Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Vu Trong Phung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.13 KB, 36 trang )

Nhà văn hiện đại (trích) - Vũ Ngọc Phan
(...) Vũ Trọng Phụng là một nhà văn sở trường về phóng sự dài (...) Những tập xuất sắc nhất
của ông là Kỹ nghệ lấy Tây và Cơm thầy cơm cô.
(...) Quyển Kỹ nghệ lấy Tây chỉ có giá trị ở những đoạn tả chân nho nhỏ, ở những sen đấu
khẩu, những sen đánh nhau, những sen gợi tình rất linh hoạt và rất tức cười của mấy cặp vợ
chồng. Ở những đoạn ấy, đôi khi người ta thấy một lối tả chân triệt để, làm cho người đọc có
cái cảm tưởng như thấy trước mắt một cảnh tượng bẩn thỉu, ghê gớm (chương III - Mày
không muốn nhận tao là chồng? trang 34 -Chương IX - Tư tưởng độc quyền, trang 112, vân
vân)
Cơm thầy cơm cơ là một tập phóng sự về những kẻ làm tôi tớ. Tập này là một phóng sự hay
nhất của Vũ Trọng Phụng. Ngịi bút tả chân của ông thật là tuyệt xảo khi ông tả những cảnh
nghèo khổ. (...) Trong tập phóng sự này, họ Vũ tự đóng một vai đứa ở, cũng như Tam Lang
đã tự nhận mình là một chân xe hàng. Nhờ đóng một vai đứa ở, nên cái việc kháo chuyện chủ
nhà với bọn “cơm thầy cơm cơ” hóa ra một chuyện dễ, và cũng nhờ đấy, câu chuyện hóa ra
đằm thắm, thân mật, như những chuyện nói xấu chủ nhà của anh chàng Gil Blas. Nhà này chủ
ác nghiệt, nhà kia chủ có con gái hư, nhà kia ơng chủ biển lận. Thật khơng bao giờ hết
chuyện. Tác giả có thể viết dài nữa về chỗ đứa ở kháo chuyện chủ nhà, nhưng tác giả đã muốn
dè dặt, có lẽ vì chính mình cũng là... một ơng chủ.
Chương VII (Bi hài kịch) trong quyển Cơm thầy cơm cô là một chương tuyệt hay. Vui buồn,
đủ cả, linh hoạt vô cùng và cũng thảm thiết vô cùng. Đây là mấy điệu chèo cổ, rồi kia là đám
thính giả nheo nhóc và khốn nạn, rồi nào cái cảnh thảm thương của con sen động kinh, câu
chuyện của anh đầu trọc, của thằng bé ho lao, của bà cụ già, rồi lại chuyện lính mật thám đến
bắt, thật là đủ cách, đủ trị, việc dồn dập một cách tuần tự và mạnh mẽ. Chỉ mười một trang
giấy mà biết bao tình nhân loại, biết bao nỗi thương tâm (...)
Lục sì là một cuộc điều tra về nạn mãi dâm ở Hà Nội, hay là một thiên nghị luận về nghề mãi
dâm theo những giấy tờ của chính phủ thì đúng hơn là một thiên phóng sự.
Cuộc điều tra này lại chỉ ở trong phạm vi đề phòng cứu chữa và trừng trị, nên tác giả chọn hai
chữ “Lục sì” làm nhan quyển sách. Nhà Lục sì ở Hà Nội, theo ý tác giả, tuy là nơi chữa thí,
nơi dạy dỗ khơng lấy tiền cho vài trăm “gái có giấy” nhưng nhà ấy đành chịu bó tay trước
hàng bốn năm nghìn “gái” đi ngang về tắt. (...)
Cây bút của Vũ Trọng Phụng trong những năm đầu là một cây bút phóng sự, một cây bút


phóng sự sắc sảo và khơn ngoan, sau ơng luyện ra nó một cây bút tiểu thuyết, nhưng cái giọng
phóng sự vẫn cịn.
(...) Khi Giơng tố của Vũ Trọng Phụng mới ra đời với cái nhan đề cũ là Thị Mịch, (...) người
ta bảo: tiểu thuyết ấy chỉ hay ở chỗ gợi lịng dâm dục (...) Những lời phê bình nghiêm khắc
của người ta hồi đó đã gợi tính tị mị của tơi, làm cho tơi phải tìm tập tiểu thuyết của Vũ
Trọng Phụng mà đọc. Cái đoạn tôi đọc hồi đó là đoạn Thị Mịch đã về nhà riêng Nghị Hách,
đã bị lão bỏ lửng, mặc nàng ôm bụng chửa mà buồn rầu tựa cửa sổ, đứng nhìn trên gác xuống
đường. Rồi từ một cô gái thơ ngây, Mịch đã hóa ra một người đàn bà ốn giận, muốn tưởng
tượng cho mình một cảnh gian díu với những khách qua đường để báo thù lại kẻ đã đầy đọa
tấm thân mình.
Cái đoạn ấy là một đoạn thật hay. Trước khi đưa ta đến cái việc sắp xảy ra (việc Mịch hiến
thân cho Long), tác giả đã mở bộ óc của Mịch cho ta trông thấy, chẳng khác nào một người
thợ mở cho ta xem các bánh xe và ống dẫn hơi nước, trước khi chỉ cho ta thấy cái động cơ ở


ngồi.
Đến khi quyển Giơng tố ra đời, tơi đã đọc từ đầu đến cuối và thấy cái đoạn tôi vừa kể, tác giả
là một đồ đệ của Freud. Tác giả tả Thị Mịch một cách vừa giản dị, vừa tỷ mỷ. Một cô gái quê
khỏe mạnh, vốn nhà nghèo, đã “biết mùi đời” trong một chiếc xe hịm kín đáo, bây giờ lại sa
vào cảnh nhàn hạ và phong lưu, cái cảnh làm cho khối óc non nớt dễ mơ tưởng đến những
điều dâm dục. Freud chả ví tình dục của người ta với một sự đói khát ăn uống là gì? Thị Mịch
chính là kẻ đói khát về đường tình đó.
Nhưng chỉ có riêng về đoạn ấy, khơng đủ rõ cái giá trị của Giông tố. Quyển tiểu thuyết của
Vũ Trọng Phụng làm cho người ta thấy rõ ảnh hưởng mạnh mẽ của hồn cảnh là nhường nào!
Vì hồn cảnh gia đình, vì hồn cảnh xã hội, hai kẻ vốn tính hiền lành và ngay thẳng như Mịch
và Long, rút cục đã trở nên người đàn bà bất chính và một thiếu niên hư hỏng. Ấy là chưa kể
Long là một kẻ đau khổ nhất vì hồn cảnh... Đọc chuyện Vũ Trọng Phụng người ta thấy mọi
việc liên tiếp một cách rất tự nhiên. Đó là tất cả cái tài dàn cảnh của tác giả.
Tác giả lập chuyện rất khéo, từ cái xã hội “xôi thịt” mục nát ở thơn q, đến cái xã hội “sâm
banh xì gà” ở thành thị, từ cái óc bủn xỉn của anh đồ kiết cho đến cái thói hoang tàn của anh

trọc phú, ta thấy đầy những ngu dốt, mê tín, bất cơng, mà vai trị nào cũng đều có mặt. Cái vai
Long tôi đã cho là không được tự nhiên trong khi chưa đọc hết chuyện, nhưng trong mấy đoạn
cuối, tác giả làm cho chàng hóa ra một kẻ chơi bời, khơng thiết đến gia đình, rồi sau đến phải
tự tử. Một kẻ vốn lương thiện, vốn đạo đức như Long mà phải ở vào cái cảnh đáng ghét như
thế, đành mặc việc đời xơ đẩy mình một cách bất ngờ như thế, nếu chẳng chơi bời thì sống
làm sao được. Cái lúc chàng tỉnh mộng là lúc chàng quyên sinh.
Giông tố là một tiểu thuyết đúc trong một luân lý sâu xa trên một nền gia đình và xã hội thật
đầy đủ. Ta chả thấy đủ các vai trong gia đình là gì? Rồi ngồi xã hội ta thấy một vị quan ngay
thẳng, một tay mọt dân nhảy lên đến tột bậc trong quan trường, một thiếu niên trí thức, vài cơ
thiếu nữ tân thời với cái thói đua chen dí dỏm, một thằng con bán trời không văn tự, những
cảnh trụy lạc trong làng bẹp, trong xóm yên hoa, một tay “cách mệnh”, một lũ dân đen, một
nhóm thợ thuyền, ấy là chưa kể Thị Mịch, Long và nghị Hách, những kẻ có thể làm tiêu biểu
cho nhiều người trong xã hội.
Ngồi bìa quyển sách, tác giả đề là “Xã hội tiểu thuyết”. Nhưng nếu theo ý kiến của các nhà
phê bình Âu tây thì “xã hội tiểu thuyết” là loại thiểu thuyết viết rặt về cảnh lầm than, vất vả
của thợ thuyền và dân quê. Giông tố không phải tiểu thuyết loại ấy. Nó chỉ là một tập tiểu
thuyết về phong tục thôi.
Những nhân vật trong tiểu thuyết Giông tố đáng lý ra nhiều chỗ phải được tả bằng những nét
bút não nùng cho hợp với cảnh thê lương của họ, thì lại hiện dưới những nét bút sắc sảo quá,
dưới những nét phóng sự mà chủ ý gây cho người đọc mối căm hờn đối với những sự bất
cơng. Về đường nghệ thuật, có lẽ chỗ ấy là chỗ sút kém trong Giông tố.
Nhưng nếu xét một cách tương đối, quyển Giông tố cũng đáng kể vào số tiểu thuyết có giá trị
của chúng ta ngày nay.
Số đỏ của Vũ Trọng Phụng là một quyển tiếu thuyết hoạt kê nhưng một lối hoạt kê khơng lấy
gì làm cao cho lắm.
“Xuân tóc đỏ”, một gã nhặt banh ở sân quần chỉ nhờ ở sự may mắn, ở “số đỏ” mà thấm thoắt
từ phận một gã lang thang trở nên một tay đắc lực cho một hiệu may tân thời, rồi dần dần
đóng vai “đốc tờ”, đóng vai diễn giả, đứng lên cải cách Phật giáo, rồi trở nên một tay cứu



quốc, một bậc vĩ nhân!
Có ai tưởng tượng được rằng trong một cuộc tranh đấu quần vợt của tuyển thủ hai nước, nếu
tuyển thủ của nước mình giữ phần thắng thì nước kia sẽ khai chiến với nước mình khơng? Ấy
Vũ Trọng Phụng đã tưởng tượng được như thế. Cái lối khôi hài của ông trong Số đỏ là cái lối
khôi hài nông nổi, tuy nhạo đời, nhưng không căn cứ. Nó giơng như lối khơi hài ở một rạp
chèo, hay “văn minh” hơn, nó giống lối khơi hài của mấy vai hề trên màn bạc.
Đọc Số đỏ không ai nhịn được cười, người ta cũng phải cười như nghe mấy vai bông lơn
trong một đám chèo hay xem mấy tay tài tử pha trị trong một phim chớp bóng, nhưng khơng
phải cái cười thú vị và thấm thía như ta đọc hài kịch của Molière.
Những đoạn tức cười như đoạn các nhân viên sở Cẩm phạt lẫn nhau, đoạn Xuân chữa thuốc
cho cụ Cố, đoạn Xuân ứng khẩu một bài thơ, đoạn Xuân nhét những tờ giấy nguy hiểm vài túi
quần hai nhà vô địch tennit để rồi giữ giải quán quân, đều là những đoạn nông nổi, tuy làm
cho người ta phải cười, nhưng chỉ có một lần thơi, vì nó là những việc khơng “đứng” được.
Trong Số đỏ cũng như trong những tiểu thuyết khác của Vũ Trọng Phụng, tác giả tin ở thuyết
tình dục quá, sự tin ấy đơi khi đàn áp cả mọi xét đốn của ơng, làm cho mỗi khi gặp một “ca”
khó hiểu, ông lại đem thuyết ấy ra giải quyết.
(...) Cái thuyết của Freud khơng phải hồn tồn đúng cả, vậy nếu lại tin ở thuyết tình dục một
cách thiên vị, khơng khỏi có sự sai lầm.
Riêng về mặt tả chân, ngịi bút của Vũ Trọng Phụng thật tuyệt. Có những sen con con, ông tả
khéo vô cùng. Đây là một gã nhặt banh ở sân quần đùa cợt nhả với một chị hàng mía: (...)
Những sen khác như sen bà Phó Đoan xem tướng, sen Xuân đưa Tuyết vào nhà bà Phó Đoan
một buổi sớm và tiếp đến sen cưỡng bức đều là những sen tả rất đúng. Có thể coi là những sen
tả chân triệt để.
Nhưng đọc quyển Số đỏ người ta thấy tư tưởng gì của tác giả? - Tư tưởng thủ cựu. Trong cả
quyển sách, những chỗ nhạo cái mới, chế giễu những phong trào cấp tiến đều đầy dẫy. Ông
nhạo báng, chế giễu một cách hằn học những cái mới, những cái mà người đời cho là tiến bộ,
nhưng ông không hề đề xướng lên một luân lý nào nên theo cả. Trong quyển Số đỏ, ông là
một người “phản động”, cái tên mà những người “khuynh tả” thường dùng để chỉ những
người không đồng ý kiến với họ.
(...) Làm đĩ cũng là một tiểu thuyết mà Vũ Trọng Phụng dùng chủ nghĩa tình dục của Freud

làm nền tảng. Nhưng vì muốn hơn Giơng tố một bực, nên ngồi sự phân tích ái tình mà tác giả
cho nó một nghĩa hẹp là dâm, tác giả muốn “tìm một nền luân lý cho sự dâm và giáo hóa cho
thiếu niên biết rõ tình dục là gì”(Thay lời tựa, Làm đĩ, trang 11). Trong khi đưa chúng ta vào
mấy bụi cây và phịng ngủ để nhìn cho rõ cái dâm của loài người với hết cả mọi sự suồng sã,
tác giả lại khốc áo nhà mơ phạm và giảng giải cho chúng ta biết sự rùng rợn của những việc
về xác thịt. Như vậy, thật là khó, vì hai sự hành động ấy không đi đôi được với nhau. Vũ
Trọng Phụng có can đảm hơ hào, nhưng ơng khơng đạt tới mục đích. Muốn đem vấn đề “nam
nữ giao hợp giảng cho tuổi trẻ”, mà hạng tuổi trẻ này là hạng chín mười tuổi cho đến mười
lăm, mười sáu. Nhưng tôi dám chắc tác giả chỉ viết trên giấy thôi, chứ không bao giờ dám
thực hành.
Cái khuynh hướng quá thiên của ơng về tính giáo dục làm cho quyển tiểu thuyết tả chân của
ơng kém hẳn đi. Vì giảng giải một chuyện tình theo khoa học trong một quyển tiểu thuyết là


một việc nhà văn khó lịng làm được.
(...) Quyển Làm đĩ còn một cái nhược điểm này làm cho người đọc mất cả hứng thú, tác giả
đã dồn chứa đủ tất cả các việc làm cho Huyền nhất định phải sa vào vịng trụy lạc, khơng cịn
sức gì để chống đỡ cả. Tác giả tả Huyền là một cô gái dâm dục, rồi từ chín tuổi trở đi, mỗi
ngày nàng một bị sa ngã, như bị lăn trên dốc xuống vực sâu, khơng cịn bám bíu vào đâu
được: Nào hết gặp thằng Ngôn ranh mãnh trong lúc thơ ngây, đến gặo người anh họ đến trọ
học trong lúc gia đình suy đốn, đến lúc lấy chồng, chồng lại mắc sẵn bệnh giang mai đồng
thời chồng nàng lại có một người bạn rất lịch sự, đẹp trai vừa giàu tiền vừa giàu trí, rồi đến
lúc dan díu với bạn chồng và việc thơng dâm vỡ lở, thì người bạn ấy lại bỏ đi phương khác,
làm cho nàng phải theo mà không gặp, đến nỗi tiền hết và phải hiến thân cho khách làng chơi
để sống qua ngày. Khi các ông thấy một vật gì lăn trên một dốc thẳng băng, khơng có một chỗ
nào mấp mơ hay quanh co ngăn cản, tất nhiên các ơng đốn ngay rằng thế nào nó cũng lăn
tuột xuống hố. Vậy đọc quyển Làm đĩ cũng thế, đến đoạn Huyền lấy phải anh chồng có sẵn
bệnh giang mai và gần nàng lại có thêm anh chàng đẹp trai và sang trọng, người ta cũng đoán
chắc đời Huyền sẽ kết liễu như thế nào. Thành ra năm mươi trang gần như thừa.
Có một đoạn làm cho khi mới đọc, người ta phải cảm động, đó là đoạn Huyền bị chồng hành

hạ và biết hối quá. Nhưng xét cho kỹ, một kẻ tội nhân bị xích chân và bị cùm kẹp, rồi mới
chịu đi đập đá thì cũng khơng lấy gì làm lạ.
Thật ra Huyền chỉ là một “ca” đặc biệt. Nếu căn cứ hết cả vào Huyền để giảng giải cái dục
tình chung của tất cả các phụ nữ thì rất sai. Vì khơng thể căn cứ vào một việc đặc biệt để rút
lấy một phương pháp giáo dục chung được. Vả lại, vệc giáo dục con gái ở như sự gìn giữ họ,
chứ khơng phải ở như sự giảng giải cho họ biết việc nam nữ giao hợp. Đến thời kỳ biết họ sẽ
biết, cái biết do ở bản năng, như tơi đã nói trên. Theo sự xét nhận của các nhà giáo dục, nếu
giữ gìn cho người đàn bà được đến năm 25-26 tuổi - sự gìn giữ này phải là sự gìn giữ âu yếm
của người mẹ hay người chồng - thì khơng cịn lo ngại mấy, vì tuổi này là tuổi thành nhân của
đàn bà.
Cũng như những quyển khác của Vũ Trọng Phụng, quyển Làm đĩ cũng có những đoạn tả
người tả cảnh thú vị, tỏ ra tác giả là một người lịch duyệt việc đời, đã từng băn khoăn về
những điều trông thấy (...)
*
Người ta bảo những người ngực yếu phần nhiều là những người dâm dục. Vũ Trọng Phụng
cũng thuộc về cái “ca” ấy. Trong tất cả các văn phẩm của ông, dù là phóng sự hay tiểu thuyết,
bao giờ ông cũng bị ý tưởng dâm dục ám ảnh. Từ Kỹ nghệ lấy Tây cho đến Lấy nhau vì tình,
khơng một phóng sự nào khơng một tiểu thuyết nào của ơng là khơng có những chuyện hiếp
dâm với những ảnh hưởng tai hại của nó. Ơng tin ở chủ nghĩa tính dục một cách thái quá và
tưởng rằng bất kỳ việc gì ở đời cũng có thể đem chủ nghĩa ấy ra giảng giải: bởi thế cho nên
nhiều khi xét đoán rất sai lầm.
Người ta sở dĩ ham đọc văn ông là vì ngọn bút tả chân của ơng. Ngọn bút ấy thật là sắc sảo,
nó tả như vẽ, chỉ vài ba nét người ta đã hình dung được những cảnh vật mà tác giả định tả với
những màu sắc linh động vô cùng. Nếu chỉ đứng về mặt tả chân đừng xen lẫn những ý kiến về
luân lý, về giáo dục vào, có lẽ tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng sẽ là những tập văn rất giá trị.
Nhưng ông đã đi lạc đường và ông đã sớm khuất, không kịp trơng cậy vào thời gian để sửa
chữa.
Về phóng sự, những sự bừa bãi, những điều giảng giải nhiều khi có thể tha thứ, nên về phóng
sự ơng thành cơng hơn là về tiểu thuyết.



Tuy đời văn của ông ngắn ngủi (ông mất chưa đầy ba mươi tuổi) nhưng ông đã để lại một lối
văn riêng, gây nên được nhiều đồ đệ, trong số đó có người gần được như thầy.
Ơng là một người không ưa những sự đổi mới, những tư tưởng cấp tiến, nhưng ông cũng
không phải người xu nịnh kẻ quyền quý hay tán dương những sự giàu sang. Ông là một nhà
văn khơng thiên về chính trị và khơng thuộc một đảng phái nào. Bảo ơng có óc bảo thủ, cũng
khí q, vì thật ra ơng chỉ ưa những sự phải chăng. Đối với giàu sang, ông thường hằn học,
thường tả bằng nét bút căm hờn, đối với những cái ngu dại, kém hèn của hạng bình dân, ơng
thường tả bằng những nét bút tai ác, tàn nhẫn, vậy ai có thể bảo ơng có óc bình dân hay q
phái được? Ơng chỉ theo lương chi mà viết, đơi khi theo cả bản năng mà viết nữa, nên có lúc
thì rất hợp lẽ phải và có lúc thật là thiên vị, làm cho người đọc phải ngạc nhiên.
Người ta ham độc ơng cịn vì những tư tưởng trào lộng của ông nữa. Ông mỉa đời một cách
cay độc, coi đời như một trò múa rối và điều thú vị là ơng biết chính mình cũng phải đóng
một vai trị như tất cả mọi người.
Về phần ông, tấn tuồng đã xong rồi (1), ơng có thể hồn tồn sung sướng, vì cái vai trị về
đường trí thức và tinh thần của ông, tuy ông đóng không bền, mà đã lỗi lạc hơn nhiều người
múa may từ lâu trên sân khấu.
-------(1) La farce est jouée - Rábelais
Trích sách NHÀ VĂN HIỆN ĐẠI. Quyển ba.
Nxb. Tân Dân, 1942.
Vũ Trọng Phụng - con người và tác phẩm, Nguyễn Hoàng Khung - Lại Nguyên Ân sưu tầm
và biên soạn, Nxb. Hội Nhà văn, H., 1994., tr. 140-150.
Vũ Trọng Phụng bàn về phóng sự và tiểu thuyết tả chân - Nguyễn Ngọc Thiện
Trong vài ba thập niên đầu thế kỷ XX, trong xu thế tìm đường hiện đại hóa văn xi chữ quốc
ngữ, các thể tài tiểu thuyết, phóng sự được một số nhà văn dụng bút thể nghiệm. Bước vào
làng văn bằng truyện ngắn đăng báo từ năm 1931, qua đời ở tuổi 27 với cuốn tiểu thuyết còn
dang dở, những tác phẩm tiêu biểu của văn nghiệp Vũ Trọng Phụng thuộc về 2 thể tài tiểu
thuyết và phóng sự tả chân: ơng để lại 9 cuốn tiểu thuyết và 7 tập phóng sự.
Tác phẩm gây sự chú ý của dư luận đương thời đối với Vũ Trọng Phụng là phóng sự đầu tay
Cạm bẫy người - ký bút danh Thiên Hư, đăng trên báo Nhật Tân, xuất bản tại Hà Nội, từ số 1

(02/08/1933) đến số 14 (01/11/1933). Năm sau, cũng trên báo này, ông lại cho in thêm phóng
sự thứ hai Kỹ nghệ lấy Tây (từ số 69 - 5/12/1934). Và chỉ với 2 phóng sự này, cùng cây bút
đàn anh đi trước Tam Lang Vũ Đình Chí và nhà văn đồng trang lứa Vũ Bằng, ông được liệt
vào hàng vài ba “nhà văn mở đầu cho nghề phóng sự của nước ta” (Lê Tràng Kiều - Văn học
tạp chí, số 4/1935). Đặc biệt, ông được Mai Xuân Nhân tôn vinh là “ông vua phóng sự của đất
Bắc” (dẫn theo Việt Trung, tập san Nghiên cứu văn học, số 5/1960). Danh hiệu này sau được
nhiều người tán thành, gọi theo, vì quả thực xưng tụng như vậy là xứng đáng với văn tài nhà
văn trẻ.
Mãi đến năm 1934, Vũ Trọng Phụng mới cho ra mắt cuốn tiểu thuyết tâm lý đầu tay Dứt tình
(cịn có tên khác là Bởi khơng dun kiếp) đăng trên tờ Hải Phịng tuần báo. Với tiểu thuyết
này, ơng chứng tỏ là “ngòi bút tả chân thực đã khéo léo” và tác phẩm có thể coi là “một bức
tranh... phỏng theo sự thực của cuộc đời, không tô điểm cho đẹp thêm, cũng không bôi nhọ


cho xấu đi” (Tràng An).
Song, sang năm 1936, ngòi bút tiểu thuyết của ông nở rộ, đạt kỷ lục xuất sắc: chỉ trong vòng 1
năm, 4 cuốn tiểu thuyết được lần lượt xuất hiện trên báo, thu hút sự tìm đọc của cơng chúng.
Đó là Giơng tố (trên Hà Nội báo từ số 1 - 01/01/1936); rồi Số đỏ (cũng trên Hà Nội báo, từ số
40, 7/10/1936). Tiếp đó là Vỡ đê (trên báo Tương lai, từ số ngày 27/09/1936) rồi đến Làm đĩ
(đăng trên Sông Hương, phát hành tại Huế năm 1936).
Với những phóng sự, tiểu thuyết nói trên, tên tuổi của Vũ Trọng Phụng đã trở nên quen biết
với người đọc. Ông xác lập chỗ đứng chắc chắn trong làng văn, chiếm được cảm tình của
đơng đảo bạn đọc. Một cây bút đương thời không ngần ngại xem ông là “một tay thiện nghệ
trong văn tả thực” (Lê Tràng Kiều). Nhà văn Phùng Tất Đắc khen ngợi Vũ Trọng Phụng đã có
“những cơng trình có thể vạch phương hướng cho văn nghệ... góp được tài liệu cho đời sau
khảo sát về buổi này”.
Bên cạnh đó cũng có khơng ít ý kiến chê bai, phản bác Vũ Trọng Phụng về các tác phẩm nói
trên. Từ năm 1936 đến khi Vũ Trọng Phụng qua đời năm 1939, đã nổ ra cuộc tranh luận
chung quanh vấn đề “Dâm hay không Dâm” trong phóng sự, tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng.
Đối thoại, đáp lại những ý kiến nhằm vào cơng kích ơng và tác phẩm của ơng, Vũ Trọng

Phụng đã có dịp thẳng thắn, cơng khai trình bày quan điểm nghệ thuật của mình, về động cơ
và mục đích của lối viết tả chân mà ông đã thực thi trong sáng tác. Tất cả gom lại khoảng ngót
chục bài báo gồm: thư ngỏ gửi Thái Phỉ; thư ngỏ cho một độc giả; đáp lại bài của Nhất Chi
Mai; bác lại ý kiến của báo Phong hóa, báo Ngày nay; trả lời phỏng vấn của Lê Thanh về 2
tiểu thuyết Giông tố, Làm đĩ; bài thay lời tựa cho tiểu thuyết Làm đĩ khi in thành sách; những
lời giới thiệu phê bình cuốn tiểu thuyết mới Tắt đèn của Ngơ Tất Tố... Ngồi ra cũng cần kể
thêm vào đó những bài lược dịch của Vũ Trọng Phụng về các ý kiến của các nhà văn, nhà thơ
nước ngoài như G. Maupassant, J. Richepin, A. de Vigny; bài viết của ơng về đặc tính của
kịch lãng mạn cũng như câu chuyện ông kể về một nhà văn sĩ vô danh đã sáng tác như thế
nào... đăng trên báo những năm 1931-1932. Qua đó, chúng ta có thể hiểu sâu hơn, từ ngọn
nguồn nào đã khiến ơng có lập trường rõ ràng, dứt khốt và quyết liệt khi tranh luận, đụng
chạm trực tiếp sau này.
1. Vũ Trọng Phụng lược thuật ý kiến của các nhà văn hiện thực G. Maupassant, J. Richepin,
qua đó bộc lộ thiên hướng sáng tác văn tả chân và tư cách nhà văn xã hội
Những năm đầu bước vào làng văn, thể nghiệm các sáng tác đầu tay ở thể tài truyện ngắn và
kịch, Vũ Trọng Phụng đã bộc lộ khuynh hướng tìm đến với chủ nghĩa hiện thực, có cảm tình
với các nhà văn tả chân xã hội. Ơng tìm đọc họ, lược dịch để truyền bá quan điểm, tư tưởng
nghệ thuật của các nhà văn phương Tây thuộc trào lưu hiện thực phê phán (thế kỷ trước hoặc
đương thời) như G. Maupassant, J. Richepin... Qua đó ơng gián tiếp bộc lộ khuynh hướng
sáng tác của mình cùng đồng nhất với các nhà văn này. Từ ý kiến của các nhà văn nói trên,
Vũ Trọng Phụng tập trung nhấn mạnh các khía cạnh mà theo ơng là chủ yếu đối với nhà văn
tả chân:
- “Chỉ tả sự thực, toàn một giống thực”. Nhưng sự thực ở đời và sự thực trong sách là có
khoảng cách, khơng giống nhau hồn tồn. “Đó là những sự thực có ý vị, chớ chẳng cốt nêu
cái thực hoàn toàn”.
- Nhà văn tả chân phải là người từng trải cuộc đời, chú mục phơi bày những cảnh đời bình dị,
những con người bình thường. Tác phẩm của họ cần phơ diễn tính tình và hành động của các
hạng người sao cho sinh động, thanh thoát, tự nhiên. Qua sự cảm nhận và kinh lịch của mình,
nhà văn tả chân giúp người đọc tỏ tường các mặt thực của đời, chiều sâu của đời sống xã hội,



sự phồn tạp trong hoạt động tinh thần, tâm - sinh lý của các hạng người đời.
- Không thể kết án nhà văn tả chân khi họ miêu tả những thói xấu của xã hội, những cái đê
tiện của người đời và gọi chúng bằng tên thật của nó. Nhà văn tả chân dũng cảm đối diện với
sự thật, dù nó tàn nhẫn, khắc nghiệt, trái với sự mong đợi của mình. Anh ta khi viết khơng đổi
trắng ra đen, khơng che đậy hoặc huyễn hoặc lừa mình, dối người, cũng khơng cốt làm hại
đến ln lý, phong hóa cần được tơn trọng. Viết trung thực, có sao nói vậy, không thêm bớt,
tô điểm, vẽ vời, tức là tôn trọng người đọc, nêu cao tinh thần khoa học, để có thể khám phá
chân lý cuộc sống. Khuynh hướng tả chân như vậy là phù hợp với sự phát triển và tiến bộ xã
hội, đáp ứng đòi hỏi của người đọc trong một thế giới văn minh, hiện đại (1).
2. Quan điểm của Vũ Trọng Phụng trong tranh luận “Dâm hay không Dâm”.
Cuộc tranh luận từ lúc mở đầu đến lúc kết thúc, kéo dài trong 3 năm, từ cuối năm 1936 đến
cuối 1939.
Chính Thái Phỉ, chủ bút báo Tin văn, trên số báo 25 ra ngày 01/09/1936 là người châm ngòi
cho cuộc tranh luận qua bài Văn chương dâm uế. Trong bài này, ông không nhằm vào cá nhân
Vũ Trọng Phụng, người mà ơng vẫn q mến văn tài. Ơng chỉ muốn gióng lên hồi chng
cảnh báo một khuynh hướng văn chương nguy hại tả cái dâm uế một cách quá táo bạo, khó
coi, trần truồng hết sức gây phản cảm trong độc giả. Ơng gọi đó là thứ “văn chương dâm uế”
khơng có tính nghệ thuật cần có.
Thái Phỉ khơng hẹp hịi đối với việc lấy dâm uế, sự xấu xa bẩn thỉu làm đối tượng miêu tả của
văn chương. Ông chỉ phản đối cách miêu tả những cái đó một cách quá đà, quá mức đến lõa
lồ, sống sượng cốt đánh vào cân não người đọc mà không chú trọng đến mục đích cao đẹp
hồn tồn của nghệ thuật lành mạnh. Ở đây Thái Phỉ đã chú ý phân biệt cái mà ngày nay
chúng ta gọi là đối tượng miêu tả, động cơ và hiệu quả của tác phẩm trong đời sống xã hội,
trong sự tiếp nhận của công chúng.
Phải nhận rằng bài viết này của Thái Phỉ tuy sơ sài, nhưng quan điểm là đúng mực, có tính
chất xây dựng, khơng có ý định gì cơng kích tác phẩm của họ Vũ, hoặc biểu lộ “cái lịng
khơng thành thực” của ông đối với Vũ Trọng Phụng, như sau đó Vũ Trọng Phụng ngộ nhận
(2).
Chính Thái Phỉ, cách đấy 2 năm trên Ngọ báo đã có bài khen ngợi thành cơng của Vũ Trọng

Phụng với phóng sự Cạm bẫy người. Ơng thực lịng khen họ Vũ đã có một tác phẩm “có giá
trị về phương diện khảo chứng (documentation) cũng như về phương diện văn chương”. Cạm
bẫy người được viết một cách có nghệ thuật, có “sức cám dỗ người đọc” với mục đích chính
đáng là phê phán, “lật tẩy” hiện tượng xã hội xấu xa là cờ bạc bịp. Giọng trào phúng mát mẻ
của Vũ Trọng Phụng được coi là thích hợp. Thái Phỉ cũng đã rất tinh khi nhận ra khuynh
hướng tả chân mà họ Vũ theo gót các bậc thầy như G. Maupassant, G. Flaubert, đồng thời ông
cũng dè chừng lối viết mà theo ông dễ bị quy là tính chất khiêu dâm trên những truyện ngắn
đầu tay của Vũ Trọng Phụng.
Bởi vậy, người đọc lấy làm ngạc nhiên khi thấy Vũ Trọng Phụng phản ứng gay gắt với Thái
Phỉ qua bài Thư ngỏ cho ông Thái Phỉ, chủ bút báo Tin văn về bài “Văn chương dâm uế”
đăng trên Hà Nội báo số 38 ngày 23/09/1936. Phải chăng bài của Thái Phỉ chỉ là cái cớ để Vũ
Trọng Phụng nói cho đã, cho hả, công khai đối lập quan điểm với những người khác vì đố kỵ,
vì muốn tranh độc giả mà châm chọc ông?
Vũ Trọng Phụng nhận rằng do mình là một trong số những nhà văn tả chân, nên khi đọc bài


của Thái Phỉ, ơng thấy có trách nhiệm phải bộc lộ thái độ cho rành mạch. Ơng thẳng thắn nói
rằng lý lẽ của Thái Phỉ là khơng có sức thuyết phục, bởi tối tăm, luẩn quẩn, là sự phỉ báng,
phạm thượng đối với văn chương tả thực.
Bắt bẻ chữ nghĩa của Thái Phỉ đã dùng, Vũ Trọng Phụng đứng ở vị trí người viết phản ứng dè
chừng trước ý đồ quy chụp thiển cận rằng ông đã miêu tả cái dâm để khiêu dâm người đọc,
khiến họ mất đi sự tỉnh táo, phê phán cần thiết. Họ Vũ tự tin với mục đích viết văn chính đáng
của mình: viết về cái xấu xa, nhơ bẩn, dâm uế để tố cáo, lên án nó, khơi dậy trong độc giả sự
cơng phẫn, đối phó chống lại thực trạng và những kẻ thủ phạm gây ra những tệ nạn xã hội xấu
xa ấy.
Có thể thấy, trên những nét cơ bản, quan điểm của Thái Phỉ cũng như của Vũ Trọng Phụng về
đối tượng và mục đích viết về những cái xấu xa, dâm uế, nhơ bẩn của xã hội... là gần gũi,
đồng thuận nhau. Chỗ khác nhau trong quan niệm của mỗi ông chỉ là ở chỉ mức độ và cách
viết như thế nào thì là phải và có thể chấp nhận được, để khơng rơi vào tình trạng khiêu dâm
người đọc.

Như trên đã nói, Thái Phỉ e ngại về sự miêu tả quá đà, nhồi nhét quá mức cảnh dâm uế vào bất
cứ đâu, làm cho người đọc mụ mị trong cân não mà hoặc ghê sợ hoặc “rung động” một cách
lệch lạc, bị kích thích về mặt thú tính của con người.
Cịn Vũ Trọng Phụng thì sao? Ơng khẳng định: nhà văn tả chân có quyền và bổn phận tả
những cảnh thuộc về đời sống tình dục tự nhiên của con người, về cái dâm thuộc về thiên tính
- nhưng lúc nào cần tả, lúc nào khơng nên tả thì cần phải cân nhắc để văn chương không rơi
vào khiêu dâm. Còn thứ dâm uế, dâm loạn - tức những hành vi xấu xa, cần lên án thì cần phải
mơ tả kỹ về nó, lơi nó ra dưới ánh sáng ban ngày, có vậy mới khiến người đọc bất bình, cơng
phẫn, lên án nó. Vũ Trọng Phụng khơng tán thành lối viết nửa kín, nửa hở, che đậy bằng
những câu văn thanh nhã, bóng bẩy vì như vậy chỉ tổ làm cho người đọc tị mị mà thơi. Ơng
chủ trương lối viết thẳng thắn, nói toạc ra các khía cạnh của sự thật dù có tàn nhẫn, khó coi
nhưng đó sẽ là sự thật cay nghiệt giống như liều thuốc đắng khó nuốt nhưng sẽ làm cho người
bệnh mau khỏi.
Ở đây, không thể không thấy sự cực đoan trong quan điểm nghệ thuật của Vũ Trọng Phụng.
Bởi trong miêu tả nghệ thuật, ranh giới giữa hiệu quả gây tỉnh táo để phê phán, tố cáo với xui
khiến sự tò mò, chuộng lạ, thích thú tự nhiên, bản năng... thật khó mà phân biệt một cách
khách quan trên văn bản.
Một năm sau những ý kiến qua lại giữa Thái Phỉ và Vũ Trọng Phụng, cuộc tranh luận được
đẩy lên đến đỉnh cao khi Nhất Chi Mai viết bài: Ý kiến một người đọc: Dâm hay không Dâm?
đăng trên báo Ngày nay, số 51 ra ngày 14/03/1937.
Nhất Chi Mai không ngần ngại chỉ trích đích danh Vũ Trọng Phụng là một nhà văn xã hội kỳ
quặc “nhìn thế giới qua cặp kính đen, có một bộ óc cũng đen và một nguồn văn càng đen
nữa”. Theo Nhất Chi Mai, bức tranh xã hội và đời sống con người trong tác phẩm của Vũ
Trọng Phụng thuần một màu đen tối, như một địa ngục với những kẻ giết người, làm đĩ, ăn
tục, nói càn. Qua đó, khơng hé ra cho người ta thấy một tư tưởng lạc quan nào, một tia hy
vọng nào. Mà tệ hơn nữa, ông lại viết những câu văn sống sượng, trần truồng, mô tả những
cảnh nhơ nhớp một cách khối trá, thích thú chẳng khác nào khiêu dâm người đọc.
Nhất Chi Mai chỉ trích loại văn nói trên khơng thể xem là “kiệt tác”, “đúng sự thực”, “can
đảm” được, thực chất chỉ là một loại văn “dơ dáy, bẩn thỉu, nhơ nhớp” mà thơi - độc giả có
lương tri khơng nên để mình bị lừa mị mà tin theo những lời rỗng tuếch, huênh hoang, tâng



bốc nhau của họ.
Lúc này Vũ Trọng Phụng không thể khơng lên tiếng một lần nữa. Ơng viết một bài dài “Để
đáp lại báo Ngày nay: Dâm hay là không Dâm?” bác lại hoàn toàn ý kiến của Nhất Chi Mai.
Vũ Trọng Phụng vạch chân tướng của Nhất Chi Mai, chỉ ra rằng Nhất Chi Mai đã né tránh khi
chỉ nhận mình trong tư cách một độc giả bình thường, trong khi Vũ Trọng Phụng biết một
cách tỏ tường rằng Nhất Chi Mai còn là một người viết, đại diện cho một văn phái, một
khuynh hướng sáng tác đương thời - khuynh hướng lãng mạn của Thơ mới, của Tự lực văn
đồn và các cơ quan ngơn luận của nó là Phong hóa rồi Ngày nay.
Vượt lên sự đối thoại cá nhân với cá nhân, Vũ Trọng Phụng vạch ra sự khác biệt như nước với
lửa giữa 2 văn phái lãng mạn / hiện thực trong cái nhìn đời sống xã hội, trong cách miêu tả
hiện thực và con người.
Văn phái lãng mạn bó hẹp trong sự cổ động cho phong trào “vui vẻ trẻ trung”, giải phóng cá
nhân khỏi những lề thói xưa cũ để được tự do yêu đương, được mình là mình trong các quan
hệ gia đình. Họ đã chạy xa sự thật nhãn tiền của xã hội, không thấy những bức xúc rộng lớn
hơn đang tác động vào sự sinh tồn của con người. Nấp sau những danh từ mỹ miều, điêu trá,
dựng lên những nhân vật phụ nữ giả dối, có bề ngồi đáng u, xinh xắn nhưng bên trong thì
mục ruỗng cả về tinh thần lẫn thể xác - văn phái lãng mạn chỉ có thể sản sinh ra thứ văn
chương “tùy thời”, cơ hội, nhằm chiều nịnh một bộ phận người đọc mà thị hiếu là ưa thích sự
giả dối, khơng dám đối diện với sự thật đau lòng của xã hội mà tự ru ngủ và thỏa mãn với
cuộc sống hiện tại.
Đối lập lại, là một người thuộc văn phái tả chân, Vũ Trọng Phụng theo một quan điểm trái
ngược, xung đột với quan điểm của văn chương lãng mạn. Ông dõng dạc tun bố: “Tơi và
các nhà văn cùng chí hướng như tôi, muốn tiểu thuyết là sự thật ở đời. Các ơng muốn theo
thuyết tùy thời, chỉ nói cái gì thiên hạ thích nghe, nhất là sự giả dối. Chúng tơi chỉ muốn nói
cái gì đúng sự thật, thành ra nguy hiểm, vì sự thật mất lịng”.
Vũ Trọng Phụng tiếp tục khẳng định mục đích cao đẹp của văn tả thực: cất tiếng nói phản
kháng xã hội bất cơng, mục nát, xấu xa, phản tiến bộ, trong đó người lao động lương thiện bị
bóc lột, đè nén, bị bần cùng và tha hóa, bên cạnh đó tầng lớp trên thì ăn chơi trác táng, xa hoa,

phè phỡn, lố lăng. Ông cho rằng xã hội đương thời với những vết thương trầm trọng, thối rữa
đến tận xương tủy như thế thì có gì phải dấu giếm? Phải vạch trần chân tướng xấu xa của nó,
phanh phui những ung nhọt của nó, chỉ ra sự bất công và nỗi thống khổ đang tràn lan, dày vị
con người, từ đó làm cho dân chúng căm hờn, phỉ nhổ vào những tệ nạn, bất công mà đấu
tranh cho sự công bằng và những điều tốt đẹp! Đó há chẳng phải là sứ mệnh cao cả của văn
chương tả thực xã hội hay sao?
Tư tưởng nghệ thuật mà Vũ Trọng Phụng theo đuổi tâm huyết nói trên là tiến bộ, cần được
ủng hộ, nhưng cũng phải thấy những mặt phiến diện, cực đoan có phần q khích trong kiểu
tư duy ấy. Có nên q thiên về miêu tả trần trụi để chỉ trích, lên án những mặt xấu, mặt trái,
hy vọng tìm cách xóa bỏ chúng - chỉ thế mà thơi khơng? Trong khi đó cuộc sống vận động cả
ở những phương diện khác: có khơng ít những chồi non khỏe mạnh đang trỗi dậy, biết bao
nhiêu là cái đẹp, cái tốt tiềm ẩn trong con người lương thiện, trong các lực lượng xã hội tiên
tiến - những nhân tố mới ấy cũng cần được nhìn nhận, phát hiện, chăm sóc và khẳng định, xây
dựng.
Liền ít ngày sau bài đáp lại Nhất Chi Mai, Vũ Trọng Phụng lại nhấn rõ thêm quan điểm của
ông trong bài trả lời phỏng vấn Lê Thanh về những tiểu thuyết Giông tố, Làm đĩ, trên báo Bắc


Hà ngày 03/04/1937 (3).
Vũ Trọng Phụng xếp các tiểu thuyết của ơng thuộc dịng tiểu thuyết tả chân xã hội, nó “phản
ánh cái xã hội hiện thực”, chứ khơng phải là quay lưng lại hiện thực hoặc hư cấu, phóng túng,
tùy tiện mà làm sai sự thực. Mà xã hội hiện thời sặc sụa những mùi mục nát, đầy rẫy những
cái xấu xa, nhơ bẩn, không thể không thất vọng, bi quan về nó. Viết các tiểu thuyết nói trên,
ơng “có ý chụp ảnh lấy cái xã hội hiện thời” trong đó khơng thể khơng tả những cảnh dâm
đãng. Tả như thế khơng có nghĩa là khiêu dâm, mà chỉ là tả những điều có thực, tuyệt khơng
“khiêu cái lịng dâm dục của ta lên”. Trái lại, cách miêu tả này làm cho “người ta thấy ghê
tởm, ghê tởm vì trơng thấy nhãn tiền cái sự thật nó xấu xa... đến nỗi phải tức tối lên... quên
mất cái dâm dục” đi.
Vũ Trọng Phụng tự thú rằng ông viết tiểu thuyết là thực thi trách nhiệm xã hội, trách nhiệm
công dân, dù có phải là người chịu hy sinh, thiệt thịi, bị hiểu nhầm đi nữa. Ông tập trung viết

về cái dâm nhằm bài trừ những sự quá đáng trong sinh hoạt dục tình của người ta, để cảnh
tỉnh, chế ngự những mặt trái của hiện tượng thuộc tâm - sinh lý có tính chất xã hội phổ biến
này (xoay quanh 3 khía cạnh: tả những cái dâm đãng trong sự phú quý để phê phán sự ích kỷ,
hưởng lạc; tả cái dâm ở tuổi dậy thì của người con gái và đề xuất cần phải giáo dục trẻ em về
sự dâm để tránh hư hỏng về sau này; tả nạn mại dâm do nghèo đói, thống khổ mà có để khống
chế nó...).
Ơng tâm sự rằng ơng đi ngược với phong trào Âu hóa của Tự lực văn đồn, khơng có nghĩa là
ông bảo thủ. Nhà văn thiết tha với sự nghiệp giải phóng phụ nữ và tiến bộ xã hội, nhận rõ con
người có nhu cầu thỏa mãn nguyện vọng cá nhân chính đáng, nhưng đồng thời nhà văn cũng
có trách nhiệm bảo vệ gia đình với những kỷ cương của nó, đừng để sự mất qn bình, sự q
đáng chi phối. Theo ông, vấn đề phụ nữ và gia đình phải được đặt và giải quyết phù hợp với
bối cảnh xã hội, với nghĩa vụ của mỗi hạng người và đạo đức truyền thống...
Có thể nói những ý kiến Vũ Trọng Phụng trình bày trong cuộc tranh luận “Dâm hay khơng
Dâm” qua các phóng sự, tiểu thuyết đã xuất bản của ông đã thể hiện khá đầy đủ lập trường
tiến bộ của một nhà văn xã hội, chủ trương dùng bút pháp tả chân để phanh phui những sự
thật, căn bệnh trầm kha của xã hội, những cảnh bất cơng, ngang trái, những cái mầm ung nhọt
trong đó, nhằm cảnh báo người đời khiến họ ghê sợ mà tìm cách thoát ra khỏi thực trạng đen
tối, đi tới những điều tốt đẹp, công bằng và sự lương thiện.
Rốt lại theo ông, văn chương của ông không phải là văn chương khêu gợi cái dâm thú tính,
tầm thường mà là tố cáo nó, phanh phui nó để người đọc phản tỉnh, xa lánh, tiến tới tìm cách
chơn vùi, thanh tốn nó. Đó cũng là một cơng việc xã hội mà nhà văn phải dấn thân thực hiện,
chứ không thể làm ngơ hoặc ca tụng véo von những điều không đâu vào đâu cả.
3. Ý kiến của Vũ Trọng Phụng về tiểu thuyết hiện thực Tắt đèn của Ngô Tất Tố
Là một cây bút tả chân, Vũ Trọng Phụng nồng nhiệt khẳng định giá trị hiện thực và sức mạnh
tố cáo của Tắt đèn. Và ơng thử đi tìm ngun nhân thành cơng của tiểu thuyết hiện thực này
từ phía con người tác giả - mặt chủ quan của quá trình sáng tạo. Theo Vũ Trọng Phụng, Ngô
Tất Tố hơn người ở chỗ, trong khi các tác giả khác chưa hội đủ các điều kiện cần thiết để có
thể viết một cuốn tiểu thuyết hay về nông thôn và người dân q, thì Ngơ Tất Tố lại là một
trong số hiếm hoi các nhà văn có đủ tư cách và thời gian để viết về lĩnh vực này của đời sống
hiện thực lúc đó. Ở Ngơ Tất Tố có một định hướng rõ rệt cho ngòi bút và trong lựa chọn tâm

thế sáng tác; ông được trang bị một vốn sống phong phú, sâu sắc về nơng thơn; ngịi bút của
ơng vốn giàu nghị lực, bản lĩnh. Tiểu thuyết của ông được cấu trúc theo một kết cấu mở, hiện
đại, căng thẳng, giàu kịch tính.


Vũ Trọng Phụng đề cao Ngô Tất Tố khi ông viết nhằm mục đích phụng sự thơn q, nêu lên
những luận đề xã hội bênh vực phái nhà nông. Là một người từng trải "được sống nhiều với
đời thôn quê", nên Ngơ Tất Tố có được sự hiểu biết kỹ càng về tâm tính, lời ăn tiếng nói của
đám dân quê nghèo khổ. Xuất thân Nho học, từng làm nghề báo, tiếp xúc nhiều, lại chịu khó
mở rộng kiến văn, cầu thị thâu thái những thành tựu mới của kỹ thuật tự sự phương Tây, nên
trong Tắt đèn, Ngô Tất Tố đã khơng đi theo lối mịn của cách kể chuyện cũ. Ông kết hợp giữa
kể và tả, đứng ở địa vị khách quan trong khi mô tả và thuật chuyện, biểu lộ năng khiếu quan
sát tinh tường, chu đáo về cảnh và người, về tâm lý, hành động của họ, khéo léo khêu gợi
những tư tưởng cải tạo xã hội, phê bình sự vật của người đọc.
Những điều nói trên, theo Vũ Trọng Phụng, đã dẫn đến những thành cơng cơ bản của tiểu
thuyết hiện thực Tắt đèn. Tính đến thời điểm đó Tắt đèn xứng đáng là một "kiệt tác, tùng lai
chưa từng thấy".
Với những ý kiến phê bình ngắn gọn về Tắt đèn, Vũ Trọng Phụng đã đề xuất những yêu cầu
cơ bản đối với nhà văn hiện thực trong việc tích lũy vốn sống trực tiếp, bồi bổ vốn tri thức,
văn hóa và khơng thể xem nhẹ khâu trau dồi, nâng cao kỹ thuật viết sao cho câu chuyện được
kể một cách sinh động, hấp dẫn người đọc. Làm được như vậy, nhà văn sẽ dành được thế chủ
động, dẫn tác phẩm đi tới đích tả thực thành công.
*
Sinh thời, những ý kiến của Vũ Trọng Phụng về văn học tả chân qua tiểu thuyết, phóng sự, về
việc mô tả cái dâm phải như thế nào để không sa vào khiêu dâm, khêu gợi bản năng tình dục
tầm thường... ngoại trừ một số rất ít người phản bác, còn lại phần lớn Vũ Trọng Phụng nhận
được sự hưởng ứng của văn nghệ sĩ tiến bộ, cách mạng. Tác phẩm của Vũ Trọng Phụng là
bằng chứng sinh động về việc ông đã thể hiện trung thực những quan điểm nghệ thuật về chủ
nghĩa tả chân trong sáng tạo văn chương. Ngay sau khi ông mất, số Tao đàn đặc biệt đã ra
mắt, với nhiều bài viết của các nhà văn có tên tuổi. Họ là bạn bè của Vũ Trọng Phụng, bộc lộ

niềm thương tiếc một nhà văn tài năng xuất chúng nhưng mệnh yểu.
Di sản văn chương mà Vũ Trọng Phụng để lại là vô cùng quý giá, dồi dào chất hiện thực của
cuộc sống đương thời, quyết liệt trong sức mạnh tố cáo, phê phán những cái xấu xa, đồi bại,
bất công của một xã hội thối nát. Phẫn nộ lên án cái dâm đãng đồi truỵ, nhơ nhớp, ơng địi hỏi
con người phải được giáo dục chu đáo từ nhỏ để có sức vượt lên cái bản năng thấp kém mà
sống một cuộc sống có ý nghĩa, lành mạnh, cao đẹp. Các tác phẩm của ơng, trong đó đáng kể
là những tiểu thuyết, phóng sự tả chân, có thể được xem là trợ thủ đắc lực trong cuộc đấu
tranh lâu dài vì tiến bộ, dân chủ, dân sinh và công bằng xã hội.
Tiếp bước các nhà văn đi trước như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, các
nhà văn lớp sau: Nguyên Hồng, Tơ Hồi, Mạnh Phú Tư, Nguyễn Đình Lạp, Nam Cao... xuất
hiện vào đầu những năm 40 của thế kỷ trước đã giương cao ngọn cờ của văn học hiện thực,
đem lại những thành tựu mới cho trào lưu văn học này.
Và chúng ta sẽ không lấy làm lạ khi đọc lại những ý kiến dưới đây của Nam Cao, thấy Nam
Cao gần gũi Vũ Trọng Phụng biết bao! Nam Cao đã tiếp tục đào sâu vào các nguồn văn hiện
thực mà Vũ Trọng Phụng đã khai mở trước đó, nhưng đến lượt mình ơng làm cho nó sâu sắc
thêm, nâng cao thêm, trước hết là trong tư duy nghệ thuật:
- "Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, khơng nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật
có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than, vang dội lên mạnh mẽ...


chẳng cần trốn tránh... cứ đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của
đời...".
- "Một tác phẩm thật giá trị... nó phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau
đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lịng thương, tình bác ái, sự cơng bình... Nó làm cho người
gần người hơn. Như thế mới thật là một tác phẩm hay..."
- "Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho.
Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi, biết khơi nguồn chưa
ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có...". (4)
Hà Nội, tháng 10 năm 2002
Nguồn: Tạp chí Văn học, số 11 (369), tháng 11/2002, tr. 31-38

____________
(1) Những bài viết hoặc bài lược dịch của Vũ Trọng Phụng về các vấn đề nói trên được tập
hợp trong cuốn Chống nạng lên đường (chùm sáng tác đầu tay mới tìm thấy năm 2000) do Lại
Nguyên Ân sưu tầm, giới thiệu, Nxb. Hội Nhà văn, 2001.
(2) (3) Xem: Một bài phỏng vấn Vũ Trọng Phụng mới tìm được do Lại Nguyên Ân sưu tầm,
giới thiệu. Tia sáng số 5/2002, tr.47-50.
(4) Trích suy nghĩ của các nhân vật khi cầm bút đi vào nghề văn, trong các truyện ngắn Giăng
sáng, Đời thừa của Nam Cao.
__________________
Vương Trí Nhàn: Nghĩ lại về Vũ Trọng Phụng - Bước đi tự phát ở một ngòi bút ghi chép
lịch sử
Ấn tượng sâu sắc nhất mà có lẽ tất cả bạn đọc đều chia sẻ khi đọc Số đỏ, ấy là cái sự nhố
nhăng nhảm nhí của đời sống được nhà văn phác họa theo lối châm biếm. Nói như Lưu Trọng
Lư, ngịi bút Vũ Trọng Phụng đã “chế nhạo tất cả những cái rởm cái xấu cái bần tiện cái đồi
bại của một hạng người một thời đại”. Hiện đại ở đây đồng nghĩa với sự tàn phá nhân cách,
làm hỏng con người. Hiện đại là một bước đi không thể chấp nhận được. Thế nhưng liệu đã
có thể nói đó là tất cả cái cuộc sống trên đường hiện đại hóa được nói tới trong tác phẩm Số
đỏ? Có phải xã hội đương thời chỉ có tàn lụi mục nát vơ phương cứu vãn, hay thực ra nó đang
vận động theo một phương hướng đầy triển vọng và chính ngịi bút Vũ Trọng Phụng cũng đã
tham gia vào việc ghi chép lại cái q trình đổi khác đó - một việc chắc chắn là chính ơng
cũng khơng ngờ tới?
Hiện đại hóa là gì và ý nghĩa lịch sử của nó
Đặt xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ 20 trong toàn bộ sự vận động chung của lịch sử dân tộc,
chúng ta thấy nó là một bước rẽ ngoặt mà nội dung căn bản là hình thành nên một xã hội kiểu
mới khác hẳn xã hội Việt Nam từ đó về trước. Trong cả sử học lẫn các bộ môn khác của khoa
học xã hội, trong đó có lịch sử văn học, người ta thường gọi đó là q trình hiện đại hóa.
Trong một bài viết mang tên Tìm nghĩa khái niệm hiện đại (có in trong sách Nhìn lại một thế
kỷ văn học, NXB Chính trị quốc gia, H.2002) chúng tơi đã có dịp trình bày cách hiểu về q
trình này, dưới đây là mấy nét tóm tắt:



- Đó là sự chuyển biến từ kiểu xã hội phong kiến trung đại sang một xã hội công nghiệp hóa,
có đơ thị phát triển. Bắt đầu từ cơ sở kinh tế, cuộc chuyển biến này kéo theo hàng loạt biến
động, nhiều quan niệm của con người về bản thân mình cũng như về thế giới có thay đổi.
Đồng thời với sự trưởng thành của ý thức xã hội thì con người cá nhân trong họ cũng được
giải phóng.
- Bởi đây là sự chuyển biến từ một xã hội theo kiểu phương Đông sang một xã hội xây dựng
theo mẫu hình phương Tây lúc ấy, nên người ta cịn gọi nó là Âu hóa. Thực chất của hiện đại
hóa trong điều kiện lịch sử đầu thế kỷ 20 chính là Âu hóa. Khơng chỉ ở VN mà ở Trung quốc
và ở nhiều nước châu Á khác, hiện đại hóa đều được sử dụng với nghĩa cụ thể như vậy. (Còn
tới cuối thế kỷ 20 nó vẫn được dùng nhưng có hàm nghĩa mới thì đó lại là chuyện khác.)
- Muốn hay không muốn cũng phải xem đây là một bước tiến bộ. Tính đến hồn cảnh đương
thời, thì đây là cơng thức duy nhất có thể đưa xã hội ra khỏi điểm chết mà sự vận động của
lịch sử trước đó đẩy tới. Khơng phải hiện đại hóa hồn tồn đối lập lại quyền lợi chính đáng
của dân tộc. Ngược lại, chính trong hồn cảnh hiện đại hóa mà ý thức dân tộc, vốn có từ trong
quá khứ, bắt đầu mang một nội dung mới thích hợp hơn do đó trở nên hồn thiện và có sức
thúc đẩy lịch sử tiến tới. Đặc biệt với cơng cuộc cơng nghiệp hóa, ý thức dân chủ có dịp nảy
nở mạnh mẽ.
Một trong những tư tưởng cơ bản được trình bày trong Văn minh tân học sách của nhóm
Đơng Kinh Nghĩa Thục (tổ chức tập hợp những bậc trí giả thức thời đầu thế kỷ 20), đó là tình
trạng lạc hậu cổ hủ của xã hội VN trước khi tiếp xúc với văn minh Tây phương. Đến một nhà
yêu nước như Phan Chu Trinh thì tư tưởng đó là cả một ám ảnh. Theo Phan Chu Trinh, nếu
không nhận thức và khắc phục được sự lạc hậu thì mọi nỗ lực giành lại độc lập đều vơ nghĩa.
Trong Thư gửi chính phủ Pháp, ông viết: “Nước Nam đã lâu nay học thuyết sai lầm, phong
tục hư hỏng, khơng có liêm sỉ, khơng có kiến thức.. Trong một làng một ấp cũng cấu xé lẫn
nhau, cùng nòi cùng giống vẫn coi nhau như thù hằn; dẫu ai có muốn lo toan việc lớn, chưa kể
rằng khơng có chỗ mà nương thân, khơng có khí giới mà dùng, khơng có tiền của mà tiêu, giá
phỏng Chính phủ (đây là chính phủ thực dân Pháp - VTN) cho mượn dăm nghìn khẩu súng,
cấp đất vài tỉnh cho ở, không thèm hỏi đến, tha hồ muốn làm gì thì làm, chẳng qua vài năm
nếu khơng báo thù lẫn nhau thì cũng tranh giành địa vị với nhau, nếu khơng cướp đoạt tiền tài

thì cũng giành giật tước vị, tự chém giết nhau đến chết hết mới thôi (...)” (1)
Có thể nói sự sáng suốt của những người vừa u nước thương nịi vừa nhìn xa trơng rộng và
có tư tưởng canh tân xã hội trên đây đã có sức chi phối đối với sự phát triển của xã hội VN mà
q trình hiện đại hóa nói ở đây là bằng chứng. Dù cơng cuộc hiện đại hóa đó tiến hành dưới
sự kiểm sốt của bộ máy thực dân, song vẫn phải ghi nhận một sự thật: dẫu sao q trình đó
đã xảy ra. Khơng có q trình hiện đại hóa này thì khơng có xã hội VN nửa đầu thế kỷ 20 như
chúng ta đã thấy, không những khơng có đơ thị, nhà trường kiểu mới, đường sắt, bưu điện,
báo chí…, mà cũng khơng có sự tiếp xúc bình thường giữa VN và thế giới. Nói cho hết lẽ,
phải thấy khơng có q trình hiện đại hóa thì khơng có ln cả sự phân hóa giai cấp như các
nhà nghiên cứu lịch sử thường phân tích, khơng có giai cấp cơng nhân và một bộ phận trí thức
kiểu mới, khơng có sự du nhập của ý thức hệ Mác Lê-nin, dẫn đến những biến động có tính
chất bước ngoặt từ sau Tháng Tám 1945.
Hiện đại hóa đã tự phát có mặt trong tác phẩm của Vũ Trọng Phụng như thế nào?
Hãy bắt đầu bằng một chi tiết nhỏ trong chương II của Số đỏ, cái đoạn tả cảnh xảy ra tại một
bót cảnh sát khi một viên quản ngồi than thở sự đời với một thày cảnh sát dưới quyền, thày
min đơ:
- Thày có tiếc cái thời buổi ngày xưa, cách đây mười năm không?


- Tiếc lắm! Mười năm trước đây, dân ta còn ngu..
- Ngày nay dân ta văn minh mất rồi, rõ thảm hại! Thày phải biết là xưa kia, xã hội tinh nhứng
du côn với nặc nô, tinh những người bất lịch sự chỗ nào cũng phóng uế, cũng đánh nhau. Hồi
ấy có khi bốn người ngồi một xe! Họ chửi nhau hàng nửa giờ, đánh nhau vỡ đầu, nhà cửa của
họ thì rác rưởi, nước cống nước rãnh tung toé, ngập lụt. Chó của họ cũng chạy ra ngồi đường
nhơng nhông... Xe đi đèo, hay không đèn là nhan nhản. Bây giờ mọi sự đã thay đổi cả (tr. 22)
(2)
Điều bất ngờ là ở chỗ đằng sau câu chuyện mà tác giả thuật lại để chế giễu tự nó có một ý
nghĩa khác. Khơng gì khác, cái thời buổi ngày xưa mà hai nhân vật nói ở đây chính là xã hội
VN trước hiện đại hóa, với một nếp sống phải nói là lạc hậu và chẳng có gì là đáng ước ao,
nếu khơng nói rằng đáng từ bỏ. Cịn thay thế nó lại là xã hội nền nếp quy củ. Và sự thay đổi

mà các viên cảnh sát than phiền là hỏng là đáng chê trách thì theo lương tri thông thường, lại
là một sự thay đổi theo hướng tiến bộ hợp với tinh thần của nhân văn và đạo lý.
Nếu tiếp tục khảo sát tác phẩm theo hướng này, người ta sẽ thấy Số đỏ vơ hình trung đã phác
họa một khuôn mặt khác của xã hội trong một giai đoạn lịch sử có những đảo lộn hàng trăm
năm chưa từng có. Từ đầu thế kỷ 20, trong lòng xã hội phong kiến, những nhân tố của một xã
hội theo kiểu phương Tây đã nảy sinh và tới những năm ba mươi có thể nói cái nền nếp mới
ấy đã trở nên ổn định thay cho nền nếp xưa “thế là hết nhẵn nhụi” (tr. 22). Đóng vai trị đầu
tàu cho lịch sử là những đơ thị mới vừa hình thành. Trong kiến trúc, trong đường xá cầu cống,
trong kiểu ăn ở đi lại... của con người, chúng khác hẳn so với cái gọi là đô thị thời trung đại.
Phân công lao động trong xã hội đã khá cao, nhiều nghề mới nảy sinh, khơng phải chỉ có me
tây đĩ điếm như nhiều người thích bêu riếu, mà quan trọng hơn có người đi du học, có luật sư
bác sĩ, có các loại cửa hàng và khách sạn đầy đủ tiện nghi, có cả các loại sân thể thao được
xây riêng trong từng gia đình và thày dạy đánh quần vợt. Đặc biệt, ý thức công cộng của mỗi
thành viên trong xã hội được nâng lên một bước. Đằng sau câu nói đơn sơ “Lúc này đến cả
thằng phu xe cũng biết luật” (tr 22) là một sự thật: xã hội đã vượt qua giai đoạn tự phát mạnh
ai nấy sống. Làm gì người ta cũng phải chú ý xem phản ứng xã hội với mình là như thế nào.
Báo chí có mặt ở mọi nơi mọi chỗ.
Cũng nên lưu ý thêm là theo sự miêu tả của tác giả thì Xn tóc đỏ có lúc ăn vận theo kiểu hề
Charlot để gây chú ý (tr. 75), cũng như ơng Joseph Thiết có nhắc đến Léon Daudet (tr. 78), ấy
là khơng kể có cả một buổi hội thảo khơng chính thức về học thuyết của Freud (đoạn đầu
chương XIII). Những mẫu hình của văn hóa hiện đại đã xuất hiện để thay thế cho những
khuôn vàng thước ngọc dẫn lại từ thời Nghiêu Thuấn mà mọi người đều đã ngán đến tận cổ!
Ở trên chúng ta đã nói rằng con người trong Số đỏ hiện ra với nhiều nét khó coi, ồn ào học
địi, tham lam dâm đãng. Song suy cho cùng những thói xấu ấy vẫn là bề ngồi. Nếu khơng
xem các tiêu chuẩn đạo đức vốn có từ thời phong kiến là bất biến mà xét kỹ cái trình độ sống
của con người, nhất là văn hóa chung sống của những con người đó, cái ý thức của họ về sự
tiến bộ chung của xã hội, chúng ta thấy gì? Rõ ràng, đặt bên cạnh những con người đơn giản,
sống cầm chừng, chậm rãi rời rạc của xã hội trung đại, thì con người lúc này luôn hiện ra với
vẻ gấp gáp linh hoạt, sẵn sàng thích ứng với mọi biến chuyển lúc nào cũng có thể xảy ra. Mọi
người, từ Xuân đến bà phó Đoan, từ vợ chồng Văn Minh đến ông Tipphờnờ … và cả mấy

người già như cụ cố Hồng đều có ý thức về cuộc đời mà họ đang sống, muốn sống theo những
tiêu chuẩn mới mẻ mà họ tin tưởng chứ khơng phải thế nào cũng được muốn đến đâu thì đến.
Đây là lời bà Văn Minh giảng giải cho một khách hàng về ý nghĩa của cửa hàng Âu hóa do
hai vợ chồng bà ta chủ trương:


- Thưa bà, chúng tôi chỉ tiến theo luật tiến hóa chung của xã hội. Giữa buổi canh tân này cái
gì là bảo thủ thì bị đào thải đi. Bà có biết rằng từ khi chúng tơi mở cửa hiệu này ra thì đã bao
nhiêu người vợ được cứu vớt, tìm thấy lịng u của chồng, lại được hưởng hạnh phúc gia
đình rồi đó khơng? (tr. 46)
Cịn đây, cái quan niệm về ăn mặc mà cửa hàng của bà ta noi theo:
- Thưa bà, những nguyên tắc về y phục đã thay đổi. Chúng tơi mà có chế ra kiểu này cũng là
vì theo cái quan niệm y phục của các nhà thợ may lớn ở Tây phương. Quần áo để tô điểm, để
làm tăng sắc đẹp chứ không phải để che đậy …(tr. 48)
Đặt trong mạch chung của tác phẩm thì đây có vẻ như lời lẽ mịn sáo của một kẻ học địi.
Nhưng thử tách nó ra như một văn bản độc lập, chúng ta thấy đây là những ý tưởng nghiêm
chỉnh (một số điều đến nay chúng ta cũng đang áp dụng). Con người bấy giờ đặc biệt có ý
thức về một cuộc sống khác với những gì họ sẵn có chứ khơng một chiều nệ cổ. Họ đã nhìn
rộng ra cả thế giới chứ khơng chỉ chăm chăm quay đầu về cái sân nhà mình hoặc cái làng con
con của mình. Họ lại đã có được ý thức đúng đắn về thời gian và mối quan hệ giữa thời gian
và bản thân mình. “Nó cảm thấy đời nó từ nay mà đi dễ thường đã vào một kỷ nguyên mới.”
(tr. 29) Không nên một chiều cười giễu cái câu tự nhủ ấy của Xuân tóc đỏ, ngược lại nên ghi
nhận ở nhân vật cả cái ý chí lập nghiệp lẫn một sự tiên cảm chính xác về tương lai.
Số đỏ kết thúc bằng việc Xuân nhường chức vô địch quần vợt cho đối thủ người Xiêm La.
Câu chuyện có vẻ hồn tồn bịa đặt song đằng sau nó cần phải ghi nhận một điều: một cá
nhân như Xuân đã biết làm chủ hành động của mình, và sự tính tốn ở đây chẳng những là
hợp thời mà cịn là khơn ngoan.
Trong khi làm lại cuộc sống, cố nhiên, trong tiềm thức, con người VN nửa đầu thế kỷ 20 tự
hiểu rằng mình có một q khứ hết sức nặng nề. Trên mọi phương diện, họ đều nhận ra một
sự đối đầu giữa cũ và mới (tr 136), giữa lối cổ và lối kim (tr. 34). Nếu như thường xuyên

chúng ta bắt gặp ở họ cái vẻ huênh hoang thì chẳng qua cũng chỉ là một cách nói to lên những
điều lớn lao để tự động viên mình. Sự thay đổi q nhanh khơng khỏi dẫn tới những sự vội vã
ép uổng, những nét kệch cỡm, nhưng khơng phải vì thế mà đáng sổ toẹt tất cả.
Có hai con người trong một Vũ Trọng Phụng
Âu hóa khơng chỉ là tên gọi của cái cửa hàng thợ may nơi nhân vật Xuân trong Số đỏ đến học
việc và bắt đầu một cuộc tiến thân. Âu hóa cũng chính là nội dung của quá trình chuyển biến
của cái xã hội nho nhỏ mà tất cả các nhân vật của cuốn tiểu thuyết này - từ những nhà cải cách
xã hội như vợ chồng Văn Minh, các trí thức như ông Joseph Thiết, ông đốc tờ Trực Ngôn...
đến lớp người mạt hạng như Xn cùng mấy ơng thày bói mấy cô bán hàng mấy chị vú em bị cuốn hút theo.
Suy rộng ra, dễ ước đoán là qua cuốn tiểu thuyết, tác giả muốn làm một cuộc tổng kết cơ bản,
khái quát cả quá trình chuyển biến của xã hội VN nửa đầu thế kỷ 20.
Đã rõ là có hai tầng hiện thực khác nhau được ghi nhận trong các trang sách của nhà văn họ
Vũ: một đằng là cái đời sống ở cái vẻ nó đập ngay vào mắt mọi người; và một đằng nữa là cái
đời sống ở bề sâu, cái phần ẩn giấu và chỉ bộc lộ ra một cách tự phát, người đọc cũng dễ bỏ
qua.
Thái độ của tác giả với hai mảng hiện thực ấy cũng khác nhau rõ rệt. Có vẻ như với Vũ Trọng
Phụng, cái phần xấu xa của đời sống đương thời là đáng quan tâm hơn cả. Ông tố cáo. Ông


lên án. Tồn bộ kiệt tác Số đỏ của ơng được xây dựng trên cảm hứng phê phán đó. Ngược lại,
cái mảng hiện thực thứ hai có vẻ nằm ngồi ý thức của ơng. Ơng chỉ nhân tiện mà nói tới. Sự
chểnh mảng của ông với cái phần đời sống này rõ rệt đến mức mà người ta chỉ nắm được nó
bằng cách tách sự việc đứng riêng ra, để chúng độc lập bên cạnh cái nhìn của các nhân vật
vốn là nhân vật phản diện, thậm chí độc lập với tác giả.
Có điều, khơng phải vì thế mà cái đời sống ở bề sâu ấy không hiện ra một cách rõ rệt. Bây giờ
mọi sự đã thay đổi cả (tr. 22). Một câu như vậy quả đã thâu tóm được quá trình biến đổi của
xã hội, và ở chỗ này có thể bảo Vũ Trọng Phụng là một người chép sử trung thành, mặc dù
ơng khơng có ý thức đầy đủ khi làm công việc ghi chép quan trọng ấy.
Đọc các nhà văn cổ điển cỡ như Balzac, người ta đã được chứng kiến khơng ít trường hợp
trong con người nhà văn có sự đối lập, trong khi thái độ ơng ta đối với thực tế thế này thì bức

tranh xã hội được ơng vẽ ra lại có ý nghĩa khác hẳn.
Trường hợp Vũ Trọng Phụng ở đây cũng có gì na ná như vậy.
Thử giải thích cái nhìn và thái độ của Vũ Trọng Phụng
Yếu tố chủ quan
Các nhà viết tiểu sử đã sớm ghi nhận Vũ Trọng Phụng thuộc loại dân nghèo mới từ bỏ làng
quê để nhập tịch vào đô thị. Nhưng lên Hà Nội, ông và gia đình vẫn sống rất thanh bạch. Thay
cho cái nghèo chân chất của người nông dân là cái nghèo nhếch nhác luộm thuộm của đám
người nằm ở dưới đáy của Hà Nội băm sáu phố phường.
Có những người nghèo song cam phận, nhẫn nhục, có cái nhìn nhân hậu đối với sự đời, song
lại có những người do nghèo mà sinh ra cay nghiệt hằn học, chỉ muốn đập phá hết cả. Vũ
Trọng Phụng chính là thuộc típ người thứ hai. Dù đã nhọc lịng đi tìm sự thay đổi, song ơng
và những người như ơng vẫn khơng tìm thấy miền đất hứa để có thể tạm bằng lịng với số
phận mà sống trong thanh thản. Bởi vậy, ông nhìn mọi biến thiên xảy ra trong xã hội như là
những chuyện vô lý. Sự đối mặt thường xuyên với mọi loại sa ngã hư hỏng bất công giả dối
khiến ông đớn đau căm uất.
Nói cách khác, nhà văn thân u của chúng ta khơng thốt khỏi mình để có một cách nhìn
khách quan với xã hội và xem tiến bộ xã hội như một tiêu chuẩn đánh giá đời sống. Khách
quan mà xét, phải nói rằng ơng bảo thủ, cố chấp. (3)
Qua các hồi ức của những người quen biết riêng với Vũ Trọng Phụng, từ lâu người ta đã biết
rằng tác giả Số đỏ là một người, trong sinh họat hàng ngày, có nhiều phần nệ cổ chứ không
mô-đéc như những người bạn của ông (mà Nguyễn Tuân là một ví dụ).Tới đây chúng ta lại
thấy ơng nệ cổ cả trong cách nhìn đời nói chung. Từ sự bảo thủ trong quan niệm đạo đức tới
bảo thủ trong quan niệm xã hội, kể ra cũng là một bước đi tự nhiên, khơng thế thì mới là
chuyện lạ.
Yếu tố khách quan
Đặc điểm của hiện đại hóa ở VN là nó diễn ra khơng bình thường. Nó khơng nảy sinh như
một sự phát triển nội tại mà là từ bên ngoài ấn vào. Mà yếu tố bên ngoài đây lại là nước Pháp
thực dân, lúc đó đang đóng vai trị của một thế lực đi xâm lược. Một thời gian dài, với người
Việt Nam, chấp nhận hiện đại hóa tức là chấp nhận hành động đồng hóa của bọn xâm lược.
Điều đó trái với tinh thần quật cường chống ngoại xâm (bằng bất cứ giá nào đẩy các thế lực

ngoại nhập ra khỏi đất nước) đã thành một truyền thống của lịch sử dân tộc.


Chẳng những thế, trong thực tế, công cuộc hiện đại hóa diễn ra trong máu và nước mắt. Xã
hội VN cuối thế kỷ 19 đã quá trì trệ và con người quen lặn ngụp trong sự lạc hậu rất ngại thay
đổi. Đổi mới đối với họ thường khi là một việc làm quá sức.
Bởi vậy (kết hợp cả hai yếu tố trên), người ta không ngạc nhiên nhận thấy rằng ngay từ khi
mới bắt đầu, hiện đại hóa đã khơng được người VN tiếp nhận một cách tích cực. Kẻ biết nhìn
ra ý nghĩa tiến bộ của nó rất ít. Trong lòng mọi người, sự ngại ngần trở đi trở lại. Đủ thứ áo
khốc mỹ miều được lơi ra sử dụng để che đậy cho sự thù ghét và sợ hãi cái mới. Đọc lại văn
học VN đầu thế kỷ 20, người ta thấy với Tú Xương rồi Tản Đà tiếp đó là các nhà văn xi
như Trọng Khiêm, Đặng Trần Phất..., hiện đại hóa đều được miêu tả như một quá trình gây ra
đau khổ cho con người. Tiếp đó, nhiều ngịi bút cùng thời với Vũ Trọng Phụng, những
Nguyễn Công Hoan, Lan Khai, Nguyên Hồng, Nam Cao… đều miêu tả đời sống theo cách ít
nhiều lên án hiện đại hóa. Sự bảo thủ ở Vũ Trọng Phụng mà chúng tơi nói tới trên đây suy cho
cùng cũng là nét bảo thủ của khá nhiều người, kể cả những người thuộc diện tinh hoa của xã
hội. Thậm chí cịn có thể nói nó là một thứ vơ thức tập thể đang chi phối cách nghĩ một thời.
Trong trường hợp này, các nhà văn thực sự chỉ là công cụ của lịch sử.
Đoạn kết
Chẳng những sinh thời Vũ Trọng Phụng, q trình hiện đại hóa xã hội VN nửa đầu thế kỷ 20
được một số người xem là có ý nghĩa tiêu cực mà ở nhiều thế hệ tiếp theo, cho đến ngày hơm
nay của chúng ta, lối nhìn nhận đó vẫn đóng vai trị chủ đạo. Có lẽ chính vì thế mà khi tiếp
xúc với các tác phẩm ra đời trong thời kỳ này, người ta thường chỉ đọc ra cái phần có ý nghĩa
phê phán, cịn như cái phần mà ngòi bút chép sử của các nhà văn đã hoạt động một cách tự
phát - như trong trường hợp của Vũ Trọng Phụng với Số đỏ - thì lại bị đẩy vào bóng tối qn
lãng. Về phần mình, chúng tơi cho rằng nếu nhìn nhận về hiện đại hóa như trong bài này và
trong một số bài viết trước đây chúng tơi đã thử đề nghị, thì ngay với Vũ Trọng Phụng người
ta đã có thể đi tới những kết luận khác hẳn. Trong khi có vẻ làm giảm hào quang ở ngòi bút
nhà văn họ Vũ do chỗ bộc lộ ở ơng một ít yếu tố bảo thủ, thì đồng thời cách nhìn nhận và
đánh giá này làm cho ông, trước mắt chúng ta, trở nên sâu sắc hơn và những trang văn của

ông cũng trở nên nhiều tầng nhiều lớp phong phú hơn. Dù không cố ý, song nhà văn này đã
làm được cái thiên chức mà các nhà văn lớn của một thời đại thường được giao phó, đó là
phản ánh được một phần, theo cái cách riêng của mình, những phương diện cơ bản cùng là cái
xu thế phát triển của thời đại (xin hiểu thời đại nói ở đây là khái niệm thời đại lớn mà nhà
nghiên cứu văn học người Nga đồng thời là nhà triết học M.M. Bakhtin đề nghị). Riêng đối
với con người VN hôm nay, trong một giai đoạn mới của cơng việc hiện đại hóa, trường hợp
của Vũ Trọng Phụng vẫn đang là một bài học, ít nhất thì nó cũng có thể giúp chúng ta tham
khảo rút kinh nghiệm để có được một cách nhìn đúng đắn đối với mọi biến thiên đang xảy ra
trước mắt, phân biệt được những biểu hiện bề mặt vốn nhiều rác rưởi và cái xu thế lớn của
lịch sử.
Chú thích của tác giả:
(1) Dẫn theo Tuyển tập Phan Chu Trinh, Nguyễn Văn Dương biên soạn, NXB Đà Nẵng 1995,
các tr 352, 353.
(2) Các dẫn chứng trong bài có ghi số trang đều trích theo bản in Số đỏ trong Tuyển tập Vũ
Trọng Phụng ba tập, tập III, NXB Văn học, 1988.
(3) Thực ra, đọc lại đoạn đối thoại giữa thày quản và viên cảnh sát ở tr. 21-22, ta thấy những
điều họ nói về thời đại trước Âu hóa tự nó với những người có lương tri bình thường đã thành
một sự phê phán, và lời than tiếc cuối cùng của họ rằng: “Cái thời tốt đẹp của các cụ nhà ta
khơng cịn nữa” cất lên có chút gì đó ngớ ngẩn và giống như một sự mai mỉa. Trong thực tế,
người đời dù có cổ hủ đến mấy chắc cũng khơng ai ăn nói như vậy. Có lẽ nên giả thiết thêm là


trong sự lẫn lộn giữa đùa và thực, ngòi bút nhà văn đã có phần sa đà hơi quá? Hay là ý thức
bảo thủ đã vào sâu trong Vũ Trọng Phụng tới mức nó khiến ơng bất chấp cả mọi lơ-gích thơng
thường?
__________________
Tam Lang: Vài kỷ niệm về Vũ Trọng Phụng
Có lẽ tôi là người thứ nhất đã được chứng kiến những bước chập chững đầu tiên của Vũ
Trọng Phụng văn sĩ.
Anh bạn quá cố hãy tha thứ cho tôi cái tội đã khuyến khích anh, xúi giục anh bỏ cán bút của

người thư ký để nắm lấy cán bút của nhà văn. Tơi nói ra đây là để xưng tội chớ khơng phải để
kể cơng, vì, đẩy anh vào cái cạm văn chương, khiến anh tận tụy vì nó mà yểu mệnh, đó đã
chẳng phải là một cái cơng đáng kể.
Nghĩ đến anh và thương anh, tơi tưởng khơng gì hơn là kể lại một vài kỷ niệm về anh. Tôi
muốn cho những bạn đọc trung thành của anh biết rõ anh hơn, biết rõ anh tức là biết rõ cái
cảnh huống cơ cực của số đông bọn người cầm bút.
Hồi ấy, vào năm 1930, đứng chủ trương bộ biên tập Ngọ Báo, một buổi sáng mùa đơng - tơi
cịn nhớ lắm - tôi tiếp được một phong thư trong có một vài chữ viết. Tơi khơng nhớ nhan đề
bài ấy, chỉ biết rằng bài tả cảnh đôi vợ chồng son ngồi trên balcon gác nói chuyện, trong
trắng... Dưới bài ký tên: Vũ Trọng Phụng. Tôi chú ý đến bài truyện ngắn ấy ngay vì nó có một
lối văn đặc biệt, vượt trên hết cả những bài đã đăng trong mục “Chuyện Ngọ báo” hồi ấy.
Lược bỏ một vài đoạn thừa, cịn, tơi cho đăng ngun văn.
Truyện ấy đăng trên báo rồi, cách vài hôm, một người bạn tôi, ông Tô Chân Nho, cho tôi hay
rằng bài ấy tả cảnh đôi vợ chồng mới cưới ở phố Hàng Bạc. Tác giả nó, người cùng phố, hiện
đang làm thư ký đánh máy ở nhà in I.D.E.O.
Và, mấy hôm sau, tôi tiếp được luôn mấy bài nữa - bài nào cũng đánh máy rất cẩn thận - của
ông Vũ Trọng Phụng nào đó mà tơi chưa biết mặt. Tơi chú ý nhất mấy bài tả những chuyện
dâm đãng. Cái đề đã là quá bạo, mà lối văn lại tả chân một cách bạo hơn nữa, bạo đến sỗ sàng
- thì sự thật, tự nó chẳng sỗ sàng là gì? Hồi ấy, văn tả chân cịn là một món hàng hiếm trong
văn học. Vì ưa lối văn tả chân của những bài ấy, tôi không thể đừng không cho đăng trên tờ
Ngọ Báo. Một bài tả về chuyện dâm đãng đăng lên rồi, tôi liền bị ông Bùi Xuân Học, chủ
nhiệm tờ báo tơi đang làm, cự kịch liệt.
Sau đó ít lâu, một buổi, tơi tiếp ở tịa soạn Ngọ Báo một ơng khách. Ông ta tự giới thiệu là Vũ
Trọng Phụng. Thoạt trơng người ơng, gầy gị xanh xao, tơi có ngay một cảm tưởng na ná như
thế này:
- Thảo nào! Ông tả con người dâm đãng đúng đến thế!
Câu chuyện giữa ông Phụng và tôi, cố nhiên không ra ngoài vấn đề văn chương. Ông Phụng
tỏ ý chán nản chân thư ký lắm rồi. Ơng nói thích cái đời làm báo hơn cái đời “cạo giấy” và
tuy lần đầu nói chuyện mới biết nhau mặc dầu, ông không ngần ngại nhờ tơi giới thiệu vào tịa
soạn Ngọ Báo. Tơi nhận lời giúp nhưng tòa soạn Ngọ Báo hồi ấy đủ người rồi, không thể lấy

thêm ông Phụng vào được nữa. Tôi cố nói với ơng Học lấy ơng sang giúp việc bên trị sự vì
ơng đánh máy thạo. Ơng Học bằng lòng.


Thế là, với một số lương khơng lấy gì làm cao, Vũ Trọng Phụng đã kiêm cả hai việc: đánh
máy bên trị sự và viết bài bên tòa soạn. Nhưng cũng chẳng được bao lâu, ơng Phụng phải thơi.
Vì ơng Bùi Xuân Thành, thân sinh ông Học, và là chủ nhân thực hiệu nhưng ẩn danh của tờ
Ngọ Báo thấy công việc bên trị sự bê trễ đã tỏ ý bất mãn về ông Phụng.
Trước khi thôi Ngọ Báo, ông Phụng có sang từ biệt tơi ở tịa soạn. Tơi vừa buồn mất một bạn
đồng sự vừa tiếc mất một bạn đồng nghiệp, tuổi tuy trẻ mà cái tài còn hứa hẹn nhiều ở tương
lai. Tôi bắt tay ông ngậm ngùi hẹn thế nào cũng có ngày cùng nhau cộng sự trong trường văn
nghiệp.
Ngày ấy, buồn thay, đã không bao giờ có.
Tơi thật vơ dun với anh.
Đã có một lần, “suýt nữa” chúng tôi đã cộng sự với nhau trong một tịa báo, nhưng chỉ “st
nữa” thơi, vì một sự cản trở ngồi ý định của chúng tơi. Lần ấy, một người thầu khốn trẻ
tuổi, bạn tơi, định lấy tờ Bắc kỳ thời báo của Dương Tự Tám và xuất tiền làm manchette báo
và ít nhiều bài đã đưa nhà in rồi. Sở Mật thám liền gọi ông Tám ra cho biết: nếu ơng nhường
báo ấy cho ai thì Chính phủ rút giấy phép. Ơng Tám khơng dám để cho người bạn tơi làm
nữa. Ngun do, thì ra chỉ tại chúng tơi. Có thế thơi! Bộ biên tập dự lập có ba người: Vũ
Trọng Phụng, Phùng Bảo Thạch và tơi, thế là lại chia tay nhau mỗi người một ngả. Để kỷ
niệm cuộc cộng sự “suýt nữa” thì thành ấy, tơi chỉ cịn giữ lại được tấm ảnh dưới đây.
Bẵng đi mấy năm, tôi không gặp anh nữa. Tên anh, tơi cũng đã hầu qn bởi khơng thấy nó
trên một tờ báo nào.
Anh chàng Vũ Trọng Phụng văn sĩ của tôi đã gác cây bút nhà văn lên giá, đi cầm cây bút của
người thư ký vô danh rồi chắc?
Kế mưu sinh! “Phải! Có lẽ chỉ vì chuyện mưu sinh” tơi tự bảo, vì tơi biết gia cảnh nhà anh:
anh là cột trụ của một gia đình. Kế mưu sinh! Ôi! Chỉ vì mi mà bao đấng anh tài đã mai một!
Trên tờ Ngọ Báo, tôi đã bỏ, không viết lối văn “Những cái ... mắt thấy” để thử tập một lối
khác chưa có trong văn chương Việt Nam: lối phóng sự. Tơi bắt đầu viết Tơi kéo xe.

Đùng một cái, tôi thấy hiện ra trên tờ Nhật Tân thiên phóng sự Cạm bẫy người của Thiên Hư
Vũ Trọng Phụng. Rồi liên tiếp, hoặc trên tờ báo ấy, hoặc trên báo khác, những thiên phóng sự
khác kế tiếp nhau ra đời: nào Kỹ nghệ lấy Tây, nào Cơm thầy cơm cơ, v.v...
Đọc những thiên phóng sự ấy, tơi nhận thấy rằng Vũ Trọng Phụng, về mặt phóng sự - một lối
văn tôi khởi xướng ra đầu tiên, đã bỏ tôi xa lắm.
Sau này, lúc cái tên “Vũ Trọng Phụng” đã là tên rất quen đối với những người biết cầm tờ báo
đọc, từ Bắc chí Nam, thì ít khi tơi có dịp gặp người bạn trẻ mà tơi đã được tiếp chuyện 7-8
năm trước, một ngày mùa đông rét làm run tay bút.
Hai chúng tôi, mỗi người một nơi: tôi “bền sĩ tượng” trong một tờ báo hàng ngày, anh, lận
đận nhảy hết từ tờ tuần báo này sang tờ tuần báo khác, hai chúng tôi bận rộn về công việc,
khơng mấy lúc được gặp nhau, nói chi đến sự có thời giờ nhàn rỗi đến thăm nhau.
Rồi, một ngày kia, tôi nhận được một cánh thiếp hồng: Vũ Trọng Phụng cưới vợ.


Tôi lo cho anh hơn mừng.
Tôi nghĩ bụng: một cây bút, mặc dầu không lúc nào ráo mực, làm sao đủ chung cho hai nhân
mạng những nhu cầu trong cái thời buổi khó khăn này?
Tơi, một người cầm bút và người chồng đã hối chót đi nhận một người đàn bà làm vợ để làm
khổ lây người ta, nay trông thấy một người đồng hội đồng thuyền sa chân xuống hố, nỡ nào
không ái ngại thay!
Hồi sau này, do những bạn bè chung kể lại, tôi mới hay rằng Phụng đã có con, rồi Phụng ốm...
Cho đến đầu năm nay, một buổi sáng, tôi ngạc nhiên khi thấy Phụng mang cái thân hình hom
hem gầy guộc như con mãn ốm đến chơi tôi ở phố Hàng Bạc. Theo sau anh là một ơng khách
lạ.
Câu thứ nhất anh nói khi gặp tơi, tơi cịn nghe đâu như mới nói hơm qua.
-Vào nhà anh khó hơn vào dinh ơng Tồn quyền.
Ý anh muốn nói đến chơi tơi ít gặp khi có nhà.
Hai chúng tôi, người ở giữa phố, kẻ ở cuối phố, tuy cách nhau chỉ có một con đường mà thật
như người ở châu Âu, kẻ ở châu Mỹ.
Anh giới thiệu với tơi ơng khách lạ. Đó là ơng Ngươn Long, người thay mặt cho một nhà xuất

bản lớn trong Nam, ra đây kiếm người viết.
Tơi rót nước mời khách. Ơng Ngươn Long đã nâng chén, cịn anh Phụng thì khơng.
Anh gạt tay mà nói:
- Tơi ho. Xin anh tha cho, đừng bắt uống.
Tơi đã có nghe nói anh bị bệnh ho. Anh có ý tốt khơng muốn uống nước e truyền ác bệnh cho
tôi. Cảm ơn anh! Nhưng hỡi bạn! Bạn biết đâu chẳng đợi bạn truyền sang, ác bệnh ấy đã ẩn
nấp trong tim phổi những kẻ lao tâm mà thiếu chất bổ lực như anh, như tôi, như đa số con nhà
cầm bút!
Anh cho tơi biết mục đích cuộc đến thăm tơi.
Thì ra ơng Ngươn Long muốn đi kiếm người viết cho nhà xuất bản của ông mà chưa tìm thấy
một ai. Vì, theo lời anh Phụng nói, nhiều nhà văn cũng như anh đã ký hợp đồng với nhà Tân
Dân không thể viết cho người khác được nữa.
Nhớ đến một số ít nhà văn cịn “tự do” chưa bị bó buộc bởi một hợp đồng nào, anh Phụng đã
nhắc đến những tên: Thiết Can, Trương Tửu, Nguyễn Vỹ... và nhờ tơi hướng dẫn ơng bạn Sài
Gịn đi tìm những đồng nghiệp ấy. Rồi anh cáo từ về trước, kêu là không đi được nhiều, để
mặc hai chúng tôi đi đến nhà bạn Thiết Can.
Anh Phụng quả đã yếu đến thế ư?
Anh còn yếu hơn thế nữa.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×