HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
Học phần: Triết học Mac - Lênin
ĐỀ TÀI: Nguyên lý về sự phát triển và vận dụng quan
điểm phát triển vào quá trình học tập, rèn luyện của sinh
viên Học viện Ngân hàng
Giảng viên hướng dẫn :
Sinh viên thực hiện
:
Lớp
:
Mã sinh viên
:
Lê Trọng Khanh
Phạm Ngân Hà
K24KTDTB
24A4072242
Hà nội, ngày 24 tháng 12 năm 2021
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................................3
1.
Lí do lựa chọn đề tài.................................................................................................................3
2.
Đề tài giải quyết nội dung........................................................................................................3
3.
Ý nghĩa lí luận và ý nghĩa thực tiễn.........................................................................................3
CHƯƠNG 1 : CỞ SỞ LÝ LUẬN NGUYÊN LÝ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN.......4
1.1. Khái niệm và tính chất của nguyên lý về sự phát triển...........................................................4
1.2. Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý về sự phát triển....................................................6
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN VÀO QUÁ
TRÌNH HỌC TẬP, RÈN LUYỆN CỦA SINH VIÊN HỌC VIỆN NGÂN
HÀNG...................................................................................................................8
2.1. Sinh viên Học viện Ngân hàng vận dụng quan điểm phát triển vào quá trình học tập và
rèn luyện............................................................................................................................................8
2.2. Liên hệ bản thân......................................................................................................................11
KẾT LUẬN........................................................................................................13
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................14
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lí do lựa chọn đề tài
Việt Nam q độ lên chủ nghĩa xã hội tuy khơng có sự giúp đỡ của Liên Xô
và các nước xã hội chủ nghĩa như trước, nhưng khi đang trong giai đoạn mới
của thời đại, khi mà cách mạng công nghiệp lần thứ tư và xu thế tồn cầu hóa
ngày càng phát triển, tất cả các nước trên thế giới đều ở trong mối liên hệ lẫn
nhau. Chúng ta cũng đã và đang cố gắng hàng ngày, đưa tổ quốc ta hòa nhập
trên trường quốc tế. Để làm được điều đó thì mỗi cá nhân là công dân của
nước Việt Nam, cụ thể là sinh viên Học viện Ngân hàng cần phải trang bị cho
mình những hành trang là sự sáng tạo, năng động, phát triển để giúp ta ngày
càng khẳng định được giá trị dân tộc. Nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề
này, em đã lựa chọn đề tài “Nguyên lý về sự phát triển và vận dụng quan
điểm phát triển vào quá trình học tập, rèn luyện của sinh viên Học viện Ngân
hàng” để tìm hiểu, phân tích.
2. Đề tài giải quyết nội dung
Thông qua bài tiểu luận, sinh viên có thể nhận thấy những mặt tích cực trong
q trình học tập và rèn luyện của mình, từ đó nâng cao nhận thức và giá trị
bản thân. Đồng thời, sinh viên cũng nhận ra những mặt hạn chế, lạc hậu trong
cách học nhằm hồn thiện hơn.
3. Ý nghĩa lí luận và ý nghĩa thực tiễn
Về ý nghĩa lí luận, khi ta nghiên cứu những vấn đề về nguyên lý của sự phát
triển giúp ta nhận thức được khuynh hướng của sự vật, hiện tượng để có thể
nâng cao hay kìm hãm sự phát triển đó nhằm có lợi cho xã hội.
Về ý nghĩa thực tiễn, rèn luyện bản thân là việc làm cần thiết, nên ta cần phân
tích được điểm mạnh để nâng cao, điểm lạc hậu để khắc phục. Đồng thời
cũng nhận thức khuynh hướng phát triển của xã hội để hồn thiện mình.
CHƯƠNG 1 : CỞ SỞ LÝ LUẬN NGUYÊN LÝ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN
1.1. Khái niệm và tính chất của nguyên lý về sự phát triển
Phát triển là quá trình vận động từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hồn
thiện hơn, từ chất cũ đến chất mới ở trình độ cao hơn. Phát triển là vận động
nhưng không phải mọi sự vận động đều là phát triển, mà chỉ vận động nào có
khuynh hướng đi lên thì mới là phát triển.
Từ quan niệm, phát triển là sự vận động theo chiều hướng đi lên, các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ, thực chất của phát triển là sự phát
sinh đối tượng mới phù hợp với quy luật tiến hóa và sự diệt vong của đối
tượng cũ trở nên lỗi thời. Đối tượng mới sẽ là phù hợp với khuynh hướng tiến
bộ của lịch sử, còn đối tượng cũ là cái đã mất - vai trò tất yếu của lịch sử,
ngày càng đi trở nên lạc hậu và có thể bị diệt vong. Trong lĩnh vực xã hội, đối
tượng mới là kết quả của những hoạt động sáng tạo, đổi mới theo hướng tiên
tiến, đáp ứng nhu cầu và lợi ích của phần lớn nhân dân, có khả năng bảo vệ
được nhân dân, vì vậy mà nó tất yếu chiến thắng đối tượng cũ. Đặc biệt trong
thời kỳ xã hội đang có những chuyển biến lớn, sự chiến thắng của đối tượng
mới trước đối tượng cũ biểu hiện rất rõ. Nắm vững quy luật này có ý nghĩa
quan trọng và cần thiết đối với sự sáng tạo và phát triển của sinh viên trong sự
nghiệp đổi mới của nước ta hiện nay.
Ngược với quan điểm biện chứng, quan điểm siêu hình phủ nhận sự phát
triển, xem phát triển là quá trình tiến lên liên tục, khơng có tính phức tạp,
tuyệt đối hóa sự ổn định của sự vật, hiện tượng. Phát triển ở đây chỉ là mặt
tăng hay giảm của mặt lượng, chỉ là sự tuần hồn, lặp đi lặp lại mà khơng có
sự biến đổi về chất, cũng khơng có sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới và
nguồn gốc của sự “phát triển” nằm ngồi chúng, khơng có tính quanh co,
phức tạp. V.I. Lênin từng viết “ Hai quan niệm cơ bản (...) về sự phát triển (sự
tiến hóa): sự phát triển coi như là giảm đi và tăng lên, như là lặp lại, và sự
phát triển coi như là sự thống nhất của các mặt đối lập (sự phân đôi của cái
thống nhất thành những mặt đối lập bài trừ lẫn nhau và mối quan hệ lẫn nhau
giữa các mặt đối lập ấy)... Quan niệm thứ nhất là chết cứng, nghèo nàn, khô
khan. Quan niệm thứ hai là sinh động … cho ta chìa khóa của “ sự tự vận
động” của tất thảy mọi cái đang tồn tại, chỉ có nó mới cho ta chìa khóa của
những “bước nhảy vọt”, của “sự gián đoạn của tính tiệm tiến”, của sự
“chuyển hóa thành mặt đối lập”, của sự tiêu diệt cái cũ và sự nảy sinh ra cái
mới”.
Quan điểm biện chứng trái với quan điểm siêu hình về sự phát triển ở chỗ: coi
sự phát triển là sự vận động đi lên, là q trình tiến lên thơng qua bước nhảy;
sự vật, hiện tượng cũ mất đi, sự vật, hiện tượng mới ra đời thay thế, chỉ ra
nguồn gốc bên trong của sự vận động, phát triển là đấu tranh giữa các mặt đối
lập bên trong sự vật, hiện tượng. Các sự vật, hiện tượng luôn tồn tại trong sự
vận động, phát triển và chuyển hóa khơng ngừng. Khuynh hướng chung của
sự phát triển là tính tiến lên theo đường xốy ốc, có tính kế thừa, giống như
lặp sự vật, hiện tượng cũ nhưng ở cơ sở cao hơn.
Nguyên lý về sự phát triển cịn là q trình phát sinh và giải quyết những mâu
thuẫn khách quan của sự vật, hiện tượng. Đây là quá trình thống nhất giữa các
yếu tố hạn chế và kế thừa, nhằm nâng cao nhân tố tích cực từ sự vật, hiện
tượng cũ trong hình thái của sự vật, hiện tượng mới.
Bên cạnh khái niệm, tính chất của sự phát triển cũng là điều cần chú ý. Q
trình phát triển nào cũng có tính khách quan, phổ biến, kế thừa và tính đa
dạng, phong phú.
Cũng giống như mối liên hệ phổ biến, tính khách quan của sự phát triển được
thể hiện ở chỗ nguồn gốc của nó nằm ở bên trong chính bản thân của sự vật,
hiện tượng, chứ khơng do tác động bên ngồi. Vậy nên, phát triển là thuộc
tính khách quan, tất yếu và khơng phụ thuộc vào ý thức con người.
Tính phổ biến của nguyên lý về sự phát triển được thể hiện ở các quá trình
phát triển diễn ra trong các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; trong tất cả
mọi sự vật, hiện tượng và trong mọi quá trình, mọi giai đoạn của sự vật, hiện
tượng này. Trong mỗi q trình biến đổi đã có thể bao gồm khả năng dẫn đến
sự ra đời của cái mới, phù hợp với quy luật khách quan.
Phát triển cịn có tính kế thừa, sự vật hiện tượng mới ra đời không thể là sự
phủ định tuyệt đối, phủ định sạch trơn, tách biệt một cách siêu hình đối với sự
vật hiện tượng cũ. Sự vật, hiện tượng mới ra đời từ sự vật hiện tượng cũ, chứ
không phải ra đời từ hư khơng. Vì vậy trong sự vật hiện tượng mới cịn giữ
lại, có sự chọn lọc và cải tạo các yếu tố cịn tác dụng, cịn thích hợp với
chúng, và gạt bỏ mặt tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu của sự vật, hiện tượng cũ đang
gây cản trở sự vật, hiện tượng mới tiếp tục phát triển.
Mọi sự phát triển diễn ra trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy, nhưng
mỗi sự vật, tư duy lại có quá trình phát triển khơng giống nhau là biểu hiện
của tính đa dạng, phong phú của phát triển. Nó cịn phụ thuộc vào không gian
và thời gian, vào các yếu tốm điều kiện tác động lên sự phát triển đó.
1.2. Ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý về sự phát triển
Nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển giúp ta có nhận thức, hiểu rằng muốn
nắm được bản chất, khuynh hướng phát triển của sự vật, hiện tượng thì phải
tự giác tuân thủ nguyên tắc phát triển, khắc phục tư tưởng bảo thủ trì trệ.
Nguyên tắc phát triển bao gồm: khi nghiên cứu, cần đặt đối tượng vào sự vận
động, khơng chỉ nhận thức nó ở trạng thái hiện tại mà còn dự báo khuynh
hướng phát triển trong tương lai của chúng; cần tìm hình thức, phương pháp
tác động phù hợp để thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển đó; tạo điều kiện
cho nó phát triển, chống lại quan điểm bảo thủ, định kiến; cần kế thừa và phát
triển, sáng tạo những mặt tích cực.
Cần có thái độ tin tưởng, lạc quan vào cái mới, nhận thức rõ quá trình phát
triển là quá trình biện chứng đầy mâu thuẫn. Để rút ra được bài học từ nguyên
lý về sự phát triển, ta cần có đủ q trình tích lũy về lượng. Đồng thời, cần có
cho mình những sự chuẩn bị về bước nhảy nhằm thay đổi chất, phát hiện và
giải quyết những mâu thuẫn.
Với những nguyên tắc phương pháp luận, là quan điểm toàn diện, quan điểm
phát triển góp phần định hướng, chỉ đạo hoạt động nhận thức cũng như hoạt
động thực tiễn nhằm cải tạo, nâng cao giá trị con người.
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN VÀO QUÁ
TRÌNH HỌC TẬP, RÈN LUYỆN CỦA SINH VIÊN HỌC VIỆN NGÂN
HÀNG
2.1. Sinh viên Học viện Ngân hàng vận dụng quan điểm phát triển vào
quá trình học tập và rèn luyện.
Ngay khi còn đang trên giảng đường đại học, sinh viên phải tự nhận thức
được việc học tập, rèn luyện không chỉ cho bản thân mà còn cho sự phát triển
của xã hội. Họ có thể đóng góp từ những việc nhỏ nhất vào sự nghiệp cách
mạng đổi mới bằng khả năng của mình. Học là để cống hiến chứ khơng phải
để đối phó với thầy cơ, hay là chỉ học theo lời bố mẹ, để bố mẹ vừa lòng. Mỗi
người đều cần phải quan tâm và cố gắng tìm ra cho mình những phương pháp
học tập phù hợp. Việc áp dụng quan điểm phát triển vào quá trình rèn luyện
bản thân có ý nghĩa cần thiết với sinh viên, đặc biệt là sinh viên Học viện
Ngân hàng.
Đại học là nơi mà ta có thể thỏa sức sáng tạo bản thân, là nơi mà ta có thể tiếp
thu những kinh nghiệm quý báu từ những người đi trước, cũng là nơi được coi
là xã hội thu nhỏ khiến bản thân ta phải biết hồn thiện từng ngày để trở thành
cơng dân có ích. Sinh viên là những người có trong mình những kiến thức,
những nhận thức về thế giới xung quanh, vì vậy mà cũng có những thay đổi
trong phương pháp nghiên cứu học tập, rèn luyện. Sự thay đổi to lớn và rõ rệt
nhất so với môi trường giáo dục phổ thơng là khơng cịn sự ràng buộc về nội
dung hay phương pháp học tập, học tập gắn liền với thực tiễn, bạn bè ngồi
cùng có thể trở thành đồng nghiệp, và mơi trường sống xa gia đình cũng tác
động khơng nhỏ đến bản thân sinh viên. Đối với chương trình phổ thơng, các
kiến thức cịn ở mức đại trà, và phương pháp học tập phổ biến nhất là thầy cô
đọc và học sinh ghi chép rồi học thuộc, ít khi thảo luận hay trao đổi các vấn
đề trong lớp học. Thế nhưng khi đã trở thành sinh viên đại học, ta phải tiếp
cận với khối lượng kiến thức khổng lồ và tiếp xúc với chương trình học “tín
chỉ”. Từ những ngày đầu bước vào học viện, sinh viên đã được các thầy cô
chỉ bảo và hướng dẫn cách tra cứu, nghiên cứu tài liệu. Những lời giảng của
thầy cơ chỉ là sự gợi ý, cịn sự tiếp thu của sinh viên là phụ thuộc vào mỗi
người có chịu tìm tịi những kiến thức mới hay khơng. Có lẽ vì điều đó mà có
nhiều sinh viên ngỡ ngàng, chán chường với con đường học tập của mình.
Phương pháp khơng phải tự nhiên mà có, nó được rút ra từ những kinh
nghiệm tích lũy của sinh viên. Khơng cịn những lời đốc thúc của bố mẹ, thầy
cơ, mơi trường đại học khiến ta phải có một kỹ năng vô cùng cần thiết là “tự
học”. Một số sinh viên năm nhất cho rằng chỉ học 3 buổi 1 tuần, thời gian cịn
lại có thể thoải mái chơi, ngủ rồi tự ngộ nhận học đại học nhàn lắm. Thế
nhưng, đại học chỉ nhàn với những người khơng học, cịn nếu học chăm chỉ
thì đại học sẽ thật sự khơng dễ dàng như khi cịn ở phổ thơng. Khơng có cái gì
là khơng biết, ta chỉ biết và tiếp thu được khi ta có những tìm hiểu nhất định.
Chỉ khi sinh viên chịu nghiên cứu, tìm tịi và cầu tiến thì mới có thể đạt kết
quả cao trong học tập và giành học bổng. Một điều cũng mang lại khác biệt
với các chương trình phổ thơng thơng thường là “học bổng”. Ở Học viện
Ngân hàng, chúng ta có rất nhiều học bổng của trường, của các ngân hàng
hợp tác để động viên, khích lệ những sinh viên có có cố gắng trong học tập và
đạt kết quả cao. Ngoài ra, học viện cịn có những chính sách miễn giảm học
phí tạo điều kiện cho các sinh viên nghèo, sinh viên thuộc dân tộc thiểu số có
cơ hội đến trường, tiếp xúc với nền giáo dục đại học.
Trong các giờ học của Học viện Ngân hàng, sinh viên không chỉ tiếp thu kiến
thức từ bài giảng của thầy cơ mà cịn được thảo luận cùng mọi người. Thầy cô
luôn là những người tìm tịi các phương pháp giảng dạy tiên tiến, là người đưa
ra các câu hỏi mang tính thực tiễn để sinh viên có thể tiếp cận gần hơn và có
những phương án giải quyết mang tính độc đáo, mới lạ nhằm tích lũy kinh
nghiệm cho bản thân. Không những thế, các thầy cô còn giành ra một số tiết
học để các sinh viên có thể làm bài tập nhóm và tự điều khiển tiết học để
thuyết trình những kiến thức mà nhóm đã tìm hiểu hoặc phản biện lại những ý
kiến khơng đúng hoặc chưa rõ của các bạn khác. Chính nhờ những tiết học đó
mà sinh viên có thể củng cố các kỹ năng mềm như kỹ năng giao tiếp ứng xử,
kỹ năng lãnh đạo, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng tư duy sáng tạo, kỹ năng
tổ chức cơng việc. Đó đều là những kỹ năng cần thiết ngay từ khi đang còn
trên giảng đường cho đến sau này khi sinh viên ra ngồi tìm kiếm cơ hội làm
việc cho bản thân. Các thầy cô luôn tràn đầy tâm huyết hướng dẫn và các sinh
viên học viện cũng luôn mang trong mình sự sáng tạo, năng nổ của tuổi trẻ để
hồn thành cơng việc được giao.
Học là q trình dài bằng cả đời người, những kiến thức ngoài kia giống như
đại dương mênh mông mà ta chẳng thể khám phá hết. Thế nhưng nếu ta nóng
vội, hay để đến kì thi mới bắt đầu học thì những kiến thức mà ta tiếp thu ấy sẽ
không bao giờ giúp ta thành công hay đạt điểm cao. Việc tích lũy kinh
nghiệm từng ngày, sinh viên sẽ mang trong mình những hiểu biết nhất định.
Chính vì vậy mà q trình học tập và rèn luyện của sinh viên Học viện Ngân
hàng luôn vận dụng các quan điểm phát triển. Trong quá trình gom nhặt
những mảnh kiến thức cho mình, sinh viên học viện ln phát triển từ những
mặt tích cực của cái cái cũ và hạn chế những điều lạc hậu, khơng cịn phù
hợp. Ví dụ trong đời điểm dịch Covid 19 cịn đang diễn biến phức tạp, khi các
sinh viên học viện không được đến trường và phải học trực tuyến, mọi người
cũng bắt đầu thích ứng và tìm cho mình những phương pháp phù hợp hơn khi
học trực tiếp. Vì vậy sinh viên cần xác định, hiểu rõ nội dung phương pháp
luận biện chứng duy vật; xác định vấn đề cần giải quyết để chọn đúng phương
pháp, liên hệ tính chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn. Tư duy biện chứng sẽ
giúp sinh viên có cái nhìn tồn diện hơn, phân biệt được những tri thức đúng,
sai; chỉ ra nguyên nhân cái sai, và khẳng định, nâng cao tri thức đúng đắn.
Ngồi ra, sinh viên cũng nên có nhận thức khuynh hướng phát triển ngành
học của bản thân để có những định hướng, dự định trong tương lai góp phần
xây dựng xã hội ngày càng đi lên.
2.2. Liên hệ bản thân
Bản thân em khi được tiếp cận với môi trường giáo dục đại học cũng cảm
thấy có những bỡ ngỡ nhất định. Nếu kiến thức ở cấp trung học phổ thông cho
ta cái nhìn bao quát thì ở đại học, ta sẽ được đi sâu, phân tích từng vấn đề và
có tính thực tiễn cao. Bên cạnh đó, tại Học viện Ngân hàng có nhiều hơn
những giờ học được thuyết trình, được tranh luận, là nơi mà ý kiến của bản
thân được nêu cao hơn. Với lượng kiến thức khổng lồ và chỉ học vài buổi
trong một tuần khiến một sinh viên năm nhất như chúng em cần có một
phương pháp học hành phù hợp để có thể tiếp thu những tinh hoa ngay khi ở
trên giảng đường.
Trong quá trình học, em đã có những sáng tạo trong cách học của riêng mình.
Nếu như ở chương trình phổ thơng, em chỉ là người thụ động tiếp nhận các
kiến thức trên lớp học từ các thầy cơ, thì khi lên đại học, em sẽ là người chủ
động đi tìm tịi, nghiên cứu các kiến thức trước khi bước vào giảng đường để
có thể hiểu sâu hơn. Trong giai đoạn dịch bệnh vẫn còn diễn biến phức tạp,
em đã liên hệ với các thầy cô thông qua các phương tiện trực tuyến để được
thầy cơ giải đáp những điều mình chưa hiểu kĩ.
Đồng thời, em cần biết liên hệ những môn học trên đại học để có thể hiểu rõ
hơn và giúp ích cho các mơn học sau này. Ví dụ như ở mơn triết, em được tìm
hiểu về mặt khách quan, chủ quan, nhờ vào đó mà ở mơn pháp luật đại cương,
em có thể phân tích và khơng cịn cảm thấy mờ hồ. Hay bản thân em có thể
phân biệt những mối liên hệ, chú ý các mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản
chất, mối liên hệ tất nhiên để hiểu rõ bản chất của sự vật (kiến thức) và có
phương pháp tác động (hay phương pháp học tập) phù hợp nhằm đem lại hiệu
quả cao nhất để phát triển bản thân. Đồng thời, em còn áp dụng nguyên lý về
sự phát triển vào quá trình học tập, rèn luyện của mình. Từ một học sinh cấp 3
khi cịn chưa tìm được cho mình phương pháp tốt, hay dựa dẫm vào thầy cô,
bố mẹ thì bây giờ em đã trở lên tự lập hơn, có những định hướng rõ ràng hơn.
Từ một người cịn yếu kém về các kỹ năng mềm, tại Học viện Ngân hàng, em
đã được tiếp cận sâu hơn qua các bài tập nhóm, qua các buổi thuyết trình,
tranh luận trên lớp, em đã có thể hồn thiện các kỹ năng của mình và trở nên
tự tin, mạnh dạn nêu lên ý kiến của mình.
Hơn nữa, tại Học viện Ngân hàng, trường có rất nhiều những hoạt động ngoại
khóa, những câu lạc bộ năng động. Đã từng là một người nhút nhát, ngại nói
trước đám đơng, nhưng khi được tiếp xúc với thầy cô, với các anh chị đi
trước, em đã tích lũy cho mình những kinh nghiệm, những lời khun hữu ích
để ngày bản thân ngày càng đi lên. Khác với trường cấp 3, khi mà hầu hết học
sinh đều chỉ quan tâm đến việc học, ở đại học, em có thể tham gia nhiều câu
lạc bộ khác nhau, tiếp thu những kiến thức mới, mở rộng mối quan hệ của bản
thân nhưng vẫn giữ cho việc học không bị chểnh mảng.
Trong điều kiện đất nước ta đang xây dựng và phát triển một nền kinh tế thị
trường, từng bước đưa Việt Nam ra thị trường quốc tế thì những vấn đề liên
quan đến kinh tế cũng trở nên thiết thực trong công cuộc đổi mới. Là một sinh
viên thuộc khoa Kinh tế, chuyên ngành Kinh tế đầu tư, em cũng phải nắm rõ
chương trình học và nhận ra khuynh hướng phát triển của ngành trong khoảng
thời gian sắp tới. Đồng thời, em cũng cần bồi dưỡng cho bản thân mình
những kiến thức, những kỹ năng mềm mà xã hội hiện tại và tương lai địi hỏi
để hồn thiện bản thân, nâng cao giá trị của mình cũng như của toàn xã hội.
Mỗi sinh viên, đặc biệt là sinh viên Học viện Ngân hàng hãy luôn nhớ và
chăm chỉ học tập để có thể giúp tổ quốc ta có chỗ đứng vững chắc trên trường
quốc tế.
KẾT LUẬN
Việc tìm hiểu nguyên lý về sự phát triển và vận dụng quan điểm vào quá trình
phát triển, rèn luyện của sinh viên Học viện Ngân hàng giúp ta hiểu rõ hơn về
“phát triển”, nhận thức được sự khác nhau giữa phát triển và vận động, đồng
thời hiểu rõ hơn về q trình học tập của sinh viên. Đó khơng phải là q
trình vứt bỏ hồn tồn kiến thức hay cách học mà ta đã áp dụng trong 12 năm
học trước đó, mà đó là q trình tiếp thu những cái tân tiến so với những năm
phổ thông của mơi trường đại học. Trong q trình ấy, sinh viên đã đấu tranh
để loại bỏ những thứ tiêu cực và kế thừa, nâng cao những mặt tích cực có sẵn
trong chương trình học trước. Khi đã có nhận thức đúng đắn về ngun lý
phát triển, sinh viên có cái nhìn thấu đáo hơn về quá trình học tập, rèn luyện
của mình, có thể lí giải những điều chưa đúng đắn hay cịn lạc hậu để cải
thiện. Thơng qua bài tiểu luận, em đã có thêm những hiểu biết hơn về nguyên
lý phát triển. Tuy nhiên sự hiểu biết của em cịn nhiều hạn chế, mong thầy cơ
chỉ bảo để bài được hoàn chỉnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Giáo trình Những nguyên lý của chủ nghĩa Mac – Lenin, Bộ giáo dục
và Đạo tạo, NXB chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2015
2.
Bộ giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng
Cộng sản Việt Nam (dành cho sinh viên Đại học, cao đẳng khối không
chuyên ngành Mac – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh), NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2021