Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Bài thu hoạch tư tưởng hồ chí minh . Chủ đề Quan điểm Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước nhất. Sự vận dụng tư tưởng của Người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84 KB, 11 trang )

Phần: Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh
----Chủ đề : Quan điểm Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp,
trước nhất. Sự vận dụng tư tưởng của Người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ
quốc hiện nay.
Bài làm
1. Mở đầu
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận động và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, thừa kế và
phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hố
nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng
con người, về độc lập dân tộc gắp liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh của
dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết
dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà Nước thực sự của dân, do
dân, vì dân; về quốc phịng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về
phát triển kinh tế văn hố, khơng ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần kiệm, liêm chính, chí cơng vô tư; về
chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng đời sau; về xây dựng Đảng chế độ trong sạch,
vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của
nhân dân…
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành
thắng lợi, là tài sản tinh tần to lớn của Đảng và của dân tộc ta.”
Cả cuộc đời của Hồ Chí Minh đã dành trọn cho nhân dân, cho đất nước, cho
sự nghiệp đấu tranh giải phóng con người, giải phóng nhân loại cần lao, thốt khỏi
mọi áp bức, bất công, vươn tới cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc.
Và trong diễn văn tại lễ kỉ niệm 105 năm ngày sinh chủ tịnh Hồ Chí Minh có
viết:” Người là hiện thân sáng chói của tinh thần độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, là mẫu mực của tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, đổi mới
và sáng tạo”.
Theo tư tưởng của Hồ Chí Minh, hồn thành sự nghiệp cách mạng dân tộc
dân chủ là giải phóng nhân dân ta ra khỏi ách nô lệ thực dân, đưa nhân dân lên địa


vị người làm chủ, nhưng khơng dừng lại ở đó, Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, nước độc
lập rồi, nhân dân cịn phải được giải phóng triệt để khỏi bất cơng, bất bình đẳng về
xã hội, giai cấp và khỏi đối nghèo, ngu dốt. Theo Người, sự nghiệp cách mạng giải
1


phóng xã hội, giải phóng con người là sự nghiệp của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được thực hiện đầy đủ là con đường
cách mạng triệt để nhất, chẳng những giải phóng dân tộc, thực hiện độc lập tự do
và dân chủ, mà cịn giải phóng triệt để xã hội, giai cấp và con người.
Từ đó, độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết, là tiền đề tiến liên chủ
nghĩa xã hội.
1. Mở đầu
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm tồn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận động và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, thừa kế và
phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hố
nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng
con người, về độc lập dân tộc gắp liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh của
dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết
dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà Nước thực sự của dân, do
dân, vì dân; về quốc phịng tồn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về
phát triển kinh tế văn hố, khơng ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần kiệm, liêm chính, chí cơng vơ tư; về
chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng đời sau; về xây dựng Đảng chế độ trong sạch,
vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của
nhân dân…
Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành
thắng lợi, là tài sản tinh tần to lớn của Đảng và của dân tộc ta.”
Cả cuộc đời của Hồ Chí Minh đã dành trọn cho nhân dân, cho đất nước, cho

sự nghiệp đấu tranh giải phóng con người, giải phóng nhân loại cần lao, thốt khỏi
mọi áp bức, bất công, vươn tới cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc.
Và trong diễn văn tại lễ kỉ niệm 105 năm ngày sinh chủ tịnh Hồ Chí Minh có
viết:” Người là hiện thân sáng chói của tinh thần độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, là mẫu mực của tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, đổi mới
và sáng tạo”.
Theo tư tưởng của Hồ Chí Minh, hồn thành sự nghiệp cách mạng dân tộc
dân chủ là giải phóng nhân dân ta ra khỏi ách nô lệ thực dân, đưa nhân dân lên địa
vị người làm chủ, nhưng khơng dừng lại ở đó, Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, nước độc
lập rồi, nhân dân còn phải được giải phóng triệt để khỏi bất cơng, bất bình đẳng về
xã hội, giai cấp và khỏi đối nghèo, ngu dốt. Theo Người, sự nghiệp cách mạng giải
phóng xã hội, giải phóng con người là sự nghiệp của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được thực hiện đầy đủ là con đường
2


cách mạng triệt để nhất, chẳng những giải phóng dân tộc, thực hiện độc lập tự do
và dân chủ, mà cịn giải phóng triệt để xã hội, giai cấp và con người.
Từ đó, độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết, là tiền đề tiến liên chủ
nghĩa xã hội.
2. Nội dung
2.1 Quan điểm Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp,
trước nhất
Với Hồ Chí Minh, Độc lập dân tộc bao hàm trong đó cả nội dung dân tộc và
dân chủ. Đó là nền độc lập thật sự, độc lập hoàn toàn, chứ không phải là thứ độc
lập giả hiệu, độc lập nửa vời, độc lập hình thức. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh độc
lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất
nước; độc lập dân tộc bao giờ cũng gắn liền với tự do, dân chủ, ấm no hạnh phúc
của nhân dân lao động. Hồ Chí Minh khơng bao giờ coi đó là mục tiêu cuối cùng
của cách mạng Việt Nam.Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giành độc lập để đi tới xã

hội Cộng sản; độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc
là mục tiêu cốt yếu, trực tiếp của cách mạng dân tộc dân chủ, là mục tiêu trước hết
của quá trình cách mạng Việt nam do Đảng Cộng sản lãnh đạo; đồng thời là điều
kiện hàng đầu, quyết định để cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chuyển sang
giai đoạn kế tiếp - cách mạng XHCN. Do vậy cách mạng dân tộc dân chủ càng triệt
để thì những điều kiện tiến lên CNXH càng được tạo ra đầy đủ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, cách mạng Việt Nam phải trải qua hai
giai đoạn: Cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Cách mạng dân tộc, dân chủ phải được thực hiện trước, nhằm giải quyết hai mâu
thuẫn cơ bản, thực hiện hai mục tiêu chiến lược: dân tộc và dân chủ. Theo Người,
trong giai đoạn cách mạng này là tập trung chủ yếu giải quyết hai mâu thuẫn cơ
bản là mâu thuẫn giữa toàn thể quốc dân Việt Nam với thực dân Pháp và chính
quyền phong kiến tay sai; mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với giai cấp địa chủ.
Để giải quyết mâu thuẫn cơ bản nói trên, Hồ Chí Minh chủ trương đoàn kết dân tộc
nhằm: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến”; “Làm cho nước
Nam được hoàn toàn độc lập”. Như vậy, ngay trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng
(2-1930), Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, độc lập dân tộc là mục tiêu trực tiếp, trước hết.
Vấn đề dân tộc và dân chủ trong cách mạng Việt Nam có liên quan chặt chẽ với
nhau, cần phải giải quyết triệt để. Bởi thực tiễn cho thấy, ở Việt Nam chính quyền
thực dân và phong kiến cấu kết với nhau để thống trị và bóc lột nhân dân, đặc biệt
là nông dân. Nếu vấn đề dân tộc chưa giải quyết được (chưa giành được độc lập
dân tộc), thì vấn đề dân chủ, (đánh đổ giai cấp địa chủ, phong kiến, đem ruộng đất
về tay dân cày), cũng không thể thực hiện được. Đánh đổ đế quốc và phong kiến
tay sai làm cho dân tộc hoàn toàn độc lập, cũng là từng bước tạo ra tiền đề giải
3


quyết vấn đề về dân chủ. Như vậy, thực hiện mục tiêu nhiệm vụ độc lập dân tộc là
đã bao hàm cả nội dung dân tộc và dân chủ.
Độc lập dân tộc là mục tiêu trước mắt, là tiền đề để tiến lên thực hiện mục

tiêu xã hội chủ nghĩa. Độc lập dân tộc là mục tiêu cao cả, là giá trị tinh thần quý
nhất của người Việt Nam, là sự thể hiện tập trung của chủ nghĩa yêu nước và ý chí
tự lực, tự cường Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh là tiêu biểu cho ý chí đó, Người
viết: “Trên đời ngàn vạn điều cay đắng, cay đắng chi bằng mất tự do”. Trong bản
“Tuyên ngôn độc lập 1945” Người đã trịnh trọng tuyên bố “Nước Việt Nam có
quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã trở thành một nước tự do và độc lập,
toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem hết tinh thần và lực lượng, tính mạng và của
cải để giữ vừng quyền độc lập tự do ấy”. Hay, khi giặc Pháp trở lại xâm lược Việt
Nam, Người đã khẳng khái kêu gọi “Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ nhất định
không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”; Đến khi giặc Mỹ mở rộng
chiến tranh ra miền Bắc, hòng kéo nước ta trở về thời kỳ đồ đá, Người tun bố
“Khơng có gì q hơn độc lập tự do”. Đó là sự khẳng định ý chí đấu tranh cho độc
lập, tự do của nhân dân. Độc lập dân tộc và dân chủ hai nội dung này có mối quan
hệ chặt chẻ và thúc đẩy lẫn nhau. Song, trong hoàn cảnh Việt Nam là thuộc địa của
thực dân Pháp, Hồ Chí Minh đã xác định mâu thuẫn cơ bản lúc này là mâu thuẫn
giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc thực dân, do đó phải tập trung vào độc
lập dân tộc. Vì nó giải quyết mâu thuẫn chủ yếu giữa toàn thể dân tộc ta với đế
quốc xâm lược. Giải quyết được mâu thuẫn này cũng là thực hiện được hai mâu
thuẫn của xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Ở đây Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề dân
tộc nổi trội hơn vấn đề giai cấp, Vì: nhiệm vụ của cách mạng giải phóng dân tộc ở
các nước thuộc địa và nửa thuộc địa trong đó có Việt Nam là chống chủ nghĩa đế
quốc xâm lược. Cho nên con đường cách mạng vô sản ở Việt Nam lúc này không
giống với các nước ở Châu Âu mà thực hiện theo lộ trình: giải phóng dân tộc – giải
phóng giai cấp – giải phóng lồi người. Như thế, rõ ràng tư tưởng Hồ Chí Minh về
con đường cách mạng Việt Nam là con đường cách mạng không ngừng, là sự thống
nhất giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Để huy động sức mạnh tồn dân tộc
chống đế quốc Hồ Chí Minh đã tập hợp rộng rãi mọi giai cấp, tầng lớp, cá nhân
yêu nước tán thành độc lập dân tộc đi đôi với cách mạng. Trong tác phẩm “Đường
kách mệnh” (1927), Người nhấn mạnh: dân tộc cách mệnh thì chưa phân giai cấp,
nghĩa là sĩ, cơng, nơng, thương đều nhất trí chống cường quyền. Hồ Chí Minh coi

“cơng nơng là gốc cách mệnh”, đồng thời xem học trị, nhà bn, điền chủ như là
bầu bạn cách mệnh của công nông. Độc lập dân tộc là nguồn sức mạnh vô tận của
cách mạng Việt Nam: Độc lập dân tộc là yêu cầu nóng bỏng của mọi người dân
mất nước. Sự nô dịch của chủ nghĩa đế quốc làm quần chúng nhân dân căm phẫn
đến tột độ. Nhân dân ta nhất quyết không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ.
Tinh thần ấy kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn nhấn chìm lũ bán
4


nước và cướp nước, thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám, cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ là minh chứng cho sự khát khao của sức mạnh
độc lập. Sức mạnh của yếu tố dân tộc, theo Hồ Chí Minh, khơng chỉ là sức mạnh tự
có mà còn phụ thuộc một cách quyết định vào việc kết hợp với chủ nghĩa xã hội:
Hồ Chí Minh ln xác định mục tiêu của cách mạng, giai cấp lãnh đạo cách mạng,
kẻ thù cụ thể...đều xuất phát từ mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội. Trong thực tiễn chỉ đạo cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Đảng ta một mặt thực hiện chính sách mở rộng Mặt trận dân tộc thống
nhất, mặt khác đấu tranh chống tư tưởng đòi giành hoặc chia quyền lãnh đạo của
giai cấp tư sản; Bởi vì: nếu quyền lãnh đạo rơi vào tay giai cấp tư sản thì chẳng
những cuộc cách mạng dân tộc dân chủ không thể tiến hành đến cùng mà khơng
thể tiến lên chủ nghĩa xã hội khi có đủ điều kiện. Khi miền Bắc nước ta bước vào
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong khi nhân dân miền Nam đang sống trong
kìm kẹp của Mỹ - Ngụy, thì những thành tựu của chủ nghĩa hội ở miền Bắc, của
chế độ mới là nguồn sức mạnh cổ vũ to lớn đối với nhân dân ta đang chiến đấu ở
miền Nam. Nhờ tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời chiến cho nên đã
làm tròn nhiệm vụ hậu phương đối với tiền tuyến, kết quả là thống nhất nước nhà,
mở đường cho cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thư
IV (1976) đã đánh giá: “khơng thể có thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống
Mỹ cứu nước, nếu khơng có miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Độc lập dân tộc là điều
kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội, không giành được độc lập dân tộc thì

khơng có điều kiện để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc địi hỏi xóa bỏ
áp bức, nô dịch của dân tộc này đối với dân tộc khác; gắn liền độc lập với tự do,
bình đẳng, hạnh phúc của nhân dân”.
2.2 Sự vận dụng tư tưởng của Người trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ tổ quốc hiện nay.
Cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn liền với sự nghiệp
cách mạng Việt Nam. Trong hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc của tư tưởng
Hồ Chí Minh, tư tưởng về nền quốc phịng tồn dân, chiến tranh nhân dân là một
trong những nội dung quan trọng, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
Tư tưởng về nền quốc phịng tồn dân của Hồ Chí Minh là sự kết hợp và cấu
thành của quan điểm “dân là gốc”, “dân vi bản” với quan điểm về “nền quốc
phòng”-nền quốc phòng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, đặt dưới sự lãnh đạo của
một Đảng Mác - Lê-nin; nó khác với nền quốc phòng của một Nhà nước phi xã hội
chủ nghĩa cả về bản chất, mục tiêu, tính chất, nội dung, cách thức xây dựng. Tư
tưởng “dân là gốc” của Hồ Chí Minh được bắt nguồn và thấm nhuần tư tưởng “đẩy
thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân” của Nguyễn Trãi, của cha ông ta và nguyên
lý Chủ nghĩa Mác - Lê-nin: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”. Người ln
đánh giá cao vai trị của quần chúng nhân dân, quần chúng là người làm nên lịch
5


sử. Đặc biệt, trong bối cảnh “nước mất, nhà tan”, đất nước chìm trong “đêm dài nơ
lệ”, dưới ách thống trị của thực dân, phong kiến, thì vai trị của quần chúng nhân
dân lại càng quan trọng. Theo Người “Dễ mười lần khơng dân cũng chịu/ Khó trăm
lần dân liệu cũng xong”. Nhân dân là lực lượng to lớn, lực lượng vô địch của cách
mạng để đánh bại kẻ thù xâm lược. Để cách mạng thành công phải tập hợp quần
chúng, tổ chức quần chúng và lãnh đạo quần chúng. Tư tưởng về xây dựng nền
quốc phịng tồn dân của Hồ Chí Minh rất rộng, sâu sắc, phong phú. Trước hết, nó
được thể hiện rõ nhất, tập trung nhất ở lĩnh vực quân sự, bởi quân sự là nội dung
cốt lõi của quốc phịng. Hồ Chí Minh khẳng định: “Sự nghiệp kháng chiến, kiến

quốc là công việc của dân… quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Trên cơ sở
nắm vững Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh nhân
dân, quốc phịng tồn dân và căn cứ vào điều kiện cụ thể của nước ta và tình hình
quốc tế, Đảng ta định ra đường lối độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo, phát huy
sức mạnh của cả nước, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nhờ đó đã
tiến hành thắng lợi Cách mạng Tháng Tám vĩ đại, đánh bại thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ xâm lược, hoàn thành vẻ vang sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất
đất nước, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Sau ngày đất nước thống nhất,
bước vào thời kỳ thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, Đảng ta tiếp tục vận dụng
sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh nên đã đạt được những thành tựu quan trọng trong
sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, trong điều kiện đất nước
hịa bình, hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, sự nghiệp tăng cường quốc phòng,
bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta không chỉ nhằm đối phó, ngăn ngừa, đẩy lùi nguy
cơ can thiệp từ bên ngoài và sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược với mọi
quy mơ, mà cịn chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống
phá nước ta bằng chiến lược “diễn biến hịa bình” của các thế lực thù địch, nhằm
đảm bảo cho đất nước luôn “trong ấm ngồi êm”, thì việc qn triệt, vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền quốc phịng toàn dân càng trở nên cấp thiết,
quan trọng.
Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà
nước, sự nỗ lực của các cấp, các ngành, toàn dân và trên cơ sở thấu suốt, vận dụng
sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn, nên sự nghiệp xây dựng nền quốc
phịng tồn dân đã đạt được những kết quả quan trọng, tăng cường đáng kể cả về
tiềm lực, lực lượng và thế trận quốc phịng. Đó là nhân tố cơ bản để bảo vệ vững
chắc Tổ quốc, mà cốt lõi là bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Những
thành tựu quan trọng đó khơng những góp phần thiết thực tăng cường thế và lực
của đất nước, mà còn tạo điều kiện để chúng ta tham gia có trách nhiệm và hiệu
quả đối với cộng đồng quốc tế, qua đó khẳng định vị thế, uy tín của nước ta trong
khu vực và trên thế giới.

6


Trong thời gian tới, trên thế giới, hịa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu
thế lớn, nhưng tình hình tiếp tục diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố gây mất
ổn định bất trắc, khó lường. Chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, tranh chấp tài
nguyên, chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo, xung đột sắc tộc, tôn giáo, hoạt động can
thiệp, lật đổ, ly khai, khủng bố tiếp tục gia tăng. Cục diện thế giới đa cực hình
thành ngày càng rõ hơn. Các nước lớn vừa hợp tác, vừa đấu tranh, cạnh tranh, kiềm
chế lẫn nhau, chi phối các quan hệ quốc tế. Khu vực châu Á-Thái Bình Dương,
trong đó có Đơng Nam Á, là khu vực phát triển năng động nhất thế giới, nơi cạnh
tranh quyết liệt giữa các nước lớn. Tuy ít có khả năng xảy ra chiến tranh, xung đột
lớn, nhưng tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo diễn biến phức tạp khó lường. Đối với
nước ta, các thế lực thù địch tăng cường hoạt động chống phá ta về chính trị, kinh
tế, tư tưởng, văn hóa, về dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tơn giáo; tun truyền, kích
động, thực hiện "diễn biến hồ bình" nhằm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta.
Trong bối cảnh đó, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân
ta rất nặng nề, có cả thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức đan xen. Vì thế,
hơn bao giờ hết, chúng ta phải tiếp tục quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm của
Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó vận dụng thực hiện sáng tạo trong thực tiễn,
nhằm xây dựng nền quốc phịng tồn dân vững mạnh tồn diện, đáp ứng yêu cầu
bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới. Trong đó, cần thực hiện tốt một số
nội dung sau:
*. Tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, đảng
viên và nhân dân đối với sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng tồn dân trong tình
hình mới.
Đây là nội dung quan trọng hàng đầu của sự nghiệp xây dựng nền quốc
phịng tồn dân. Bởi lẽ, có thực hiện tốt cơng tác tun truyền, giáo dục, thì mới
thống nhất được nhận thức về tầm quan trọng, sự cần thiết phải xây dựng nền quốc
phịng tồn dân. Và như vậy mới thống nhất được hành động, phát huy được trách

nhiệm, tính tự giác, tích cực của toàn dân, nhất là đội ngũ cán bộ, đảng viên đối với
sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh toàn diện.
*. Xây dựng nền quốc phịng tồn dân độc lập, tự chủ, vững mạnh tồn diện,
ngày càng hiện đại, đáp ứng yêu cầu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
Đây là mục tiêu, phương hướng xây dựng nền quốc phòng Việt Nam theo
quan điểm nhất quán của Đảng ta và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là nền quốc phịng
độc lập, tự chủ, tự lực tự cường, vững mạnh toàn diện và ngày càng hiện đại. Đó là
nền quốc phịng do toàn dân tiến hành, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự thống nhất
quản lý của Nhà nước. Tiềm lực và sức mạnh của nền quốc phịng được hình thành
bởi các nguồn lực, đó là: Nguồn lực của quốc gia, nguồn của các ngành, địa
7


phương và nguồn lực to lớn từ nhân dân. Như vậy, về mặt nội hàm, nó khác với
nền quốc phịng của nhiều nước là chủ yếu dựa vào nguồn lực của quốc gia, còn
nguồn lực từ trong nhân dân cũng như sự tham gia của nhân dân đối với nền quốc
phịng là rất hạn chế. Tính chất nền quốc phịng Việt Nam là hịa bình, tự vệ, khơng
nhằm xâm lược hoặc đe dọa bất cứ quốc gia nào. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế
sâu rộng hiện nay, chúng ta cần quán triệt đường lối, quan điểm, độc lập, tự chủ, tự
lực, tự cường trong xây dựng nền quốc phòng; phát huy nguồn lực trong nước là
chính, kết hợp với tranh thủ nguồn lực từ bên ngồi, thơng qua hợp tác quốc tế để
tăng cường tối đa sức mạnh quốc phịng. Đồng thời, trong q trình thực hiện, phải
nắm vững phương hướng xây dựng nền quốc phịng vững mạnh tồn diện, ngày
càng hiện đại. Một nền quốc phòng vững mạnh tồn diện, tức là có đủ tiềm lực,
sức mạnh tổng hợp để bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Sự vững mạnh của nền quốc
phòng là vững mạnh trên tất cả các mặt, các lĩnh vực, trên các địa bàn, ở tất cả các
cấp từ Trung ương đến địa phương, cơ sở. Đó cũng là quan điểm, tư tưởng Hồ Chí
Minh. Theo Người: Mỗi vùng, miền trên đất nước có vị trí, vai trị khác nhau,
nhưng về mặt quốc phịng thì không thể coi nhẹ vùng này, coi trọng vùng khác.

*. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, thực sự là nòng cốt
trong sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.
Quán triệt, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn xây dựng nền quốc
phịng toàn dân hiện nay, Đảng ta xác định: “Xây dựng Quân đội nhân dân và
Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”. Đối với
Quân đội nhân dân, phải tập trung xây dựng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng
và tổ chức, làm cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu. Theo
đó, phải thường xuyên giáo dục Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lý
tưởng cách mạng, mục tiêu chiến đấu, để không ngừng tăng cường bản chất cách
mạng, nâng cao bản lĩnh chính trị và định hướng tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ
trong toàn quân. Đồng thời, phải chăm lo xây dựng tổ chức lực lượng quân đội
theo hướng “tinh, gọn, mạnh, linh hoạt”; có cơ cấu thành phần hợp lý, cân đối; bảo
đảm số lượng phù hợp, chất lượng cao, thực sự là lực lượng nòng cốt trong thực
hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và là lực lượng chính trị tuyệt đối trung thành, tin
cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân.
*. Tiếp tục hoàn thiện và vận hành tốt cơ chế xây dựng nền quốc phịng tồn
dân, đáp ứng u cầu bảo vệ Tổ quốc.
Cơ chế là vấn đề cốt yếu, có ý nghĩa quyết định chất lượng, hiệu quả xây
dựng và hoạt động của nền quốc phịng tồn dân. Sự nghiệp xây dựng nền quốc
phịng tồn dân của nhân dân ta hiện nay được thực hiện theo cơ chế: Đảng lãnh
đạo, Nhà nước thống nhất quản lý, các ban, ngành, đoàn thể tham mưu theo chức

8


năng và tổ chức thực hiện; trong đó, quân đội và cơng an giữ vai trị trung tâm phối
hợp, hiệp đồng và là lực lượng nòng cốt trong triển khai thực hiện nhiệm vụ.
Cơ chế xây dựng nền quốc phòng tồn dân thể hiện và phân định rõ vị trí,
vai trị, chức năng (mang tính ngun tắc) của từng tổ chức, lực lượng. Sự nghiệp
xây dựng nền quốc phịng tồn dân đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi

mặt của Đảng; sự chỉ đạo, quản lý thống nhất của Nhà nước; các ban, ngành, đoàn
thể làm tham mưu theo chức năng và phối hợp tổ chức thực hiện. Cơ chế đó được
thực hiện thống nhất từ Trung ương xuống đến địa phương, cơ sở.
Thực tiễn cho thấy, cơ chế xây dựng nền quốc phịng tồn dân là hoàn toàn
phù hợp, ngày càng hoàn thiện, vận hành khá nhịp nhàng, thơng suốt, hiệu quả.
Tuy nhiên, trong q trình vận hành cơ chế còn bộc lộ một số hạn chế, làm ảnh
hưởng trực tiếp đến kết quả xây dựng và hoạt động của nền quốc phịng tồn dân.
Trong thời gian tới, phải nâng cao hiệu lực công tác quản lý nhà nước về quốc
phòng ở tất cả các cấp từ Trung ương đến địa phương, tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa
công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức, trách nhiệm, nhất là đối với cán
bộ chủ chốt các cấp. Cùng với đó, tăng cường cơng tác diễn tập, gồm: Diễn tập khu
vực phòng thủ, diễn tập phòng, chống thiên tai, cứu nạn cứu hộ…, không ngừng
rèn luyện, nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, tham mưu cho đội ngũ cán bộ và
bảo đảm cơ chế xây dựng nền quốc phịng tồn dân được vận hành nhịp nhàng,
hiệu quả ở tất cả các cấp.
Trong tình hình hiện nay, tồn thế giới đang khó khăn khi phải đối đầu với
đại dịch Covid-19. Đảng và nhà nước ta đã tăng cường công tác đối ngoại trong
việc hỗ trợ, mua VacXin tiêm phòng cho người dân để đầy lùi dịch bệnh, ổn định
và phát triển kinh tế.
* Liên hệ thực tiễn với đơn vị đang công tác về vấn đề vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh trong việc xây dựng và bảo vệ tổ quốc:
Chi bộ Ban quản lý rừng phòng hộ Thác Mơ đã tổ chức, quán triệt đến toàn
thể cán bộ, đảng viên về nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh qua các cuộc họp giao
ban tuần, tháng của đơn vị. Tham gia học tập Nghị quyết cho Đảng viên, viên chức
và người lao động do cấp trên tổ chức, Tham gia các lớp bồi dưỡng, nâng cao trình
độ lý luận chính trị nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên vững mạnh.
Đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống cho cán
bộ, đảng viên, người lao động tiếp tục học tập sinh hoạt chuyên đề theo Chỉ thị
05/CT-TW, ngày 15 tháng 5 năm 2016 của Ban chấp hành Trung ương.
100% cán bộ, đảng viên, viên chức và người lao động đều đăng ký học tập

và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

9


Chi bộ có số lượng Đảng viên ít ( 7 đảng viên trên tổng 21 cán bộ công nhân
viên của đơn vị), thường xuyên đi công tác đột xuất, đi học để nâng cao trình độ
chun mơn, cơng việc đặc thù trong Công tác quản lý bảo vệ rừng ảnh hưởng
không nhỏ trong việc học tập, sinh hoạt của Chi bộ đơn vị.
Đơn vị đóng chân trên địa bàn biên giới, đường xá đi lại khó khăn, tín hiệu
mạng thấp nên việc trao đổi văn bản, xử lý thông tin còn nhiều bất cập.
3. Kết luận
Rõ ràng điểm xuất phát và mục tiêu cuối cùng con đường của Chủ tịch Hồ
Chí Minh là một, đó là giải phóng, mang lại hạnh phúc cho dân tộc. Trên chặng
đầu con đường này, Người đã hướng tới mục tiêu là chủ nghĩa Mác – Lênin và đây
là một trong những yếu tố cơ bản đã dẫn đến việc thắng lợi hoàn toàn trong các
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ xâm lược.
Có thể nói, đây là mục tiêu của một chặng đường, nhưng chắc chắn không
phải là mục tiêu cuối cùng con đường của Người. Từ đây, dễ thấy, điểm nổi bật
trước hết trong nghệ thuật lý luận Hồ Chí Minh là đã ln ln phân biệt rõ ràng,
chính xác giữa mục tiêu và biện pháp. Rõ ràng, Bác Hồ vĩ đại là bậc thầy về công
việc quan trọng hàng đầu này. “Điều mong muốn đầu tiên” hay “Điều mong muốn
cuối cùng” đều là một và đó cũng là mục tiêu suốt đời của Người. Đến đây có thể
khẳng định, mục tiêu căn bản của thời đại Hồ Chí Minh chính là sự phối hợp và
nhất thể hóa nhóm nhằm mục tiêu chiến lược: “hịa bình, thống nhất, độc lập, dân
chủ và giàu mạnh”.
Có thể khẳng định nếu như “Khơng có gì q hơn độc lập, tự do” là đặc
trưng rõ nét nhất của thế kỷ XX thì “Tin cậy lẫn nhau, phối hợp hành động” chính
là đặc trưng tiêu biểu của thế kỷ XXI. Trong sự nghiệp của mình, Bác Hồ đã được
tơn vinh với nhiều danh hiệu lớn lao như “Anh hùng giải phóng dân tộc thuộc địa

trong thế kỷ 20”, tuy nhiên vẫn có cảm giác rằng các danh hiệu này dù đã vinh
quang hết mức nhưng vẫn chưa thể hiện được đầy đủ về tư tưởng và nhân cách của
Bác. Chỉ biết chắc chắn rằng không chỉ trong thế kỷ XX hay thế kỷ XXI mà cả
trong các thế kỷ tiếp nối cũng như không chỉ trong thời kỳ Độc lập hay thời kỳ
Phối hợp mà cả trong các thời kỳ kế tiếp, sẽ thấy tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí
Minh ln thực sự là “tư tưởng thời đại” và con người của Bác luôn thực sự là
“con người của thời đại”, là tiêu biểu cho văn hóa của thời đại. Đó chính là lý do vì
so lại nói Chủ tịch Hồ Chí Minh là thực sự bất tử.
4. Danh mục tài liệu tham khảo
4.1. Giáo trình Trung cấp Lý luận Chính trị- Nội dung cơ bản của tư tưởng
Hồ Chí Minh (Nhà xuất bản lý luận chính trị năm 2021)

10


4.2. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia
2009)
4.3. Tư tưởng và lý luận Hồ Chí Minh – hành trang để định vị và đi tới
tương lai (Bộ Khoa học và Công nghệ - Văn phịng phối hợp phát triển mơi trường
khoa học và cơng nghệ)
4.4. Tìm hiểu thân thế - sự nghiệp và tư tưởng Hồ Chí Minh (Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia 2000 – TS. Hoành Trang – TS. Nguyễn Khánh Bật)
4.5. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Sự thật, H.2011
NGƯỜI VIẾT THU HOẠCH

Lê Thanh Tùng

11




×