TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI
KHOA SƯ PHẠM TIỂU HỌC-MẦM NON
BÀI KIỂM TRA GIỮA HỌC PHẦN
MÔN PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TIẾNG VIỆT 1
Sinh viên: Vũ Thị Thảo Uyên
Lớp: ĐH Tiểu học C- khóa 6
Giáo viên: Trần Dương Quốc Hòa
Năm học: 2018-2019
Yêu cầu 1:
1. Nguyên tắc phát triển tư duy
Giáo viên khuyến khích học sinh hăng hái giơ tay phát biểu ý kiến của bản thân,
học sinh không sợ trả lời sai mà thỏa sức nêu suy nghĩ của bản thân, không trả lời
theo rập khuôn. Với những câu trả lời đúng, giáo viên dành lời khen và tuyên
dương trước lớp. Còn các em trả lời chưa đúng, giáo viên không chê mà động
viên các em cố gắng hơn. Việc giáo viên khen học sinh nhiều hơn chê giúp tạo
hứng thú trong học tập, giúp các em không còn lo sợ khi trả lời, đồng thời phát
triển tư duy của các em.
Nguyên tắc phát triển tư duy vẫn được rèn luyện trong hầu hết các tiết học đầy đủ
các quy trình, cịn các tiết dạy khơng đầy đủ quy trình thì ngun tắc phát triển tư
duy ít được thực hiện.
Trong các tiết dạy đúng quy trình:em có được dự các tiết dạy mẫu môn tiếng việt
của các cô khối trưởng. Các cô đều đã thực hiện rất tốt nguyên tắc phát triển tư
duy. Ví dụ như:
- Ở tiết Học vần của lớp 1 mà em đã được dự thì cơ dạy giống với các quy trình
mà sv đã được học ở trường đại học. Giáo viên cũng cho các em tự tìm ra vần
hơm nay sẽ học, cho các em tự phân tích vần , tự cài vần vào bảng cài ,từ đó các
em có thể tự cài ra tiếng khóa, phân tích tiếng khóa, các em có thể đánh vần tiếng
khóa, tìm được từ khóa , có thể tự so sánh các vần có sự giống và khác nhau như
thế nào.
=> Giáo viên đã chú ý cho học sinh rèn luyện các thao tác tư duy thông qua các
hoạt động tìm vần cần học, hay tự phân tích tiếng, đánh vần tiếng đó, tự cài vần
hay tiếng khóa, qua đó cũng rèn cho các em thao tác tư duy nhanh, chính xác và
hoạt động tích cực thơng qua hoạt động tự ghép tiếng khóa. Qua đó giáo viên
cũng làm cho học sinh thông hiểu được việc ghép vần hay tiếng như thế nào là
đúng.
- Ở tiết Tập đọc của lớp 2 cô đã gợi mở cho các em học sinh các cách đọc khác
nhau và cho các em tự nhận xét là cách đọc nào hay hơn. Sau đó, cơ cho các em
tự tìm ra các câu trả lời của bài tập đọc để tìm hiểu bài kĩ hơn. Giáo viên hướng
dẫn học sinh về các thể thơ trong bài, đồng thời chỉ các em cách ngắt nhịp, sau đó
cho các em tự ngắt nhịp trong bài. Cơ cũng cho các em học sinh tự tìm các từ khó
trong bài tập đọc và cơ giải thích nghĩa. Sau đó cơ cho các em học thuộc bài bằng
cách làm mất dần các câu thơ trên bảng.
=>Giáo viên đã rèn các thao tác tư duy thông qua việc cho các em tự đọc và tìm
hiểu bài tập đọc và trả lời câu hỏi, sau đó cơ hướng dẫn việc ngắt nhịp để các em
hiểu rõ và có thể tự ngắt nhịp trong bài, sau đó các em tự tìm từ khó và cơ giải
thích từ khó cho các em, và cô cũng cho các em học thuộc bài ngay tại lớp
- Ở tiết Tập viết lớp 3 là bài ôn tập chữ hoa nên giáo viên cho các em phân tích
cấu tạo của các chữ hoa cần học. Sau đó giáo viên đi vào từng chữ hoa, cho các
em phân tích cấu tạo từng chữ. Sau đó qua phần viết từ ứng dụng cô cho từ ứng
dụng và cô giải nghĩa sau đó cho các em tìm ra chữ hoa vừa mới được học và độ
cao của các con chữ. Qua phần viết câu ứng dụng thì cơ cho câu ứng dụng và giải
thích nghĩa của câu ứng dụng để các em học sinh có thể hiểu rõ. Sau đó cơ cũng
cho các em tìm ra các chữ hoa đã được học.
=> Giáo viên đã cho các em phát triển thao tác tư duy thơng qua việc phân tích
cấu tạo các chữ hoa, tìm ra các chữ hoa đã được học trong từ ứng dụng, câu ứng
dụng. giáo viên cũng đã giải thích cho các em nghĩa của từ ứng dụng, câu ứng
dụng.
- Ở tiết LTVC lớp 4 bài Tính từ, GV đã cho HS làm việc theo nhóm và làm phiếu
bài tập để tự tìm hiểu bài. GV đưa ra từ và câu gợi ý để HS có thể dễ dàng hiểu và
trả lời được bài. Sau đó GV u cầu HS đặt câu có tính từ để mở rộng.
=> GV đã cho các em phát triển thao tác tư duy thông qua việc cho các em hoạt
động nhóm để tự tìm hiểu bài theo gợi ý của GV và đặt được câu đúng.
2. Nguyên tắc giao tiếp( nguyên tắc phát triển lời nói)
Nguyên tắc giao tiếp là hoạt động mà các giáo viên đều chú trọng. Em thấy các
giáo viên thường chú ý đến nguyên tắc giao tiếp nhiều nhất.Kể cả trong các tiết
dạy bình thường. Điển hình là trong các tiết tập đọc, chính tả, kể chuyện.
- Trong tiết tập đọc các em lắng nghe giáo viên của mình đọc mẫu sau đó các em
đọc bài. Ban đầu thì các em có thể đọc khơng đúng giọng đọc, sau đó giáo viên sẽ
hướng dẫn các em đọc cho đúng giọng và các em có thể hình thành nghĩ năng
nghe và đọc của mình. Qua hoạt động trả lời các câu hỏi thì các em có thể hình
thành kĩ năng nói.
- Trong tiết chính tả thì các em lắng nghe cô đọc, các em đọc lại và sau đó là nghe
cơ đọc và viết bài. Từ đó hình thành các kĩ năng nghe, đọc, viết. Trả lời các câu
hỏi cơ giáo đưa ra giúp các em hình thành kĩ năng nói.
- Trong tiết kể chuyện, các em có thể hình thành được các kĩ năng nghe, nói một
cách tích cực. Các em giao tiếp với các bạn, đóng vai các nhân vật trong câu
chuyện mình kể hình thành tích cực kĩ năng nói.
Bên cạnh đó giáo viên còn tổ chức các hoạt động như học sinh trao đổi phiếu học
tập nhận xét bạn, cho học sinh làm quản trò trong các trò chơi học tập, học sinh
tranh luận bài của các nhóm…
3. Nguyên tắc chú ý đến tâm lí và trình độ Tiếng Việt vốn có của học sinh
Trong một lớp thì trình độ Tiếng Việt của các em mỗi em sẽ khác nhau, giáo viên
là người hiểu rõ nhất trình độ của từng em trong lớp của mình. Như giáo viên
hướng dẫn của em, cơ hiểu rõ khả năng của từng em học sinh. Ví dụ như khi cô
dạy các bài tiếng việt, nếu dạy quá khơ khan thì các em học sinh yếu hơn sẽ
khơng tiếp thu được bài, vì vậy cơ đã thiết kế ra các trò chơi sinh động để tất cả
các em học sinh từ giỏi đến khơng giỏi đều có thể tiếp thu được kiến thức một
cách dễ dàng, quan trọng cô làm cho các em hứng thú với môn học Tiếng Việt.
trong các bài tập, cơ cũng có thể cho các em làm bài tập nhóm đơi, nhóm bốn để
các em trong nhóm có thể giúp đỡ nhau.
Đánh giá 1 tiết dạy theo tiêu chí của một tiết dạy tích cực
Các tiết mà em đã được đi dự thì các giáo viên đều đã đạt được các tiêu chí của
một tiết dạy tích cực
Tiêu chí 1: Tất cả các em đều tham gia hoạt động
Khi đặt câu hỏi, tổ chức trị chơi, giải một bài tập thì cơ đều cho các em học sinh
thời gian suy nghĩ rồi mới gọi các em học sinh.
Trong quá trình dạy giáo viên sẽ đưa ra phiếu học tập cho học sinh thảo luận
nhóm hoặc cá nhân. Nếu thảo luận nhóm , các nhóm sẽ thảo luận với nhau sau đó
sẽ đưa ra ý kiến bài của mình và các nhóm khác sẽ cùng tranh luận xem có giống
hay khác bài của mình. Cịn thảo luận cá nhân, sau khi làm xong , 2 bạn ngồi
cạnh nhau sẽ trao đổi bài và nhận xét bài của nhau.
Ví dụ như ở tiết tập đọc thì các em có thời gian suy nghĩ trả lời câu hỏi, tất cả các
em đều phải suy nghĩ vì khơng biết cơ sẽ gọi ai, sau đó phần đọc bài thì cơ cho
đọc theo hàng ngang, hàng dọc, theo dãy, đọc nối tiếp vì vậy các em đều phải
trong tâm thế sẵn sàng.
Ở tiết tập viết các em phải suy nghĩ trả lời các câu hỏi mà cô giáo đưa ra, tất cả
các em đều phải hiểu biết để có thể trả lời, tất cả các em đều viết chữ vào bảng
con, vào vở tập viết.
Tiêu chí 2: học sinh tự “sản sinh” ra tri thức
Trong q trình dạy giáo viên ln để học sinh tự tham gia các hoạt động học .
Những học sinh nào chưa hiểu sẽ tự động giơ tay hỏi, hay những em nào hiểu sẽ
giơ tay giải đáp thắc mắc giúp bạn mình. Giáo viên chỉ là người hướng dẫn ,
khơng cung cấp kiến thức có sẵn cho học sinh, giáo viên có thể mở rộng thêm câu
hỏi để học sinh tự tìm ra kiến thức mới.
Tiết học vần các em phải tự tìm ra vần cần học, tự nêu cấu tạo vần, ghép vần, tìm
ra tiếng khóa, ghép các từ khóa một cách ngẫu nhiên sau đó giáo viên sửa lại cách
ghép, các em tìm ra từ khóa và biết tiếng nào đã được học tiếng nào chưa được
học, các em phải tự so sánh các vần với nhau.
Ở tiết tập đọc, giáo viên cũng cho các em học sinh tự tìm ra câu trả lời của các
câu hỏi, tự biết cách ngắt nghỉ nhịp, giáo viên hướng dẫn cách đọc đúng từ đó
hình thành cho các em cách đọc đúng. Giáo viên còn giáo dục cho các em về
cơng ơn lớn lao của cha mẹ, từ đó các em phải biết u thương kính trọng cha mẹ
mình hơn.
Tiêu chí 3: Khơng khí lớp học sơi nổi, hào hứng
Khi dạy một tiết học, thì khơng khí lớp học góp một phần rất quan trọng vào việc
đánh giá một tiết học có thành cơng hay khơng, các giáo viên đều biết cách tạo
một khơng khí lớp học vui tươi, sôi nổi, các cô biết tạo hứng thú cho các em học
sinh thông qua việc gợi mở một cách khéo léo bài học, thơng qua các trị chơi học
tập, các kiến thức các giáo viên đưa vào một cách sinh động, hấp dẫn thông qua
việc sử dụng các tranh ảnh, trình chiếu, hay những câu chuyện mở đầu hấp dẫn.
các em học sinh đều tích cực giơ tay phát biểu.
Yêu cầu 2:
- Liệt kê các băn khoăn, thắc mắc của bản thân khi tiếp cận với thực tế các
tiết dạy học Tiếng Việt ở trường tiểu học
+ Phần tập làm văn không để cho học sinh tự hứng thú kích thích sáng tạo mà lại
đọc bài mẫu, hoặc đọc cho học sinh chép nguyên một bài tập làm văn.
+ Tiết tập viết giáo viên thường không hướng dẫn cách viết rõ ràng mà chỉ cho
học sinh mở vở tập viết ra làm.
+ Tiết tập đọc thì dạy theo cách truyền thống chứ không cho học sinh xem tranh
ảnh hay gây hứng thú cho học sinh nhiều.Vì vậy khó kích thích được các em tìm
hiểu bài một cách tích cực. Đa số chỉ các em giỏi mới có thể trả lời được các câu
hỏi trong bài. Cịn các em học sinh yếu hơn thì khơng biết gì hết. Lâu dần sẽ hình
thành thói quen xấu cho các em.
+ Thường thì các tiết dạy chỉ có các em học sinh giỏi tương tác với thầy cơ giáo,
cịn các em học sinh yếu hơn thì khơng thấy dơ tay phát biểu bài.
+ Đa số các tiết dạy bình thường thường là một tiết dạy truyền thống chứ chưa
dạy một cách sinh động như cho học sinh xem tranh ảnh, chơi trị chơi gây hứng
thú, hay dạy bằng cơng nghệ thơng tin.
- Lý giải:
Theo em nghĩ thường thì các thầy cô sẽ không chú ý nhiều đến bài dạy của mình
có lên đúng quy trình hay khơng mà thầy cơ chỉ đánh vào những phần trọng tâm
của bài để các em có thể hiểu bài. Thêm nữa là nếu dạy đúng quy trình của tất cả
các phân mơn thì có thể sẽ khơng theo kịp tiến độ của chương trình học mà Bộ
Giáo Dục đã đề ra.