Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

TIỂU LUẬN LUẬT ĐẤT ĐAI CỰC HAY VỀ: PHÂN TÍCH, BÌNH LUẬN VỀ HỆ THỐNG CƠ QUAN QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI VIỆT NAM HIỆN NAY, ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP CẢI THIỆN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (277.42 KB, 19 trang )

ĐẠI HỌC UEH
TRƯỜNG KINH TẾ, LUẬT VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
KHOA LUẬT

BÌNH LUẬN VỀ HỆ THỐNG CƠ QUAN
QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI VIỆT NAM

Môn học: Luật đất đai
Giảng viên: TS. Dương Kim Thế Nguyên
Mã học phần: 21C1LAW51101505

1


MỤC LỤC
TÓM TẮT

2

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3

Cơ sở lý luận:

3

Phương pháp nghiên cứu:

3


NỘI DUNG BÀI VIẾT

3

GIỚI THIỆU

3

1. TỔNG QUAN

4

1.1.

Quản lý đất đai

4

1.2.

Nguyên tắc quản lý đất đai

4

1.3.

Hệ thống cơ quan quản lý đất đai

5


2. THỰC TRẠNG TRONG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT ĐAI
TẠI VIỆT NAM

6

2.1.

Thực trạng

6

2.2.

Đánh giá hiệu quả hoạt động quản lý của các cơ quan Nhà nước về đất đai

8

2.3.

Bất cập trong hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai

8

3. KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HỆ THỐNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ ĐẤT ĐAI

11

3.1.


Hoàn thiện pháp luật về hệ thống quản lý đất đai

11

3.2.

Ứng dụng công nghệ thông tin - đồng bộ cơ sở dữ liệu về quản lý đất đai

11

3.3.

Nâng cao tính phân quyền, chế ước lẫn nhau giữa các cơ quan có thẩm quyền

trong hoạt động quản lý đất đai

13

KẾT LUẬN

14

2


TÓM TẮT
Hiện nay, các tiêu cực về tham nhũng đang diễn biến ngày một phức tạp, đặc biệt trong lĩnh
vực đất đai. Về bản chất, đất đai là một tài sản có giá trị lớn, chi phối nhiều hoạt động kinh tế xã hội. Các chuyên gia pháp lý đều đồng nhất quan điểm cho rằng, đất đai là một trong những
lĩnh vực màu mỡ nhất cho tham nhũng. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, tuy nhiên, theo
tác giả, cốt yếu nhất là do những hạn chế, bất cập tồn đọng trong hệ thống quản lý đất đai. Theo

đó, hoạt động quản lý đất đai đang được phân cấp chủ yếu cho chính quyền cấp tỉnh và cấp
huyện. Do đó, nếu phân cấp, phân quyền nhưng khơng gắn liền với kiểm sốt quyền lực thì sẽ
dẫn đến những câu chuyện về tham ô, làm dụng quyền lực để trục lợi. Bài viết tập trung giải
quyết các vấn đề liên quan đến hệ thống quản lý đất đai, bao gồm 3 nội dung chính: khái quát hệ
thống cơ quan quản lý đất đai, đánh giá hệ thống và cuối cùng là những kiến nghị hoàn thiện hệ
thống quản lý đất đai.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Cơ sở lý luận:
-

Căn cứ vào lý thuyết, những luận điểm, quan điểm về hệ thống cơ quan quản lý đất đai.

-

Căn cứ vào những nội dung quản lý nhà nước về đất đai, các chức năng của cơ quan quản
lý nhà nước về đất đai được hệ thống pháp luật và chính sách đất đai của Việt Nam quy
định.

Phương pháp nghiên cứu:
-

Phương pháp phân tích và tổng hợp: Phân tích các khái niệm về quản lý đất đai, tổng hợp
các cơ quan trong hệ thống quản lý đất đai đồng thời phân tích vai trị, nhiệm vụ của mỗi
cơ quan.

-

Phương pháp liệt kê: Luận văn sử dụng phương pháp liệt kê nhằm liệt kê rõ những mặt
tích cực, hạn chế của hệ thống quản lý đất đai tại Việt Nam hiện nay.


-

Phương pháp giả thuyết: Để phân tích các vấn đề một cách cụ thể, luận văn áp dụng
phương pháp giả thuyết để hỗ trợ phân tích rõ vấn đề.

Thơng qua các phương pháp được sử dụng, luận văn nghiên cứu hệ thống cơ quan quản lý đất
đai; phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động của hệ thống, từ đó đề xuất những giải pháp để xây

3


dựng một hệ thống quản lý đất đai hoàn thiện, góp phần nâng cao cơng tác quản lý của Nhà nước
trong tương lai.
NỘI DUNG BÀI VIẾT
GIỚI THIỆU
Ở bất kỳ giai đoạn, thời kỳ nào, các vấn đề liên quan đến đất đai đều là những vấn đề tương đối
nhạy cảm, phức tạp và khó giải quyết. Điều này xuất phát từ bản chất, giá trị của đất đai. Ngày
xưa, ông cha ta thường quan niệm rằng: “tất đất tất vàng”, đất đai là “giang sơn gấm vóc”, giá trị
của đất đai là cực kỳ quý giá. Thời gian qua, nhiều tiêu cực liên tiếp diễn ra trong lĩnh vực quản
lý đất đai, nhiều cán bộ cấp cao, kể cả cán bộ nghỉ hưu đã phải bị kỷ luật, bị cách chức, bị truy
cứu trách nhiệm hình sự vì liên quan đến các sai phạm nghiêm trọng về quản lý đất đai, gây thất
thoát tài sản nhà nước. Nguyên nhân là do đâu? Do hệ thống pháp luật về đất đai có nhiều lỗ
hổng pháp lý hay do sự suy đồi đạo đức của các cá nhân, cơ quan có thẩm quyền quản lý đất đai?
Việc sửa đổi Luật Đất đai vẫn đang được đặt ra để lấp đầy những khoảng trống pháp lý đó, tuy
nhiên, cần quan tâm đến vấn đề xây dựng một hệ thống cơ quan quản lý đất đai với sự liêm
chính, trung thực của đội ngũ cán bộ, công chức để họ không lợi dụng sơ hở của luật pháp để
thực hiện các hành vi bất lợi cho Nhà nước, cho người dân.
1. TỔNG QUAN
1.1. Quản lý đất đai
Quản lý Nhà Nước về đất đai là tổng hợp các hoạt động của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền

để thực hiện và bảo vệ quyền sở hữu Nhà nước về đất đai, là quá trình đảm bảo việc sử dụng,
phát triển đất đai được thực hiện theo khn khổ pháp luật, hạn chế lãng phí tài sản Nhà nước,
khai thác tối ưu lợi nhuận thu được từ đất đai và giải quyết các tranh chấp liên quan đến đất đai.
Nhà nước thực hiện quản lý đất đai thông qua các công cụ, phương pháp phù hợp để tác động
đến hành vi của người sử dụng đất nhằm sử dụng một cách hiệu quả, tiết kiệm.
1.2.Nguyên tắc quản lý đất đai
Thứ nhất, đảm bảo quản lý tập trung và thống nhất: Đất đai là tài nguyên quý giá của quốc
gia, do đó, đối với cơng tác quản lý đất đai, yêu cầu xây dựng hệ thống đảm bảo tính tập trung và
thống nhất, tránh tình trạng lãng phí tài ngun đất. Song, điều này cịn nhằm tập trung quyền
lực và quản lý thống nhất của Nhà nước về đất đai, đảm bảo cơng bằng, bình đẳng trong xã hội.
Thứ hai, đảm bảo kết hợp hài hòa giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng đất đai: Đất đai là
tài sản thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện là chủ sở hữu, do đó, Nhà nước không trực
4


tiếp sử dụng đất mà thực hiện thông qua việc thu tiền từ các chủ thể sử dụng. Để tạo điều kiện
cho chủ thể có quyền sử dụng đất khai thác tốt nguồn lực của đất đai, phát triển kinh tế, hoạt
động quản lý đất đai cần đảm bảo sự kết hợp hài hòa giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng đất
đai, từ đó chung hịa lợi ích của Nhà nước và lợi ích của từng cá nhân sử dụng đất.
Thứ ba, đảm bảo sự kết hợp hài hòa giữa các lợi ích: Đất đai phản ánh mối quan hệ về lợi
ích giữa cá nhân, tập thể, cộng đồng xã hội, đồng thời đây cũng là yếu tố quan trọng trong sản
xuất, vậy nên, phải đảm bảo lợi ích của người sử dụng đất. Bên cạnh đó, đất đai là tài nguyên
quốc gia nên phải được đảm bảo lợi ích chung của xã hội. Kết hợp hài hòa 03 lợi ích trên là việc
phát huy đồng thời cả ba lợi ích, khơng để lợi ích này lấn át hay triệt tiêu lợi ích khác.
Thứ tư, tiết kiệm và hiệu quả: Về bản chất, đất đai là tài nguyên quốc gia vơ cùng q giá,
do đó, hoạt động quản lý đất đai phải được xây dựng dựa trên nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả,
tránh tình trạng lãng phí tài ngun đất, không phát huy hết nguồn lợi từ đất đai.
1.3. Hệ thống cơ quan quản lý đất đai
Hệ thống cơ quan quản lý đất đai được Nhà nước thành lập thơng qua các văn bản pháp luật,
theo đó, Nhà nước quy định cụ thể về cơ cấu tổ chức, chức năng, quyền hạn của mỗi cơ quan,

hướng tới xây dựng một hệ thống cơ quan quản lý đất đai toàn diện, thống nhất từ trung ương
đến địa phương, các cơ quan trong hệ thống có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, có mối quan hệ mật thiết
thực hiện chức năng quản lý đất đai. Cụ thể, theo Điều 24 Luật Đất đai 2018:
“1. Hệ thống tổ chức cơ quan quản lý đất đai được tổ chức thống nhất từ trung
ương đến địa phương.
2. Cơ quan quản lý nhà nước về đất đai ở trung ương là Bộ Tài nguyên và Môi
trường.
Cơ quan quản lý đất đai ở địa phương được thành lập ở tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương và ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; tổ chức dịch vụ
công về đất đai được thành lập và hoạt động theo quy định của Chính phủ.”
Trung ương: Cơ quan quản lý đất đai là Bộ Tài Nguyên và Mơi trường: cơ quan của Chính
phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài ngun
khống sản, mơi trường, khí tượng, thuỷ văn, đo đạc bản đồ trong phạm vi cả nước và quản lý
các dịch vụ công trong quản lý và sử dụng đất.
Cấp tỉnh: Cơ quan chuyên ngành quản lý nhà nước về đất đai cấp tỉnh, thành phố là Sở Tài
nguyên và Môi trường, là cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, giúp UBND cấp tỉnh thực
5


hiện chức năng quản lý nhà nước về tài nguyên đất, tài ngun nước, khống sản, mơi trường,..,
chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức biên chế và công tác của UBND cấp tỉnh, đồng thời chịu sự
chỉ đạo nghiệp vụ chuyên môn từ Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Cấp huyện: Quản lý nhà nước về đất đai ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh thuộc
thẩm quyền của Phịng Tài ngun và Mơi trường, đây là cơ quan trực thuộc UBND cấp huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, có chức năng quản lý nhà nước về đất đai, nước, khống sản,
mơi trường,..., chịu sự quản lý về tổ chức, biên chế và công tác của UBND cấp huyện, đồng thời,
chịu sự quản lý về chuyên môn từ Sở Tài nguyên và Môi trường.
Cấp xã: Cán bộ địa chính xã, phường, thị trấn giúp UBND cấp xã thực hiện quản lý nhà nước
về đất đai, nước,... trong phạm vi xã, chịu sự chỉ đạo từ UBND cấp xã và Sở Tài ngun và Mơi
trường.

Qua đó, có thể thấy, một điểm đặc trưng của hệ thống cơ quan quản lý đất đai là tính chất
“song trùng trực thuộc”. Theo đó, trong hoạt động quản lý đất đai, cơ quan cấp dưới chịu sự chỉ
đạo, hướng dẫn từ cơ quan cấp trên, đồng thời chịu sự chi phối, chỉ đạo từ UBND cùng cấp. Đảm
bảo sự tập trung, thống nhất trong công tác quản lý đất đai của các cơ quan có thẩm quyền.
2. THỰC TRẠNG TRONG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT ĐAI TẠI
VIỆT NAM
2.1.Thực trạng
Sự ra đời và phát triển hoạt động quản lý đất đai của Nhà nước đã từng bước "Nắm chắc,
Quản chặt, Khai thác có hiệu quả" tài nguyên đất đai, góp phần đổi mới kinh tế thị trường, xây
dựng vững mạnh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ năm 1945 đến nay, Đảng và Nhà nước
ta đã tích cực đổi mới pháp luật, nâng cao hiệu quả quản lý đất đai từ trung ương đến địa phương
trong từng giai đoạn phát triển. Đặc biệt, trong giai đoạn 2011-2020, công tác quản lý đất đai của
Nhà nước đã có bước ngoặt lớn trong cơng tác kiểm sốt, quản lý q trình sử dụng đất, hạn chế
sử dụng đất đai lãng phí và góp phần cải thiện đời sống người dân với các chính sách kết hợp
nâng cao thời hạn giao đất trồng lúa, đất trồng cây hàng năm,...và ứng dụng khoa học kĩ thuật
tiến bộ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, giúp người dân xuất khẩu gạo ra nước ngoài và tạo
nguồn vốn đầu tư. Kết quả là đến năm 2020, cả nước gieo cấy được “1.099,6 nghìn ha lúa mùa,
lượng xuất khẩu gạo của Việt Nam đứng thứ 1 thế giới với 3,9 triệu tấn gạo, đạt kim ngạch 1,9 tỷ
USD, tăng 10,9% về giá trị so với cùng kỳ năm trước” 1. Bên cạnh đó, cơ quan quản lý đất đai

1

Báo cáo tình hình kinh tế xã hội tháng 7 và 7 tháng năm 2021 của Tổng cục Thống kê.

6


cũng đã nỗ lực hoàn thiện kế hoạch quy hoạch sử dụng đất hiệu quả, phân bổ hợp lý nguồn đất
đai cho các dự án cơ sở hạ tầng, khu dân cư, khu phát triển kinh tế như thương mại, công nghiệp,
dịch vụ…Giai đoạn 2016-2020, cả nước đã “thực hiện giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích

sử dụng đất để giải quyết nhu cầu nhà ở đô thị, nông thơn khoảng trên 19,6 nghìn ha, phát triển
sản xuất kinh doanh phi nơng nghiệp khoảng 15,5 nghìn ha, xây dựng kết cấu hạ tầng khoảng
25,5 nghìn ha, đưa hơn 500 ha đất chưa sử dụng vào phục vụ các mục đích phát triển kinh tế xã hội”2.
Trong 9 tháng đầu năm 2021, công tác quản lý đất đai cũng đánh dấu những con số ấn tượng
về công tác đo đạc, cấp giấy chứng nhận và xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai, quy hoạch sử dụng
đất, giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, định giá đất, bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư và kiểm soát quản lý và sử dụng đất. Đối với công tác đo đạc, cấp giấy chứng
nhận và xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai, cả nước đã có 77% tổng diện tích đất tự nhiên được đo
đạc, lập bản đồ địa chính với 1.434.392 ha; đạt 97,3% diện tích đất cần cấp giấy chứng nhận,
đăng ký; Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Công văn số 1110/TCQLĐĐ-CĐKĐĐ ngày
08 tháng 6 năm 2021 về việc xây dựng, bàn giao cơ sở dữ liệu đất đai do Trung ương xây dựng.
Đối với công tác quy hoạch sử dụng đất, giao đất, cho thuê đất cho phép chuyển mục đích sử
dụng đất, Đảng và Nhà nước ta đã hồn thiện hệ thống pháp luật đất đai, tăng cường công tác
thẩm định đất, điều tra, đánh giá đất đai và dựa vào cơ sở thực tế đề ra 3 nhiệm vụ chiến lược là
“(1) Lập Quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050; (2) Lập
Kế hoạch sử dụng đất cấp quốc gia kỳ đầu 2021- 2025; (3) Dự án xây dựng chiến lược sử dụng
đất cấp quốc gia có tầm nhìn dài hạn đến năm 2045”. Đối với công tác định giá đất, bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư, Nhà nước ta tích cực xem xét, sửa đổi bổ sung Nghị định số 44/2014/NĐ-CP
ngày 15 tháng 05 năm 2014 của Chính phủ quy định về giá đất bên cạnh việc theo sát các diễn
biến giá thị trường và các báo cáo giá đất từ các địa phương; về hỗ trợ, tái định cư đã có những
tiến bộ trong cơng tác thu hồi đất, hạn chế được việc “tùy tiện” thu hồi đất không rõ lý do và đề
ra nhiều biện pháp tái cơ cấu cho người dân như cấp đất mới, bồi thường bằng hiện kim,...Về
cơng tác kiểm sốt quản lý và sử dụng đất đai, cơ quan quản lý đất đai nhà nước đã hồn tất các
thủ tục và cơng bố kết quả kiểm kê diện tích đất đai năm 2019 thông qua Quyết định số
1435/QĐ-BTNMT ngày 22/7/2021 của Bộ Tài nguyên và Môi trường; tổ chức thanh tra kiểm tra
một số tỉnh thành về hiện trạng sử dụng đất đai như Ninh Bình, Lâm Đồng,...; ghi nhận những
thơng tin đóng góp và ý kiến phản hồi liên quan đến việc sử dụng đất đai từ các địa phương.

2


Số liệu của Bộ Tài nguyên và Môi trường.

7


Bên cạnh những kết quả to lớn đã đạt được thì cần thẳng thắn thừa nhận vẫn cịn một số tình
trạng tiêu cực trong cơng tác quản lý đất đai hiện nay, như chiếm dụng đất khi khơng có căn cứ
pháp lý liên quan đến việc sử dụng đất đai; vẫn còn những thửa đất chưa được quy hoạch hay
định hình chính xác nên địa giới hành chính bị chồng lấn, không rõ ràng; một số thửa đất được
sử dụng khơng đúng mục đích; đối với những mảnh đất chưa được sử dụng thì hiệu quả quản lý
cịn chưa chặt chẽ và cịn nhiều thiếu sót; tình trạng chênh lệch diện tích đất trên giấy tờ và thực
tế cịn tồn tại; cơng tác chuyển giao đất cịn sơ sài, thậm chí một số địa phương cịn khơng thực
hiện đo đạc, cắm mốc giới. Hơn thế nữa, trong công tác phê duyệt các dự án quy hoạch đất, cơ
quan quản lý đất đai tại nhiều địa phương còn chưa bám sát được nhu cầu và tình hình sử dụng
đất trên thực tế, dẫn đến việc phải chỉnh sửa nhiều lần. Còn xuất hiện trường hợp vượt quyền,
không thực hiện đúng quyền hạn của mình trong cơng tác triển khai, thực hiện công tác quản lý
đất đai tại nhiều địa phương, đặc biệt là ở những vùng tỉnh lẻ xa trung ương. Trong thực hiện thủ
tục hành chính, nhiều trường hợp chuyển mục đích sử dụng đất khơng đảm bảo thủ tục và khơng
đúng mục đích chuyển đổi. Về giao đất, vẫn còn tồn tại các trường hợp lạm quyền, chỉ định trực
tiếp nhà đầu tư mà không qua đấu thầu dự án hay đấu giá quyền sử dụng đất gây thất thốt tài
sản nhà nước, vẫn cịn tình trạng chưa hồn thành giải phóng mặt bằng nhưng đã tiến hành cho
thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất. Bên cạnh đó, về xác định giá đất của các dự án đầu tư, tại
nhiều địa phương vẫn còn chưa đảm bảo thủ tục, thời gian tiến hành dẫn đến chậm thu ngân sách
nhà nước.
2.2. Đánh giá hiệu quả hoạt động quản lý của các cơ quan Nhà nước về đất đai
Bằng công cụ là Luật Đất đai và những văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến tài nguyên,
môi trường và đất đai, nhìn chung Đảng và Nhà nước ta đã hồn thiện và định hướng được mơ
hình quản lý đất đai tại Việt Nam. Cho đến cuối năm 2019, cả nước đã có “tổng diện tích các
loại đất trong đơn vị hành chính là 33.131.713 ha đất” 3- đây là minh chứng lớn cho những nỗ
lực khai phá tài nguyên đất đai và quy hoạch, kế hoạch sử dụng hiệu quả đất đai của hoạt động

quản lý Nhà nước về đất đai. Đồng thời, với định hướng và quy hoạch sử dụng đất hiệu quả đã
tạo tiền đề pháp lý thiết yếu trong các hoạt động như cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất, giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất,...góp phần ổn
định đời sống nhân dân và đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất. Về cơ bản,
từng địa phương đã có thể lập và đồng bộ được hệ thống hồ sơ địa chính với các cơ sở điện tử,
áp dụng được cơ sở dữ liệu địa chính cho các mục đích nhất định như kê khai, đăng ký đất
3

Hiện trạng sử dụng đất đai cả nước tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2019, Nghị quyết số 1435/QĐ-BTNMT ngày
22/7/2021.

8


đai,...trên nền tảng mạng Internet. Bên cạnh đó, với mục tiêu cụ thể và các nhiệm vụ chiến lược
bám sát vào thực tiễn, công tác quản lý đất đai đã phần nào đáp ứng được nhu cầu của người dân
và doanh nghiệp về giá đất và mục đích sử dụng, góp phần giảm thiểu thời gian, trình tự, thủ tục
hành chính liên quan đến đất đai.
Tuy nhiên, ngay cả khi đã đạt được những thành tựu đáng kể thì nhìn chung hệ thống quản lý
đất đai còn thiếu sự đồng bộ từ trung ương đến địa phương, vẫn còn nhiều vướng mắc trong các
cơ quan quản lý đất đai. Thực tiễn từ công tác quản lý đất đai hiện nay vẫn cịn tồn tại hành vi
tham nhũng, lạm quyền, khơng thực hiện đúng quy định pháp luật đất đai hiện hành. Điều này đã
và đang mang lại những hậu quả đáng kể, làm giảm hiệu quả các chính sách quản lý đất đai của
bộ máy chính quyền, gây thất thốt ngân sách nhà nước, đồng thời ảnh hưởng đến kinh tế - xã
hội và cơng bằng quyền và lợi ích hợp pháp của mọi công dân.
2.3. Bất cập trong hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai
Thứ nhất, hiệu quả kiểm sốt thủ tục hành chính về đất đai còn kém.
Tại nhiều địa phương, các cơ quan cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn hời hợt, thực
hiện kém hiệu quả công tác kiểm kê, đo đạc đất đai, dẫn đến tình trạng diện tích đất thực tế khác
so với trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; cấp chồng chéo giữa các mảnh đất liền kề; trên

giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ghi sai thơng tin về địa chỉ, địa giới hành chính,...thậm chí
trong một số trường hợp vì sai phạm mà trên thực tế mảnh đất không tồn tại.
Trong công tác thủ tục hành chính liên quan đến cho thuê đất, giao đất, chuyển mục đích sử
dụng đất thực hiện các dự án đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vẫn cịn tồn tại tình trạng giao đất
trực tiếp mà khơng thông qua đấu giá, giao đất không đúng theo kế hoạch quy hoạch sử dụng đất
dẫn đến sai phạm nghiêm trọng pháp luật quản lý đất đai và gây thất thoát lớn ngân sách nhà
nước. Thực tiễn là vụ việc liên quan đến cho thuê đất trái pháp luật vào tháng 12 năm 2018 do
Nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện, ơng đã ký nhiều văn
bản quyết định và chỉ đạo cấp dưới tạo điều kiện cho Công ty Hoa Tháng Năm thực hiện dự án
“Khách sạn tiêu chuẩn 5 sao” tại số 8-12 Lê Duẩn (quận 1) mà không thông qua đấu thầu dự án
hay đấu giá quyền sử dụng đất gây tổn thất hơn 2.000 tỷ đồng của Nhà nước hay vụ việc cựu Bộ
trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng và 9 đồng phạm đã tiếp tay và giúp cho Tổng Công ty
Cổ phần Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco) chuyển tài sản Nhà nước sang tư nhân
trái pháp luật gây thiệt hại hơn 2.700 tỷ đồng.
Thứ hai, hệ thống quản lý quyền lực nhà nước về đất đai chưa hiệu quả - trao quá nhiều
quyền lực cho một cá nhân, tổ chức.
9


Từ 3/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Khánh Hòa đã tiến hành khởi tố và điều tra
nguyên phó Chủ tịch UBND tỉnh Khánh Hịa (ơng Đào Cơng Thiên), cựu Chủ tịch UBND tỉnh
Khánh Hịa (ơng Nguyễn Chiến Thắng), cựu Chủ tịch UBND tỉnh Khánh Hịa (ơng Lê Đức
Vinh, kế nhiệm ông Nguyễn Chiến Thắng) và cựu Giám đốc Sở tài ngun và mơi trường tỉnh
Khánh Hịa (bà Lê Mộng Điệp) về vấn đề “vi phạm các quy định về quản lý đất đai” tại dự án
BT (xây dựng - chuyển giao) Trường Chính trị, dự án “Sinh thái tâm linh Cửu Long Sơn Tự” và
dự án “Biệt thự sông núi Vĩnh Trung” với hàng trăm héc-ta đất tại các vị trí trọng tâm kinh tế và
gây thất thốt hàng nghìn tỷ đồng của Nhà nước. Các bị can trong trường hợp này đã cấu kết và
lợi dụng quyền hạn của mình để ký kết, ban hành các văn bản chỉ định đầu tư dự án, đôn đốc,
thúc đẩy tiến trình thực hiện cho cấp dưới tạo điều kiện thuận lợi cho hành vi vi phạm diễn ra
nhanh chóng. Theo quy định của pháp luật về đất đai thì dường như các quyết định hành chính

liên quan đến giao đất, cho thuê đất, cho chuyển mục đích sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, xây dựng các quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất,...đều thuộc thẩm quyền của
UBND cấp huyện và UBND cấp tỉnh mà đại diện thẩm quyền chỉ do một người quyết định nên
dễ xảy ra việc lạm quyền, tham nhũng như trong trường hợp trên.
Bên cạnh đó, chủ tịch UBND cấp tỉnh cịn có một số thẩm quyền cá nhân như thành lập hội
đồng thẩm định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, chỉ đạo và ban hành các quyết định trưng dụng
đất, quy định mức bồi thường thu hồi đất,...; chủ tịch UBND cấp huyện có thể ra các quyết định
cưỡng chế thu hồi đất, trưng dụng đất, quy định mức bồi thường về đất,..., từ đó cho thấy sự
phân cấp quản lý còn thiếu hiệu quả và còn chồng chéo quyền lực giữa UBND cấp tỉnh và
UBND cấp huyện. Hơn thế nữa, việc ban hành bảng giá đất là do cơ quan quản lý đất đai Nhà
nước quy định, cụ thể là do UBND tỉnh ban hành. Tuy nhiên bảng giá đất thực tế được ban hành
còn quá thấp so với giá thị trường, dẫn đến nhiều khiếu kiện, khiếu nại liên quan. Trong trường
hợp này, ông Nguyễn Chiến Thắng đã lợi dụng chức vụ Chủ tịch UBND tỉnh ký chỉ định và cấp
giấy chứng nhận đầu tư cho Công ty cổ phần Thanh Yến làm dự án BT Trường Chính, sau đó
phê duyệt giá đất tương đương với đất phi nông nghiệp dù thực tế đất này là “khu đất vàng- đất
đơ thị số 1”. Vì vậy việc tập trung quyền lực tuyệt đối về tay một tổ chức, cá nhân có thể dẫn đến
việc lạm dụng chức quyền, gây tình trạng cát cứ tại các địa phương và khó kiểm sốt từ trung
ương.
Thứ ba, đội ngũ cán bộ, viên chức chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ; cơ sở vật chất còn
sơ sài, lạc hậu.
Thực tiễn từ các vụ án vi phạm hành chính, vi phạm hình sự liên quan đến hoạt động quản lý
đất đai đã cho thấy một tín hiệu đáng lo ngại về tinh thần trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp
10


của cán bộ, viên chức trong công tác thi hành nhiệm vụ được giao. Đội ngũ cán bộ còn thiếu sự
thống nhất giữa các cấp, các ngành, dù đông nhưng hiệu quả thực hiện nhiệm vụ còn chưa cao.
Các nhà lãnh đạo “chưa đủ tâm và đủ tầm” trong công tác quản lý, đôn đốc, nhắc nhở thực hiện
trách nhiệm cơng việc; lệch lạc tư tưởng chính trị, chạy theo tiền tài, chủ nghĩa cá nhân rồi
vướng vào các tệ nạn tham nhũng, quan liêu. Một số bộ phận cán bộ, viên chức cịn thiếu trình

độ chun mơn, thiếu tính chuyên nghiệp trong các công tác như đo đạc, kiểm tra hồ sơ địa
chính, xác định bản đồ địa chính, nhập cơ sở dữ liệu địa chính,... Cơng tác bổ nhiệm cán bộ còn
mang “tinh thần cá nhân”, “kiên nễ”, “chưa đúng người đúng việc”, hậu quả là đội ngũ cán bộ
ngày càng thiếu tiêu chuẩn ở một số nơi, gây xơn xao dư luận xã hội. Vì sự “đề bạc” này mà bộ
máy quản lý đất đai địa phương ngày càng mang tính cát cứ, thiếu minh bạch, xuất hiện hành vi
tuồng thông tin, tạo điều kiện phi pháp cho các tổ chức, cá nhân thực hiện các dự án đấu thầu,
đầu tư của Nhà nước gây ảnh hưởng đến chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Chẳng hạn như vụ
việc ông Nguyễn Văn Minh - cựu Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc Tổng cơng ty
sản xuất - xuất nhập khẩu Bình Dương đã thông tin và tạo điều kiện cho con rể là ơng Nguyễn
Đại Dương thực hiện thâu tóm lơ đất 43 ha của cơng ty, qua đó ơng đã chỉ đạo chuyển nhượng cổ
phần và phối hợp thực hiện hành vi sai phạm trên gây thiệt hại cho Nhà nước hơn 302 tỷ đồng.
Liên quan đến cơ sở vật chất, tại nhiều địa phương còn chưa áp dụng được khoa học công
nghệ vào thực tiễn công tác đo đạc, kiểm kê, giải quyết bản đồ địa chính, phần lớn các hoạt động
đều sử dụng cơng cụ chính “bằng sức người”. Bên cạnh đó, q trình thực hiện các thủ tục của
cán bộ địa chính cịn cồng kềnh, qua nhiều cơng đoạn mà không đi thẳng vào cơ sở dữ liệu, qua
đó dễ xảy ra sai sót và tốn nhiều thời gian, công sức. Ở một số địa phương, đặc biệt là khu vực
đồng bằng các dân tộc thiểu số, cơ sở vật chất phục cho quản lý đất đai còn thiếu hụt, lạc hậu,
cịn tồn tại tình trạng xác định ranh giới địa chính theo các “phong tục, tập quán địa phương”,
chưa tiếp cận được với cơ sở dữ liệu đồng bộ.
3. KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HỆ THỐNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ
ĐẤT ĐAI
3.1.Hoàn thiện pháp luật về hệ thống quản lý đất đai
Hiện nay, Luật Đất đai năm 2013 và các luật chuyên ngành liên quan như Luật Đấu thầu, Luật
Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Lâm nghiệp,…dù đã qua nhiều lần sửa đổi và bổ
sung nhưng vẫn còn tồn đọng những quy định, vấn đề quản lý chưa đồng bộ, gây ra tình trạng
gây chồng chéo cũng như khó khăn khi áp dụng thực tiễn. Do đó, để hồn thiện cơng tác quản lý

11



Nhà nước về đất đai, nhiệm vụ tiên quyết đặt ra là phải nhanh chóng kiện tồn hệ thống Pháp
luật về đất đai.
Thứ nhất, rà soát và khắc phục những vấn đề bất cập, bảo đảm tính thống nhất chặt chẽ giữa
Luật Đất đai và các luật có liên quan. Đồng thời, xem xét và đề ra phương án đổi mới chính sách,
hướng dẫn thực hiện các cơng tác về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, giao đất, cho thuê
đất,…phù hợp với tình hình thực tiễn, thống nhất giữa các cấp và đảm bảo triển khai quyết định
đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.
Thứ hai, đảm bảo tính cơng khai, minh bạch trong cơng tác quản lý và sử dụng đất theo quy
định của pháp luật. Theo đó, các cơ quan có thẩm quyền tại các cấp, các ngành có liên quan cần
minh bạch tồn bộ các hoạt động phê duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, đồng thời, có thể
áp dụng cơng nghệ thơng tin, xây dựng cơ sở dữ liệu các quyết định hành chính về đất đai nhằm
giúp người dân có cơ hội truy cập và tiếp nhận thông tin.
Thứ ba, tiếp tục làm rõ và nâng cao hiệu quả pháp luật đối với những quy định về giải phóng
mặt bằng. Đồng thời, cần xem xét, nghiên cứu hoàn thiện các phương pháp xác định khung giá
đất và chính sách bồi thường, tránh xảy ra mâu thuẫn về lợi ích của các bên, đặc biệt đảm bảo
quyền của người dân bị thu hồi đất.
Thứ tư, tăng cường công tác cải cách các thủ tục hành chính, đồng thời thống nhất các quy
định về trình tự, thời hạn, thời hiệu, thẩm quyền quản lý, cấp giấy phép, tiếp nhận và giải quyết
tố cáo, khiếu nại về đất đai. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần quan tâm, xem xét và cân nhắc các
kiến nghị mở rộng thẩm quyền của Tòa án nhân dân về việc giải quyết các tranh chấp đất đai
cũng như ban hành những hướng dẫn cụ thể, chi tiết về áp dụng pháp luật để giải quyết tranh
chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai, hạn chế các hiện tượng sai phạm hoặc tham nhũng ở các cấp
quản lý và cơ quan có thẩm quyền.
3.2.Ứng dụng cơng nghệ thơng tin - đồng bộ cơ sở dữ liệu về quản lý đất đai
Cũng như các lĩnh vực khác, ứng dụng công nghệ thông tin đang dần trở thành xu hướng và
nhiệm vụ trọng tâm của cơng tác quản lý nhà nước. Chính vì thế, cơ quan có thẩm quyền các cấp
thuộc lĩnh vực tài ngun & mơi trường nói chung và quản lý đất đai nói riêng đang nỗ lực triển
khai xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai đồng bộ, vận hành liên thơng với các ngành khác có liên
quan cũng như kết nối hiệu quả với người dân thông qua Cổng dịch vụ công quốc gia.
Về cơ bản, hiện nay, hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu về đất đai đã được tập hợp, thống

nhất trên các nền tảng chính thống của cơ quan hành chính các cấp, các địa phương cũng như
12


được tuyên truyền rộng rãi đến người dân. Tuy nhiên, để khai thác tối đa, hiệu quả cơ sở dữ liệu
này, cần nỗ lực hơn nữa để đảm bảo tính minh bạch, độ tin cậy của thông tin, đồng thời, thúc đẩy
người dân làm quen, tiếp cận thông tin bằng những trang mạng chính thống của cơ quan Nhà
nước. Bên cạnh đó, việc khai thác, thu thập dữ liệu đất đai cũng cần sự phối hợp thực hiện chặt
chẽ giữa các cấp quản lý tại địa phương và các cơ quan liên quan như thuế, công chứng, ngân
hàng, thanh tra, điều tra, tư pháp...đảm bảo cập nhật kịp thời, đầy đủ và chính xác.
Cùng với việc số hố cơ sở dữ liệu, công tác đào tạo cán bộ vận hành, khai thác các trang
thông tin cũng là nhiệm vụ vô cùng quan trọng, đặc biệt là đội ngũ cán bộ thuộc các Văn phòng
đăng ký đất đai - đơn vị chịu trách nhiệm chủ yếu với các dữ liệu về đất đai. Theo đó, cần tăng
cường tổ chức các khóa tập huấn về khoa học dữ liệu cũng như sử dụng phần mềm ứng dụng cho
cán bộ, công chức, viên chức hiểu rõ được phương pháp thu thập và sắp xếp dữ liệu, thành thạo
kiểm soát và quản lý nguồn thông tin. Để công tác đào tạo cán bộ được tiến hành hiệu quả, đồng
bộ và lâu dài, Tổng Cục Quản lý đất đai cần có văn bản hướng dẫn, chỉ đạo các cấp cơ sở lập kế
hoạch và triển khai phù hợp với tiêu chuẩn chung của hệ thống dữ liệu quốc gia và kế hoạch xây
dựng “Chính phủ điện tử”, “Chính phủ số” của Nhà nước ta.
Đặc biệt, không chỉ với việc quản lý dữ liệu mà việc ứng dụng công nghệ đối với công tác
tiếp nhận yêu cầu và giải quyết các thủ tục hành chính cũng là giải pháp quan trọng nhằm cải
thiện chất lượng dịch vụ công, hạn chế tiêu cực cũng như tham nhũng. Có thể nói, cùng với
nhiệm vụ chung của Nhà nước là thiết lập “Chính phủ điện tử”, các cơ quan quản lý về đất đai,
Uỷ ban nhân dân các cấp có thẩm quyền về đất đai cần nhanh chóng xây dựng quy trình xử lý
thủ tục hành chính đồng bộ, tiết kiệm thời gian, chi phí, minh bạch thơng qua ứng dụng triệt để
các trang thông tin tiếp dân hoặc phần mềm đã được sự phê duyệt của cấp trên phù hợp với tính
chất và mục tiêu của ngành và Nhà nước. Từ đó, khơng chỉ giảm nhẹ áp lực cho cán bộ, công
chức, viên chức về các thủ tục giấy tờ cần kiểm sốt mà cịn nhận được sự phản hồi tích cực từ
người dân cũng như doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn.
Có thể nói, cơ sở dữ liệu đất đai đầy đủ và chính xác là cơng cụ đắc lực để Nhà nước kiểm

soát được các giao dịch, hạn chế các vi phạm, kịp thời ngăn chặn các giao dịch bất hợp pháp,
đồng thời, cung cấp thông tin cụ thể, minh bạch cảnh báo và bảo vệ người dân. Do đó, để hồn
thiện hệ thống quản lý Nhà nước về đất đai, công tác cải thiện cơ sở dữ liệu là nhiệm vụ hết sức
trọng yếu. Đồng thời, việc kết hợp lưu trữ thông tin bằng công nghệ giúp hệ thống thông tin
được sắp xếp đảm bảo quy tắc hơn, hiệu quả lưu trữ lâu dài hơn, tiết kiệm thời gian cho các cơ
quan quản lý cũng như các cán bộ chịu trách nhiệm thu thập và cập nhật thơng tin. Bên cạnh đó,
13


q trình số hố dữ liệu cũng có ảnh hưởng tích cực đến tư duy làm việc của đội ngũ cán bộ các
cấp, thúc đẩy tinh thần đổi mới, tạo điều điều kiện cho quá trình nghiên cứu thực tiễn, phân tích
số liệu và dự báo tình hình nhằm đề xuất biện pháp ứng phó và giải pháp cải thiện cho ngành
quản lý đất đai.
3.3.Nâng cao tính phân quyền, chế ước lẫn nhau giữa các cơ quan có thẩm quyền
trong hoạt động quản lý đất đai
Hiện nay, việc thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu đất đai ở nước ta đang được phân cấp chủ
yếu cho chính quyền cấp tỉnh và cấp huyện. Có thể nói, việc phân cấp trong lĩnh vực đất đai là
cơ hội giúp các địa phương linh hoạt phương thức kiểm soát, quản lý với tình hình thực tiễn trên
địa bàn. Tuy nhiên, theo nhận định tại “Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30
năm đổi mới” của Trung ương Đảng, định hướng phân quyền, phân cấp trong quản lý nhà nước,
đặc biệt với lĩnh vực đất đai vẫn còn nhiều tồn đọng, chưa đồng bộ và triển khai chưa hiệu quả.
Đồng thời, vai trị của chính quyền địa phương vẫn chưa được phát huy rõ ràng và việc thực hiện
giữa các cấp còn nhiều chồng chéo, mâu thuẫn. Chính vì thế, những năm gần đây, nhiệm vụ về
đề ra định hướng phân cấp, phân quyền về quản lý đất đai ngày càng cấp thiết để cải thiện công
tác của cơ quan các cấp, các ngành liên quan. Đặc biệt, các kiến nghị đồng loạt nhấn mạnh việc
phân cấp, phân quyền rõ ràng và hiệu quả hơn nữa trong các công tác ban hành văn bản hướng
dẫn thi hành luật, quy hoạch sử dụng đất, định giá đất đai, giao đất, cho thuê đất, chuyển mục
đích sử dụng đất, đăng ký, cấp giấy chứng nhận, thu hồi, bồi thường, tái định cư,…Theo đó, việc
phân cấp, phân quyền cần phải đảm bảo được những mục tiêu sau:
Thứ nhất, bảo đảm phát huy tính chủ động, tinh thần trách nhiệm, đổi mới, sáng tạo của chính

quyền địa phương, bảo đảm sự quản lý thống nhất của Nhà nước cấp trung ương về đất đai. Một
trong những nhiệm vụ quan trọng nhất hiện nay là cần phân định rõ ràng thẩm quyền giữa trung
ương và địa phương nhằm nâng cao trách nhiệm các cấp quản lý. Cụ thể, các văn bản quy định
việc phân cấp, phân quyền trong lĩnh vực đất đai phải chỉ rõ được những công tác chỉ thuộc thẩm
quyền của chính quyền trung ương hoặc chỉ thuộc chính quyền địa phương. Như vậy, có thể góp
phần xây dựng một bộ máy hoàn thiện và hoạt động hiệu quả với sự phân cơng minh bạch, phù
hợp với tính chất và quy mô của các cấp, các cơ quan. Theo đó, cơ quan Trung ương sẽ tập trung
giải quyết những vấn đề cốt lõi và khái quát nhất. Đồng thời, các cơ quan cấp cơ sở sẽ chịu trách
nhiệm với những cơng việc phù hợp với tình hình địa bàn cũng như nguồn lực của địa phương.
Thứ hai, phải phù hợp với đặc điểm, tính chất của mỗi loại hình chính quyền địa phương.
Giữa các địa phương ln tồn tại những khác biệt nhất định về địa hình, tập quán, văn hoá,…tạo
14


nên những đặc tính cần chú ý trong cơng tác quản lý đất đai và ảnh hưởng không nhỏ đến việc
phân quyền trong lĩnh vực này. Vì vậy, để đảm bảo sự thống nhất trong quản lý đô thị, khắc phục
mâu thuẫn, nên phân cấp toàn bộ các nội dung trong quản lý đất đai cho cấp thành phố trực thuộc
trung ương, quy hoạch sử dụng đất cũng chỉ nên xây dựng ở khơng gian cấp tỉnh. Do đó, Bộ Tài
nguyên & Môi trường cần xem xét kết hợp với các cơ quan, ban, ngành có liên quan xây dựng và
trình kế hoạch, định hướng phần quyền cũng như những văn bản sửa đổi, bổ sung quy định cũ
nhằm nhanh chóng khắc phục tình trạng thiếu đồng bộ, chưa phù hợp với đặc tính nơng thơn, đơ
thị.
Thứ ba, phân cấp, kiểm soát thực thi quyền lực khi triển khai phân quyền. Có thể nói, phần
quyền nhưng thiếu sự sát sao về kiểm soát quyền lực sẽ tạo một lỗ hổng lớn trong bộ máy quản
lý, dẫn đến tình trạng sai phạm, ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng phát triển của các vùng miền
khác nhau và tăng nguy cơ tham nhũng tại các cấp. Do đó, mặc dù phân cấp, phân quyền để tạo
điều kiện linh hoạt quản lý cho các cơ quan nhưng vẫn cần đảm bảo khuôn khổ thống nhất dưới
sự kiểm soát của Trung ương trên cơ sở Pháp luật. Sự kiểm soát của trung ương đối với chính
quyền địa phương sẽ là cơng cụ bảo đảm thực hiện hiệu quả quản lý cấp cơ sở, chuẩn hóa việc
cung cấp dịch vụ cơng trên địa bàn, hạn chế tối đa vấn nạn lạm dụng quyền hạn, đồng thời, hỗ

trợ thực hiện các chính sách quốc gia trong lĩnh vực đất đai. Do đó, cần ban hành văn bản mới
hoặc bổ sung các quy định pháp luật về phân cơng quyền lực rạch rịi cũng như thiết lập cơ chế
kiểm soát quyền lực chặt chẽ giữa Trung ương và địa phương với tiêu chuẩn minh bạch trong
quy trình thực hiện, trách nhiệm giải trình. Bên cạnh đó, sự tham gia giám sát của cộng đồng dân
cư tại địa phương nói riêng và nhân dân cả nước nói chung cũng vơ cùng cần thiết, góp phần
đem lại một hệ thống giám sát công khai với những đánh giá, khách quan, phù hợp.

KẾT LUẬN
Nhìn chung, hiện nay, hệ thống quản lý Nhà nước về đất đai ở Việt Nam đã từng bước hoàn thiện
trên các nguyên tắc cơ bản của pháp luật, cơ sở chỉ đạo và hướng dẫn triển khai của Chính phủ,
15


Bộ Tài nguyên & Môi trường cũng như sự nghiêm túc thực hiện của các cơ quan khác trong lĩnh
vực đất đai và các cơ quan liên quan. Trong đó, cần phải kể đến nỗ lực đổi mới sáng tạo và linh
hoạt trong cách thức quản lý của Uỷ ban nhân dân các cấp có thẩm quyền và cơ quan quản lý đất
đai tại địa phương. Do vậy, những năm gần đây, lĩnh vực đất đai đã có những chuyển biến quan
trọng về công tác quản lý cũng như giải quyết khiếu nại, tranh chấp.
Tuy nhiên, dựa trên việc tìm hiểu và nghiên cứu thực trạng, có thể thấy quy trình quản lý đất đai
nước ta vẫn cịn nhiều vấn đề mâu thuẫn, chồng chéo về thủ tục hành chính, thẩm quyền, kế
hoạch sử dụng đất, quy hoạch,…Đồng thời, những hạn chế về cơ sở dữ liệu cũng như công tác
thống kê hay phân chia địa giới hành chính cịn chưa thể khắc phục triệt để hoặc có những giải
pháp cụ thể hiệu quả. Trong những năm qua, trình độ chuyên môn các cán bộ chuyên trách cũng
tạo nên nhiều bất cập trong lĩnh vực quản lý đất đai. Cụ thể, thực tiễn cho thấy, hiện nay, năng
lực của công chức, viên chức quản lý đất đai còn yếu kém, chưa bắt kịp xu hướng hiện đại hoá,
ứng dụng thành thạo cơng nghệ thơng tin. Bên cạnh đó, những tiêu cực về đạo đức cán bộ cũng
là vấn đề đáng quan ngại khi tình trạng, lạm dụng quyền hạn, tham nhũng gia tăng cùng với
những phản hồi bức xúc từ phía người dân về cơng tác tiếp dân hay việc xử lý yêu cầu của người
dân về thủ tục hành chính trong lĩnh vực đất đai cịn quan liêu.
Với những đánh giá tình hình thực tế về hiệu quả quản lý Nhà nước trong lĩnh vực đất đai, có thể

đưa ra những kiến nghị hoàn thiện phù hợp với mục tiêu chung của Chính phủ cũng như những
tính chất đặc thù của lĩnh vực này nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, đáp ứng tốt nhất nhu cầu
người dân. Theo đó, về cơ sở pháp luật, Nhà nước cần nỗ lực hoàn thiện hành lang pháp lý về đất
với những sửa đổi, bổ sung làm rõ các khái niệm, nhiệm vụ, khắc phục mâu thuẫn giữa các luật,
văn bản liên quan. Bên cạnh đó, ngành quản lý đất đai cũng cần nhanh chóng ứng dụng cơng
nghệ thơng tin, xây dựng cơ sở dữ liệu số nhằm đảm bảo hệ thống thơng tin cơng khai và chính
xác. Đồng thời, cần nghiên cứu, làm rõ những vấn đề còn tồn đọng về phân cấp, phân quyền
trong quản lý đất đai để nâng cao hiệu quả quyền lực Nhà nước và đảm bảo quyền lợi của người
dân.

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo tình hình kinh tế xã hội tháng 7 và 7 tháng năm 2021. (2021). Tổng cục Thống
kê.
/>a-hoi-thang-7-va-7-thang-nam-2021/
2. Công tác quản lý, sử dụng đất đai: Cái nhìn tổng quan từ Kiểm tốn nhà nước. (2019).
Kiểm toán nhà nước.
/>3. Đánh giá những kết quả quan trọng trong công tác quản lý đất đai. (2020). Tổng Cục
Quản Lý Đất Đai.
/>-trong-cong-tac-quan-ly-dat-dai-2776.html
4. Đo đạc, bản đồ phục vụ công tác quản lý đất đai. (2020). Trung tâm Truyền thơng tài
ngun và mơi trường.
/>-ly-dat-dai-1190.html
5. 43ha 'đất vàng' tại Bình Dương cần phải thu hồi. (2021). Tiền Phong.
/>6. Kết quả thực hiện nhiệm vụ, công tác quản lý đất đai 9 tháng đầu năm 2021. (2021). Bộ
Tài nguyên và Môi trường - Bản tin.
/>g-dau-nam-2021.aspx
7. Một số tồn tại, hạn chế trong công tác quản lý đất đai. (2021). Bộ Tài nguyên và Môi

trường - Bản tin.
/>17


8. Ngành Quản lý đất đai Việt Nam: 75 năm xây dựng và phát triển. (2020). Bộ Tài nguyên
và Môi trường - Bản tin.
/>rien.aspx
9. Những khó khăn, phức tạp về án dân sự liên quan đến đất đai và giải pháp. (2021). Tổng
cục Thi hành án.
/>x?ItemID=40
10. Tỉnh Khánh Hòa: Dự án BT Trường Chính trị bị khởi tố. (2021). Cựu Chiến Binh Việt
Nam. 
/>11. Tổng Cục Quản lý đất đai (2020), Đánh giá những kết quả quan trọng trong công tác
quản lý đất đai, Hà Nội.
12. TS Vũ Ngọc Hà (2018), Phân cấp, phân quyền trong quản lý đất đai ở Việt Nam hiện
nay, Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam.
/>13. Trường Giang (2020), Quản lý thống nhất, sử dụng hợp lý nguồn lực đất đai: Căn cứ
quan trọng phục vụ mục tiêu phát triển bền vững, Báo điện tử của Bộ Tài nguyên & Môi
trường.
/>14. ThS. Nguyễn Uyên Minh (2021), Hồn thiện pháp luật nhằm phịng ngừa tham nhũng,

lợi ích nhóm trong quản lý, sử dụng đất đai, Ban Nội chính Trung ương, Hà Nội.
15. Bích Liên (2021), Hồn thiện bộ máy, tổ chức cơ quan quản lý đất đai trong tình hình

mới, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.

18


/>ong-tinh-hinh-moi-583618.html


19



×