Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Quy chế thành viên hợp tác xã theo Luật Hợp tác xã 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.25 KB, 16 trang )

1

MỞ ĐẦU
Luật Hợp tác xã 2012 từ khi ra đến nay đã tạo ra khung pháp luật mới, góp
phần đảm bảo quyền lợi cũng như nghĩa vụ của thành viên hợp tác xã, tiếp tục
tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, cơng bằng, bình đẳng cho hợp tác xã dựa
trên cơ sở tổng kết thực tiễn phát triển hợp tác xã ở nước ta và tiếp thu có chọn
lọc kinh nghiệm quốc tế về phát triển hợp tác xã. Tuy nhiên, phần quy định về
quy chế thành viên hợp tác xã vẫn còn nhiều điều đáng tranh luận. Vậy nên em
xin phép chọn đề tài: Quy chế thành viên hợp tác xã theo quy định pháp luật hiện
hành. Thông qua vấn đề này, em mong muốn tìm hiểu kỹ hơn quy chế thành viên
hợp tác xã thông qua việc phân tích các quyền và nghĩa vụ của thành viên, xác
lập và chấm dứt tư cách thành viên. Từ đó nêu ra bất cập trong quy định của luật
và hướng hoàn thiện pháp luật.
NỘI DUNG
1. Khái niệm hợp tác xã và thành viên hợp tác xã
1.1 Khái niệm hợp tác xã
Theo Điều 3 khoản 1 Luật Hợp tác xã 2012 thì “Hợp tác xã là tổ chức kinh
tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do ít nhất 07 thành viên tự nguyện
thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo
việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu
trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý hợp tác xã”.
Hợp tác xã không phải là doanh nghiệp, đây là điểm mới khác với Luật Hợp
tác xã 2003, theo mơ hình hợp tác xã, các thành viên có quyền biểu quyết ngang
nhau, khơng phụ thuộc vào mức vốn góp và khơng phân chia lợi nhuận theo số
vốn cổ phần. Nếu doanh nghiệp được thành lập là để kinh doanh, mục đích hàng
đầu của doanh nghiệp là tìm kiếm lợi nhuận thì mục đích hoạt động của hợp tác
xã lại hồn tồn khác. Để đem lại lợi ích cho xã viên thơng qua việc cung ứng


2



sản phẩm, dịch vụ, mọi hoạt động với thị trường bên ngồi được tính tốn trên
cơ sở lấy thu bù chi và nâng cao thu nhập cho thành viên. Ngoài mục đích tối đa
hóa lợi ích cho các thành viên còn là sự tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các
thành viên, sự quan tâm đến sự phát triển của cộng đồng. Hợp tác xã hoạt động
theo nguyên tắc “đối nhân” chứ không “đối vốn”. Thành viên của hợp tác xã vừa
là người góp vốn vừa là người hưởng các dịch vụ cung ứng trực tiếp.
1.2 Khái niệm thành viên hợp tác xã
1.2.1 Định nghĩa
Thành viên hợp tác xã có thể là cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân đủ điều
kiện gia nhập hợp tác xã theo quy định của Luật Hợp tác xã và điều lệ hợp tác
xã, tự nguyện và có đơn xin gia nhập hợp tác xã, được sự chấp thuận của Đại hội
thành viên trở thành đồng chủ sở hữu, quản lý hợp tác xã theo nguyên tắc dân
chủ.
1.2.2 Đặc điểm pháp lý của thành viên hợp tác xã
Về phạm vi đối tượng: Theo Luật Hợp tác xã 2012 thì đối tượng tham gia
vào hợp tác xã bao gồm cá nhân, hộ gia đình và pháp nhân. Trong đó cá nhân
tham gia hợp tác xã có thể là cơng dân Việt Nam hoặc người nước ngồi đang cư
trú hợp pháp trên lãnh thổ Việt Nam. Điều kiện gia nhập hợp tác xã của người
nước ngoài được quy định tại Điều 13 Luật Hợp tác xã 2012 và Điều 4 Nghị định
193/2013/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Hợp tác xã. Đây là quy
định mới so với Luật Hợp tác xã 2003 nhằm mở rộng đối tượng tham gia hợp tác
xã, thể hiện rõ quan điểm hội nhập toàn diện với kinh tế thế giới của nước ta.
Hiện nay, ngày càng có nhiều người nước ngồi đến Việt Nam sinh sống và họ
cũng có nhu cầu được cung cấp sản phẩm, dịch vụ với giá thành hợp lý, chất
lượng bảo đảm như người Việt Nam. Vì vậy, khơng có lý do gì khơng cho phép
họ tham gia hợp tác xã. Ngồi ra, có thể thấy so với việc gia nhập doanh nghiệp
thì tham gia hợp tác xã khó khăn hơn.



3

Về tư cách của thành viên: Điểm khác biệt giữa thành viên hợp tác xã với
thành viên của doanh nghiệp là họ vừa là chủ sở hữu thông qua việc tham gia
góp vốn, vừa là người lao động vì mục đích của hợp tác xã là tạo cơng ăn việc
làm và đồng thời cũng là khách hàng do thành viên có nghĩa vụ tiêu thụ sản
phẩm của hợp tác xã.
Về mục đích gia nhập: Các thành viên tham gia hợp tác xã để cùng giúp
nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh và nâng cao đời
sống về vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Về quyền và nghĩa vụ: Quyền và nghĩa vụ của thành viên hợp tác xã là hai
mặt không thể tách rời. Thành viên hợp tác xã được hưởng quyền theo quy định
của pháp luật và Điều lệ hợp tác xã đồng thời cũng phải hoàn thành nghĩa vụ đối
với hợp tác xã. Mọi thành viên hợp tác xã đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ
không phân biệt dân tộc, tôn giáo, nam nữ, trình độ văn hóa, thành phần xã hội,
nghề nghiệp, tín ngưỡng. Trong khi các doanh nghiệp chú trọng hơn vào lợi
nhuận thì hợp tác xã chú trọng nhiều vào yếu tố xã hội hơn. Có thể thấy điều đó
qua các quyền và nghĩa vụ được quy định cho các thành viên của hợp tác xã.
Chẳng hạn, nếu quyền biểu quyết và quyền được chia lợi nhuận của thành viên
doanh nghiệp phụ thuộc vào tỉ lệ vốn góp của anh ta trong doanh nghiệp thì đối
với các thành viên hợp tác xã, quyền biểu quyết của họ là bình đẳng và ngang
nhau, quyền được phân phối thu nhập chủ yếu dựa vào mức độ sử dụng các sản
phẩm dịch vụ, công sức đóng góp, cịn lại mới căn cứ vào tỉ lệ vốn góp.
2. Quy chế thành viên hợp tác xã theo pháp luật về hợp tác xã hiện hành
Nội dung quy chế thành viên hợp tác xã là tổng thể các quyền và nghĩa vụ;
xác lập và chấm dứt tư cách thành viên quy định cho trong Luật Hợp tác xã
2012, các văn bản hướng dẫn thi hành và Điều lệ hợp tác xã.


4


2.1 Xác lập và chấm dứt tư cách thành viên hợp tác xã
2.1.1 Xác lập tư cách thành viên hợp tác xã
Hợp tác xã là tổ chức kinh tế mang tính xã hội cao, hoạt động như một
doanh nghiệp dựa trên các giá trị và nguyên tắc tương trợ, tự chịu trách nhiệm,
dân chủ, bình đẳng, cơng bằng và đồn kết, tạo nên sức mạnh trong việc giúp các
hộ gia đình, cá thể, tiểu chủ hoạt động kinh doanh có hiệu quả hơn, tăng khả
năng cạnh tranh mạnh hơn trên thị trường. Nhà nước ln ln khuyến khích cá
nhân, hộ gia đình, tổ chức…(nhất là những người dân ở vùng nông thôn) tham
gia thành lập, phát triển hợp tác xã để nâng cao thu nhập, ổn định đời sống xã
hội. Chỉ cần đáp ứng đủ các điều kiện về tư cách chủ thể và ý chí chủ thể là cá
nhân, hộ gia đình, tổ chức có thể được trở thành thành viên hợp tác xã…
a. Điều kiện về tư cách chủ thể
Điều 13 khoản 1 Luật Hợp tác xã 2012 quy định: “Cá nhân là công dân Việt
Nam hoặc người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam, từ đủ 18 tuổi trở lên,
có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; hộ gia đình có người đại diện hợp pháp theo
quy định của pháp luật; cơ quan, tổ chức là pháp nhân Việt Nam”.
Đối với chủ thể là cá nhân: Luật Hợp tác xã 2012 đã mở rộng phạm vi chủ
thể so với Luật Hợp tác xã 2003, đó là ngồi cơng dân Việt Nam, người nước
ngồi cư trú hợp pháp ở Việt Nam cũng có thể tham gia hợp tác xã. Bằng cách
đó, chúng ta khẳng định Việt Nam đang hội nhập sâu rộng với thế giới. Khơng
những thế, cịn tạo điều kiện cho người nước ngồi có nhu cầu góp vốn, góp sức
có thể tham gia vào hợp tác xã, đồng thời cũng là để hợp tác xã thu hút các
nguồn vốn khác nhau. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng, tạm thời chưa cần thiết mở
rộng diện đối tượng cá nhân nước ngoài tham gia hợp tác xã, vì hiện nay hợp tác
xã cịn rất nhỏ lẻ, chưa có sức hút rộng rãi. Mặc dù vậy, em vẫn cho rằng vai trò
của pháp luật là dự liệu những quan hệ xã hội đang và sẽ phát sinh để đưa ra
những điều chỉnh phù hợp chứ không phải “chạy theo” sự phát triển của chúng.



5

Vì thế, dù người nước ngồi sống tại Việt Nam chưa có nhiều nhu cầu tham gia
hợp tác xã nhưng với xu thế hội nhập của nước ta hiện nay, điều đó là hồn tồn
có thể xảy ra.
Cá nhân muốn tham gia hợp tác xã phải đáp ứng điều kiện về độ tuổi và
năng lực hành vi dân sự. Năng lực hành vi dân sự là khả năng thực hiện quyền và
nghĩa vụ dân sự của chủ thể. Để đánh giá năng lực hành vi dân sự của chủ thể
thường dựa vào: yếu tố sức khỏe, thể lực, thể chất; độ tuổi; khả năng nhận thức
và điều khiển hành vi. Theo đó, những người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ
là những người từ đủ 18 tuổi trở lên, không thuộc trường hợp mất năng lực hành
vi dân sự hay bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Như vậy, việc điều luật yêu
cầu cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên và có năng lực hành vi dân sự đầy đủ là thừa.
Thiết nghĩ chỉ cần quy định cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ cũng đã
bao hàm cả về độ tuổi rồi.
Đối với chủ thể là hộ gia đình: Theo Bộ luật Dân sự 2005 thì “Hộ gia đình
mà các thành viên có tài sản chung, cùng đóng góp cơng sức để hoạt động kinh
tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất,
kinh doanh khác do pháp luật quy định là chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự
thuộc các lĩnh vực này”. Trong Luật Hợp tác xã 2012 và Nghị định
193/2013/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Hợp tác xã đều không
quy định rõ ràng điều kiện để trở thành thành viên hợp tác xã đối với hộ gia đình.
Điều 13 khoản 1 Luật Hợp tác xã 2012 chỉ quy định: “hộ gia đình có người đại
diện hợp pháp theo quy định của pháp luật”. Như vậy, để tham gia hợp tác xã, hộ
gia đình phải có tài sản chung và có người đại diện hợp pháp. Theo luật định, tài
sản chung của hộ gia đình gồm tài sản do các thành viên cùng nhau tạo lập nên
hoặc được tặng cho chung và các tài sản khác mà các thành viên thoả thuận là tài
sản chung của hộ, quyền sử dụng đất hợp pháp của hộ gia đình cũng là tài sản
chung của hộ. Đại diện của hộ gia đình trong các giao dịch dân sự vì lợi ích



6

chung của hộ là chủ hộ. Cha, mẹ hoặc một thành viên khác đã thành niên có thể
là chủ hộ. Chủ hộ có thể uỷ quyền cho thành viên khác đã thành niên làm đại
diện của hộ trong quan hệ dân sự.
Đối với chủ thể là pháp nhân Việt Nam: Trước hết, cơ quan, tổ chức tham
gia hợp tác xã phải đủ điều kiện là pháp nhân. Theo Điều 84 Bộ luật Dân sự
2005 thì một tổ chức được cơng nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau
đây: Được thành lập hợp pháp; Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; Có tài sản độc lập
với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó; Nhân danh
mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
b. Điều kiện về ý chí chủ thể
Lênin khẳng định: “Công xã công nghiệp được thiết lập nên một cách tự
nguyện, việc chuyển sang lối canh tác chung ruộng đất chỉ có thể thực hiện được
theo tinh thần tự nguyện mà thơi. Về mặt này, Chính phủ công nông không thể
dùng một biện pháp cưỡng chế nào. Pháp luật cấm dùng biện pháp đó”. Điều này
khẳng định mọi sự gia nhập hợp tác xã đều xuất phát từ ý chí tự nguyện của chủ
thể. Theo đó, Nhà nước, pháp luật cũng không được đưa ra những biện pháp
nhằm ép buộc các chủ thể tham gia vào hợp tác xã. Quy định này đã khẳng định
bản chất pháp lý của hợp tác xã là hình thức ở tổ chức kinh tế tập thể được thành
lập do sự tự nguyện gia nhập của các thành viên.
Theo quy định tại Điều 13 khoản 1 thì điều kiện về ý chí chủ thể thể hiện ở
chỗ khi muốn gia nhập hợp tác xã, thành viên phải có nhu cầu chung, có đơn, tự
nguyện và góp vốn để tăng tính gắn kết, ràng buộc.
Hợp tác xã quy định số lượng thành viên tối thiểu là 07 và không giới hạn
số lượng tối đa. Các chủ thể có đủ điều kiện về tư cách chủ thể, có nhu cầu hợp
tác với các thành viên và nhu cầu sử dụng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã, tán
thành điều lệ hợp tác xã dự định gia nhập đều có thể làm đơn tham gia. Đơn gia
nhập hợp tác xã phải được Hội đồng quản trị xem xét trình đại hội thành viên



7

thơng qua. Việc góp vốn vào hợp tác xã là một điều kiện và nghĩa vụ quan trọng
của thành viên. Vốn góp của thành viên thực hiện theo thỏa thuận và theo quy
định của điều lệ nhưng không quá 20% vốn điều lệ của hợp tác xã. Quy định mới
của Luật Hợp tác xã 2012 đã hạ mức vốn góp tối đa từ 30% vốn điều lệ xuống
cịn khơng q 20%. Đồng thời với đó, cơng sức khơng cịn được coi là vốn góp
theo quy định của Luật Hợp tác xã 2012 nữa. Quy định như vậy là phù hợp nhằm
kêu gọi nguồn vốn từ các thành viên, đồng thời khơng cho một thành viên góp
q nhiều vốn, dễ phá hỏng nguyên tắc dân chủ bình đẳng của hợp tác xã.
2.1.2 Chấm dứt tư cách thành viên hợp tác xã
Chấm dứt tư cách thành viên hợp tác xã là việc kết thúc mối quan hệ giữa
thành viên hợp tác xã và hợp tác xã, từ đó cũng chấm dứt ln những quyền và
nghĩa vụ của hai bên. Luật Hợp tác xã 2012 đã quy định cụ thể những trường
hợp chấm dứt tư cách thành viên hợp tác xã. Đó là:
Thứ nhất, không đáp ứng được yêu cầu về năng lực chủ thể tham gia vào
hợp tác xã. Đó là trường hợp cá nhân chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự
hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị kết án phạt tù theo quy định của
pháp luật; thành viên là hộ gia đình khơng có người đại diện hợp pháp theo quy
định; thành viên là pháp nhân bị giải thể hoặc phá sản. Có thể thấy rằng trong
những trường hợp này, các thành viên không thể đáp ứng điều kiện tư cách thành
viên nữa. Đây là yếu tố quyết định việc còn hay chấm dứt tư cách thành viên của
chủ thể.
Thứ hai, tự nguyện rời khỏi hợp tác xã. Khi thành viên không đạt được mục
đích như mong muốn hay việc tham gia hợp tác xã khơng cịn cần thiết nữa cũng
có quyền làm đơn xin ra khỏi hợp tác xã và được hưởng các quyền lợi cũng như
trách nhiệm còn lại theo điều lệ hợp tác xã quy định. Đây là trường hợp chấm
dứt tư cách thành viên tương đối phổ biến. Quy định này một lần nữa khẳng định

nguyên tắc tự nguyện của hợp tác xã.


8

Thứ ba, bị khai trừ ra khỏi hợp tác xã. Thành viên cũng có thể bị chấm dứt
tư cách thành viên nếu bị khai trừ theo quy định của điều lệ. Những lí do khiến
thành viên bị khai trừ có thể là do vi phạm nghiêm trọng điều lệ hợp tác xã,
không thực hiện nghĩa vụ gây hậu quả nghiêm trọng hoặc có hành vi gian dối
nhằm trục lợi cá nhân. Tuy nhiên, luật mới chỉ quy định việc thành viên hợp tác
xã bị khai trừ ra khỏi hợp tác xã theo quy định tại Điều lệ hợp tác xã mà không
nêu ra những lý do khai trừ cụ thể. Chính sự bỏ ngỏ này của pháp luật có thể tạo
điều kiện cho việc đặt ra những lý do bị khai trừ không thuyết phục.
Thứ tư, không sử dụng sản phẩm, dịch vụ trong thời gian liên tục theo quy
định của Điều lệ nhưng không quá 03 năm; đối với hợp tác xã tạo việc làm,
thành viên không làm việc trong thời gian liên tục theo quy định của điều lệ
nhưng không quá 02 năm. Đây là quy định bổ sung so với Luật Hợp tác xã 2003.
Hợp tác xã cung cấp dịch vụ cho thành viên đi đôi với việc thành viên có quyền
và có nghĩa vụ sử dụng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã khi có nhu cầu. Đây là
bản chất kinh tế rất quan trọng làm cho hợp tác xã phát triển bền vững nhằm đáp
ứng tốt nhất nhu cầu của thành viên. Vì vậy, việc thành viên hợp tác xã không sử
dụng sản phẩm dịch vụ trong một thời gian liên tục làm phương hại đến lợi ích
của hợp tác xã và những thành viên khác, nên trong trường hợp đó, thành viên đó
sẽ bị chấm dứt tư cách làm thành viên.
Thứ năm, tại thời điểm cam kết góp đủ vốn, thành viên hợp tác xã khơng
góp vốn hoặc góp vốn thấp hơn vốn góp tối thiểu quy định trong Điều lệ. Đây là
một trong các điều kiện để xác lập tư cách thành viên. Trước khi gia nhập hợp
tác xã, thành viên cam kết góp vốn khơng q 20% tổng vốn điều lệ của hợp tác
xã và không thấp hơn số vốn tối thiểu mà điều lệ quy định. Hiện nay, đa số hợp
tác xã đều thiếu vốn. Nếu tại thời điểm cam kết góp đủ vốn, thành viên khơng

thực hiện góp vốn hoặc số vốn góp thấp hơn mức tối thiểu sẽ làm ảnh hưởng đến
hoạt động của hợp tác xã do thiếu vốn và ảnh hưởng đến quyền lợi của nhiều


9

thành viên khác. Những trường hợp như vậy đương nhiên cần phải chấm dứt tư
cách thành viên.
Thứ sáu, trường hợp khác do điều lệ quy định. Ngoài những trường hợp do
pháp luật quy định, hợp tác xã có thể quy định trong điều lệ những trường hợp
chấm dứt tư cách thành viên phù hợp với đặc thù của hợp tác xã mà không trái
pháp luật.
2.2 Quyền và nghĩa vụ của thành viên hợp tác xã
2.2.1 Quyền của thành viên hợp tác xã
Quyền của thành viên hợp tác xã được quy định cụ thể tại điều 14 Luật Hợp
tác xã 2012. Theo đó, thành viên hợp tác xã có quyền: yêu cầu hợp tác xã cung
ứng dịch vụ, sản phẩm theo nhu cầu của mình trên cơ sở hợp đồng dịch vụ; được
phân phối thu nhập theo quy định của Luật Hợp tác xã 2012 và Điều lệ của hợp
tác xã; Được hưởng các phúc lợi của hợp tác xã; được tham gia quản lý hợp tác
xã và quyết định các chức danh quản lý: Tham dự hoặc bầu đại biểu tham dự đại
hội thành viên; ứng cử, đề cử thành viên hội đồng quản trị, ban kiểm soát hoặc
kiểm soát viên và chức danh khác được bầu của hợp tác xã; kiến nghị, yêu cầu
Hội đồng quản trị, giám đốc (tổng giám đốc), ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên
triệu tập đại hội thành viên bất thường theo quy định của Luật Hợp tác xã 2012
và Điều lệ Hợp tác xã; được cung cấp thông tin cần thiết liên quan đến hoạt động
của hợp tác xã; được hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ nghiệp vụ
phục vụ hoạt động của hợp tác xã; được ra khỏi hợp tác xã; được trả lại vốn góp
khi ra khỏi hợp tác xã; được chia giá trị tài sản đươc chia còn lại của hợp tác xã
theo quy định của Luật Hợp tác xã 2012 và Điều lệ Hợp tác xã; quyền khiếu nại
tố cáo theo quy định của pháp luật; quyền khác theo điều lệ quy định.

Các quy định ràng buộc nghĩa vụ của Hợp tác xã trong việc cung cấp hàng
hóa dịch vụ cho thành viên cũng như nghĩa vụ sử dụng dịch vụ, lao động của
thành viên đối với Hợp tác xã là những quy định cần thiết để thể hiện tính đặc


10

thù của Hợp tác xã. Thông qua hoạt động này, thành viên tiết kiệm được chi phí
sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất và sức cạnh tranh của hoạt động kinh doanh
của mình. Điều này có nghĩa là thành viên vừa là người đồng sở hữu, vừa là
khách hàng của hợp tác xã. Tuy vậy, cần tránh trường hợp lợi dụng mơ hình Hợp
tác xã để được hưởng các ưu đãi nhưng thực chất lại hoạt động không khác gì
doanh nghiệp. Việc bắt buộc ký hợp đồng dịch vụ, bắt buộc quy định các nội
dung này trong Điều lệ là quy định cứng nhắc và khơng hợp lý, bó buộc Hợp tác
xã và thành viên… Pháp luật đã quy định khá đầy đủ các quyền làm chủ của
thành viên. Khẳng định mỗi thành viên đều là chủ sở hữu của hợp tác xã, họ có
đầy đủ quyền lực để quyết định những vấn đề quan trọng liên quan đến cơ cấu tổ
chức của hợp tác xã. Đặc biệt, các thành viên có quyền biểu quyết ngang nhau,
bình đẳng, khơng phụ thuộc vào mức độ góp vốn. Điều này tạo nên khác biệt cơ
bản so với thành viên của doanh nghiệp vốn từ trước đến nay luôn biểu quyết
dựa vào tỉ lệ vốn góp. Quyền được thơng tin, quyền được hỗ trợ đào tạo, bồi
dưỡng và nâng cao trình độ nghiệp vụ phục vụ hoạt động của hợp tác xã là một
trong 07 nguyên tắc của hợp tác xã do Liên Minh hợp tác xã quốc tế công bố vào
năm 1995 trong Bản tuyên ngôn về các đặc trưng của hợp tác xã. Khi sử dụng
quyền này, thành viên hợp tác xã sẽ có những đóng góp thiết thực và hiệu quả
cho hợp tác xã. Các hợp tác xã cần thơng tin khơng chỉ cho các thành viên mà
cịn cho cả công chúng, nhất là giới trẻ về bản chất và lợi ích của hợp tác xã
nhằm nâng cao nhận thức và thu hút sự quan tâm, trách nhiệm xã hội của họ đối
với hợp tác xã. Điều này đặc biệt hữu ích trong bối cảnh Việt Nam hiện tại, khi
mà một bộ phận công chúng chưa nhận thức đúng và đầy đủ về bản chất và giá

trị của hợp tác xã. Một điều nữa cần nhắc đến đó là quyền được chia giá trị tài
sản đươc chia còn lại của hợp tác xã khi hợp tác xã giải thể. Theo điều 49 Luật
Hợp tác xã 2012, giá trị tài sản cịn lại, trừ tài sản khơng chia được là phần còn
lại được chia cho các thành viên theo tỉ lệ vốn góp trên tổng số vốn điều lệ sau


11

khi đã thanh tốn chi phí giải thể, bao gồm cả khoản chi cho việc thu hồi và
thanh lý tài sản; thanh toán nợ lương, trợ cấp và bảo hiểm xã hội của người lao
động; thanh toán các khoản nợ có bảo đảm theo quy định của pháp luật; thanh
tốn các khoản nợ không bảo đảm. Đây là quyền lợi không được quy định cụ thể
trong Luật hợp tác xã 2003.
Những quyền cơ bản trên của thành viên hợp tác xã phản ánh mối liên kết
chặt chẽ giữa hợp tác xã với thành viên của mình. Quyền của thành viên cũng
chính là nghĩa vụ của hợp tác xã. Vì vậy, để quyền lợi của thành viên được đảm
bảo đòi hỏi hợp tác xã phải thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ của mình.
2.2.2 Nghĩa vụ của thành viên hợp tác xã
Nghĩa vụ của thành viên hợp tác xã được quy định tại Điều 15 Luật Hợp tác
xã 2012. Theo đó, thành viên có các nghĩa vụ sau: sử dụng sản phẩm, dịch vụ
của hợp tác xã; góp đủ, đúng thời hạn vốn góp đã cam kết theo quy định của
Điều lệ; chịu trách nhiệm về các khoản nợ, nghĩa vụ tài chính của hợp tác xã
trong phạm vi vốn góp vào hợp tác xã; bồi thường thiệt hại do mình gây ra cho
hợp tác xã theo quy định của pháp luật; tuân thủ điều lệ, quy chế của hợp tác xã,
nghị quyết đại hội thành viên và quyết định của hội đồng quản trị hợp tác xã;
nghĩa vụ khác do điều lệ quy định.
So với Luật Hợp tác xã 2003, Luật Hợp tác xã 2012 đã bổ sung nghĩa vụ sử
dụng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã. Các thành viên cùng góp vốn gây dựng
hoạt động chung, cùng sử dụng dịch vụ, cùng chia sẻ chi phí, cùng chịu trách
nhiệm và cùng hưởng lợi từ hợp tác xã. Thu nhập của hợp tác xã được phân phối

cho thành viên chủ yếu theo mức độ sử dụng sản phẩm dịch vụ, phần cịn lại mới
theo mức độ góp vốn. Thành viên nào càng giao dịch nhiều, càng đóng góp
nhiều cho sự thịnh vượng của hợp tác xã thì nhận được phần phân phối lại càng
cao. Điều này góp phần gia tăng mức độ trung thành của xã viên với hợp tác xã
và là tiền đề để hợp tác xã phát triển bền vững. Trên thực tế các hợp tác xã không


12

muốn kết nạp thêm thành viên mới vì càng nhiều thành viên thì phần thu nhập
được chia được chia cho mỗi thành viên càng ít. Vậy nên nếu phân phối thu nhập
theo mức độ góp vốn thì sẽ khiến hợp tác xã chết yểu vì khó huy động vốn góp.
Luật hợp tác xã 2012 cũng xác định góp vốn là nghĩa vụ bắt buộc đối với
mọi thành viên khi tham gia vào Hợp tác xã chứ không phải thành viên có thể
góp vốn hoặc góp sức như trong Luật Hợp tác xã 2003. Một điểm khác biệt nữa
là trong Luật Hợp tác xã 2003 khơng xác định góp sức là bắt buộc cịn trong
Luật Hợp tác xã 2012, ngồi việc góp vốn thì góp sức là nghĩa vụ bắt buộc đối
với thành viên trong Hợp tác xã tạo việc làm.
3. Những bất cập và hướng hoàn thiện quy chế pháp lý về thành viên hợp
tác xã
Trước hết là tên gọi của thành viên hợp tác xã: Trong Luật Hợp tác xã năm
2003 thì những chủ thể tham gia hợp tác xã được gọi là “xã viên”. Đến Luật Hợp
tác xã 2012 thì những chủ thể này được gọi là “thành viên”. Theo em thấy, Luật
hợp tác xã 2012 đã cố gắng tách bạc hai khái niệm “hợp tác xã” và “doanh
nghiệp”, tuy nhiên “thành viên” nghe gần với mơ hình quản trị của các công ty
theo luật Doanh nghiệp. Trong khi đó, tên gọi “xã viên” nghe thân thuộc và đúng
với bản chất của hợp tác xã hơn. Hơn nữa, tên gọi “thành viên” nhiều lúc khiến
người ta hiểu sai về bản chất và mục đích hoạt động của hợp tác xã do nhầm lẫn
với các loại hình cơng ty. Vậy nên, quan điểm của em cho rằng nên giữ nguyên
tên gọi “xã viên” cho các chủ thể tham gia hợp tác xã.

Thứ hai, về điều kiện tư cách chủ thể là cá nhân mong muốn tham gia hợp
tác xã: Luật Hợp tác xã 2012 quy định cá nhân tham gia phải từ đủ 18 tuổi trở
lên và có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Tuy nhiên, như đã giải thích ở trên,
người có năng lực hành vi dân sự là người từ đủ 18 tuổi trở lên rồi, vậy nên quy
định như vậy là thừa thãi. Theo em, chỉ cần quy định điều kiện về tư cách chủ
thể là cá nhân là công dân Việt Nam hoặc người nước ngoài cư trú hợp pháp tại


13

Việt Nam có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Nếu sợ người đọc không hiểu thế
nào là năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì có thể quy định tại điều 4: giải thích từ
ngữ.
Thứ ba, về đối tượng hộ gia đình tham gia hợp tác xã. Khái niệm hộ gia
đình ở nước ta trên thực tế là danh từ cịn rất chung, chưa có quy định cụ thể,
thống nhất phạm vi số lượng người, hộ gia đình ở nhiều địa phương, địa bàn
khác nhau. Nếu đưa hộ gia đình vào luật sẽ phát sinh nhiều phức tạp về phân bổ,
chia sẻ lợi nhuận dẫn đến khó quản lý trong thực tế. Vì thế, nên xem xét lại và
chỉ nên quy định đối tượng tham gia hợp tác xã là cá nhân và pháp nhân, không
nên quy định hộ gia đình.
Thứ tư, về điều kiện trở thành thành viên hợp tác xã đối với hộ gia đình:
Trong Luật Hợp tác xã 2012 và Nghị định 193/2013/NĐ-CP quy định chi tiết
một số điều của Luật Hợp tác xã đã có quy định tương đối cụ thể đối với cá nhân
là cơng dân Việt Nam, người nước ngồi cư trú hợp pháp tại Việt nam, pháp
nhân Việt Nam. Tuy nhiên, luật chưa quy định cụ thể về điều kiện người đại diện
hộ gia đình. Thiết nghĩ khi pháp luật đã xác định hộ gia đình là đối tượng được
tham gia hợp tác xã thì nên quy định rõ ràng cụ thể về điều kiện người đại diện
hộ gia đình để tránh xảy ra tranh chấp không cần thiết.
Thứ năm: Về phân phối thu nhập: Luật Hợp tác xã 2012 quy định phân phối
thu nhập chủ yếu theo mức độ sử dụng sản phẩm, dịch vụ của thành viên; theo

công sức lao động đóng góp của thành viên đối với hợp tác xã tạo việc làm; Phần
còn lại được chia theo vốn góp. Quy định như vậy là chưa hợp lý. Đồng ý rằng
quy định về phân phối thu nhập của hợp tác xã theo mức độ sử dụng sản phẩm
dịch vụ nhằm thể hiện đúng bản chất của hợp tác xã, đáp ứng nhu cầu sản xuất
kinh doanh và đời sống của thành viên và là yếu tố để gắn kết thành viên với hợp
tác xã. Tuy nhiên, từ thực trạng của Việt Nam, nếu áp dụng nghiêm ngặt nguyên
tắc phân phối thu nhập theo mức độ sử dụng dịch vụ thì hợp tác xã khó huy động


14

vốn, gây khó khăn cho các hoạt động của hợp tác xã. Vì thế, bên cạnh việc
khuyến khích sử dụng các sản phẩm dịch vụ của hợp tác xã, việc khuyến khích
xã viên góp vốn, nhất là trong lĩnh vực hợp tác xã nông nghiệp cũng cần được
quan tâm, là một yếu tố quan trọng trong việc thành lập và hoạt động của hợp tác
xã. Do vậy, trong điều 46 khoản 3 điểm a nên thay từ "chủ yếu" bằng từ "ưu tiên"
cho phù hợp hơn. Như vậy ta có: "Ưu tiên theo mức độ sử dụng sản phẩm dịch
vụ của thành viên hợp tác xã, theo cơng sức đóng góp của thành viên đối với hợp
tác xã tạo việc làm".
Thứ sáu, về quyền khiếu nại, tố cáo: Khiếu nại, tố cáo là một quyền quan
trọng của thành viên cần sự trợ giúp từ Nhà nước khi gặp những vấn đề vướng
mắc trong quá trình hoạt động tại hợp tác xã. Tuy nhiên, quy định này không
được quy định rõ ràng trong Luật Hợp tác xã 2012. Cần biết rằng phần lớn cá
nhân tham gia hợp tác xã là nông dân, họ khơng có điều kiện đọc luật. Việc quy
định thành viên có quyền khiếu nại tố cáo theo quy định của pháp luật như một
hành vi “đánh đố” người nơng dân. Vì vậy, cần quy định trực tiếp trong luật về
cấp thẩm quyền, trình tự, thủ tục khiếu nại, tố cáo
Thứ bảy, về chấm dứt tư cách thành viên hợp tác xã: Một trong những
trường hợp thành viên bị chấm dứt tư cách thành viên là do bị khai trừ theo quy
định của điều lệ. Trong trường hợp này, pháp luật đã “để ngỏ” lý do bị khai trừ.

Việc để cho điều lệ quy định một vấn đề mang tính cốt yếu như vậy rất dễ khiến
các thành viên bị khai trừ vì một lý do khơng chính đáng mà điều lệ quy định,
gây phương hại đến quyền lợi của thành viên bị khai trừ và chính hợp tác xã. Vì
vậy, luật nên trực tiếp quy định lý do bị khai trừ như vi phạm nghiêm trọng Điều
lệ hợp tác xã; không thực hiện nghĩa vụ; tiến hành công việc thiếu trung thực,
khơng cẩn trọng hoặc có hành vi khác gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích hợp
tác xã và các thành viên khác.


15

Ngồi ra, so với Luật Hợp tác xã 2003 thì Luật Hợp tác xã 2012 không quy
định một trường hợp, đó là: “xã viên chuyển hết vốn góp và quyền lợi nghĩa vụ
của mình cho người khác theo Điều lệ hợp tác xã”. Việc quy định như vậy phản
ánh sự tôn trọng quyền của thành viên hợp tác xã đối với phần tài sản do mình
đóng góp. Biết rằng trong trường hợp như vậy thì đương nhiên chấm dứt tư cách
thành viên. Tuy nhiên cần quy định cụ thể trong luật để có căn cứ pháp lý.
KẾT LUẬN
Quy chế thành viên hợp tác xã là một trong những chế định quan trọng nhất
của Luật Hợp tác xã 2012. Mặc dù quy định của pháp luật về vấn đề này vẫn tồn
tại những bất cập tuy nhiên không thể phủ nhận các quy định này đã tiến gần hơn
với chuẩn chung của thế giới. Em hi vọng hợp tác xã ở Việt Nam sẽ phát triển
lành mạnh, bền vững đúng với bản chất và mục đích thành lập, thực hiện quản lý
nhà nước về hợp tác xã có hiệu quả, từ đó góp phần định hướng xã hội chủ nghĩa
nền kinh tế thị trường.
Trên đây là toàn bộ vấn đề em muốn trình bày. Do kiến thức cịn hạn chế
nên bài làm khơng tránh khỏi sai sót. Em mong sẽ nhận được những đánh giá
khách quan của thầy cô để em có thể hồn thành tốt hơn những bài tập sau này.
Em xin chân thành cảm ơn!



16

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Hợp tác xã 2012;
2. Luật Hợp tác xã 2003;
3. Bộ luật Dân sự 2005;
4. Nghị định 193/2013/NĐ-CP ban hành ngày 21 tháng 11năm 2013 quy
định chi tiết một số điều của Luật Hợp tác xã;
5. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Thương mại Tập 1, Nxb
CAND;
6. Võ Thị Kim Sa, Bản chất hợp tác xã: Thảo luận một số nội dung trong
Dự thảo Luật Hợp tác xã (sửa đổi);
7. Quy chế pháp lý về thành viên hợp tác xã theo Luật hợp tác xã (2012) :
khóa luận tốt nghiệp / Nguyễn Thị Hồng Anh ; ThS. Lê Hương Giang hướng
dẫn . - Hà Nội, 2015;
8. Bùi Thị Thanh Thảo, Báo cáo tổng thuật hội thảo khoa học “Về những
điểm mới trong các đạo luật về kinh tế ban hành năm 2012” tại Trường Đại học
Luật Thành phố Hồ Chí Minh;
Trang web:
/> /> />


×