Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Sang Kien kinh nghiem lop 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.5 KB, 29 trang )

PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn sáng kiến
Tiểu học là bậc học nền tảng, bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục
quốc dân. Đây là bậc học tạo ra những cơ bản ban đầu và bền vững về tri thức,
về kĩ năng cho trẻ, góp phần hình thành và phát triển nhân cách học sinh, giúp
các em học tốt ở bậc học tiếp theo. Chính vì vậy ở Tiểu học yêu cầu phải dạy đủ
9 môn học bắt buộc. Trong những mơn học đó mơn Tiếng Việt là môn học hết
sức quan trọng. Môn Tiếng việt giúp các em tiếp nhận những tri thức ban đầu,
sơ giản nhưng rất cần thiết về tiếng Việt phổ thông như: Ngữ âm, ngữ nghĩa,
ngữ pháp, từ vựng…Trên cơ sở đó rèn những kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết và kĩ
năng giao tiếp. Phân môn Tập đọc được coi như môn khởi đầu để học tiếp các
môn khác. Lúc đầu trẻ học để biết đọc, qua đó dùng đọc để học các môn học
khác và để tiếp thu các tri thức của nhân loại.
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của năm học 2017 - 2018 là “nâng
cao chất lượng và hiệu quả hoạt động giáo dục”. Những năm gần đây, cùng
với sự đầu tư và phát triển của giáo dục, chất lượng giáo dục ngày được nâng
cao. Giáo viên trường PTDT BT Tiểu học Khao Mang không ngừng học tập
nâng cao nghiệp vụ chun mơn, tích cực đổi mới phương pháp dạy học trong
đó có việc đổi mới phương pháp “rèn đọc” cho học sinh. Việc rèn kĩ năng đọc
cho học sinh bên cạnh những thành cơng cịn một số hạn chế, nhất là đối với lớp
2, các em mới chuyển từ lớp 1 lên, qua ba tháng nghỉ hè, nhiều em không
thường xuyên ôn luyện nên khi bắt đầu vào năm học lớp 2, kỹ năng đọc của một
số em còn hạn chế, dẫn đến kết quả “đọc” của một số lớp chưa cao, đặc biệt là
các lớp có nhiều học sinh dân tộc. Vì thế giáo viên cần phải dạy đọc bài Tập đọc
với giọng thế nào? làm thế nào chữa lỗi “đọc” cho học sinh, làm thế nào để các
em đọc đúng, đọc nhanh hơn, hay hơn, phối hợp đọc thành tiếng và đọc hiểu...
để hiểu nội dung văn bản được đọc, để cho những gì đọc được tác động vào
chính cuộc sống của các em. Chính vì lí do trên địi hỏi người giáo viên phải có
phương pháp dạy “đọc” như thể nào để giúp các em thực hiện được nhiệm vụ
phân môn Tập đọc. Trong điều kiện xã hội ngày càng phát triển, nhất là chúng ta



đang sống trong thời kì bùng nổ cơng nghệ thơng tin, nếu học sinh đọc chậm các
em sẽ bị hạn chế nhiều trong việc tiếp cận với công nghệ thông tin, các em sẽ
thiệt thòi trong giao tiếp, trong việc học tập... Trong suốt quá trình học tập học
sinh sử dụng “đọc” rất nhiều, các em đọc bài học, đọc bài ghi, đọc sách giáo
khoa, đọc truyện…chính vì vậy, dạy tốt phân môn Tập đọc không những rèn kĩ
năng đọc mà còn phát triển những kĩ năng khác. Qua việc học các bài Tập đọc
học sinh được tiếp xúc với ngơn ngữ văn học, bước đầu có khái niệm cơ bản về
nhân vật, hình ảnh, bố cục…góp phần hình thành và bồi dưỡng cho các em
những tình cảm tốt đẹp của con người như tình yêu quê hương đất nước, tình
thầy trị, tình bạn bè…, tình u Tiếng Việt.
Đối với học sinh Tiểu học nhất là đối với học sinh lớp 1, lớp 2 thì yêu cầu
đọc đến đâu hiểu - cảm nhận được đến đó thì quả là một điều rất khó, muốn làm
được điều đó thì giáo viên phải có những biện pháp để học sinh đọc được lưu
lốt, rõ ràng, đọc trơi chảy. Sau đó tuỳ từng bài, từng thể loại giáo viên tìm cách
khai thác, hướng dẫn cho học sinh hiểu ý tứ, nội dung, nghệ thuật của từng đoạn
văn và cả bài để có thể đọc cho đúng, có đọc đúng rồi thì mới luyện cho học
sinh đọc hay, đọc diễn cảm được (thực hiện mục tiêu rèn đọc cho học sinh).
Thực trạng việc rèn kĩ năng đọc cho học sinh trong các tiết Tập đọc ở một số
giáo viên trong trường cịn gặp khó khăn, còn lúng túng, giờ Tập đọc ở một số
lớp còn nhiều gò ép, học sinh “đọc” chưa đạt được kết quả như mong muốn đặc
biệt là đối với Tập đọc lớp 2. Là một giáo viên trường PTDTBT Tiểu học Khao
Mang, một trong những trường luôn coi trong về chất lượng giáo dục của
huyện Mù Cang Chải, tôi luôn băn khoăn cần phải làm thế nào để góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục qua việc dạy Tập đọc, cần phải có biện pháp rèn
đọc cho học sinh lớp 2 như thế nào để đạt được hiệu quả như mong muốn, nhất
là học sinh lớp 2A là lớp mà đa số học sinh có học lực hồn thành. Mặt khác,
lớp 2A có 88% số lượng học sinh là dân tộc Mơng, Thái, có 12% là dân tọc
kinh hầu hết các gia đình học sinh, cha mẹ làm ruộng, làm nghề tự do ... nên
các em ít được sự quan tâm của bố mẹ về học tập, bởi vậy giáo viên phải cố

gắng rất nhiều để đạt được mục tiêu giáo dục của nhà trường.


Xuất phát từ những lí do trên tơi đã tiến hành nghiên cứu đề tài: “Biện
pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2”
2. Mục đích của sáng kiến
* Về phía giáo viên:
Tìm ra biện pháp giúp học sinh lớp 2 có kỹ năng đọc đúng trong giờ Tập
đọc, qua đó từng bước nâng cao năng lực đọc đúng, đọc hay, đọc diễn cảm ở
mỗi học sinh, nhằm nâng cao hiệu quả của việc dạy học Tập đọc cho học sinh
lớp 2.
* Về phía học sinh:
Các em có kỹ năng đọc đúng, làm chủ được tốc độ đọc; học sinh say mê,
hứng thú khi học Tập đọc.
3 Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
* Phạm vi nghiên cứu:
Học sinh lớp 2A trường PTDTBT Tiểu học Khao Mang năm học 2016 2017.
* Đối tượng nghiên cứu:
Rèn kỹ năng đọc đúng cho học sinh lớp 2A trường PTDTBT Tiểu học
Khao Mang.
4. Thời gian nghiên cứu:
Bắt đầu thực hiện và áp dụng thực tế từ tháng 9 năm 2016 đến tháng 10
năm 2017.
PHẦN 2. NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận của sáng kiến
Đọc là q trình chuyển chữ viết sang lời nói có âm thanh và có ngữ điệu
- ứng với hình thức đọc thành tiếng, là quá trình chuyển trực tiếp từ hình thức
chữ viết thành các đơn nghĩa khơng có âm thanh - ứng với đọc thầm (Sổ tay
thuật ngữ phương pháp dạy học tiếng Nga của MR. Lô-vốp).
Con người thật là hạnh phúc khi biết đọc. Chúng ta đã biết phần lớn

những tri thức, khái niệm của đời sống và những thành tựu văn hóa, khoa học,
tư tưởng, tình cảm của thế hệ trước và cả của thời đương đại được ghi lại bằng


chữ viết, nếu khơng biết đọc thì con người khó có thể tiếp thu được nền văn
minh của lồi người, chúng ta sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc làm chủ xã hội
hiện đại. Không biết đọc con người không được hưởng thụ những thành tựu văn
hoá khoa học, tư tưởng, tình cảm của nhân loại qua ngơn ngữ viết. Đặc biệt là
trong thời kì bùng nổ thơng tin thì đọc càng quan trọng, vì nó sẽ giúp người ta
sử dụng tốt các nguồn thông tin. Biết đọc con người đã nhân khả năng tiếp nhận
lên nhiều lần. Từ đây, con người mới tìm hiểu đánh giá cuộc sống, nhận thức
mối quan hệ tự nhiên, xã hội. Biết đọc, con người có khả năng giao tiếp được
với thế giới bên trong của con người khác thông qua tác phẩm văn, thơ, bút kí...
của họ. Khơng biết đọc, con người sẽ khó có điều kiện hưởng thụ giáo dục mà
xã hội dành cho họ, khó có thể hình thành một nhân cách toàn diện. Đọc giúp
các em học sinh chiếm lĩnh được ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và học tập.
Nó là cơng cụ để học tập các mơn học khác. Đọc một cách có ý thức cũng sẽ có
tác động tích cực tới trình độ ngơn ngữ cũng như tư duy của người đọc. Đọc là
một kỹ năng quan trọng hàng đầu của con người. Nhờ biết đọc, con người có
thể tự học, học nữa, học mãi, học suốt đời. Đó là một u cầu khơng thể thiếu
được của con người trong thời đại hiện nay. Biết đọc, ngắt câu, đổi giọng cho
đúng ngữ điệu vừa đảm bảo được diễn cảm, hấp dẫn người nghe, vừa đảm bảo
đúng ngữ pháp, ý nghĩa thông tin của tác giả muốn truyền đạt cho người nghe
hiểu, nhận thức được đúng cũng là góp phần làm trong sáng ngơn ngữ Tiếng
Việt.
Chính vì vậy “đọc” có ý nghĩa to lớn ở bậc Tiểu học. Bước đầu trẻ học
“đọc”, sau đó trẻ “đọc” để “học”. Đọc giúp trẻ chiếm lĩnh được ngôn ngữ trong
giao tiếp và học tập, nó là cơng cụ để học các môn học khác, đọc tốt giúp các
em kĩ năng giao tiếp có giáo dục. Mơn Tập đọc ở Tiểu học có nhiệm vụ hình
thành năng lực hoạt động ngơn ngữ cho học sinh, thể hiện ở bốn chức năng:

nghe, nói, đọc, viết. Đọc không phải chỉ là công việc chuyển kí hiệu chữ viết
thành âm thanh mà cịn là q trình nhận thức để có kĩ năng thơng hiểu những
gì mình đọc được.
+ Rèn kĩ năng đọc thành tiếng:


- Phát âm đúng
- Đọc rõ ràng, liền mạch từng câu, đoạn, cả bài, biết ngắt nghỉ hơi hợp lí
sau dấu câu, giữa các cụm từ, các phần trong bài tập đọc.
- Cường độ, tốc độ đọc vừa phải (không đọc to quá hay đọc lí nhí).
- Tốc độ đọc vừa phải (không ê,a, ngắc ngứ hay liến thoắng), đạt yêu cầu
khoảng 35 đến 45 tiếng/phút.
+ Rèn kĩ năng đọc thầm và hiểu nội dung:
Biết đọc không thành tiếng, không mấp máy môi.
Hiểu được nghĩa của các từ ngữ trong văn cảnh (bài đọc); nắm được nội
dung của câu, đoạn hoặc bài đã đọc, trả lời được các câu hỏi ở cuối mỗi bài tập
đọc, tập nhận xét một số nhân vật, hình ảnh, chi tiết trong bài đọc.
+ Rèn kĩ năng nghe nói:
+ Nghe:
Nghe giáo viên đọc mẫu và nắm được cách đọc đúng các từ ngữ, câu,
đoạn, bài.
Nghe - hiểu các câu hỏi và yêu cầu của thầy, cơ.
Nghe- hiểu và có khả năng nhận xét ý kiến của bạn.
+ Nói:
- Biết cách trao đổi với các bạn trong nhóm học tập về bài đọc.
- Biết cách trả các câu hỏi về bài đọc.
+ Rèn tư thế đọc Tư thế đứng đọc thoải mái, khơng gị ép, đứng thẳng,
khoảng cách từ mắt cách sách giáo khoa khoảng 25-30 cm.
* Trau dồi vốn Tiếng Việt, vốn văn học, phát triển tư duy, mở rộng sự
hiểu biết của học sinh về cuộc sống.

Cụ thể là:
- Làm giàu và tích cực hoá vốn từ, ngữ, vốn diễn đạt.
- Bồi dưỡng vốn văn học ban đầu, mở rộng vốn hiểu biết về cuộc sống,
hình thành một số kỹ năng phục vụ cho đời sống và việc học tập của bản thân
(như khai lí lịch đơn giản, đọc thời khố biểu, tra và lập mục lục sách, nhận và
gọi điện thoại... )


- Phát triển một số thao tác tư duy cơ bản ( Phân tích, tổng hợp)
* Bồi dưỡng tư tưởng tình cảm và tâm hồn trong sáng, lành mạnh,
tình yêu cái đẹp, cái thiện, cách ứng xử đúng trong cuộc sống, từ đó các em
say mê, hứng thú đọc sách và thêm yêu Tiếng việt.
- Bồi dưỡng tình cảm yêu q, kính trọng, biết ơn và trách nhiệm đối với
ơng bà, cha mẹ, thầy cơ; u trường lớp; đồn kết, giúp đỡ bạn bè; vị tha, nhân
hậu.
- Xây dựng ý thức và năng lực thực hiện những phép xã giao tối thiểu.
- Từ những mẩu chuyện, bài văn, bài thơ hình thành lịng ham muốn đọc
sách, khả năng cảm thụ văn bản văn học, cảm thụ vể đẹp của tiếng Việt và tình
yêu tiếng Việt.
* Những yêu cầu cần đạt được sau khi học Tập đọc lớp 2.
- Kĩ năng đọc thành tiếng phát âm đúng rõ ràng các tiếng có vần khó, có
phụ âm đầu, có dấu thanh dễ lẫn.
- Đọc rõ ràng, mạch lạc, đảm bảo tốc độ theo quy định. - Ngắt nhịp đúng
câu văn, câu thơ, đọc trơn và lưu loát bài Tập đọc, biết phân biệt lời nhân vật
trong bài Tập đọc.
- Kĩ năng đọc hiểu: Hiểu được nội dung ý nghĩa bài Tập đọc.
* Nội dung, chương trình phân mơn Tập đọc lớp 2.
Trong q trình tìm hiểu sách giáo khoa lớp 2 tơi nhận thấy rằng: các bài
Tập đọc được phân bố vào từng tuần cùng với các phân môn khác. Các bài Tập
đọc được bố trí vào đầu mỗi tuần có vai trò làm cơ sở, chỗ dựa cho việc dạy các

phân mơn khác như: Chính tả, Luyện từ và câu, Tập làm văn… Mỗi tuần có 3
bài Tập đọc song học sinh được học 2 bài còn 1 bài các em tự đọc thêm, các bài
tập đọc đầu tuần được học trong 2 tiết. Các bài Tập đọc có đủ các thể loại: Văn
bản văn học, văn xuôi, thơ và một số văn bản nước ngồi. Trung bình mỗi chủ
điểm học trong 2 tuần, các em được học truyện vui ở kì 1, truyện ngụ ngơn ở kì
2, những câu chuyện này vừa để giải trí vừa có tác dụng rèn luyện tư duy và
phong cách sống vui tươi, lạc quan cho các em.


Các văn bản khác gồm văn bản báo chí, hành chính (tự thuật, thời khố
biểu, thời gian biểu, mục lục sách…). Thông qua văn bản này sách giáo khoa
cung cấp cho các em một số kiến thức kĩ năng cần thiết trong đời sống, bước
đầu xác lập mối quan hệ giữa học với hành, giữa nhà trường và xã hội.
- Mỗi bài tập đọc lớp 2 khoảng 100 chữ, yêu cầu đọc trong thời gian 2 đến
3 phút. Đọc đúng, rõ ràng từng từ, từng câu trong một đoạn, bài văn, bài thơ
ngắn, biết ngắt hơi ở dấu phẩy, nghỉ hơi ở dấu chấm. Bước đầu biết đọc thầm,
hiểu nội dung bài đọc ở lớp. Cụ thể, hiểu được ý nghĩa của các từ ngữ trong bài,
nắm được ý chính của từng câu, đoạn văn hay thơ đã học, trả lời được những
câu hỏi về nội dung của bài tập đọc.
- Cấu tạo sách giáo khoa, nội dung bài Tập đọc phù hợp với đối tượng học
sinh.
- Kênh hình đẹp hấp dẫn.
- Các bài tập đọc được trình bày khoa học và xếp theo chủ điểm.
Qua nhiều năm giảng dạy, tôi thấy chất lượng dạy Tập đọc ở một số lớp 2
trường PTDTBT Tiểu học Khao Mang còn chưa đạt được như mong muốn, một
số giáo viên còn chưa linh hoạt về phương pháp, hình thức dạy học. Một số ít
giáo viên còn chưa chú ý về cách rèn đọc cho học sinh, đặc biệt là học sinh lớp
2. Đọc đúng, đọc hay khơng hồn tồn đồng nghĩa với đọc nhanh, đọc to, vì
nhiều em đọc xong khơng biết nội dung của đoạn văn, bài thơ mình vừa đọc nói
gì. Đọc đúng, đọc hay nghĩa là ngoài yêu cầu đọc đúng chữ, rõ ràng, lưu lốt

cịn phải đọc hiểu, đọc hay, hay - tức là thể hiện được nội dung, sắc thái, cái
hay, cái đẹp của bài Tập đọc hoặc của một tác phẩm. Kĩ năng đọc được chia
thành 4 mức độ: đọc đúng, đọc lưu loát, đọc hiểu và đọc diễn cảm. Đối với học
sinh lớp 2 yêu cầu cơ bản là đọc đúng, đọc lưu loát, bước đầu đọc hiểu, đó là
nền tảng để các em đọc diễn cảm ở các lớp trên. Song một số giáo viên không
thành công ở tiết dạy Tập đọc, nguyên nhân quan trọng là phương pháp dạy học
của giáo viên chưa phù hợp.
Mặt khác trong quá trình giảng dạy đối với học sinh tiểu học nói chung,
đối với phân mơn Tập đọc nói riêng, một số giáo viên chưa đặc biệt chú ý rèn


cho học sinh một kỹ năng quan trọng - đó là “Kỹ năng đọc đúng”. Từ đó kỹ
năng đọc của học sinh trở nên hạn chế, học sinh đọc lướt lướt, không chú ý đọc
kỹ văn bản dẫn đến không hiểu nội dung văn bản và ảnh hưởng đến chất lượng
các môn học khác.
II. Thực trạng của sáng kiến
* Thuận lợi.
Trường PTDTBT Tiểu học Khao Mang đa số giáo viên có trình độ chun
mơn chuẩn và trên chuẩn, giáo viên nhiệt tình và trăn trở với cơng việc đặc biệt
là việc nâng cao chất lượng giáo dục. Đa số giáo viên linh hoạt trong việc sử
dụng các hình thức, phương pháp dạy học, tích cực tự học, tự bồi dưỡng nâng
cao nghiệp vụ chuyên môn. Ban Giám hiệu nhà trường phân công nhiệm vụ cụ
thể, phù hợp với năng lực của mỗi giáo viên. Nhà trường tổ chức có hiệu quả
các buổi sinh hoạt chuyên môn, tổ chức báo cáo sáng kiến kinh nghiệm của
những giáo viên thực hiện có hiệu quả trong năm học... vì thế giáo viên đã tích
luỹ, học tập được nhiều kinh nghiệm của đồng nghiệp để áp dụng vào giảng
dạy. Nhà trường được trang bị tương đối đủ đồ dùng dạy học, giáo viên tích cực
làm và sử dụng có hiệu quả đồ dùng dạy học, một số giáo viên có khả năng thực
hiện ứng dụng công nghệ thông tin hiệu quả trong dạy Tập đọc.
Học sinh lớp 2A trường PTDTBT Tiểu học Khao Mang học đúng độ tuổi,

đa số các em được cha mẹ quan tâm đến việc học tập. Các em được rèn đọc
nhiều hơn ở buổi chiều. Các em được tiếp cận nhiều với cơng nghệ thơng tin,
nhiều em thích đọc thơ, đọc truyện tranh ... nên nhiều em đọc thông thạo, trôi
chảy. Học sinh được trang bị tương đối đầy đủ sách giáo khoa và đồ dùng học
tập, nhiều em thích học Tập đọc.
* Khó khăn.
Về phía giáo viên.
Đã nhiều năm dạy Tiểu học và nhiều năm nghiên cứu về phương pháp
dạy Tập đọc, đặc biệt là Tập đọc lớp 2, tơi nhận thấy một số ít giáo viên cịn
phân biệt chưa thật rõ ràng được mục tiêu chính của phân môn Tập đọc lớp 2.
Học sinh lớp 2 chỉ cần đọc đúng, phát âm chuẩn và đọc lưu loát một bài Tập


đọc là chính, cịn phần đọc hiểu các em chỉ cần nắm được ý chính của đoạn, bài
hoặc ý nghĩa của bài Tập đọc, phần luyện đọc, giáo viên cần cho học sinh đọc
bài nhiều lần, luyện phát âm đúng, phát âm chuẩn, luyện đọc câu, đoạn, bài.
Mỗi học sinh trong giờ Tập đọc phải được đọc dưới mọi hình thức từ một, hai
đến ba lần. Một số giáo viên, phân bố thời gian trong tiết dạy chưa hợp lí, thời
gian dành cho luyện đọc cịn ít, thời gian dành cho tìm hiểu bài nhiều hơn. Một
số ít giáo viên mới chuyển từ bản về trường chính chưa thực sự đầu tư, đổi mới
phương pháp dạy học nhất là đối với phân môn Tập đọc, chỉ chú ý dạy đủ bước,
dạy đều đều cho đến hết bài, chưa biết cách sửa lỗi cho học sinh, chưa sử dụng
linh hoạt các hình thức dạy học trong khâu luyện đọc ... Cách thức tổ chức
luyện đọc của một số ít giáo viên còn tẻ nhạt, chưa tạo ra những “điểm mới”
trong cách luyện đọc, việc vận dụng nguyên tắc dạy học “Học mà chơi, chơi
mà học” còn chưa thực sự hiệu quả. Giáo viên chưa hệ thống được lỗi sai của
học sinh để tìm biện pháp sửa lỗi cho các em. Việc sửa lỗi cho học sinh chưa
kiên trì, xuyên suốt tiết dạy Tập đọc, chỉ sửa lỗi cho học sinh trong lúc luyện
đọc câu, mà chưa chú ý sửa lỗi khi đọc đoạn, bài, khi đọc lại hoặc khi luyện đọc
thuộc lòng.

Một số giáo viên giọng đọc còn chưa đúng mẫu, chưa diễn cảm, có giáo
viên cịn đọc ngọng, phát âm lệch chuẩn... vì thế chất lượng dạy Tập đọc chưa
đạt như mong muốn.
Một số ít giáo viên do đề cao quá mức yêu cầu cảm thụ văn học nên đã
biến giờ Tập đọc thành giờ giảng văn, cô giảng là chính, trị chỉ nghe, dành ít thì
giờ luyện đọc. Trong khi giảng nội dung hầu hết giáo viên sử dụng câu hỏi sách
giáo khoa là chính, chưa biết bóc tách câu hỏi, chẻ nhỏ câu hỏi, đặt thêm câu
hỏi cho phù hợp với đối tượng học sinh, nên không gây được hứng thú học tập
cho học sinh.
Các nguyên nhân trên dẫn đến một số học sinh khơng thích học Tập đọc,
chất lượng “đọc” của học sinh chưa được cao. Vì vậy việc tìm ra biện pháp rèn
kĩ năng đọc cho học sinh lớp 2 tơi thấy là thiết thực
Về phía học sinh


Trong một lớp học có rất nhiều đối tượng học sinh. Một số học sinh phát
âm lệch chuẩn chữ viết ở một số âm đầu s/x; tr/ch; l/n; l/đ; ... một số vần
anh/ăn; uôi/ôi, ươn/ơn... Ngắt nghỉ hơi tuỳ tiện, tốc độ đọc còn chậm, đọc rời
rạc, chưa biết nhấn giọng ở những từ gợi tả, gợi cảm; chưa cảm thụ được cái
hay, cái đẹp của bài văn, bài thơ. Kĩ năng đọc đúng, đọc hay của các em lớp 2
còn hạn chế, các em đọc một cách thụ động. Nhiều học sinh khá hơn cố gắng
đọc hay, đọc diễn cảm song vì khơng có kĩ năng đọc đúng, khơng biết nên nhấn
giọng chỗ nào, ngắt nhịp thơ ra sao, giọng đọc các câu phân loại theo kiểu câu
như câu kể, câu hỏi, câu cảm... phải đọc như thế nào nên vẫn không đạt kết quả.
* Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên.
+ Giáo viên:
- Chưa thực sự đầu tư vào tiết dạy Tập đọc, chưa biết hệ thống, phân loại
đối tượng học sinh để tìm biện pháp rèn đọc cho từng nhóm đối tượng.
- Chưa biết lựa chọn phương pháp, hình thức dạy đọc phù hợp, chưa đổi
mới hình thức luyện đọc dẫn đến học sinh nhàm chán, không hứng thú học tập

đọc. Giáo viên chưa kiên trì trong việc sửa lỗi cho học sinh.
- Chưa có biện pháp rèn kỹ năng đọc phù hợp, hiệu quả cho học sinh.
- Chưa xây dựng được thời gian biểu của tiết dạy cho hợp lí, xử lí các tình
huống trong giờ dạy chưa thật linh hoạt.
- Chưa tích cực làm và sử dụng đồ dùng dạy học, hoặc sử dụng đồ dùng
dạy học chưa thật hiệu quả.
- Một số giáo viên phát âm lệch chuẩn (ngọng n/l) nên không phát hiện ra
học sinh phát âm sai để sửa lỗi cho các em.
- Một số giáo viên mới ra trường chưa có kinh nghiệm giảng dạy, số ít
giáo viên mới ở bản về chưa quen với đối tượng học sinh.
- Giáo viên tiểu học phải dạy nhiều môn học (9 môn học) nên việc tập
trung đầu tư cho phân môn Tập đọc chưa nhiều.
+ Học sinh:
Học sinh lớp 2, mới từ lớp 1 lên, các em cịn nhỏ, hay qn, trí nhớ chưa
bền. Các em chưa có tính kiên trì trong sửa lỗi. Các em trong lớp có nhiều đối


tượng khác nhau, mỗi học sinh thường mắc những lỗi đọc khác nhau, một số em
mắc lỗi phát âm lẫn lộn từ giao tiếp trong gia đình (cha, mẹ nói ngọng). Ở lớp 1
các bài tập đọc còn ngắn, thường là dễ nhớ, dễ thuộc, và nội dung tìm hiểu bài
chỉ gồm những câu hỏi đơn giản, học sinh ít phải tư duy, thời gian dành cho
luyện đọc rất nhiều. Ở lớp 2, các bài Tập đọc thường dài hơn, những bài đầu
tuần thường dạy trong 2 tiết, nếu giáo viên khơng biết hướng dẫn luyện đọc thì
các em rất chóng chán, khơng tận dụng được thời gian để phát huy hết khả năng
đọc của mỗi học sinh. Lớp 2A là lớp đều học sinh dân tộc lớp có chất lượng đầu
năm thấp, Số lượng học sinh khảo sát đầu năm mơn Tiếng Việt chỉ đạt 25/41
em từ hồn thành trở lên trong đó có 15 em hạn chế phần đọc.
III. Các biện pháp giải quyết vấn đề
Xác định rõ ngun nhân chính dẫn đến thực trạng trên tơi đã tiến hành
một số bước sau:

* Bước 1: Đánh giá thực tế phân loại đối tượng học sinh
Đánh giá định tính trong quá trình giảng dạy kỹ năng đọc của học sinh lớp 2A
đầu năm.
Cụ thể, tôi đã đánh giá thực tế việc đọc của các em qua một đoạn văn.
Giáo viên chép lên bảng đoạn văn sau.
Xuân về
Thế là mùa xuân mong ước đã đến! Đầu tiên, từ trong vườn, mùi hoa
hồng, hoa huệ thơm nức. Trong khơng khí khơng còn ngửi thấy hơi nước lạnh
lẽo mà đầy hương thơm và ánh sáng mặt trời. Cây hồng bì đã cởi bỏ hết những
cái áo lá già đen thủi. Các cành cây đều lấm tấm màu xanh. Những cành xoan
khẳng khiu đương trổ lá, lại sắp buông toả ra những tán hoa sang sáng, tim tím.
Ngồi kia, rặng râm bụt cũng sắp có nụ.
Giáo viên lần lượt gọi từng học sinh đọc bài, với 3 mức độ sau: Hoàn
thành tốt, hoàn thành, chưa hoàn thành.
Cụ thể: Hoàn thành tốt: Học sinh đọc lưu loát, biết nhấn giọng đúng chỗ,
ngắt nghỉ phù hợp, bước đầu biết đọc diễn cảm.


- Hoàn thành: Học sinh đọc to, rõ ràng, ngắt nghỉ đơi chỗ cịn có thể chưa
phù hợp.
- Chưa hồn thành: Học sinh đọc còn sai nhiều. Sau khi cho học sinh
trong lớp đọc bài, có một số lỗi như sau:
Xuân bề
Thế là mùa xuân mong ước lá lến! Lầu tên, từ trong vờn, mùi hoa hồng,
hoa huệ thơm phứ. Trong khơng khí khơng cịn ngử tháy hơi nớc nạnh néo mà
đầy hương thơm và ánh sáng mặt trời. Cây hồng vì đã cợi bọ hết nhứng cái áo
đá già len tụi. Các cành cây đều lấn tấn màu xanh. Những cành xoan khẳng
khiu đương chộ lá, lại sắp buông toả ra nhứng tán hoa sang sáng, tim tím.
Ngồi kia, dặng dâm bụt cúng sắp có lụ.
Đánh giá sau khi cho học sinh đọc cụ thể như sau:

Tổng số
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
học sinh
được đánh Số lượng Tỉ lệ %
Số lượng Tỉ lệ %
giá định
tính
41
7
17%
28
70,8%
Đánh giá sau khảo sát cụ thể như sau:

Chưa hoàn thành
Số lượng

Tỉ lệ %

5

12,2

Qua khảo sát thực tế, tôi tiến hành lập danh sách, phân loại học sinh mắc lỗi
theo nhóm như sau:
Tổng
số
học
sinh


Ngọng âm đầu
n/l

41

l/đ
b/v
t/th

Ngọng
vần

Ngọng thanh

Đọc
chậm,
êa

Đọc
nhỏ

Đọc
liếng
thống

Ươc/ơc Sắc/ngã Hỏi/nặng
Ươn/ơn
iên/ên
(đọc sai

âm đôi

5/41
6/41
9/41
5/41
=12,2% =14,7% =21,9% =12,2%
Cụ thể:

3/41
= 7,3%

4/41
6/41
3/41
=9,7% =14,7% =7,3%


+ Về lỗi phát âm: Các em chủ yếu ngọng về âm đầu và thanh, ngọng vần
ít hơn. Cụ thể: học sinh chủ yếu lẫn âm l/n: 5 em người kinh (phần nhiều ảnh
hưởng do phát âm từ gia đình bố mẹ học sinh); có 2 em người dân tộc Thái phát
âm ngọng v/b; đ/b; t/th (ngọng phát âm địa phương), 4 em ngọng âm đầu cịn có
34 em học sinh dân tộc Mơng ngọng thanh sắc/ngã; hỏi/nặng; cịn 9 em ngọng
vần ươn/ơn, ươc/ơc; iên/ên.
+ Về lỗi diễn đạt: Cả lớp có 2 học sinh đọc trơi chảy, mạch lạc, bước đầu
có diễn cảm, 6 em đọc rõ ràng, ngắt nghỉ tương đối phù hợp, 13 em đọc được
bài tuy nhiên đơi khi vẫn cịn ngắt, nghỉ chưa đúng chỗ, chưa biết ngắt câu dài,
vẫn ngọng âm, còn 5 em vừa đọc vừa đánh vần, đọc chậm và còn mắc cả lỗi
phát âm (ngọng âm đầu và thanh), trong lúc đọc cịn dừng lại để đánh vần,
khơng đảm bảo tốc độ. Còn 3 em đọc được bài nhưng đọc liến thoắng, ngắt nghỉ

không đúng chỗ, đọc ào ào cho hết bài, còn 8 em đọc nhỏ.
Sau khi khảo sát, phân loại đối tượng tôi tiến hành lập danh sách theo dõi,
tập trung các nhóm học sinh mắc lỗi để xây dựng kế hoạch bồi dưỡng riêng.
Lập bảng theo dõi mức độ tiến bộ trong phát âm, những ưu khuyết điểm còn
mắc phải trong từng bài, từng tuần để từng bước dứt điểm.
Thông qua bảng thống kê giáo viên nắm được mức độ mắc lỗi của học
sinh trong lớp từ đó có kế hoạch sửa lỗi cho từng nhóm học sinh trong từng tiết
học, bài học, theo từng loại lỗi khác nhau.
Tóm lại: Bước khảo sát thực tế việc đọc của học sinh nhằm tìm ra để phân
loại các nhóm mắc lỗi khác nhau để tìm biện pháp khắc phục, sửa lỗi cho học
sinh. Đây là bước rất quan trọng để thực hiện tốt việc “rèn kĩ năng đọc” cho học
sinh.
* Bước 2: Chuẩn bị bài trước khi lên lớp
+ Tập đọc mẫu
Trước khi lên lớp, giáo viên phải nghiên cứu kỹ bài Tập đọc: Xác định
chuẩn kiến thức kỹ năng của bài, nắm chắc nội dung và ý nghĩa bài Tập đọc,
đặc biệt là thể loại bài Tập đọc, từ đó hình thành cách đọc, giọng đọc, cách ngắt
hơi, nghỉ hơi, cách ngắt nhịp câu thơ, cách lên giọng, xuống giọng ... cho phù


hợp. Đọc bài thành tiếng ít nhất hai đến ba lần để tự kiểm tra giọng đọc, cách
ngắt hơi, nghỉ hơi, ... của mình đã phù hợp chưa để kịp thời điều chỉnh cho bước
đọc mẫu của giờ Tập đọc. Giáo viên phải tập cho bản thân mình có giọng đọc
mẫu thật chuẩn. Đọc mẫu cho các em trong giờ Tập đọc là vơ cùng quan trọng
nó góp phần quyết định đến chất lượng đọc của các em trong giờ Tập đọc đó.
Giáo viên đọc mẫu phải đọc đúng, rõ ràng, trơi chảy, đảm bảo tốc độ và
diễn cảm, vì đây chính là cái đích về kỹ năng đọc mà học sinh cần đạt được.
Qua bài đọc mẫu của giáo viên cịn diễn đạt được đúng ý nghĩa và tình cảm mà
tác giả muốn gửi gắm trong bài tập đọc (đây chính là phương pháp trực quan tốt
nhất đối với học sinh lớp 2).

Nếu giáo viên còn phát âm chưa chuẩn nên gạch dưới những tiếng từ
mình hay mắc lỗi để khi đọc chú ý uốn nắn kịp thời tiến tới đọc chuẩn khi đọc
mẫu trước học sinh.
+ Phân tích nội dung bài
Tập đọc qua hệ thống câu hỏi cuối bài Giáo viên phải trả lời được các câu
hỏi vì các câu trả lời này sẽ giúp cho giáo viên xác định được mục đích, yêu
cầu, nội dung và phương pháp dạy bài Tập đọc. Trong một số bài Tập đọc giáo
viên có thể dùng thêm một số câu hỏi dẫn dắt trước khi vào các câu hỏi chính,
có thể chia câu hỏi trong sách giáo khoa thành các câu hỏi nhỏ, sắp xếp, hệ
thống lại các câu hỏi cho phù hợp (tránh những câu hỏi vụn vặt).
+ Lựa chọn phương pháp, hình thức dạy học - đặc biệt là lựa chọn biện
pháp rèn đọc cho học sinh.
Tuỳ từng bài Tập đọc, giáo viên lường trước các từ khó, phát âm dễ lẫn để
lựa chọn nhóm đối tượng luyện đọc nhiều hơn. Ví dụ bài tập đọc có nhiều âm
đầu khó, hay có vần dễ lẫn để chọn nhóm học sinh hay mắc lỗi đó luyện đọc kĩ
hơn. Lựa chọn hình thức luyện đọc ở phần đọc đoạn, bài hay phần đọc lại sau
tìm hiểu nội dung, có thể chọn các hình thức dạy học như: Trị chơi, thi đọc tiếp
sức, thi đọc đối đáp... để học sinh không nhàm chán. Cách luyện đọc nhóm cũng
cần linh hoạt, khơng nhất nhất cứ nhóm đơi. Bài có 3 đoạn chúng ta có thể luyện
đọc nhóm ba, bốn đoạn thì luyện đọc nhóm 4. Đến phần thi đọc nhóm trước lớp


cũng cần thay đổi linh hoạt, có thể thi chọn mỗi nhóm một em thi đọc, cũng có
thể thi đọc đồng thanh cả nhóm ... Tóm lại là giáo viên phải linh hoạt để tiết học
sinh động.
+ Bước soạn bài
- Xác định rõ mục đích, yêu cầu của bài Tập đọc bám sát Chuẩn kiến thức
kỹ năng cơ bản.
- Lập thời gian biểu cụ thể cho từng phần của bài Tập đọc (chú ý thời gian
dành cho luyện đọc của từng bài). Phần luyện đọc phải dành 20 - 25 phút/tiết.

Ví dụ: Phần đọc mẫu: khoảng 2 phút
Luyện đọc từng câu (học sinh đọc nối tiếp mỗi em 1 câu) (từ 5-7 phút):
phần này tuỳ bài dài hay ngắn, tuỳ số lượng học sinh phải sửa lỗi nhiều hay ít để
phân bố thời gian cho hợp lí. Thường thí dành nhiều thời gian hơn ở kỳ I và chú
ý sửa lỗi phát âm cho học sinh. Luyện đọc từng đoạn trước lớp (từ 5-7 phút): rèn
lỗi ngắt, nghỉ câu dài, cách đọc câu hỏi, câu cảm, ...
Đọc đoạn trong nhóm (từ 2-3 phút): học sinh tự sửa lỗi cho nhau. Thi đọc
nhóm trước lớp (5-7) phút: Có thể tổ chức trị chơi luyện đọc: đọc thi cá nhân
các nhóm, thi đồng thanh nhóm, thi đọc tiếp sức đoạn trong nhóm, đọc “truyền
điện”...
- Lựa chọn nhóm đối tượng hay mắc lỗi trong từng bài để dành thời gian
sửa lỗi cho nhóm này nhiều hơn.
- Lựa chọn hình thức luyện đọc cho bài, tránh trùng lặp gây nhàm chán
cho học sinh.
+ Bước chuẩn bị đồ dùng dạy học
Đây là bước quan trọng phục vụ cho giờ dạy, các tranh ảnh, sưu tầm các
câu thơ, ca dao, tục ngữ… để hỗ trợ thêm bài giảng thêm phong phú, phải lựa
chọn, sắp xếp, đưa ra lúc nào cho phù hợp để phục vụ cho mục đích tiết dạy, tận
dụng tranh minh họa trong sách giáo khoa và đồ dùng dạy học một cách thiết
thực có hiệu quả nhất. Khi dạy trình chiếu, có thể lựa chọn tranh ảnh phục vụ
cho việc giải nghĩa từ, giảng nội dung, cảm thụ bài văn, bài thơ... hoặc cho học
sinh nghe giọng đọc diễn cảm của bài Tập đọc.


Giảng bài.
Giáo viên cần dạy đúng quy trình của bài Tập đọc, đảm bảo về mặt thời
gian và khối lượng kiến thức cần truyền tải đến học sinh.
Chú ý trong khi giảng bài việc khen, động viên học sinh phải đúng lúc,
kịp thời, khơng khen nhiều q, hay ít khen quá làm tiết học buồn tẻ, không nên
chê học sinh mà chọn lời nói phù hợp để khuyến khích học sinh, các em rất hiếu

động vì thế mỗi lời khen, động viên của giáo viên đều phải đúng lúc, kịp thời.
Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà. Phải có sự chuẩn bị bài trước ở
nhà. Học sinh lớp 2 chưa có thói quen đọc trước bài ở nhà. Ngay từ đầu năm
học tôi đã hướng dẫn học sinh cách chuẩn bị một bài Tập đọc, để hình thành
phương pháp học bộ môn này.
Bước1: Đọc thầm một lần bài Tập đọc để làm quen mặt chữ, để cảm nhận
ban đầu về bài văn. Nếu học sinh đọc ngọng thì dùng bút chì gạch chân những
tiếng bản thân hay đọc ngọng để khi đọc chú ý để sửa.
Bước 2: Đọc thành tiếng hai lần, đầu tiên đọc đúng, rõ ràng từng từ, từng
câu (biết ngắt hơi ở dấu phẩy, nghỉ hơi ở dấu chấm) để sau đó tiến tới đọc diễn
cảm, đọc hay.
Bước 3: Đọc kỹ phần chú giải (có thể hỏi cha mẹ, anh chị những từ nào
chưa hiểu trong bài Tập đọc).
Bước 4: Tập trả lời câu hỏi dưới bài Tập đọc. Trước khi trả lời nên đọc
toàn bộ câu hỏi một lần, suy nghĩ động não trả lời từng câu sao cho gọn, đủ ý
(Có thể viết vào vở chuẩn bị bài).
Bước 5: Đọc thành tiếng lần cuối sao cho đúng, giọng đọc phù hợp với
nội dung của bài Tập đọc.
Kiểm tra đánh giá thường xuyên.
Sau mỗi bài Tập đọc, giáo viên ra bài tập và hướng dẫn học sinh học ở nhà
theo yêu cầu, giáo viên phải có kế hoạch kiểm tra việc học ở nhà đối với các
em.
Sau mỗi tiết, mỗi tuần, mỗi tháng, mỗi kì giáo viên cần đánh giá kiểm tra
trình độ của học sinh rồi ghi lại vào bảng theo dõi, từ đó giáo viên điều chỉnh lại


phương pháp giảng dạy hoặc giúp học sinh điều chỉnh lại cách học sao cho việc
dạy và học đạt hiệu quả cao.
Mặt khác xuất phát từ đặc điểm của lứa tuổi học sinh tiểu học: rất thích
được cơ giáo khen, thích gần gũi, vui vẻ cùng cơ giáo, ln cố gắng làm nhiều

việc tốt để được cô giáo chú ý, khen ngợi nên việc động viên, khen ngợi kịp
thời có tác dụng khuyến khích học sinh tích cực, hứng thú học tập hơn. Giáo
viên cần hạn chế việc chê bai học sinh một cách lộ liễu trước cả lớp. Đối với
những em chậm tiến bộ nên nhẹ nhàng nhắc nhở, tìm hiểu ngun nhân để tìm
cách khắc phục chứ khơng phê bình gay gắt, khơng xúc phạm đến học sinh,
khơng để học sinh chán nản, khơng thích học Tập đọc.
Dự giờ đồng nghiệp.
Trong trường có rất nhiều giáo viên có kinh nghiệm dạy Tập đọc, những
giáo viên mới về trường nên tích cực đi dự giờ, học hỏi đồng nghiệp. Sau mỗi
tiết dự giờ rút kinh nghiệm với giáo viên trực tiếp giảng dạy, bổ sung kiến thức,
phương pháp cho bản thân mình. Phần nào chưa rõ, chưa hiểu có thể trực tiếp
hỏi giáo viên giảng dạy để hiểu thấu đáo hơn.
Tóm lại: Giáo viên phải chuẩn bị bài kĩ lưỡng, chi tiết, dự phịng được
một số tình huống sư phạm khi giảng dạy và hướng giải quyết, xây dựng được
kế hoạch dạy học phù hợp với bài tập đọc, phù hợp với đối tượng học sinh của
lớp, lựa chọn phương pháp và hình thức dạy học phù hợp. Tích cực tự học, tự
bồi dưỡng để nâng cao nghiệp vụ chuyên môn.
* Bước 3: Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 2.
Biện pháp 1: Luyện đọc đúng (dùng cho nhóm lỗi phát âm ngọng)
- Học sinh đọc đúng tức là đọc một cách chính xác, khơng có lỗi, nghĩa là
khơng đọc thừa, thiếu tiếng, khơng đọc theo cách phát âm địa phương, lệch
chuẩn, đọc đúng chính âm.
- Giáo viên cần hướng dẫn học sinh có tâm thế để đọc: Tư thế đứng đọc
ngay ngắn, hít sâu, thở ra chậm để lấy hơi.
+ Luyện cho học sinh biết đọc đúng chính âm:
- Rèn đọc đúng là rèn cho học sinh thể hiện chính xác âm vị Tiếng Việt.


- Đọc đúng các phụ âm đầu: lạnh lẽo chứ không phải nạnh nẽo; thơm
nức chứ không phải thơm lức; lấm tấm, đen thủi, rì rào khơng đọc thành đấm

tấm; len tủi; đì đào…
- Đọc đúng vần: phân việt và đọc đúng các vần có âm đơi ươ, , iê. Ví
dụ: vườn, nước, đầu tiên... chứ khơng đọc là vờn, nơc, lầu tên…,
- Đọc đúng thanh: phân biệt giữa thanh sắc với thanh ngã; thanh nặng với
thanh hỏi. Ví dụ: Những ≠ nhứng; đỏ ≠ đọ, cởi bỏ ≠ cợi bọ…
Thực hiện: Trước tiên giáo viên cần luyện cho học sinh nói, đọc đúng
chính âm càng sớm càng tốt, tiếp đó chúng ta cần nắm các biện pháp chữa lỗi
phát âm bao gồm:
+ Chữa lỗi phát âm theo mẫu: Rèn cho học sinh kỹ năng nghe. Học sinh
phát âm sai, giáo viên phát âm chuẩn, yêu cầu học sinh nghe và đọc lại chính
xác theo mẫu. Giáo viên cho học sinh quan sát khẩu hình miệng cách bật âm
thanh, rồi học sinh làm theo mẫu. Giáo viên có thể để học sinh có giọng đọc
chuẩn đọc mẫu để học học phát âm sai đọc lại theo, cho học sinh gạch chân
tiếng có âm mình hay lẫn để luyện phát âm riêng những tiếng đó.
+ Chữa lỗi phát âm bằng biện pháp cấu âm: cho học sinh phân tích cấu tạo
tiếng: âm đầu, âm đệm, âm chính, âm cuối từ đó đánh vần đủ để đọc đúng,
không bỏ âm cuối hoặc âm đệm, hoặc lẫn các âm cuối (có thể cho học sinh vẽ
lại mơ hình cấu tạo vần, đưa vần vào mơ hình đã học ở lớp 1)
+ Chữa lỗi bằng âm trung gian, chữa lỗi phát âm bằng cách tìm tiếng, từ
có chứa âm dễ lẫn: ví dụ: “no” khác với “ lo” bằng cách tìm từ có tiếng “no”,
“lo”: ăn no, no nê, .. lo lắng, lo sợ, “đỏ” khác với “đọ”: màu đỏ, hoa đỏ ...
khác với đọ sức, so đọ ..., cũng có thể giáo viên dùng tranh ảnh (hoặc hình ảnh
khi dạy giáo án điện tử) để học sinh phân biệt, ví dụ phân biệt vần ơn/ươn: hình
ảnh vườn rau, vườn cây với hình ảnh đàn bướm vờn hoa...
+ Chữa lỗi theo nhóm: Khi học đến bài tập đọc nào có nhóm học sinh mắc
lỗi nhiều trong bài thì giáo viên phải tập trung vào nhóm học sinh đó để sửa lỗi
ngay, cố gắng, kiên trì với từng học sinh, có thể cho học sinh gạch chân chữ
mình hay đọc sai để khi đọc đến đó nhớ đọc cho đúng. Giáo viên cần chú ý kiên



trì chữa lỗi phát âm sai cho học sinh trong lớp ở tất cả trong các tiết học khác,
trong khi giao tiếp hàng ngày.
Tóm lại: Để hướng dẫn học sinh đọc đúng giáo viên phải luyện cách phát
âm đúng. Giáo viên phải kiên trì, liên tục có hệ thống. Nhiều học sinh phát âm
ngọng ngại không muốn đọc sợ các bạn cười, giáo viên phải giải toả tâm lí,
phân tích để các bạn cùng giúp đỡ, giáo viên nên lựa chọn hình thức sửa lỗi
trong đọc nhóm đơi, học sinh tự phát hiện tự sửa lỗi cho nhau.
Biện pháp 2: Luyện đọc nhanh (dùng cho nhóm học sinh đọc nhỏ, đọc
chậm, đọc ê, a, nhóm học sinh đọc liến thoắng)
Theo thực hiện Chuẩn kiến thức kĩ năng tốc độ đọc cần đạt ở mỗi học kì
khác nhau:
Giữa học kì I: khoảng 35 tiếng / phút.
Cuối học kì I: khoảng 40 tiếng / phút.
Giữa học kì II: khoảng 45 tiếng / phút.
Cuối học kì II: khoảng 50 tiếng / phút.
Đọc nhanh cịn gọi là đọc lưu lốt, đọc trơi chảy, đọc nhanh là nói đến
mức độ đọc về mặt tốc độ. Vấn đề đọc nhanh chỉ xảy ra sau khi đọc đúng. Mức
độ thấp nhất của đọc nhanh là đọc trơn, không đọc ê a, ngắc ngứ vừa đọc vừa
đánh vần. Song đọc nhanh không phải là đọc ào ào, liến thoắng, khơng thể hiện
được nội dung, tình cảm của bài Tập đọc. Tốc độ chấp nhận được của đọc
nhanh khi đọc thành tiếng trùng với tốc độ của lời. Khi đọc thầm tốc độ sẽ
nhanh hơn. Khi đọc cho người khác nghe thì phải đọc tốc độ kịp thời cho người
nghe hiểu được. Đọc nhanh chỉ thực sự có ích khi nó khơng tách rời việc hiểu rõ
điều được đọc.
Thực hiện: Hướng dẫn học sinh nắm được tiêu chí cường độ đọc:
Đọc to: là đọc đủ nghe, rõ ràng, không có nghĩa là gào lên. Những học
sinh đọc quá nhỏ cần yêu cầu học sinh đọc sao cho các bạn ở xa nhất lớp vẫn
nghe rõ. Giáo viên cần rèn cho học sinh ngay cả khi nói, khi trả lời câu hỏi cũng
phải to đú nghe, rèn trong mỗi bài Tập đọc, trong các bài học khác, trong giao
tiếp.... đến khi học sinh có thói quen đọc to.



Luyện cho học sinh không đọc ê a, ngắc ngứ, đọc lặp lại. Tốc độ đọc đảm
bảo theo yêu cầu, không đọc nhanh quá hay chậm quá. Muốn vậy phải luyện
cho học sinh làm chủ tia mắt khi đọc: Trước hết phải luyện cho học sinh đọc
khơng bỏ sót tiếng, bỏ sót dấu thanh; khơng thêm tiếng, bớt tiếng; khơng lạc
dòng. Để làm được điều này giáo viên phải yêu cầu học sinh thật kiên trì, bước
đầu có thể cho các em dùng que chỉ để chỉ vào từng chữ đọc cho chính xác, khi
đã quen mặt chữ rồi thì chỉ dùng mắt để nhìn chữ đọc cho đúng.
Giáo viên hướng dẫn học sinh làm chủ tốc độ bằng cách đọc mẫu đúng,
chính xác để học sinh đọc theo tốc độ đã định. Đơn vị đọc nhanh là cụm từ, câu,
đoạn, bài. Giáo viên điều khiển tốc độ bằng cách giữ nhịp đọc (có thể gõ thước
làm nhịp cho học sinh giữ nhịp đọc). Đối với những em còn đọc ê a hoặc đọc
liến thoắng giáo viên cần chỉ ra chính xác lỗi đọc sai của các em rồi từ từ hướng
dẫn các em sửa theo mẫu của giáo viên. Phần luyện đọc này thường thực hiện
khi các em luyện đọc thành tiếng. Đối với học sinh đọc liến thoắng giáo viên
tập cho họcsinh có thói quen đọc đúng nhịp bằng cách cho các em đọc theo nhịp
gõ thước của cơ giáo, cịn đối với học sinh đọc chậm (đọc ê,a) thì giáo viên sẽ
cho học sinh đọc từng câu, từng đoạn nhanh dần lên cho kịp bắt nhịp với các
bạn khác.
Ngồi ra cần sử dụng triệt để hình thức đọc thành tiếng nối tiếp trên lớp,
đọc thầm có sự kiểm tra của thầy của bạn để điều chỉnh tốc độ đọc. Giáo viên
đo tốc độ đọc bằng cách đọc bài Tập đọc trước và dự tính sẽ đọc trong thời gian
mấy phút. Định tốc độ đọc như thế nào cịn phụ thuộc và độ khó của bài đọc.
Ví dụ: Bài: Bím tóc đi sam (Tuần 4) học sinh có thể đọc trong vòng 2 đến
3 phút. Tốc độ đọc nhanh dần lên, đến bài “ Sơn Tinh, Thuỷ Tinh” (Tuần 25)
bài này chỉ yêu cầu đọc trong gần 2 phút.
Biện pháp 3: Luyện đọc hiểu (dùng cho tất cả các nhóm học sinh
trong lớp)
- Dạy học sinh đọc hiểu là dạy học sinh đọc có ý thức, hiệu quả đó đo

được bằng khả năng thơng hiểu nội dung văn bản.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×