LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Định hướng xuất khẩu hàng nông
sản chế biến của Việt Nam đến
năm 2010
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 1 -
LỜI NÓI ĐẦU
Trong bối cảnh hiện nay, xu thế hội nhập và tự do hoá thương mại đang diễn
ra mạnh mẽ trong mỗi khu vực và trên toàn thế giới. Cùng với xu thế đó,
trong những năm gần đây, Việt Nam bằng những thành tựu phát triển kinh tế
trong tiến trình đổi mới cũng đang tích cực hội nhập với nền kinh tế các nước
trong khu vực và trên thế giới. Nghị quyết trung ương 4 (khoá VIII) c
ủa Đảng
cũng đã xác định phương hướng chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp, tạo ra
những mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực và tăng nhanh giá trị kim ngạch
xuất khẩu trong những năm tới.
Trong bối cảnh đó, “ Định hướng xuất khẩu hàng nông sản chế biến của Việt
Nam đến năm 2010” là một trong những đề tài nghiên cứu hết sứ
c cần thiết,
với mục tiêu: một là, xem xét, đánh giá tổng thể các xu hướng phát triển
chung của thị trường các sản phẩm nông nghiệp chế biến trên thế giới; hai là,
trên cơ sở đó, xây dựng định hướng phát triển sản xuất và xuất khẩu các sản
phẩm nông nghiệp Việt Nam hướng đến thị trường hàng nông sản thế giới,
góp phần phát triển nền sả
n xuất nông nghiệp hàng hoá trong nước và tham
gia, hội nhập với nền kinh tế thế giới; ba là, không ngừng nâng cao khả năng
xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam trên thị trường thế giới cả
về số lượng và chất lượng sản phẩm, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu các sản
phẩm nông nghiệp nói riêng và hàng hoá nói chung của Việt Nam. Nội dung
của Khoá luận tốt nghiệp
được kết cấu thành ba phần sau:
Phần thứ nhất nghiên cứu chung về thị trường hàng nông sản chế biến thế
giới theo các nhóm nước, các khu vực và các nhóm sản phẩm nông nghiệp
chế biến trong nước và thế giới trong giai đoạn chủ yếu từ năm 1995 đến nay.
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 2 -
Tập trung phân tích những xu hướng sản xuất, tiêu thụ và buôn bán các sản
phẩm nông nghiệp chế biến trên thị trường thế giới, nhằm đưa ra những đánh
giá chung, cần thiết cho sự nghiệp chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và
tăng cường xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam trong xu
hướng tự do hoá thương mại và những vấn đề toàn cầu khác.
Phần th
ứ hai là những nội dung nghiên cứu về sản xuất và xuất khẩu các sản
phẩm nông nghiệp chế biến chủ yếu của Việt Nam theo các sản phẩm và các
thị trường chủ yếu. Qua đó, Khoá luận tốt nghiệp muốn đề cập đến những lợi
thế và hạn chế trong sản xuất, xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp chế biến
của Việt Nam.
Đồng thời, Khoá luận tốt nghiệp cũng đưa ra đánh giá về định
tính và định lượng đối với yêu cầu tăng cường xuất khẩu các nông sản chế
biến chủ yếu của Việt Nam đến năm 2010.
Phần thứ ba là mục tiêu và định hướng xuất khẩu hàng nông sản chế biến của
Việt Nam đến năm 2010 và các kiến nghị nhằm nâng cao khả năng xuấ
t khẩu
hàng nông sản chế biến của Việt Nam bằng nhiều cách tiếp cận khác nhau
như: mở rộng danh mục nông sản chế biến xuất khẩu; nâng cao giá trị và khối
lượng của nông sản chế biến xuất khẩu, đề cao vai trò Chính phủ trong việc
giải quyết những vấn đề chung về thị trường xuất khẩu, môi trường kinh
doanh xuất khẩu, nâng cao sức cạnh tranh của nông sả
n chế biến Việt Nam
trên thị trường xuất khẩu.
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 3 -
CHƯƠNG I: THỊ TRƯỜNG HÀNG NÔNG SẢN CHẾ BIẾN THẾ GIỚI
o0o
I. Tình hình sản xuất và tiêu thụ nông sản chế biến trên Thế giới:
Sản lượng của hầu hết các nông sản chế biến trên thế giới đều tăng qua các
năm ở mức trên dưới 1%/năm. Nếu so sánh với mức tăng trưởng bình quân
2,5 trong những năm 90 thì mức tăng trưởng bình quân trong giai đoạn này đã
giảm sút đáng kể. Hơn nữa, sự gia tăng sản lượng các sản phẩm nông nghiệp,
nhất là các sản phẩm lương thực, th
ực phẩm chưa theo kịp với tốc độ tăng dân
số.
Trên thế giới, các nước đang phát triển đang đang trở thành những nước sản
xuất chủ yếu các sản phẩm nông nghiệp, và theo đó là ngành công nghiệp chế
biến. Các nước phát triển vẫn là những nước chiếm tỷ trọng cao về sản lượng
các sản phẩm thuộc nhóm hàng thịt, các sản phẩm thị
t và nhóm hàng sữa, các
sản phẩm sữa; các nước đang phát triển lại thường chiếm tỷ trọng cao trong
sản lượng về các sản phẩm từ trồng trọt, đặc biệt là nhóm sản phẩm nông
nghiệp qua sơ chế hoặc chế biến.
Trong giai đoạn 1999 - 2000, khối lượng tiêu dùng chung các sản phẩm nông
nghiệp đã qua chế biến trên thế giới có sự gia tăng, ngưng ở mức th
ấp hơn
chút ít so với nhịp độ tăng của sản lượng. Khối lượng tiêu dùng các sản phẩm
nông nghiệp, đặc biệt là nông sản chế biến, chưa có sự gia tăng rõ rệt, thậm
chí còn bị giảm sút ở những khu vực còn có sự gia tăng dân số ở nhịp độ cao.
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 4 -
Trong giai đoạn 1999 - 2000, nổi lên các khu vực cần chú ý: đối với các nước
Châu Phi, đó là sự bất cập giữa sự gia tăng dân số ở mức độ cao và khả năng
tăng sản lượng sản xuất các sản phẩm nông nghiệp chế biến; đối với các nước
Đông âu và Liên Xô cũ, đó là sự giảm sút quá mức của sản lượng sản xuất và
khối lượng tiêu dùng các sản phẩ
m nông nghiệp so với dân số, mặc dù trong
giai đoạn này, dân số của các nước Đông âu có xu hướng giảm; đối với khu
vực Viễn Đông, mặc dù có sự gia tăng sản lượng cao, nhưng sức ép do sự gia
tăng dân số đối với vấn đề an ninh lương thực vẫn lớn.
II. Mậu dịch hàng nông sản chế biến thế giới trong những năm 90 và đầu
thế kỷ 21:
Mậu dịch hàng nông sản chế biến thế giới trong những năm 90 đã tăng 25%
về giá trị (kể cả mậu dịch nội khu vực). Tuy nhiên, xu hướng đã mấy lần bị
gián đoạn. Tốc độ tăng trưởng trung bình giảm còn 3% so với 9% trong
những năm 1985 - 1990. Kết quả là tỷ trọng của nông sản chế biến trong tổng
kim ngạch xuất khẩu trong giai đo
ạn trên đã giảm từ 12,2% còn 9%.
Vị trí của các khu vực trong xuất khẩu nông sản như sau: Tây âu - 41%, Châu
á - 19%, Bắc Mỹ - 19%, Mỹ La tinh - 12%, Châu Phi - 3,3%, Trung Đông âu
và SNG - 4,3%.
Các nước xuất khẩu nông sản chế biến lớn nhất là Mỹ - chiếm 12,7% tổng
kim ngạch xuất khẩu thế giới năm 2000, Pháp - 6,5%, Ca-na-đa - 6,2%, Hà
Lan - 6,1%, Đức - 5%. 15 nước xuất khẩu lớn nhất chiếm 64% tổng kim
ngạch xuất khẩu. Mỹ cũng là n
ước nhập khẩu nông sản chế biến lớn nhất
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 5 -
(11% kim ngạch xuất khẩu của thế giới). Tiếp theo là Nhật Bản - 10,3%, Đức
- 6,9%.
1) Thực trạng xuất khẩu theo nhóm nước và khu vực:
Trong những năm 90, khi xem xét mối quan hệ giữa giá trị xuất khẩu và nhập
khẩu nông sản chế biến của hai nhóm nước phát triển và đang phát triển cho
thấy: hệ số giữa giá trị xuất khẩu và nhập khẩu của các nước đang phát triển
luôn lớn hơn 1, nhưng đang có xu hướng giảm dần đến 1; các nước phát triển
có hệ số nhỏ hơn 1, nhưng có xu hướng ti
ến dần đến 1. Xu hướng này diễn ra
ở các sản phẩm chế biến mạnh hơn ở hàng nông sản nói chung.
So với các nước đang phát triển thì các nước phát triển thường lớn hơn 2,8 lần
trong giá trị xuất khẩu và lớn hơn 3 lần trong giá trị nhập khẩu nông sản chế
biến.
Xu hướng chung của các nước đang phát triển là giá trị nhập khẩu tăng nhanh
hơn giá trị xu
ất khẩu kể cả đối với các sản phẩm nông nghiệp nói chung và
nông sản chế biến nói riêng.
Tình hình xuất - nhập khẩu các sản phẩm nông nghiệp chế biến của các nước
đang phát triển thuộc các khu vực khác nhau có sự khác nhau. Các nước Mỹ
La tinh tỏ ra là khu vực có ưu thế trong xuất khẩu các sản phẩm nông sản chế
biến trên thế giới, với giá trị xuất khẩu thường cao gấp kho
ảng 2 lần giá trị
nhập khẩu. Ngược lại, các nước Cận Đông lại chủ yếu dựa vào nguồn hàng
nông sản chế biến nhập khẩu, giá trị nhập khẩu của các nước này thường cao
gấp 3 lần giá trị xuất khẩu. Các nước Viễn Đông cũng đã có sự nhích lên chút
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 6 -
ít của giá trị xuất khẩu so với giá trị nhập khẩu, khoảng cách này tuy không
lớn nhưng đã bắt đầu có xu hướng doãng rộng hơn. Vấn đề hàng đầu của các
nước Châu Phi hiện nay vẫn là nhập khẩu lương thực - thực phẩm, trong đó
có hàng nông sản chế biến.
BẢNG 1: SỐ LIỆU VỀ MẬU DỊCH NÔNG SẢN CHẾ BIẾN THẾ GIỚI
THEO NƯỚC VÀ KHU VỰC
Đơn vị: triệu đô la
1990 2000
NƯỚC
1990 1995 1998 1999 2000
% trong tổng kim
ngạch XK/NK quốc
gia
XUẤT KHẨU
414190 576710 562270 545640 558280 12,2 9,0
Achentina 7482 11349 13942 11968 - 60,6 51,3
ôxtrâylia 11628 14717 14516 15292 16366 29,3 25,6
Bănglađét 329 446 452 - - 19,7 8,9
Bỉ - - - 20165 19862 - 10,7
Bỉ/Luychxămbu
a
13064 19407 20533 - - 11,1 11,5
Beliz 99 131 129 1143 - 91,7 86,1
Braxin 9779 15673 17065 15980 15467 31,1 28,1
Camerun 723 839 900 - - 36,1 53,9
Canađa 22339 32214 31222 32599 34789 17,5 12,6
Chi Lê 2779 5922 5595 5917 6399 33,2 35,2
Trung Quốc 10060 14997 14314 14209 16384 16,2 6,6
Côlômbia 2514 3695 4004 3341 3121 37,2 23,9
Côtxta Rica 927 1848 2365 1950 1812 64,0 30,9
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 7 -
Cốtđivoa 2374 2793 3224 3178 2646 77,3 65,7
Đan Mạch 10648 13108 12115 11460 10940 28,9 22,0
Ecuađo 1236 2389 2854 - 1948 45,5 40,2
Ai Cập 497 552 580 591 - 19,2 16,6
Xanvađo 237 574 595 497 577 40,8 19,7
Pháp 37101 44265 41069 39341 36518 17,1 12,2
Đức 24621 32296 31674 30249 27762 5,8 5,0
Hy Lạp 2584 3719 3299 3194 2507 31,9 24,5
Goatêmala 849 1342 1660 1517 1622 73,0 61,2
Hônđurát 474 592 790 504 - 57,0 40,4
Hunggari 2558 3054 2967 2502 2445 25,6 8,7
Aixơlen 1274 1371 1462 1411 1258 80,0 65,5
ấn Độ 3506 6322 6235 5835 - 19,5 16,1
Inđônêxia 4154 8197 7706 7544 7764 16,2 12,5
NHẬP KHẨU
Angiêri 2766 3518 3056 2750 - 28,5 30,0
áo 4179 5898 5893 5952 5487 8,5 8,0
Bănglađét 835 1124 1451 - - 24,3 20,7
Bêlôruxia - - 1154 1016 - - 15,2
Bỉ - - - 19180 18518 - 10,8
Bỉ/Luychxămbu
a
14740 20338 20448 - - 12,3 12,3
Braxin 2691 7218 7149 5130 5163 11,9 8,8
Camerun 315 215 216 276 - 22,5 24,0
Canađa 9009 12204 13997 14281 15272 7,7 6,4
Chi Lê 461 1252 1443 1360 1421 6,0 7,9
Nguồn: Bộ Thương mại
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 8 -
Theo bảng trên ta nhận thấy, xuất khẩu nông sản chế biến của thế giới có
chiều hướng tăng không đáng kể từ năm 1990 đến năm 2000. Giá trị xuất
khẩu nông sản chế biến tăng hơn 1 tỷ đô la trong giai đoạn này. Tuy giá trị
xuất khẩu nông sản chế biến có tăng, nhưng tỷ lệ đóng góp của ngành này
trong tổng kim ngạch xuất khẩ
u của từng quốc gia lại giảm. Từ thực tế trên ta
thấy rằng, ngành công nghiệp chế biến nông sản của các nước không phát
triển mạnh trong giai đoạn trên.
2) Thực trạng xuất - nhập khẩu theo nhóm hàng:
Trong nhóm hàng các sản phẩm nhiệt đới: cà phê có giá trị xuất khẩu tăng
nhanh, các loại quả có múi và chè khá ổn định trên thị trường thế giới, trong
khi các sản phẩm khác bị suy giảm mạnh.
Trong nhóm hàng ngũ cốc: lúa mì có vị trí quan trọng nhất và ổn định trên thị
trường xuất khẩu ngũ cốc - chiếm gần 50% giá trị xuất (nhập) khẩu chung của
nhóm; tiếp đến là gạo có tỷ trọng thấ
p hơn.
Trong nhóm hàng sữa và các sản phẩm sữa: mặt hàng bơ có sự suy giảm rõ
rệt về tỷ trọng trong xuất (nhập) khẩu chung, trong khi các sản phẩm khác có
xu hướng tăng nhẹ do sự gia tăng của khối lượng xuất khẩu.
Trong nhóm hàng dầu mỡ và các sản phẩm: các sản phẩm dầu và mỡ có sự
gia tăng rõ rệt về tỷ trọng trong giá trị xuất nhập khẩu chung củ
a nhóm hàng
do sự gia tăng của khối lượng xuất khẩu; tuy nhiên, các loại khô dầu có sự gia
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 9 -
tăng về khối lượng xuất (nhập) khẩu, nhưng tỷ trọng giá trị lại giảm rõ rệt
trong giá trị xuất (nhập) khẩu chung của nhóm hàng.
Trong nhóm hàng thịt: sự lên ngôi của thịt gia cầm và thịt lợn trong cơ cấu giá
trị xuất (nhập) khẩu chung của nhóm hàng, trong đó thịt lợn chiếm vị trí số 1
và đã đánh tụt thịt bò xuống vị trí số 2, thịt gia cầ
m cũng khẳng định vị trí số
3 trong nhóm hàng.
3) Thực trạng xuất - nhập khẩu một số nông sản chế biến chủ yếu:
Thực trạng xuất - nhập khẩu một số nông sản chế biến chủ yếu như gạo, cà
phê, thịt lợn, chè chung của thế giới và theo các nước xuất - nhập khẩu chính
có những biến động về lượng và về nước xuất khẩu chính, nhưng nhìn chung
mức độ biến động không lớn.
Thực trạng xuất nhập khẩu các nông sản chế biến trên thế gi
ới bên cạnh đó
còn phụ thuộc vào mức độ tiêu thụ các sản phẩm của người dân. Chẳng hạn,
đối với mía đường, mức bình quân của thế giới là 20kg/người, một số nước
lên đến 50kg/người. Đối với cà phê, sản lượng cà phê của thế giới năm 1996
đạt 5,9 triệu tấn. Đối với cao su, thị trường cao su trên thế giới có nhiều triển
vọng, hiện nay nhu cầu toàn th
ế giới cần 7,5 triệu tấn/năm. Đối với chè, sản
lượng chè thế giới khoảng 2,6 triệu tấn, trong đó Châu Á chiếm 80%. Đối với
hạt điều, nhu cầu về hạt điều và các sản phẩm chế biến từ hạt điều ngày càng
tăng trên thế giới.
Căn cứ vào thực tế sản xuất cũng như tiêu thụ đối v
ới các sản phẩm như đã
nêu trên, Việt Nam cần phải thấy rõ những thách thức và cơ hội đối với ngành
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 10 -
công nghiệp và thị trường nông sản chế biến của mình. Việt Nam cần phải
thấy rõ đâu là những thuận lợi và đâu là những khó khăn của mình khi tham
gia vào lĩnh vực mà ta còn những mặt hạn chế nhất định về công nghệ này.
4) Tình hình giá cả xuất khẩu các nông sản chế biến:
Chỉ số giá xuất khẩu thực ở tất cả các nhóm nông sản chế biến ở cả hai nhóm
nước phát triển và đang phát triển đều bị giảm trong suốt giai đoạn những
năm 90.
Quá trình suy giảm của chỉ số giá xuất khẩu theo nhóm nước có sự lệch pha
nhau. Các nước đang phát triển có chỉ số giá xuất khẩu bắt đầu suy giảm vào
đầu những nă
m 90 và rơi xuống điểm võng nhất vào các năm 92 - 93, sau đó
đã lấy lại độ cao vào các năm tiếp theo. Đồng thời, các nước phát triển lại đạt
chỉ số giá xuất khẩu thực cao vào đầu những năm 90, sau đó suy giảm và
xuống đến điểm võng nhất vào các năm 95 - 96, trong các năm tiếp theo đã
dần lấy lại được sự tăng trưởng.
Nhìn chung, tất cả các sả
n phẩm nông nghiệp đều có biên độ biến động của
chỉ số giá xuất khẩu khá lớn. Khoảng dao động trong cả chu kỳ thường từ
40% đến 50% và khoảng dao động của chỉ số giá xuất khẩu trong một vài
năm cũng ở mức 10 - 16%.
BẢNG 2: GIÁ MỘT SỐ MẶT HÀNG TRÊN THỊ TRƯỜNG THẾ GIỚI
Mặt hàng Thị trường Đơn vị tính 1999 2000 2001 2002 Ước
2003
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 11 -
Gạo
100%
FOB Bankok USD/tấn 255.3 209.1 179 197 200
Cà phê
robusta
Luân Đôn USD/tấn 1.447 916 607 560 650
Cà phê
arabica
New York USD/tấn 2.286 2.012 1.373 1.219 1.310
Dầu dừa
CIF Châu Âu USD/tấn 745 453.5 318.1 428.5 455
Dầu cọ
CIF Châu Âu USD/tấn 434 310 292 391.5 410
Dầu lạc
CIF Châu Âu USD/tấn 788 791.4 680 701 820
Đường
trắng
Luân Đôn USD/tấn 200.8 222 245 206 205
Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam
Theo bảng trên, ta thấy giá cả của một số mặt hàng nông sản chế biến trên thế
giới cuối những năm 90 và đầu thế kỷ 21 có xu hướng giảm, tuy không đáng
kể. Duy chỉ có sản phẩm đường trắng là giữ giá với mức dao động về giá nhỏ.
Giá giảm do các nước đẩy mạnh phát triển công nghệ chế biến và nhu cầu tiêu
thụ nông sản chế biến của ng
ười dân đối với một số sản phẩm giảm.
Cụ thể, đối với mặt hàng gạo 100%, trong suốt năm 2002, giá gạo của các
nước xuất khẩu lớn đã diễn biến theo 2 xu hướng rõ rệt: tăng vững trong 6
tháng đầu năm và giảm trong 6 tháng cuối năm. Đối với mặt hàng cà phê,
năm 2002, giá cà phê trên các thị trường thế giới đã diễn biến theo hai xu
hướng rõ rệt: giả
m trong 8 tháng đầu năm và tăng mạnh trong 4 tháng cuối
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 12 -
năm. Trong năm 2002, giá đường diễn biến: giảm trong 8 tháng đầu năm và
sau đó tăng vững.
III. Những yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến mậu dịch hàng nông sản chế
biến thế giới:
1) Tác động của chính sách Chính phủ:
Vấn đề bảo hộ và trợ cấp đối với nông nghiệp và nông sản chế biến của các
nước, nhất là của các nước phát triển là yếu tố có ảnh hưởng lớn nhất và sâu
sắc nhất đến thị trường hàng nông sản thế giới.
Đối với các nước phát triển: Đây là những nước có mức độ trợ cấp lớn nhất và
phổ biến nh
ất. Tình hình trợ cấp nông nghiệp của các nước phát triển trong
suốt giai đoạn chỉ giảm về tỷ lệ so với GDP, hoặc so với sản lượng, nhưng về
lượng hoàn toàn không giảm mà còn tăng thêm, nghĩa là, các khoản trợ cấp
chỉ tăng chậm hơn so với sự gia tăng của GDP hoặc sản lượng.
Đối với các nền kinh tế chuyển đổi: Đa số các nướ
c có nền kinh tế chuyển đổi
đều thực thi, cơ chế bảo hiểm giá sàn thông qua các chính sách thu mua của
Nhà nước, chiếm trên 80% trong các khoản trợ cấp cho người sản xuất.
Đối với các nước đang phát triển: Các nước đang phát triển thường đánh thuế
nặng vào các nông sản chế biến xuất khẩu (chủ yếu là hàng nông sản phi
lương thực - thực phẩm), đồng thời, trợ cấp cho nhậ
p khẩu (chủ yếu là hàng
nông sản lương thực - thực phẩm). Tuy nhiên, trong những năm gần đây, các
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 13 -
chính sách thực thi ở các nước đang phát triển có xu hướng là tự do hoá mậu
dịch và định hướng đến thị trường xuất khẩu mạnh hơn.
2) Tác động của các xu hướng sản xuất và trình độ công nghệ:
Đây là xu hướng gia tăng hàm lượng của giá trị công nghiệp chế biến trong
sản phẩm. Xu hướng này đang phát triển mạnh mẽ ở nhiều nước trên thế giới
và có ảnh hưởng lớn đến mậu dịch hàng nông sản chế biến thế giới.
Trên thị trường hàng nông sản chế biến thế giới, những hạn chế về mậu dịch
do chính sách của các Chính phủ
đang có xu hướng giảm dần, trong khi xu
hướng cạnh tranh xuất khẩu ngày càng gia tăng. Cơ sở cho sự gia tăng đó là
sự phát triển công nghiệp chế biến sau đó mới là sự mở cửa thị trường của các
nước đối với các sản phẩm nông nghiệp.
3) Tác động của khủng hoảng tài chính - tiền tệ:
Tác động của khủng hoảng tài chính đối với thị trường hàng nông sản chế
biến mang tính toàn cầu: một là, làm giảm nhu cầu nhập khẩu giữa các quốc
gia có đồng tiền bị sụt giá; hai là, làm tăng khả năng cạnh tranh xuất khẩu
giữa các quốc gia này; ba là, làm giảm nhu cầu về các nông sản chế biến do
thu nhập giảm ở các nước chịu tác động của khủng hoảng.
Nhìn chung,
ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính đến thị trường hàng nông
sản chế biến thế giới không lớn đối với hầu hết các mặt hàng. Tuy nhiên, mức
độ ảnh hưởng còn phụ thuộc vào các vấn đề: một là, tỷ giá hối đoái sẽ thay
đổi ra sao và thời gian phục hồi dài hay ngắn; hai là, các chính sách của chính
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 14 -
phủ sẽ áp dụng ra sao để đối phó với khủng hoảng, nhất là các chính sách về
xuất, nhập khẩu các sản phẩm nông nghiệp; ba là khả năng giải quyết vấn đề
thiếu hụt tín dụng cho nhu cầu nhập khẩu.
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 15 -
CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU
HÀNG NÔNG SẢN CHẾ BIẾN CỦA VIỆT NAM
o0o
I. Tình hình chung về sản xuất nông nghiệp và thực trạng công nghiệp
chế biến nông sản:
1) Tình hình chung về sản xuất nông nghiệp:
Khi đánh giá về thành tựu đạt được trong sự nghiệp đổi mới kinh tế Việt
Nam, các nhà kinh tế thế giới đều thống nhất nhận định: thành công lớn nhất
là nông nghiệp. Nhịp độ tăng bình quân trong giai đoạn 1996 - 2000, giá trị
sản lượng cây lương thực là 5,15% và cây công nghiệp là 11,30%, giá trị sản
lượng gia súc là 7,85%/năm và gia cầm là 3,90%/năm. Trong đó, sản lượng
lương thực có nhịp độ tă
ng cao gấp hơn 2 lần so với nhịp độ tăng dân số trong
cùng giai đoạn; những sản phẩm nông nghiệp khác đều đạt được nhịp độ tăng
bình quân rất cao về sản lượng như cà phê nhân (18,36%/năm), lạc
(9,02%/năm), chè búp khô (6,43%/năm), sản lượng thịt hơi xuất chuồng
(22,97%/năm),
Sự gia tăng của sản lượng các sản phẩm trong nông nghiệp nói riêng, đặc biệt
là nhữ
ng sản phẩm đã qua chế biến đã mang lại cho nông nghiệp Việt Nam
một vị thế mới trên thị trường hàng nông sản thế giới thông qua kết quả xuất
khẩu các sản phẩm nông nghiệp.
Mặc dù, nền nông nghiệp nước ta đã tạo ra những thành tựu đáng ghi nhận về
sản lượng một số sản phẩm nông nghiệp chủ yếu trong giai đoạn qua, như
ng
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 16 -
nhìn tổng thể, nông nghiệp Việt Nam vẫn trong giai đoạn nỗ lực vươn lên
thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ, lạc hậu, tự cấp, tự túc để trở thành một nền
nông nghiệp hàng hoá thực sự trong điều kiện có cả những thuận lợi và khó
khăn.
2) Thực trạng công nghiệp chế biến nông sản:
Công nghiệp chế biến các sản phẩm nông nghiệp ở nước ta đang ở trong tình
trạng: tỷ lệ thiết bị cũ, hỏng, lạc hậu khá lớn; danh mục sản phẩm được chế
biến quá ít và đơn điệu: tỷ lệ sản lượng các sản phẩm qua chế biến quá thấp;
chất lượng sản phẩm chế biến chưa hoàn toàn đáp ứng đượ
c nhu cầu tiêu
dùng trong và ngoài nước; tỷ lệ hao hụt nguyên liệu cao; Khi nhận định về
sự yếu kém của công nghiệp chế biến ở các quốc gia, UNDP cho rằng: sự
kém phát triển của ngành công nghiệp chế biến có hàng loạt lý do: hệ thống
vận tải yếu kém đã cản trở vận chuyển đường dài các nguyên liệu và thành
phẩm; các xí nghiệp chế biến xa nơi cung cấp nguyên liệu; công nghệ lạc hậu
và th
ấp kém gây ra tổn thất lớn trong chế biến và làm giảm chất lượng sản
phẩm; thiếu vệ sinh và vật liệu bao bì không tốt cũng làm giảm chất lượng sản
phẩm. Trình độ quản lý kém: thiếu thốn nghiêm trọng về vốn và thông tin thị
trường cũng như kỹ thuật đã hạn chế tốc độ phát triển. Cuối cùng, thu nhập
thấp của người tiêu dùng trong nước cũng hạ
n chế tiêu thụ các sản phẩm nông
nghiệp chế biến. Đó là nhận định bao quát và đúng với tình hình phát triển
của công nghiệp chế biến các sản phẩm nông nghiệp ở nước ta.
2.1. Thành tựu:
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 17 -
Phát triển ngành công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản và công nghiệp
thực phẩm có ý nghĩa rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, công nghiệp
chế biến đã góp phần đẩy nhanh tăng trưởng ngành công nghiệp, chuyển đổi
cơ cấu kinh tế, tăng xuất khẩu, tạo nhiều việc làm, tăng thu nhập cho người
lao động.
Về mặt số lượng cơ sở:
(chủ yếu chỉ tính các cơ sở chế biến quy mô công
nghiệp) đến năm 2001 có gần 3000 cơ sở, trong đó: chế biến nông sản có
1108 cơ sở), cụ thể như sau:
BẢNG 3: SỐ LƯỢNG CƠ SỞ CHẾ BIẾN NÔNG SẢN
Ngành Số cơ sở Công suất
Chế biến gạo xuất khẩu 626 5 triệu tấn/năm
Chế biến sắn 18 120,000 tấn tinh bột/năm
Chế biến cà phê 70 100,000 tấn nhân/năm
Chế biến chè 200 90,000 tấn búp khô/năm
Chế biến điều 67 240,000 tấn hạt thô/năm
Chế biến rau quả XK 26 104,800 tấn/năm
Chế biến dứa XK 9 12,000 tấn sữa hộp, 10,000 tấn cô đặc
Chế biến thịt 25 40,000 tấn thịt đông lạnh/năm
Chế biến sữa 10 420 triệu hộp, 17,500 tấn sữa bột, 560
triệu lít sữa tươi tiệt trùng
Chế biến thức ăn chăn nuôi 57 2,8 triệu tấn/năm
Nguồn: Cục chế biến nông lâm sản và ngành nghề nông thôn, Bộ NN & PTNT
Về mặt giá trị:
Theo số liệu thống kê, giá trị sản xuất công nghiệp chế biến
nông sản và thực phẩm tăng 2,18 lần từ 53,2 nghìn tấn năm 1995 lên 116,3
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 18 -
nghìn tấn năm 1999, chiếm gần 60% giá trị sản xuất ngành công nghiệp chế
biến nói chung và 47,3% giá trị sản xuất toàn bộ ngành công nghiệp cả nước.
Sản phẩm công nghiệp chế biến nông sản tăng:
Nhìn chung sản phẩm công
nghiệp chế biến nông sản có xu hướng tăng nhanh, tỷ trọng nông sản qua chế
biến ngày càng cao, đặc biệt ở một số ngành có bước phát triển nhanh như chế
biến đường, chế biến dầu thực vật, chế biến chè, chế biến điều,
Kim ngạch xuất khẩu tăng và thị trường được mở rộng:
Nhiều năm lại đây,
công nghiệp chế biến góp phần quyết định nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu
nông sản; năm 1990, kim ngạch xuất khẩu nông sản đạt 1,149 triệu USD
chiếm 47,8% kim ngạch xuất khẩu cả nước; năm 1995 là 2,521 triệu USD
chiếm 46,3%; năm 2000 là 4,308 triệu USD chiếm 30,1% và năm 2001 là kim
ngạch xuất khẩu nông sản đạt 500 triệu USD chiếm 29,9% kim ngạch xuất
khẩu c
ả nước.
Công nghệ, thiết bị từng bước được đổi mới:
trong những năm đổi mới đã có
nhiều ngành kịp thời nắm bắt được xu thế phát triển đã từng bước hiện đại
hoá công nghệ thiết bị, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng sức cạnh tranh và
hiệu quả kinh tế.
Chất lượng hàng nông sản ngày càng được cải thiện:
Trong những năm gần
đây đã có một số sản phẩm công nghiệp chế biến có chất lượng khá cao. Ví
dụ, chế biến sữa đã có trên 100 loại sản phẩm hàng hoá có mẫu mã đẹp, có
tính cạnh tranh cao, giá cả hợp lý, nên đã chiếm lĩnh được 95% thị trường nội
địa và thậm chí còn giành để xuất khẩu.
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 19 -
Cơ cấu thành phần kinh tế đa dạng: Ngành công nghiệp chế biến được sự
tham gia của đủ các thành phần kinh tế, trong từng ngành cơ cấu các thành
phần kinh tế cũng rất khác nhau.
Tạo nhiều việc làm, tăng thu nhập, xoá đói, giảm nghèo:
Ngành công nghiệp
chế biến nông sản thu hút một lực lượng lao động đông đảo khoảng 1,6 triệu
người. Trong đó, các xí nghiệp, cơ sở sản xuất có quy mô công nghiệp thu hút
khoảng 50 vạn lao động, các cơ sở chế biến nhỏ và thủ công cũng tạo việc
làm ổn định và có thu nhập khá cho khoảng 1,1 triệu lao động ở vùng nông
thôn và ven các đô thị. Ngành chè thu hút trên 200 nghìn lao động bao gồm
các nhà khoa học, các nhà quản lý, cán bộ, kỹ s
ư, công nhân của khu vực nhà
nước và ngoài quốc doanh có kiến thức, năng lực và kinh nghiệm. Các cơ sở
chế biến điều do chủ yếu làm thủ công thu hút khoảng 60 nghìn công nhân,
tăng thêm thu nhập, cải thiện đời sống cho nhân dân, xóa đói, giảm nghèo và
làm giàu cho nhiều vùng nông thôn trong cả nước.
2.2. Hạn chế:
Cơ sở sản xuất ngành công nghiệp chế biến nông sản của ta một phần được
hình thành và phát triển một cách tự phát, nhằm đáp ứng theo yêu cầu nhất
thời của thị trường, theo truyền thống, theo lợi thế tự nhiên. Vùng sản xuất
nguyên liệu phát triển chủ yếu dựa vào lợi thế tự nhiên theo hình thức thu
gom sơ chế để xuất khẩu dạng nguyên liệu thô v
ới khối lượng nhỏ, chất lượng
không đồng đều, không ổn định. Cách làm này không phù hợp với sản xuất
hàng hoá quy mô công nghiệp để chiếm lĩnh thị trường ổn định. Những hạn
chế chính là:
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 20 -
Quy hoạch chưa đồng bộ, quản lý quy hoạch lỏng lẻo: Chất lượng quy hoạch
chung, quy hoạch cụ thể rất thấp, nhiều khi còn mâu thuẫn, chồng chéo.
Phát triển nhà máy chế biến không gắn với quy hoạch xây dựng vùng nguyên
liệu còn mang tính tự phát theo hình thức thu gom tự nhiên, nhiều nhà máy
đặt không đúng chỗ.
Phát triển chưa đồng bộ giữa nhà máy và các điều kiện hạ tầng (đường giao
thông, hệ thống cung ứng điện nước, kho tàng, phương tiện vận chuyể
n và các
dịch vụ hỗ trợ khác, ) phục vụ sản xuất nguyên liệu và chế biến.
Chưa có các biện pháp cần thiết để kiểm soát quá trình thực hiện quy hoạch,
trong nhiều trường hợp xâm phạm nghiêm trọng quy hoạch không có chế tài
xử lý.
Sản xuất nguyên liệu năng suất thấp, chất lượng kém:
Khâu yếu nhất trong
sản xuất nguyên liệu công nghiệp hiện nay là khâu giống: như giống chè của
ta chưa phong phú, thiếu các giống có năng suất cao, chất lượng tốt (hương
thơm đặc trưng, vị đậm, hàm lượng tanin thấp và chất tan cao); hay giống dứa
Việt Nam có sức cạnh tranh kém so với các nước trong khu vực và trên thế
giới do năng suất thấp, giá thành cao, quả nhỏ, không thích hợp cho chế biến
dứa khoanh, ch
ủ yếu là chế biến dứa miếng và nước dứa.
Công nghệ, thiết bị chế biến lạc hậu:
Phần lớn công nghệ chế biến nông sản
của nước ta đã lạc hậu trên 20 năm, năng suất và hiệu quả thấp, cần phải được
cải hoán, nâng cấp hoặc đổi mới.
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 21 -
Chất lượng sản phẩm thấp, vệ sinh thực phẩm kém: Sản phẩm của công
nghiệp chế biến chè chủ yếu là các mặt hàng chè đen chiếm khoảng 65 - 70%,
chè xanh theo công nghệ truyền thống của Đài Loan và Nhật Bản chiếm
khoảng 5 - 10%, chè nội tiêu ướp hương, chè túi nhỏ và chè mộc đánh mốc
các loại chiếm khoảng 20 - 30%. Trong tổng sản lượng chè xuất khẩu thì chè
đen chiếm khoảng 90%, chất lượng chè xuất khẩu chưa cao do hương kém
thơm, vị nhạ
t, hàm lượng chất tan thấp, hàm lượng tanin và độ ẩm cao, còn bị
ôi ngốt, khê khét và nhiều khách hàng còn nghi ngại về sự an toàn thực phẩm
chè Việt Nam do chè của ta chưa sạch, dư lượng thuốc trừ sâu vượt quá mức
cho phép và tạp chất còn nhiều.
Giá thành cao, hiệu quả kinh tế thấp:
Nhiều cơ sở chế biến nông sản của Việt
Nam đang nằm trong tình trạng thua lỗ, có nhiều doanh nghiệp thua lỗ nặng,
điển hình như các doanh nghiệp trong ngành mía đường.
Cơ cấu công nghiệp chế biến không cân đối, mẫu mã, chủng loại sản phẩm
đơn điệu: Phần lớn công nghiệp chế biến nông sản mới dừng ở chế biến dạng
thô, chế biến tinh còn ít. Như sản phẩm chè chủ yếu là sao, sấy, các loại chè
uống liền còn ít; cà phê cũng chỉ ở mức phân loại, rang sấy để xuất khẩu
nguyên liệu, còn cà phê hoà tan chưa nhiều.
Các mặt hàng chế biến đơn điệu cả về mẫu mã, chủng loại, chủ yế
u ở cấp
thấp, hàng cao cấp hầu như không có.
Đội ngũ lao động và quản lý không đáp ứng kịp:
Trong mỗi ngành có sự căng
thẳng về nguồn nhân lực khác nhau, song chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý
và công nhân kỹ thuật bậc cao thì gần như ngành nào cũng thiếu.
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 22 -
Môi trường chính sách vĩ mô không bình đẳng: Các chính sách vĩ mô đối với
công nghiệp chế biến chưa thật sự thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh, vì còn duy
trì các chế độ ưu đãi về tài chính đối với một số doanh nghiệp nhà nước chế
biến, thậm chí một số dự án áp dụng chính sách không giống nhau làm thiệt
hại cho Nhà nước về tài chính, gây lãng phí các nguồn tài nguyên và cản trở
việc nâng cao năng lực cạnh tranh của toàn ngành chế bi
ến nông sản nói
chung và từng sản phẩm nói riêng.
Sau khi xem xét những thành tựu và hạn chế, ta có thể nhận định được những
vấn đề đặt ra từ thị trường hàng nông sản chế biến thế giới:
Một là, vấn đề an ninh lương thực có vị trí quan trọng trong chính sách phát
triển của mỗi quốc gia. Để tăng cường khả năng an ninh lương thực ở tầm
quốc gia, trên th
ế giới có hai khuynh hướng trái ngược nhau. Theo khuynh
hướng cũ, đã diễn ra ở các quốc gia Châu á là cần tăng cường chính sách tự
cung lương thực. Theo khuynh hướng mới, đó là các nước cần mở cửa thị
trường lương thực. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở các quốc
gia Châu á trong những năm 97 - 98, các quốc gia có khả năng quay lại
khuynh hướng cũ. Như vậy, khả năng thuận lợi cho các s
ản phẩm nông sản
nói chung và nông sản chế biến của Việt Nam có thể sẽ bị hạn chế. Mặt khác,
Việt Nam cũng cần phải chú trọng đến an ninh lương thực quốc gia và chính
điều này, trong chừng mực nào đó, làm hạn chế khả năng mở rộng quy mô
sản xuất đối với các sản phẩm nông nghiệp khác.
Hai là, thị trường hàng nông sản chế biến thế giớ
i vẫn đang có xu hướng
chuyển về khu vực các nước đang phát triển, nhất là các nước đang phát triển
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 23 -
ở khu vực Châu á. Nói cách khác, nhóm các nước này ngày càng chiếm tỷ
trọng cao trong giá trị thương mại quốc tế về các sản phẩm nông nghiệp chế
biến, nhất là giá trị nhập khẩu.
Xu hướng chuyển dịch này của thị trường hàng nông sản thế giới sẽ tác động
đến các sản phẩm nông sản chế biến Việt Nam, theo cả hai khả năng tích cực
và tiêu cực: Một là, Việt Nam sẽ n
ằm trong khu vực sôi động của thị trường
hàng nông sản chế biến thế giới, do đó, có điều kiện tiếp cận thị trường và
tăng cường buôn bán các sản phẩm nông nghiệp chế biến với các nước khác.
Hai là, thị trường các nước đang phát triển không phải là những thị trường
“khó tính” và mức độ bảo hộ thấp sẽ mang lại những cơ hội tiếp c
ận thị
trường tốt hơn cho nông sản chế biến Việt Nam. Ba là, đồng thời với quá trình
phát triển thị trường các sản phẩm nông nghiệp chế biến sẽ lôi kéo, hình thành
và phát triển thị trường công nghệ đáp ứng yêu cầu nâng cao năng suất, chất
lượng và hiệu quả chế biến các sản phẩm nông nghiệp của các nước đang phát
triển và ở khu vực Châu á. Điều này sẽ t
ạo điều kiện cho Việt Nam tham gia
thị trường công nghệ phục vụ ngành công nghiệp chế biến các sản phẩm nông
nghiệp, đặc biệt trong môi trường có nhiều điểm tương đồng giữa các nước
trong khu vực. Theo hướng tiêu cực: Một là, thị trường các nước đang phát
triển là thị trường có thu nhập thấp, có thể làm giảm lợi ích xuất khẩu các
nông sản chế biến c
ủa Việt Nam. Hai là, các lợi thế tương đối của sản xuất
nông nghiệp của Việt Nam sẽ bị hạn chế do tính chất tương đồng của các sản
phẩm trong cùng một khu vực tự nhiên (ví dụ như lợi thế về các sản phẩm
nhiệt đới so với các nước Châu âu), mức chênh về giá lao động, Ba là, đồng
thời với khả năng tăng xuất khẩ
u là sức ép về tăng nhập khẩu nông sản chế
biến cuả nước ta. Bốn là, nếu không tiếp cận được các thị trường tiêu thụ trực
tiếp và xây dựng chiến lược sản phẩm thích hợp thì Việt Nam có nguy cơ trở
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP- NGUYỄN THỊ HỒNG BÍCH - A1 CN9 - ĐH NGOẠI THƯƠNG
- 24 -
thành nước xuất khẩu nguyên liệu thô, ít qua chế biến sang các nước trong
khu vực.
Ba là, trên thị trường thế giới cũng đang diễn ra xu hướng gia tăng nhanh
chóng giá trị xuất, nhập khẩu các sản phẩm như thịt chế biến, dầu mỡ, sữa của
nhóm các nước đang phát triển. Có thể nói rằng, đây là cơ hội lớn đối với
hướng chuyển dich cơ cấu sả
n xuất nông nghiệp và cải thiện cơ cấu sản phẩm
nông nghiệp xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên, thị trường các sản phẩm
nông nghiệp chế biến trên thế giới và khu vực mở ra những cơ hội trong hoàn
cảnh năng lực sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm này của nước ta còn sút
kém so với nhiều nước đang phát triển khác sẽ không chỉ mang lại những
thuậ
n lợi mà cả những khó khăn cho sự nghiệp phát triển của nông nghiệp
Việt Nam. Đó là khó khăn trong việc lựa chọn phương án phân bổ nguồn lực
đầu tư phát triển giữa các nhóm hàng nông sản chế biến. Hơn nữa, khả năng
tiếp cận thị trường nước ngoài của nông sản chế biến Việt Nam còn ở mức độ
thấp so với yêu cầu thị trường thế
giới và so với sản phẩm của các nước trong
khu vực, do đó, sẽ là bất lợi lớn nếu không có chiến lược phát triển các sản
phẩm này một cách thận trọng.
Bốn là, xu hướng phát triển của thị trường nông sản chế biến thế giới trong
giai đoạn từ 2001 - 2005 sẽ chịu tác động lớn của các cuộc thương lượng mậu
dịch mang tầm quố
c tế. Mặc dù hiện nay, Việt Nam chưa phải là thành viên
của Tổ chức thương mại thế giới WTO, nhưng trong tương lai, bằng vào nỗ
lực trong tiến trình hội nhập, Việt Nam sẽ trở thành thành viên của tổ chức
WTO. Đồng thời, bên cạnh những thuận lợi có thể được mở ra, các sản phẩm
nông nghiệp chế biến của Việt Nam cũng sẽ phải đối mặt v
ới các nông sản
chế biến của các nước thành viên trong tổ chức WTO cả ở thị trường trong