thì nhiều nhưng nếu phân chia theo cách BLHS làm thì có nhóm những
ngun tắc đối với người phạm tội và nhóm nguyên tắc đối với pháp nhân thương
mại. Tuy nhiên có thể nhìn thấy rất rõ ràng ở điều luật trên là 2 nhóm ngun tắc này
khơng có gì khác nhau về bản chất và nhóm nguyên tắc của pháp nhân thương mại ít
hơn nhiều với nguyên tắc của người phạm tội (có thể gọi đó là tập hợp con trong
trường hợp này). Những khác biệt rất ít cũng chỉ xuất phát từ những đặc trưng của
từng loại chủ thể. Điều này có thể dễ hiểu vì trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân
là một chế định rất mới mẻ và BLHS 2015 là Bộ luật đầu tiên ghi nhận chế định này.
Do đó khơng tránh khỏi việc nêu ra những nguyên tắc trên cũng cơ bản là dựa trên
nguyên tắc dành cho người phạm tội và theo đánh giá chủ quan của tác giả, nguyên

tắc đối với pháp nhân thương mại vẫn cịn thiếu nhiều và có thể sẽ phải bổ sung
trong tương lai không xa. Đơn cử như khơng có ngun tắc về việc tạo điều kiện cho
pháp nhân tái hoạt động sau khi chấp hành xong hình phạt hay ngun tắc về xóa
điểm đen lý lịch pháp nhân (tương tự như xóa án tích) v.v…
4


Điều 4. Trách nhiệm phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm
1. Cơ quan Công an, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân và các cơ quan hữu
quan khác có trách nhiệm thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
mình, đồng thời hướng dẫn, giúp đỡ các cơ quan khác của Nhà nước, tổ chức, cá
nhân phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm, giám sát và giáo dục người phạm
tội tại cộng đồng.
2. Cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ giáo dục những người thuộc quyền quản lý của
mình nâng cao cảnh giác, ý thức bảo vệ và tuân theo pháp luật, tôn trọng các quy
tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa; kịp thời có biện pháp loại trừ nguyên nhân và
điều kiện gây ra tội phạm trong cơ quan, tổ chức của mình.
3. Mọi cơng dân có nghĩa vụ tích cực tham gia phịng, chống tội phạm.
Bình luận:
Điều luật này cho thấy rằng trách nhiệm phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm là
của tồn xã hội mà khơng chỉ bị giới hạn bởi trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức
thuộc bộ máy nhà nước. Tuy vậy nghĩa vụ này không được đánh đồng đối với tất cả
các chủ thể. Điều này thể hiện ở quy định tại Khoản 3: Mọi cơng dân có nghĩa vụ
tích cực tham gia phịng, chống tội phạm. Cấu trúc của quy định này cho thấy sự
khuyến khích hơn là bắt buộc. Hồn tồn khác với quy định tại Khoản 1 khi quy
định rằng: Cơ quan Cơng an, Viện kiểm sát nhân dân, Tịa án nhân dân và các cơ
quan hữu quan khác có trách nhiệm thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của mình.
Quy định này thể hiện sự rõ ràng, tách bạch giữa nghĩa vụ mang tính bắt buộc và
nghĩa vụ mang tính khích lệ, khuyến khích. Chính xác là nghĩa vụ chính trong việc

đấu tranh phịng chống tội phạm phải thuộc về các cơ quan nhà nước. Nhiệm vụ bảo
vệ bình yên cho cuộc sống của người dân là nhiệm vụ thuộc về nhà nước. Hiến pháp
đã trao quyền tổ chức bộ máy nhà nước, hệ thống quyền lực công và sử dụng công
cụ hệ thống quân đội, nhà tù, công an, cảnh sát v.v…để thực hiện mục tiêu gìn giữ
hịa bình, ổn định tình hình chính trị, trật tự an toàn xã hội. Trong mối quan hệ này
người dân phải thực hiện nghĩa vụ về thuế và những nghĩa vụ khác để tạo nguồn thu
ngân sách duy trì hoạt động của hệ thống trên. Mỗi bên đều có những nghĩa vụ rất rõ
ràng của mình được quy định trong Hiến pháp. Do vậy nhiệm vụ cùng tham gia đấu
5


tranh phịng chống tội phạm của cơng dân là để đảm bảo được tính tồn diện và tính
nhanh chóng kịp thời trong việc xử lý tội phạm, nó là một nghĩa vụ phái sinh và
mang tính chất khuyến khích là chính, làm cho mọi cơng dân thấy được bổn phận
của mình đối với cơng tác phịng chống tội phạm.
Chương II HIỆU LỰC CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ
Điều 5. Hiệu lực của Bộ luật Hình sự đối với những hành vi phạm tội trên lãnh thổ
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1. Bộ luật Hình sự áp dụng đối với mọi hành vi phạm tội thực hiện trên lãnh thổ
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quy định này cũng được áp dụng đối với hành vi phạm tội hoặc hậu quả của hành
vi phạm tội xảy ra trên tàu bay, tàu biển mang quốc tịch Việt Nam hoặc tại vùng đặc
quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam.
2. Đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thuộc đối tượng được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao hoặc lãnh
sự theo pháp luật Việt Nam, theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là thành viên hoặc theo tập quán quốc tế, thì vấn đề trách nhiệm hình sự
của họ được giải quyết theo quy định của điều ước quốc tế hoặc theo tập quán quốc
tế đó; trường hợp điều ước quốc tế đó khơng quy định hoặc khơng có tập qn quốc
tế thì trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết bằng con đường ngoại giao.

Bình luận:
Về nguyên tắc, mọi hành vi phạm tội được thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam thì đều
áp dụng BLHS Việt Nam. Lãnh thổ Việt Nam ở đây phải được hiểu bao gồm: Vùng
đất, vùng biển và vùng trời được xác định theo quy định của pháp luật Việt Nam và
luật pháp quốc tế. Riêng đối với phần lãnh thổ di động (tàu bay, tàu biển) thì phạm vi
áp dụng của BLHS cịn được mở rộng hơn ở chỗ không chỉ hành vi phạm tội được
thực hiện trên các phương tiện đó mà nếu hậu quả của hành vi phạm tội xảy ra trên
phương tiện đó thì vẫn áp dụng quy định của BLHS Việt Nam mặc dù hành vi phạm
tội có thể xảy ra ngồi tàu bay, tàu biển.
Tuy nhiên, ngun tắc trên có một ngoại lệ duy nhất là đối với những người phạm
tội được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao hoặc lãnh sự. Những đối tượng này được
6


xác định căn cứ vào quy định của pháp luật Việt Nam, Điều ước quốc tế mà Việt
Nam là thành viên hoặc tập quán quốc tế. Trường hợp này sẽ khơng áp dụng quy
định của BLHS mà trách nhiệm hình sự của họ sẽ được giải quyết theo quy định tại
các Điều ước quốc tế, tập quán quốc tế hoặc bằng con đường ngoại giao.
Như vậy có thể thấy hiệu lực về không gian của BLHS là rất rộng và áp dụng đối với
tất cả các đối tượng kể cả là người nước ngồi, người khơng quốc tịch. Chỉ một phần
rất nhỏ những đối tượng được hưởng quyền miễn trừ như đã nêu mới không chịu sự
điều chỉnh của Bộ luật này.
Điều 6. Hiệu lực của Bộ luật Hình sự đối với những hành vi phạm tội ở ngoài lãnh
thổ nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1. Cơng dân Việt Nam hoặc pháp nhân thương mại Việt Nam có hành vi phạm tội ở
ngồi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà Bộ luật này quy định
là tội phạm, thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự tại Việt Nam theo quy định
của Bộ luật này.
Quy định này cũng được áp dụng đối với người không quốc tịch thường trú ở Việt
Nam.

2. Người nước ngoài, pháp nhân thương mại nước ngoài phạm tội ở ngồi lãnh thổ
nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự
theo quy định của Bộ luật này trong trường hợp hành vi phạm tội xâm hại quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân Việt Nam hoặc xâm hại lợi ích của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc theo quy định của điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
3. Đối với hành vi phạm tội hoặc hậu quả của hành vi phạm tội xảy ra trên tàu bay,
tàu biển không mang quốc tịch Việt Nam đang ở tại biển cả hoặc tại giới hạn vùng
trời nằm ngoài lãnh thổ nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì người phạm
tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này trong
trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên
có quy định.
Bình luận:

7


Điều luật này bao gồm 3 Khoản và cả 3 Khoản này đều có một điểm chung là có thể
áp dụng BLHS chứ không phải là sẽ áp dụng BLHS. Kỹ thuật lập pháp tại điều này
hoàn toàn khác với quy định tại Điều 5. Vấn đề cốt lõi là ở chỗ những hành vi phạm
tội tại điều này đều là những hành vi nằm ngoài lãnh thổ của nước CHXHCN Việt
Nam. Bởi vì nằm ngồi nên khả năng áp dụng BLHS để giải quyết cũng cực kỳ hạn
chế vì khả năng cao hành vi đó sẽ được điều chỉnh bởi pháp luật hình sự của một
quốc gia nào đó nếu hành vi phạm tội xảy ra trên lãnh thổ của quốc gia vì quốc gia
nào cũng đề cao chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia đối với lãnh thổ của
mình.
Như vậy tóm tắt lại những trường hợp có thể áp dụng BLHS trong Điều luật này như
sau:
- Chủ thể phạm tội là công dân Việt Nam hoặc pháp nhân thương mại Việt Nam
- Hành vi phạm tội xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân Việt Nam hoặc

của nước CHXHCN Việt Nam
- Theo quy định của điều ước quốc tế mà CHXHCN Việt Nam là thành viên
Điều 7. Hiệu lực của Bộ luật Hình sự về thời gian
1. Điều luật được áp dụng đối với một hành vi phạm tội là điều luật đang có hiệu
lực thi hành tại thời điểm mà hành vi phạm tội được thực hiện.
2. Điều luật quy định một tội phạm mới, một hình phạt nặng hơn, một tình tiết tăng
nặng mới hoặc hạn chế phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, loại trừ
trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án tích và quy định khác
khơng có lợi cho người phạm tội, thì khơng được áp dụng đối với hành vi phạm tội
đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành.
3. Điều luật xóa bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng nặng, quy định
một hình phạt nhẹ hơn, một tình tiết giảm nhẹ mới hoặc mở rộng phạm vi áp dụng
án treo, miễn trách nhiệm hình sự, loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt,
giảm hình phạt, tha tù trước thời hạn có điều kiện, xóa án tích và quy định khác có
lợi cho người phạm tội, thì được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện
trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành.
8


Bình luận:
Nguyên tắc, chỉ áp dụng quy định của pháp luật đang có hiệu lực thi hành tại thời
điểm mà hành vi phạm tội được thực hiện. Nguyên tắc này hồn tồn đúng bởi vì
chúng ta khơng thể bắt buộc một cá nhân nào đó phải biết được hành vi của mình là
phạm tội hay khơng cho đến khi chúng ta chỉ ra được hành vi đó đã được quy định
tại Điều, Khoản, Điểm, Tiết… nào của BLHS và quy định đó đang có hiệu lực thi
hành (có giá trị áp dụng).
Xã hội ln biến động và cách nhìn nhận của nhà lập pháp, của xã hội cũng sẽ thay
đổi theo thời gian. Do đó, trong một số trường hợp sự nguy hiểm của hành vi phạm
tội sẽ giảm dần theo thời gian nhưng trong những trường hợp ngược lại tính chất
nguy hiểm của hành vi nào đó sẽ tăng dần theo thời gian. Vì vậy cho nên các quy

phạm pháp luật hình sự cũng khơng ngừng biến động theo, một số tội phạm sẽ
khơng cịn (mất hẳn hoặc chuyển xuống xử lý vi phạm hành chính), một số loại tôi
phạm mới sẽ phát sinh.
Nhằm đảm bảo pháp luật là công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội để quan hệ đó ổn định
và phát triển theo đúng định hướng, nguyên tắc trên cũng phải tồn tại ngoại lệ (như
một lẽ tất yếu), thể hiện tính mềm dẻo và chính sách nhân đạo của nhà nước.
Ngoại lệ này cho phép áp dụng những quy định mà tại thời điểm thực hiện hành vi,
quy định đó vẫn chưa có hiệu lực thi hành, cụ thể trong các trường hợp sau:
- Điều luật xóa bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng nặng,
- Quy định một hình phạt nhẹ hơn, một tình tiết giảm nhẹ mới
- Mở rộng phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, loại trừ trách nhiệm
hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, tha tù trước thời hạn có điều kiện, xóa án
tích
- Quy định khác có lợi cho người phạm tội
Đặc điểm chung của các quy định trên là nếu áp dụng các quy định mới (chưa có
hiệu lực vào thời điểm xảy ra hành vi phạm tội nhưng đã có hiệu lực tại thời điêm
xét xử) thì sẽ có lợi hơn cho người phạm tội. Người phạm tội có thể sẽ khơng cịn
phạm tội hoặc phải chịu một mức hình phạt nhẹ hơn.
9


Trong trường hợp ngược lại thì khơng được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã
thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành (Khoản 2).
- Điều luật quy định một tội phạm mới, một hình phạt nặng hơn, một tình tiết tăng
nặng mới
- Hạn chế phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, loại trừ trách nhiệm
hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án tích
- Quy định khác khơng có lợi cho người phạm tội
Thực ra quy định này có vẻ hơi thừa vì nó khơng hề khác với ngun tắc điều luật
được áp dụng phải là điều luật đang có hiệu lực pháp luật vào thời điểm thực hiện

hành vi phạm tội quy định tại Khoản 1. Tuy vậy, việc hơi thừa này thực ra cũng xuất
phát từ sự cẩn trọng của nhà lập pháp. Quy định rõ ràng nhưng nhiều khi những cơ
quan tiến hành tố tụng lại khơng áp dụng một cách chính xác, đúng đắn và thống
nhất. Hiện tượng oan sai vẫn còn diễn ra nhiều. Cho nên việc tái khẳng định rằng
những quy định theo hướng bất lợi cho người phạm tội thì khơng được phép áp dụng
khi hành vi xảy ra trước thời điểm quy định đó có hiệu lực vẫn rất có giá trị thực
tiễn.
Chương III: TỘI PHẠM
Điều 8. Khái niệm tội phạm
1. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự,
do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện
một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phịng,
an ninh, trật tự, an tồn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm
quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực
khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải
bị xử lý hình sự.
2. Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã
hội khơng đáng kể thì khơng phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp
khác.
Bình Luận:
10


Từ khái niệm nêu trên ta xác định được các yếu tố cấu thành của tội phạm, bao gồm:
1. Hành vi nguy hiểm cho xã hội.
2. Yếu tố có lỗi.
3. Do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện.
4. Xâm phạm các mối quan hệ được qui định tại Bộ luật hình sự.
Do vậy không phải mọi hành vi đều cấu thành tội phạm mà chỉ khi hành vi đó thỏa

mãn đồng thời 4 yếu tố nêu trên thì mới xác định có tội phạm xảy ra.
Khái niệm tội phạm theo qui định trên có nhiều điểm mới so với khái niệm tội phạm
được qui định trong Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 (gọi tắt là Bộ
luật hình sự 1999). Cụ thể:
- Tăng cường chủ thể chịu trách nhiệm hình sự. Nếu trước đây chủ thể của tội phạm
chỉ có thể là cá nhân thì hiện nay đã có thêm chủ thể mới là các pháp nhân thương
mại. Hai chủ thể này có đặc điểm hồn tồn khác nhau, chính vì vậy mà trách nhiệm
hình sự của họ cũng khác nhau. Điều này thể hiện ở chỗ, cá nhân khi thực hiện hành
vi phạm tội thì các loại hình phạt được áp dụng theo qui định tại Điều 32 (cảnh cáo,
phạt tiền, cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình….), pháp
nhân thương mại khi phạm tội thì được áp dụng một số loại hình phạt mang tính
riêng biệt phù hợp với đặc điểm chủ thể qui định tại Điều 33 (phạt tiền, đình chỉ hoạt
động có thời hạn, đình chỉ hoạt động vĩnh viễn, cấm kinh doanh, cấm huy động
vốn….) và tất nhiên phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại
cũng chỉ giới hạn ở các loại tội phạm được qui định tại Điều 76, cụ thể Điều 188
(Tội buôn lậu), Điều 189 (Tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới),
Điều 190 (Tội sản xuất, buôn bán hàng cấm), Điều 191 (Tội tàng trữ, vận chuyển
hàng cấm), Điều 192 (Tội sản xuất, buôn bán hàng giả), Điều 193 (Tội sản xuất,
buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm), Điều 194 (Tội sản
xuất, buôn bán hàng giả là thuộc chữa bệnh, thuốc phịng bệnh), Điều 195 (Tội sản
xuất, bn bán hàng giả là thức ăn chăn ni, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ
thực vật, giống cây trồng, giống vật nuôi), Điều 196 (Tội đầu cơ), Điều 200 (Tội trốn
thuế), Điều 203 (Tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp
ngân sách nhà nước), Điều 209 (Tội cố ý công bố thông tin sai lệch, hoặc che dấu
thơng tin trong hoạt động chứng khốn), Điều 210 (Tội sử dụng thông tin nội bộ để
mua bán chứng khoán), Điều 211 (Tội thao túng thị trường chứng khoán), Điều 213
(Tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm), Điều 216 (Tội trốn đóng bảo hiểm xã hội,
11



bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động), Điều 217 (Tội vi phạm qui
định về cạnh tranh), Điều 225 (Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan), Điều
226 (Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp), Điều 227 (Tội vi phạm qui định về
nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên), Điều 232 (Tội vi phạm qui định về khai
thác, bảo vệ rừng và lâm sản), Điều 234 (Tội vi phạm qui định về bảo vệ động vật
hoang dã), Điều 235 (Tội gây ô nhiễm mơi trường), Điều 237 (Tội vi phạm qui định
về phịng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố mơi trường), Điều 238 (Tội vi phạm qui
định về bảo vệ an toàn cơng trình thủy lợi, đê diều và phịng chống thiên tai; vi phạm
qui định về bảo vệ bờ, bãi sông), Điều 239 (Tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt
Nam), Điều 242 (Tội hủy hoại nguồn lợi thủy sản), Điều 243 (Tội hủy hoại rừng),
Điều 244 (Tội vi phạm qui định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm), Điều 245
(Tội vi phạm qui định về bảo tồn thiên nhiên), Điều 246 (Tội nhập khẩu, phát tán các
loài ngoại lai xâm hại), Điều 300 (Tội tài trợ khủng bố), Điều 324 (Tội rửa tiền).
Xem xét các loại tội phạm phải chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại,
chúng ta dễ dàng nhận thấy chỉ đối với một số hành vi liên quan đến hoạt động sản
xuất, kinh doanh, thương mại, thuế, tài chính, mơi trường … thì mới qui định trách
nhiệm hình sự.
- Tinh gọn các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ. Cụm từ “xâm phạm
quyền con người” đã thay thế cho “xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, tự do, tài sản”. Cách qui đinh này trước hết làm cho khái niệm tội phạm đảm
bảo được tính ngắn gọn, súc tích nhưng vẫn khái qt được tồn bộ các quan hệ mà
pháp luật hình sự phải can thiệp. Thay vì theo cách liệt kê, dự liệu chi tiết từng mối
quan hệ thì đến đây các nhà làm luật đã nhìn nhận một cách tổng thể hơn, khái quát
hơn, khắc phục nhược điểm, tư tưởng liệt kê mà bấy lâu nay vẫn áp dụng. Phương
pháp liệt kê trong Bộ luật hình sự 1999 có ưu điểm là chỉ điểm cụ thể các quan hệ
hay nói cách khác là xác định đích danh, tuy nhiên phương pháp này khơng mang
tính bao quát. Việc qui định cụm từ quyền con người là phù hợp với hiến pháp 2013
của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử
chúng ta ghi nhận một cách trân trọng về quyền con người tại một văn bản có giá trị
pháp lý cao nhất. Tiếp nối sự khẳng định trong việc tôn trọng, thừa nhận và bảo vệ

quyền con người mà Bộ luật hình sự sửa đổi đã có cách ghi nhận mới. Do vậy việc
ghi nhận như hiện nay là hồn tồn phù hợp, đúng đắn trong tiến trình hội nhập quốc
tế, Nhà nước đã sử dụng công cụ mạnh mẽ nhất để bảo vệ quyền con người.
- Xác định lại phạm vi chịu trách nhiệm hình sự: Khái niệm tội phạm thể hiện rất rõ
một chủ thể chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi và chỉ khi xâm phạm các mối
12


quan hệ mà theo qui định Bộ luật hình sự hành vi đó phải bị xử lý. Chính vì vậy mà
khi một hành vi xảy ra trên thực tế, bên cạnh xác định các yếu tố cấu thành khác thì
chúng ta phải xác định hành vi đó có cấu thành một trong các loại tội phạm được thể
hiện trong Bộ luật này hay khơng. Mặc dù một hành vi có xâm phạm đến một mối
quan hệ xã hội nhất định nhưng không thuộc phạm trù được liệt kê tại phần các tội
phạm thì đương nhiên hành vi này khơng phải chịu trách nhiệm hình sự, có chăng nó
sẽ cấu thành một trách nhiệm pháp lý khác như trách nhiệm hành chính, dân sự. Bộ
luật hình sự 1999 chưa thực hiện được điều này và từ đó tạo ra sự nhầm lẫn, mâu
thuẫn trong chính khái niệm cũng như trong từng loại tội phạm nhất định.
Một hành vi khi thỏa mãn được 4 yếu tố nêu trên thì cấu thành tội phạm. Tuy nhiên
xét yếu tố về tính nguy hiểm cho xã hội mà pháp luật có thể loại trừ nó ra khỏi các
biện pháp chế tài của Bộ luật hình sự hay nói cách khác hành vi đó khơng phải chịu
trách nhiệm hình sự, nó sẽ được xem xét ở các trách nhiệm pháp lý khác như hành
chính hay dân sự. Như vậy một câu hỏi được đặt ra là mức độ nguy hiểm của một
hành vi được xác định như thế nào? Đây là một vấn đề rất quan trọng vì nó ảnh
hưởng trực tiếp đến tính phải chịu trách nhiệm hình sự của một hành vi.
Để đánh giá một cách chính xác tính nguy hiểm của hành vi cần phải xem xét một
cách tổng thể, đối chiếu qua lại giữa nhiều yếu tố khác nhau như: chủ thể thực hiện
là ai, hoàn cảnh khi nào, ở đâu, hậu quả mà hành vi đó gây ra…có như vậy mới đưa
ra được nhận định đúng đắn. Khơng có một khn mẫu, chuẩn mực nào để chúng ta
có thể xác định ngay lập tức mức độ nguy hiểm của hành vi mà phải phụ thuộc nhiều
vào sự đánh giá của các cơ quan điều tra, tố tụng. Để đảm bảo tính cơng bằng, địi

hỏi các cá nhân, cơ quan chức trách khi xem xét hành vi phải thật sự khách quan.
Điều 9. Phân loại tội phạm
1. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được
quy định trong Bộ luật này, tội phạm được phân thành 04 loại sau đây:
a) Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã
hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối
với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm;
b) Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội
lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là
từ trên 03 năm tù đến 07 năm tù;

13


c) Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã
hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với
tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù;
d) Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy
định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
2. Tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện được phân loại căn cứ vào tính
chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội theo quy định tại khoản
1 Điều này và quy định tương ứng đối với các tội phạm được quy định tại Điều 76
của Bộ luật này.
Bình luận:
Trước đây Bộ Luật hình sự 1999 đưa việc phân loại vào Điều 8 khái niệm tội phạm.
Tuy nhiên qui định này vơ hình dung gây ra sự nhầm lẫn về thuộc tính của tội phạm,
cụ thể các loại tội phạm chỉ là việc phân hóa mức độ chịu trách nhiệm hình sự, là sự
chi tiết hóa cho một hành vi khi bị xem là cấu thành tội phạm.
Việc phân loại tội phạm được xem xét dựa trên tính chất và mức độ nguy hiểm cho

xã hội của hành vi. Theo đó tùy vào mức độ mà áp dụng loại hình phạt tương thích,
đảm bảo được tính răn đe cũng như yếu tố giáo dục. Ngay tại Điều 1 Bộ luật hình sự
hiện hành, chúng ta đã nhận thức rõ được chức năng, nhiệm vụ của luật hình sự. Nó
là cơng cụ hữu hiệu của giai cấp cầm quyền trong việc bảo vệ chế độ, bảo vệ các
mối quan hệ trong xã hội, được sử dụng để nhằm răn đe, ngăn chặn, uốn nắn cũng
như trừng phạt và giáo dục đối với các hành vi xâm phạm. Chính vì vậy mà việc
phân loại tội phạm có ý nghĩa to lớn trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử.
Trách nhiệm hình sự của các chủ thể vi phạm được xác định ngay tại giai đoạn đầu
và từ đó định hướng được các chế tài xử lý phù hợp.
Tùy vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà tội phạm được
pháp luật hình sự phân thành 4 loại như sau:
- Tội ít nghiêm trọng
- Tội nghiêm trọng
- Tội rất nghiêm trọng.
- Tội đặc biệt nghiêm trọng.

14


Sự phân hóa các loại tội phạm được thực hiện theo tính chất nghiêm trọng tăng dần
và tương ứng với đó là loại hình phạt và mức khung hình phạt cũng tăng dần. Nếu
trước đây việc phân loại hình phạt và khung hình phạt để áp dụng cho mỗi loại tội
phạm được thực hiện theo phương thức áp mức tối đa thì hiện nay các nhà làm luật
đã liệt kê một cách chi tiết, rõ ràng giúp việc vận dụng luật được thuận tiện hơn.
Tương tự chủ thể là cá nhân thực hiện hành vi phạm tội, pháp nhân thương mại khi
có các hành vi xâm phạm các mối quan hệ được pháp luật hình sự bảo vệ cũng phải
chịu những chế tài tương ứng với từng loại tội phạm nhất định.
Điều 10. Cố ý phạm tội
Cố ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây:
1. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy

trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra;
2. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy
trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy khơng mong muốn nhưng vẫn có ý
thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
Bình Luận
Chương III chủ yếu tập trung làm rõ các thành tố cấu thành tội phạm, như đã phân
tích tại khái niệm tội phạm thì lỗi là một trong 4 yếu tố được đưa ra để xem xét đánh
giá một hành vi đã xảy ra có phải là tội phạm hay khơng, nếu có thì mức độ như thế
nào. Chính vì vậy mà việc nghiên cứu, phân loại các bản dạng lỗi đóng vai trị quan
trọng trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.
Điều này, các nhà làm luật đưa ra khái niệm về lỗi cố ý cũng như căn cứ để phân loại
lỗi cố ý. Cụ thể:
Lỗi cố ý trực tiếp: được xác định dựa trên mức độ nhận thức của người thực hiện
hành vi. Trong các loại lỗi thì lỗi cố ý trực tiếp thể hiện sự nhận thức và mức độ
quyết tâm cao nhất của người thực hiện. Sự nhận thức được thể hiện dưới ba góc độ
khác nhau, thứ nhất đó là nhận thức được mức độ nguy hiểm, nghĩa là người phạm
tội nhận diện được hành vi mà mình đang hoặc sắp thực hiện sẽ gây ra nguy hiểm
cho xã hội, sự nguy hiểm thể hiện ở chỗ nếu hành vi được thực hiện là nó sẽ xâm
phạm đến một đối tượng cụ thể nào đó. Thứ hai nhận thức được hậu quả, người thực
hiện hành vi bên cạnh nhận diện được mức độ nguy hiểm thì họ cịn thấy được hậu
của nó như thế nào, dự liệu được một cách chính xác và đúng đắn những hậu quả mà
hành vi mang lại. Và khơng có việc người thực hiện hành vi sẽ mơ hồ, không xác
15


định được hậu quả là gì, khi trong suy nghĩ người phạm tội nghĩ về một hành vi mà
họ sẽ thực hiện thì đồng thời họ cũng đã thấy trước được hậu quả xảy ra, hai vấn đề
này tiếp diễn liên tục, liền kề nhau và nhiều trường hợp thậm chí người phạm tội
nghĩ đến hậu quả trước và tìm cách thực hiện hành vi tương ứng để hậu quả xảy ra
như mong muốn. Thứ ba là nói đến tính quyết tâm thực hiện tội phạm đến cùng của

người phạm tội “mong muốn hậu quả đó xảy ra”, sự mong muốn này biểu hiện ra
bên ngoài dưới dạng các đặc điểm như: không chấm dứt hành vi, thực hiện hành vi
cho đến khi nào hậu quả xảy ra hay nói cách khác hậu quả chính là mục đích cuối
cùng. Như vậy trong chuỗi nhận thức của người thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực
tiếp chính là biểu hiện của ý chí và quyết tâm cao nhất trong các loại lỗi, đi từ suy
nghĩ và hiện thực hóa đến hành động.
Lỗi cố ý gián tiếp: sự khác biệt cơ bản giữa lỗi cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp được
thể hiện ở khía cạnh tâm lý người phạm tội. Hai loại lỗi này các chủ thể đều nhận
thức được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi, đều nhận thức được hậu quả mà
hành vi mang lại. Tuy nhiên với lỗi cố ý gián tiếp thì cần phải khẳng định, người
phạm tội không hề mong muốn hậu quả đó xảy ra trên thực tế hay nói cách khác hậu
quả không nằm trong kế hoạch hành động của họ. Việc hậu quả có xảy ra hay khơng
khơng phải là đích đến cuối cùng. Sự bỏ mặc thể hiển ở việc người phạm tội không
quan tâm, hậu quả xảy ra cũng được hoặc không xảy ra cũng được. Mục đích của
người phạm tội đã có thể đạt được ở giai đoạn trước đó hoặc thực hiện hành vi
nhưng lại hướng đến một mục đích khác.
Tuy nhiên khi xem xét, nghiên cứu về lỗi cố ý, nhiều quan điểm cho rằng việc phân
loại lỗi cố ý thành lỗi cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp là không cần thiết. Bởi lẽ một
người khi họ đã nhận thức được một cách đầy đủ về tính nguy hiểm cho xã hội của
hành vi và thấy trước hậu quả xảy ra mà vẫn thực hiện thì cho dù họ có mong muốn
hay khơng mong muốn thì hậu quả cũng đã xảy ra trên thực tế. Việc nhận thức đầy
đủ nhưng vẫn thực hiện hành vi đã chứng tỏ một quyết tâm và ý chí của người phạm
tội. Pháp luật hình sự nghiêm cấm các chủ thể xâm phạm đến các mối quan hệ được
qui định trong bộ luật này, do vậy việc không hành động hoặc hành động để tránh
xâm hại và bảo vệ các mối quan hệ đó là nghĩa vụ của mỗi cá nhân, tổ chức. Chính
vì vậy, việc cho rằng không mong muốn hậu quả xảy ra trong khi đã nhận thức và dự
liệu một cách chính xác hậu quả mà vẫn thực hiện hành vi là hồn tồn khơng có cơ
sở.
Điều 11. Vơ ý phạm tội
16



Vô ý phạm tội là phạm tội trong những trường hợp sau đây:
1. Người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại
cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ khơng xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa
được;
2. Người phạm tội khơng thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy
hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.
Bình Luận
Vơ ý phạm tội gồm hai loại sau:
Thứ nhất: Vô ý phạm tội do quá tự tin
Biểu hiện: Người phạm tội nhận thức và dự liệu được hậu quả do hành vi của mình
gây ra nhưng xét về mặt ý chí lại cho rằng hậu quả đó sẽ khơng xảy ra hoặc nếu xảy
ra thì có biện pháp ngăn ngừa được. Tuy nhiên cần phân tích rõ mức độ nhận thức
hậu quả của người thực hiện hành vi. Nếu xem xét lại các lỗi về cố ý thì việc nhận
thức và xác định, dự liệu hậu quả là điều tất yếu, hiển nhiên, pháp luật hình sự buộc
người phạm tội phải nhận thức rõ vấn đề này. Hậu quả xảy ra nếu thực hiện hành vi
là một điều chắc chắn, cịn đối với lỗi vơ ý do q tự tin thì hậu quả có thể xảy ra
hoặc khơng xảy ra trên thực tế. Người phạm tội nhận thức được hành vi mà mình
đang hoặc sắp thực hiện có thể dẫn đến một hậu quả nào đó nhưng lại cho rằng hậu
quả đó khơng có cơ sở để xảy ra hoặc nếu xảy ra sẽ được ngăn chặn một cách ngay
lập tức. Trong ý chí khi thực hiện hành vi, người phạm tội hồn tồn khơng mong
muốn hậu quả xảy ra hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra như biểu hiện của
trường hợp phạm tội cố ý gián tiếp nhưng trong nhận thức, người phạm tội tự tin
ngăn chặn được hậu quả, tuy nhiên sự tự tin không tương đồng với thực tế, không
giải quyết được vấn đề.
Thứ hai: Vô ý phạm tội do cẩu thả
Biểu hiện: Xét về mặt nhận thức thì người phạm tội hồn tồn khơng thấy được hậu
quả do hành vi của mình mang lại mặc dù pháp luật buộc người phạm tội phải thấy
trước được điều đó. Việc đánh giá khả năng thấy trước hậu quả cũng cần phải xem

xét trên nhiều khía cạnh và yếu tố khác nhau, cụ thể dựa vào chính khả năng của
người phạm tội như trình độ, lứa tuổi, kinh nghiệm sống...; dựa vào hoàn cảnh khách
quan về khơng gian, thời gian, vị trí địa lý...Việc buộc chủ thể thực hiện hành vi
phạm tội phải thấy trước được hậu quả chỉ có thể áp dụng đối với những mối quan
hệ chung, phổ biến mà ở đó đã hình thành một quy tắc xử sự, ai cũng phải tuân theo.
17


Ví dụ: Bác sĩ tiêm nhầm thuốc cho bệnh nhân và hậu quả là bệnh nhân chết. Trong
trường hợp này chính sự cẩu thả của bác sĩ đã dẫn đến hậu quả là cái chết của bệnh
nhân, trong quy tắc xử sự hành nghề y buộc bác sĩ phải là một người cẩn trọng trong
việc sử dụng các loại thuốc và đồng thời họ cũng phải nhận thức được hậu quả sẽ
như thế nào nếu có sự nhầm lẫn, sử dụng khơng chính xác.
Điều 12. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự
1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ
những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
2.Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm
rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều
123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250,
251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.
Bình Luận
Xuất phát từ thực tiễn xét xử và q trình trẻ hóa tội phạm ngày càng nhiều trong
suốt thời gian qua mà quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự hiện nay có thay đổi
rõ nét so với qui định trong Bộ luật hình sự 1999. Nếu trước đây người phạm tội khi
thực hiện hành vi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ chịu trách nhiệm hình sự đối với
loại tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng, thì hiện nay
phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của nhóm đối tượng này đã được mở rộng, theo
đó:
- Khi thực hiện hành vi phạm tội thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt
nghiêm trọng cho dù với lỗi cố ý hay vơ ý thì người phạm tội đều phải chịu trách

nhiệm hình sự. Tuy nhiên trách nhiệm này được giới hạn trong những tội phạm nhất
định. Cụ thể Điều 123 (Tội giết người), Điều 134 (Tội có ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác), Điều 141 (Tội hiếp dâm), Điều 142 (Tội hiếp
dâm người dưới 16 tuổi), Điều 143 (Tội cưỡng dâm), Điều 144 (Tội cưỡng dâm
người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi), Điều 150 (Tội mua bán người), Điều 151 (Tội
mua bán người dưới 16 tuổi), Điều 168 (Tội cướp tài sản), Điều 169 (Tội bắt cóc
nhằm chiếm đoạt tài sản), Điều 170 (Tội cưỡng đoạt tài sản), Điều 171 (Tội cướp
giật tài sản), Điều 173 (Tội trộm cắp tài sản), Điều 178 (Tội hủy hoại hoặc cố ý làm
hư hỏng tài sản), Điều 248 (Tội sản xuất trái phép chất ma túy), Điều 249 (Tội tàng
trữ trái phép chất ma túy), Điều 250 (Tội vận chuyển trái phép chất ma túy), Điều
251 (Tội mua bán trái phép chất ma túy), Điều 252 (Tội chiếm đoạt chất ma túy),
Điều 265 (Tội tổ chức đua xe trái phép), Điều 266 (Tội đua xe trái phép), Điều 286
18


(Tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng
viễn thơng, phương tiện điện tử), Điều 287 (Tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động
của mạng máy tính, mạng viễn thơng, phương tiện điện tử), Điều 289 (Tội xâm nhập
trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thơng hoặc phương tiện điện tử của người
khác), Điều 290 (Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thơng, phương tiện điện tử
thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản), Điều 299 (Tội khủng bố), Điều 303 (Tội phá
hủy cơng trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia), Điều 304 (Tội
chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí
quân dụng, phương tiện kỹ thuật quận sự).
Ngoài các tội phạm được liệt kê nêu trên thì nhóm đối tượng này khi thực hiện hành
vi phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng đối với các loại tội phạm khác
thì khơng phải chịu trách nhiệm hình sự.
Như vậy, tuổi chịu trách nhiệm hình sự được khái quát như sau:
- Từ đủ 16 tuổi trở lên: chịu trách nhiệm hình sự mọi loại tội phạm.
- Từ đủ 14 tuổi đến dưới16 tuổi:

+ Tội ít nghiêm trọng: Khơng chịu trách nhiệm hình sự.
+ Tội nghiêm trọng: Khơng chịu trách nhiệm hình sự.
+ Tội rất nghiêm trọng: Trong phạm vi các tội phạm được qui định.
+ Tội đặc biệt nghiêm trọng: Trong phạm vi các tội phạm được qui định.
Việc phân loại và giới hạn tuổi chịu trách nhiệm hình sự nêu trên phần nào đã đáp
ứng được nhu cầu thực tiễn, góp phần ngăn chặn, răn đe tội phạm vị thành niên.
Nhìn lại khoảng thời gian gần đây, chúng ta khơng khỏi rùng mình trước các vụ án
đặc biệt nghiêm trọng, gây xôn xao dư luận, người phạm tội còn tuổi đời rất trẻ
nhưng lại thực hiện hành vi với tính chất cơn đồ, tàn bạo thể hiện sự xem thường
pháp luật, bất chấp mọi khuôn khổ, chuẩn mực để xâm phạm các mối quan hệ xã
hội. Trong một môi trường với sự phát triển nhanh chóng của khoa học cơng nghệ,
du nhập văn hóa, đề cao lối sống hưởng thụ, thích thể hiện… đã dẫn đến việc xuống
cấp đạo đức nghiêm trọng trong bộ phận giới trẻ và từ đó dẫn đến hành vi phạm tội
là điều tất yếu.
Điều 13. Phạm tội do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác

19


Người phạm tội trong tình trạng mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển
hành vi của mình do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác, thì vẫn phải
chịu trách nhiệm hình sự.
Bình Luận
Nếu trước đây Điều 14 Bộ luật hình sự 1999 chỉ thể hiện: “Người phạm tội trong
tình trạng say do dùng rượu hoặc chất kích thích mạnh khác, thì vẫn phải chịu trách
nhiệm hình sự”, thì đến nay, qui định này đã được điều chỉnh. Cụ thể: Phù hợp về
cách gọi tên, loại khái niệm về tình trạng say khi sử dụng rượu vì khi qui định như
vậy, chúng ta cần phải làm rõ khái niệm say và khi nào người sử dụng rượu rơi vào
tình trạng say hay ngồi rượu thì các loại nước uống nào có thể gây ra tình trạng
tương tự. Rõ ràng qui định như vậy hồn tồn khơng phù hợp về khái niệm khoa học

cũng như chưa tương thích với các thuật ngữ, ý nghĩa trong các thành tố cấu thành
tội phạm được qui định tại khái niệm tội phạm. Bởi lẽ khi nói đến tội phạm, chúng ta
đề cập ngay đến năng lực trách nhiệm hình sự, trong khi đó năng lực trách nhiệm
hình sự được xem xét trên ba yếu tố:
- Khả năng nhận thức.
- Khả năng điều khiển hành vi.
- Tuổi chịu trách nhiệm hình sự.
Việc sử dụng rượu, bia hoặc các chất kích thích mạnh khác chỉ tác động đến khả
năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi, chính vì vậy vấn đề về tuổi chịu
trách nhiệm hình sự sẽ khơng được đề cập ở đây. Do vậy chúng ta không cần quan
tâm đến tình trạng say hay khơng say của người sử dụng mà chỉ xem xét, đánh giá
khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi là chuẩn mực nhất, phù hợp với nội hàm
của khái niệm tội phạm.
Việc sử dụng rượu, bia hoặc các chất kích thích mạnh khác có thể làm người sử dụng
rơi vào trạng thái hạn chế hoặc mất hoàn toàn khả năng nhận thức hoặc khả năng
điều khiển hành vi của mình. Trong trường hợp này, pháp luật qui định rất rõ người
thực hiện hành vi vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự đến cùng nếu có hành vi phạm
tội. Tuy nhiên tại Điều 8 về khái niệm tội phạm thì hành vi phạm tội phải được thực
hiện bởi người có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi nhưng xét về bản chất
thì trước khi sử dụng rượu, bia hoặc các chất kich thích mạnh khác, người phạm tội
hồn tồn có đủ khả năng nhận thức của mình, việc làm mất hoặc hạn chế là do lỗi
của người sử dụng hay nói cách khác là họ tự mình tước đoạt đi khả năng đó và vì có
20


lỗi nên họ buộc phải chịu trách nhiệm hình sự. Vậy đây có được xem là tình tiết
giảm nhẹ khi áp dụng hình phạt hay khơng? Tất nhiên việc tự mình tước đoạt đi
quyền của mình và xâm hại đến các quan hệ được pháp luật hình sự bảo vệ thì hồn
tồn khơng có cơ sở để xem xét giảm trách nhiệm. Thậm chí trong nhiều trường hợp,
việc phạm tội do sử dụng rượu, bia hoặc các chất kích thích mạnh khác được xem

xét là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Cụ thể:
- Điều 260: Tội vi phạm qui định về tham gia giao thông đường bộ
….….
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10
năm:
……

a.
b.

Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hợi thở có nồng độ
cồn vượt quá mức qui định, có sử dụng chất ma túy hoặc chất kich thích mạnh
khác.

- Điều 267: Tội vi phạm qui định về điều khiển phương tiện giao thông đường sắt
….…
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10
năm:
……

a.
b.

Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hợi thở có nồng độ
cồn vượt quá mức qui định, có sử dụng chất ma túy hoặc chất kich thích mạnh
khác.

…...
Tuy nhiên cũng cần phải làm rõ nguyên nhân dẫn đến tình trạng mất khả năng nhận
thức hoặc điều khiển hành vi của người phạm tội do sử dụng rượu, bia hoặc các chất

kích thích mạnh khác. Sở dĩ, hành vi này có thể do người phạm tội tự thực hiện hoặc
bị buộc phải sử dụng các chất kích thích để rơi vào trạng thái như vậy. Trong trường
hợp bị ép buộc mà không còn cách nào khác hoặc bị lừa dối, đe dọa thì trách nhiệm
hình sự sẽ khơng được đặt ra.

21


Qui định này mang tính giáo dục cao cũng như nhằm ngăn chặn, răn đe các đối
tượng lợi dụng việc sử dụng rượu, bia hoặc các chất kích thích mạnh khác để thực
hiện hành vi phạm tội.
Điều 14. Chuẩn bị phạm tội
1. Chuẩn bị phạm tội là tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những
điều kiện khác để thực hiện tội phạm hoặc thành lập, tham gia nhóm tội phạm, trừ
trường hợp thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm quy định tại Điều 109, điểm a
khoản 2 Điều 113 hoặc điểm a khoản 2 Điều 299 của Bộ luật này.
2. Người chuẩn bị phạm tội quy định tại một trong các điều 108, 109, 110, 111, 112,
113, 114, 115, 116, 117, 118, 119, 120, 121, 123, 134, 168, 169, 207, 299, 300, 301,
302, 303 và 324 của Bộ luật này thì phải chịu trách nhiệm hình sự.
3. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chuẩn bị phạm tội quy định tại Điều 123,
Điều 168 của Bộ luật này thì phải chịu trách nhiệm hình sự.
Bình Luận
Một tội phạm thực hiện được chia làm ba giai đoạn:
- Chuẩn bị phạm tội.
- Phạm tội chưa đạt.
- Tội phạm hoàn thành.
Việc xem xét, đánh giá giai đoạn đầu tiên của một hành vi phạm tội nhất định sẽ
được bình luận tại Điều này. Giai đoạn phạm tội chưa đạt được qui định tại Điều 15,
tội phạm hoàn thành được xử lý theo từng tội danh cụ thể. Để có thể xem xét trách
nhiệm hình sự của một đối tượng tại giai đoạn chuẩn bị phạm tội thì hành vi đó phải

được biểu hiện ra hình thái bên ngồi dưới dạng các hoạt động cụ thể. Chính vì vậy
mà khi tội phạm chỉ mới dừng ở suy nghĩ, chưa bộc lộ bằng hành vi, động thái thì
hồn tồn khơng có căn cứ xác định trách nhiệm hình sự. Việc biểu hiện từ suy nghĩ
đến hành động được thể hiện dưới các dấu hiệu như:
- Tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội.
- Thành lập băng nhóm, tổ chức tội phạm.
- Tham gia vào các băng, nhóm tội phạm sẵn có.
Đây chính từ sự chuyển tiếp từ suy nghĩ đến hành động của người phạm tội, biểu
hiện dưới các dạng vật chất, hành động nhất định mà thông qua việc xem xét, chúng
22


ta có căn cứ xác đáng để cho rằng có hành vi phạm tội chuẩn bị xảy ra trên thực tế
và từ đó có các biện pháp ngăn chặn, xử lý tội phạm hiệu quả. Mặc dù tại giai đoạn
này, hành vi phạm tội chưa thật sự diễn ra, chưa tác động, chưa làm biến đổi bất kỳ
một mối quan hệ nào dù được luật hình sự bảo vệ hay các qui phạm pháp luật khác.
Tuy nhiên nó đang đe dọa gây ra các thiệt hạị và việc xâm hại trực tiếp đến các chủ
thể mà tội phạm hướng đến chắc chắn sẽ diễn ra trong khoảng thời gian sắp tới.
Các biểu hiện của một tội phạm cụ thể tại giai đoạn chuẩn bị phạm tơi, ví dụ Tội giết
người qui định tại Điều 123: Sau khi có suy nghĩ giết Ơng A để trả thù vì tranh chấp
đất đai với mình, Ơng B bắt đầu tìm hiểu thơng tin về gia đình nạn nhân (có bao
nhiêu người, lịch trình làm việc của từng người….), mua dao, chuẩn bị vật dụng
cứng khác để đoạt mạng nạn nhân, chuẩn bị bao tải, cuốc nhằm phi tang xác, vì biết
nạn nhân hay lên làm rẫy một mình nên Ơng B đã chuẩn bị nơi phục kích…..tất cả
các thơng tin tìm hiểu hay cơng cụ, phương tiên nêu trên mà Ơng B thực hiện là
nhằm tiến tới thực hiện hành vi giết Ông A. Và xem xét trong tổng thể các giai đoạn
của tội phạm thì việc làm của Ơng B là đang trong giai đoạn chuẩn bị phạm tội.
Chuẩn bị phạm tội chỉ xảy ra đối với các loại tội phạm thực hiện với lỗi cố ý vì vậy
dù chưa diễn ra nhưng đây là hành vi nguy hiểm cho xã hội và phải chịu trách nhiệm
hình sự. Tuy nhiên, khi xem xét chi tiết vào từng loại tội danh được nêu tại Bộ luật

hình sự cũng như căn cứ vào điều kiện hồn cảnh, độ tuổi của người thực hiện mà
khơng phải giai đoạn chuẩn bị phạm tội của bất kỳ tội danh nào cũng được đưa ra để
xem xét trách nhiệm hình sự. Khoản 2 Điều 14 đã chỉ đích danh các trường hợp cụ
thể phải chịu trách nhiệm hình sự ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội như Điều 108 (Tội
phản bộ tổ quốc), Điều 109 (Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân), Điều
110 (Tội gián điệp), Điều 111 (Tội xâm phạm an ninh lãnh thổ), Điều 112 (Tội bạo
loạn), Điều 113 (Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân), Điều 114 (Tội
phá hoại cơ sở vật chất - kỹ thuật của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam),
Điều 115 (Tội phá hoại việc thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội), Điều 116 (Tội
phá hoại chính sách đồn kết), Điều 117 (Tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên
truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam), Điều 118 (Tội phá rối an ninh), Điều 119 (Tội chống phá nơi giam
giữ), Điều 120 (Tội tổ chức, cưỡng ép, xúi giục người khác trốn đi nước ngoài hoặc
trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân), Điều 121 (Tội trốn đi
ngước ngoài hoặc trốn ở lại nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân), Điều
123 (Tội giết người), Điều 134 (Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe củ người khác), Điều 168 (Tội cướp tài sản), Điều 169 (Tội bắt cóc nhằm
23


chiếm đoạt tài sản), Điều 207 (Tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả),
Điều 299 (Tội khủng bố), Điều 300 (Tội tài trợ khủng bố), Điều 301 (Tội bắt cóc
con tin), Điều 302 (Tội cướp biển), Điều 303 (Tội phá hủy cơng trình, cơ sở, phương
tiện quan trọng về an ninh quốc giá), Điều 324 (Tội rửa tiền).
Đối với giai đoạn chuẩn bị phạm tội thì người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách
nhiệm hình sự cho một trong các tội danh đã liệt kê bên trên, trường hợp chuẩn bị
phạm tội cho các tội danh khác thì trách nhiệm hình sự khơng được đặt ra. Riêng đối
tượng từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ chịu trách nhiệm hình sự cho hai tội danh
duy nhất là tội giết người qui định tại Điều 123 và tội cướp tài sản qui định tại Điều
168.

Điều 15. Phạm tội chưa đạt
Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng
vì những ngun nhân ngồi ý muốn của người phạm tội.
Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt.
Bình Luận
Tội phạm sau khi hoàn tất các hoạt động cần thiết tại giai đoạn chuẩn bị thì sẽ
chuyển tiếp đến việc thực hiện hành vi trên thực tế. Tuy nhiên không phải mọi
trường hợp tội phạm đều được thực hiện hoàn thành mà trong giai đoạn này tội
phạm đã hoặc đang thực hiện nhưng vì một lý do nào đó mà khơng đạt được mục
đích hay nói cách khác hậu quả xảy ra ngồi mong muốn của người phạm tội. Tại
Điều này, chúng ta sẽ xem xét các dấu hiệu cấu thành hành vi phạm tội chưa đạt.
Thứ nhất: Hành vi đã hoặc đang thực hiện
Đây chính là giai đoạn chuyển tiếp, nếu việc chuẩn bị công cụ, phương tiện, thu thập
thông tin…tại giai đoạn chuẩn bị phạm tội là sự cụ thể hóa, hiện thực hóa cho các
suy nghĩ, ý định phạm tội thì đến giai đoạn này lại là biểu hiện cho quyết tâm đến
cùng của tội phạm. Ví dụ: Tội phạm giết người tại Điều 123 Bộ luật hình sự, người
phạm tội đã dùng dao đâm nạn nhân hoặc dùng vật cứng đánh mạnh vào đầu nạn
nhân….tất các các hành động này thể hiện tội phạm đang diễn ra, người phạm tội
đang tác động, xâm phạm đến quyền con người được pháp luật hình sự bảo vệ. Tội
cướp tài sản tại Điều 168, người phạm tội đã dùng dao khống chế hoặc dùng dây trói
nạn nhân hoặc các hành vi khác bằng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực làm nạn nhân
khơng thể chống cự. Tất cả các hành động nói trên của người phạm tội nhằm đạt
được mục đích cuối cùng của mình (ở tội giết người, người phạm tội đã dùng dao
24


đâm hoặc dùng vật cứng đánh mạnh vào đầu nhằm gây cái chết cho nạn nhân; ở tội
cướp tài sản, người phạm tội dùng dao khống chế, đe dạo nạn nhân…nhằm mục đích
chiếm đoạt tài sản của nạn nhân).
Thứ hai: Mục đích người phạm tội chưa đạt được

Sở dĩ ở đây chúng ta không sử dụng cụm từ hậu quả để nói lên rằng tội phạm chưa
đạt do hậu quả chưa xảy ra là hồn tồn khơng chính xác. Có nhiều trường hợp hậu
quả chính là mục đích, là cái mong muốn đạt được của người phạm tội khi thực hiện
hành vi và ngược lại có khi hậu quả khơng phải là đích cuối cùng mà người phạm tội
hướng đến. Trong bất kỳ trường hợp nào, một hành vi phạm tội dù chưa đạt hoặc
hoàn thành đều để lại những hậu quả nhất định, tội giết người nêu trên hậu quả có
thể là nạn nhân chết (phù hợp với mong muốn của người phạm tội) hoặc hậu quả là
gây thương tích, ảnh hưởng đến đời sống bình thường sau này của nạn nhân như gây
ra cảm giác sợ hãi, lo lắng…Do vậy ở mọi khía cạnh, góc độ dù hành vi phạm tội
hoàn thành hay chưa đạt đều gây ra hậu quả cho nạn nhân, gia đình và xã hội.
Dấu hiệu của tội phạm chưa đạt thể hiện rõ nét ở mục đích phạm tội. Và rõ ràng một
khi chưa đạt được mục đích thì tội phạm đó đã cấu thành dấu hiệu tội phạm chưa
đạt. Các trường hợp chưa đạt bao gồm:
- Hậu quả trên thực tế không đồng thời là hậu quả mong muốn của người phạm tội
(đã thực hiện tất các hành vi).
- Hành vi khách quan đang diễn ra nhưng chưa dẫn đến hậu quả.
Thứ ba: Tội phạm chưa đạt là ngoài ý muốn
Xét về ý chí thì hành vi của người phạm tội phải được diễn ra theo đúng những gì họ
mong muốn. Tức là hậu quả xảy ra trên thực tế phải khớp với hậu quả mong muốn
của họ.Tuy nhiên trong quá trình thực hiện vì một lý do nào đó (có thể là nạn nhân
chống cự, phát hiện và hỗ trợ của mọi người xung quanh, sự cố của công cụ, phương
tiện…..) mà mục đích của người phạm tội vẫn chưa đạt được. Để phân biệt với hành
vi tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội qui định tại Điều 16 thì chúng ta phải xác
định và làm rõ rằng tội phạm chưa đạt là ngồi mong muốn, cịn biểu hiện về ý chí,
quyết tâm thì người phạm tội vẫn mong muốn thực hiện tội phạm đến cùng.
Tại giai đoạn này, chúng ta cũng cần phải làm rõ thêm các hành vi trên thực tế của
người phạm tội, biểu hiện ở việc thực hiện các hành vi khách quan. Xem xét người
phạm tội đã thực hiện hết các hành vi được cho là cần thiết để tội phạm hoàn thành
hay chưa. Để có đánh giá chính xác thì phải nhìn nhận vào từng tội danh cho từng
25



×