Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN HÀNH CHÍNH HỒ SƠ 15 BÙI QUANG HẢI (CÓ NHẬN XÉT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.16 KB, 14 trang )

HỌC VIỆN TƯ PHÁP
KHOA ĐÀO TẠO LUẬT SƯ

BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN
Môn: Kỹ năng tham gia giải quyết các vụ việc hành chính
Hồ sơ số: LS.HC15
Diễn lần: 01
Ngày diễn:
Vai diễn (nếu đóng vai):………………

Họ và tên: …
Sinh ngày …
SBD: …
Lớp: …

Hà Nội, ngày … tháng … năm 2021


1.
Nội dung vụ án
Học viên … lựa chọn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện.
1.1 Xác định đương sự trong vụ án
Người khởi kiện: Ông Bùi Quang Hải và Bà Đặng Thị Kim, cùng có địa chỉ tại:
179/8/1 Trần Phú, phường 5, thành phố A, tỉnh H
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Quốc Chinh, có địa chỉ tại: 64/1 A Nguyễn
Hới, phường Nguyễn An Ninh, thành phố A, tỉnh H
Người bị kiện: Ủy ban nhân dân thành phố A, có địa chỉ tại 89 Lý Thường Kiệt,
phường 1, thành phố A, tỉnh H
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Ơng Nguyễn Thế Khang – Chun viên
phịng TN&MT thành phố A
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:


Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh H
Tổng cục Quản lý đất đai thuộc Bộ Tài nguyên môi trường
1.2 Đối tượng khởi kiện
Hành vi từ chối cấp giấy chứng nhận QSDĐ thông qua văn bản số 504/UBND-TNMT
v/v tạm trả hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (“GCN QSDĐ”) đối
với diện tích 54,7m2 đất thuộc thửa đất số 164 tờ bản đồ số 09, phường 5, thành phố A
của UBND thành phố A.
Văn bản số 1126/UBND-TNMT ngày 18/3/2019 của UBND Thành phố A về giải quyết
đơn khiếu nại của ông Bùi Quang Hải đối với hồ sơ đề nghị cấp GCN QSDĐ tại thửa
đất số 164 tờ bản đồ số 09, phường 5, thành phố A của UBND thành phố A.
1.3 Tóm tắt nội dung vụ án
Ngày 14/6/2016, ơng Bùi Quang Hải và bà Đặng Thị Kim nộp hồ sơ xin cấp giấy
chứng nhận QSDĐ, sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất tại bộ phận tiếp nhận và giao
trả kết quả thuộc UBND thành phố A, cho diện tích 156,7 m2 đất ở của căn nhà có địa
chỉ tại 179/8/1 Trần Phú, phường 5, thành phố A, tỉnh H, thể hiện tại sơ đồ vị trí do Văn
phịng Đăng ký QSDĐ thành phố A lập ngày 09/6/2016. Diện tích 156,7 m2 đất nêu
trên gồm 02 phần:
- Phần thứ nhất: Diện tích 102 m2 thuộc thửa 351, tờ bản đồ số 09 (bản đồ năm
2000), đã được UBND thành phố A cấp giấy chứng nhận QSDĐ, quyền sở hữu
nhà và tài sản khác gắn liền với đất số BM 625400 ngày 11/01/2013
- Phần thứ hai: Diện tích 54,7m2 thuộc thửa đất số 164, tờ bản đồ 09 (bản đồ năm
2000), trên đất có dãy nhà cấp 4 do ơng Bùi Xuân Mĩ xây dựng năm 2000
Ngày 07/9/2016, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố A ra Thông báo số
2728/TB-CNVPĐK trả hồ sơ cấp giấy chứng nhận QSDĐ, quyền sở hữu nhà và tài sản
khác gắn liền với đất của vợ chồng ơng Hải.
Khơng đồng tình, vợ chồng ông Hải khởi kiện Thông báo số 2728/TB-CNVPĐK và
được tòa án nhân dân tỉnh H tuyên chấp nhận đơn khởi kiện của ông Hải, bà Kim; buộc


Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai tiếp nhận lại hồ sơ và giải quyết các thủ tục tiếp

theo quy định của pháp luật.
Sau khi có bản án phúc thẩm nêu trên, ngày 20/4/2018, ông Bùi Quang Hải và bà Đặng
Thị Kim nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận QSDĐ đối với diện tích 54,7m2 thuộc
thửa đất số 164 tờ bản đồ số 9 tại địa chỉ 179/8/1 Trần Phú, phường 5 Thành phố A.
Diện tích này trước đây là sàn phơi cá của bố mẹ ông Hải là ông Bùi Xuân Mĩ và bà
Nguyễn Thị Rô làm từ năm 1993. Đến năm 1998 thì bố ơng xây kè đổ đất và tiếp tục
làm nơi phơi cá. Năm 2000 thì xây phịng trọ cho th và đến năm 2002 vợ chồng ông
Mĩ chuyển giao lại cho vợ chồng ông Hải tiếp tục sử dụng đến nay không ai tranh chấp.
Theo Giấy tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả của chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai
thành phố A thì ngày hẹn trả kết quả là ngày 06/06/2018.
Do tới ngày hẹn trả vẫn chưa có kết quả nên ông Hải yêu cầu Chi nhánh VPĐKĐĐ
thành phố A giải trình nguyên nhân.
Ngày 14/8/2018, Chi nhánh VPĐKĐĐ thành phố A ra văn bản số 4171/CNVPĐKĐKCG giải trình nguyên nhân là đã chuyển hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận của Ơng
Hải và bà Kim đến phịng Tài nguyên và Môi trường (“TNMT”) để báo cáo UBND
Thành phố A giải quyết từ ngày 02/7/2018 nhưng chưa nhận lại hồ sơ nên chưa thể giải
quyết hồ sơ của ông.
Ngày 24/8/2018, ông Bùi Quang Hải làm đơn khiếu nại tới Chủ tịch UBND Thành phố
A và Trưởng phòng TNMT Thành phố A về việc chậm giải quyết cấp GCN QSDĐ cho
vợ chồng ông nhưng không được giải quyết.
Ngày 30/1/2019, UBND Thành phố A ra văn bản số 504/UBND-TNMT v/v tạm trả hồ
sơ đăng ký cấp GCN của vợ chồng ông với lý do là trong Luật đất đai và các văn bản
hướng dẫn thi hành luật không quy định việc cấp GCN QSDĐ đối với trường hợp sử
dụng đất có nguồn gốc lấn biển. Trong thời gian chờ hướng dẫn, UBND Thành phố A
tạm trả hồ sơ.
Ngày 18/3/2019, UBND Thành phố A ra văn bản số 1126/UBND-TNMT v/v giải quyết
đơn khiếu nại ngày 07/01/2019 của ông Bùi Quang Hải. Theo đó, UBND TP A cho
rằng đất nhà ơng thuộc trường hợp lấn biển, trong luật không quy định việc cấp giấy
đối với loại đất này, UBND Thành phố A đã xin hướng dẫn giải quyết và đang chờ kết
quả nên việc tạm trả hồ sơ cấp giấy cho gia đình ông là phù hợp.
Không đồng ý với nội dung trên, ngày 4/4/2019, Ông Bùi Quang Hải và vợ là Đặng Thị

Kim khởi kiện đến Tòa án nhân dân Tỉnh H: yêu cầu tòa án giải quyết hủy văn bản số
504/UBND-TNMT ngày 30/1/2019, văn bản số 1126/UBND-TNMT ngày 18/3/2019 và
buộc UBND Thành phố A tiếp nhận lại và giải quyết hồ sơ cấp GCN QSDĐ diện tích
54,7m2 cho gia đình ơng.


2. Xây dựng kế hoạch hỏi
Người tiếp
Vấn đề cần
nhận câu
Câu hỏi
chứng minh
hỏi
Người bị
Thửa đất 54,7
Tại sao UBND thành phố A không giải
kiện/
m2 của vợ
quyết đơn khiếu nại ngày 24/8/2018 của
Người bảo chồng ơng Hải ơng Bùi Quang Hải?
vệ quyền
có đầy đủ các
Thửa đất của gia đình ơng Hải có đủ điều
và lợi ích
điều kiện để
kiện được cấp giấy chứng nhận QSDĐ,
hợp pháp
được cấp giấy quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
của người chứng nhận
liền với đất hay khơng?

bị kiện
quyền sử dụng Nếu đủ điều kiện cấp thì tại sao UBND
đất
thành phố A lại tạm trả hồ sơ?

Mục đích hỏi
Chứng minh UBND Thành phố A làm việc
thiếu trách nhiệm.
Xác định quan điểm của UBND thành phố A
về việc có hay khơng thửa đất đủ điều kiện
được cấp GCN

Nếu đủ điều kiện cấp nhưng lại tạm trả hồ sơ
=> chỉ cần chứng minh hành vi hành chính
tạm trả hồ sơ của UBND thành phố A là sai
Nếu không đủ điều kiện cấp thì căn cứ vào Nếu khơng đủ điều kiện cấp thì phải nêu
đâu? Và nếu khơng đủ điều kiện cấp thì tại được lý do.
sao khơng trả hồ sơ
Định nghĩa về đất lấn chiếm sông, biển Đất lấn chiếm sơng biển khơng có căn cứ
theo quy định pháp luật? Đây có phải định pháp lý, nhưng UBND thành phố A lại viện
nghĩa mới về đất mà UBND đặt ra hay vào đó để từ chối cấp GCN QSDĐ thay vì áp
khơng?
dụng những quy định điều chỉnh phù hợp.
Ông cho biết trong trường hợp đất sử dụng Pháp luật đã có quy định về việc cấp GCN
ổn định từ trước 01/7/2004 và không vi QSDĐ đối với trường hợp gia đình ơng Hải
phạm pháp luật về đất đai, được UBND xã
xác nhận đất khơng có tranh chấp, phù hợp
với quy hoạch thì có được cấp Giấy chứng
nhận QSDĐ hay không?
Hành vi tạm trả Trong pháp luật đất đai có quy định về tạm Khơng có căn cứ pháp lý để tạm trả hồ sơ.

hồ sơ thông
trả hồ sơ hay không?
Đây là hành vi trái pháp luật của UBND
qua Văn bản số
thành phố A
504/UBNDTại sao UBND lại tạm trả hồ sơ chứ không Chứng minh UBND thành phố A từ chối giải


TNMT của
UBND thành
phố A đã vi
phạm thủ tục
hành chính
trong lĩnh vực
đất đai

Người khởi
kiện/Đại
diện theo
ủy quyền
của người
khởi kiện

Thửa đất 54,7
m2 của vợ
chồng ơng Hải
có đầy đủ các
điều kiện để
được cấp giấy
chứng nhận

quyền sử dụng
đất

trả lại hồ sơ? Mục đích của tạm trả hồ sơ là quyết hồ sơ một cách thiếu trách nhiệm vì
gì?
khơng thể trả lại hồ sơ do khơng có lý do xác
đáng. Trong văn bản số 4274/TNMT-CQĐT
gửi UBND thành phố A bản dự thảo văn bản
nêu quan điểm gửi TAND tỉnh H, mục đích
của tạm trả hồ sơ là để thơng báo tình trạng
và q trình giải quyết hồ sơ để công dân
được biết => Lý do không hợp lý.
Tại sao UBND lại tạm trả hồ sơ chứ không Chứng minh UBND thành phố A từ chối giải
gia hạn giải quyết hồ sơ hay tìm phương quyết hồ sơ một cách thiếu trách nhiệm vì
thức khác để xử lý hồ sơ đang vướng mắc? không thể trả lại hồ sơ do khơng có lý do xác
đáng.
Trong văn bản đề nghị Sở TNMT hướng UBND thiếu trách nhiệm trong việc xử lý hồ
dẫn, UBND có đặt ra thời hạn giải quyết sơ dù đã quá thời hạn giải quyết hồ sơ
hay khơng? Trong q trình xin ý kiến
hướng dẫn của cấp trên, UBND có làm
cơng văn giục hay khơng?
UBND có biết Nhà nước có chính sách UBND đang gây trở ngại pháp lý cho người
khuyến khích người sử dụng đất đầu tư lao sử dụng đất có cơng khai hoang, lấn biển, đi
động, vật tư tiền vốn… vào việc khai ngược lại chính sách của Nhà nước.
hoang, phục hóa, lấn biển hay khơng?
Ơng Hải được bố mẹ chuyển giao khu đất Chứng minh đất đủ điều kiện cấp GCN
từ bao giờ? Khi đó diện tích đất là bao QSDĐ.
nhiêu? Có cơng trình nào xây dựng trên đất
hay khơng? Đất có tranh chấp khơng?
Việc lấn biển của ơng Mĩ từ trước năm Chứng minh việc lấn biển để tăng diện tích

2000 có từng bị xử phạt hành chính về đất của ông Mĩ không vi phạm pháp luật.
đai không?


3. Soạn theo luận cứ bảo vệ cho khách hàng
ĐOÀN LUẬT SƯ TỈNH H
VĂN PHÒNG LUẬT SƯ …
----------***----------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
----------***----------

BẢN LUẬN CỨ
Bảo vệ cho Người khởi kiện
Kính thưa Hội Đồng Xét Xử (HĐXX),
Tôi là Luật sư … – thuộc Văn phịng Luật sư KANE - Đồn Luật sư tỉnh H.
Theo phân cơng của Văn phịng Luật sư, tơi tham gia phiên tòa với tư cách là người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng của tơi là Ơng Bùi Quang Hải và bà Đặng
Thị Kim, cùng có địa chỉ tại: 179/8/1 Trần Phú, phường 5, thành phố A, tỉnh H, là
Người khởi kiện trong vụ án hành chính này.
Tơi xin được trình bày quan điểm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Ơng Bùi
Quang Hải và bà Đặng Thị Kim.
Để mọi người hiểu rõ nội dung vụ án, tơi xin phép tóm tắt lại nội dung trong vụ án này
như sau:
Ngày 20/4/2018, ông Bùi Quang Hải và bà Đặng Thị Kim nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy
chứng nhận QSDĐ đối với diện tích 54,7m2 thuộc thửa đất số 164 tờ bản đồ số 9 tại địa
chỉ 179/8/1 Trần Phú, phường 5 Thành phố A. Diện tích này trước đây là sàn phơi cá
của bố mẹ ông Hải là ông Bùi Xuân Mĩ và bà Nguyễn Thị Rô làm từ năm 1993. Đến
năm 1998 thì bố ơng xây kè đổ đất và tiếp tục làm nơi phơi cá. Năm 2000 thì xây

phịng trọ cho thuê và đến năm 2002 vợ chồng ông Mĩ chuyển giao lại cho vợ chồng
ông Hải tiếp tục sử dụng đến nay không ai tranh chấp.
Theo Giấy tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả của chi nhánh Văn phịng đăng ký đất đai
thành phố A thì ngày hẹn trả kết quả là ngày 06/06/2018.
Do tới ngày hẹn trả vẫn chưa có kết quả nên ơng Hải u cầu Chi nhánh VPĐKĐĐ
thành phố A giải trình nguyên nhân.
Ngày 14/8/2018, Chi nhánh VPĐKĐĐ thành phố A ra văn bản số 4171/CNVPĐKĐKCG giải trình nguyên nhân là đã chuyển hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận của Ông
Hải và bà Kim đến phịng Tài ngun và Mơi trường (“TNMT”) để báo cáo UBND
Thành phố A giải quyết từ ngày 02/7/2018 nhưng chưa nhận lại hồ sơ nên chưa thể giải
quyết hồ sơ của ông.
Ngày 24/8/2018, ông Bùi Quang Hải làm đơn khiếu nại tới Chủ tịch UBND Thành phố
A và Trưởng phòng TNMT Thành phố A về việc chậm giải quyết cấp GCN QSDĐ cho
vợ chồng ông nhưng không được giải quyết.
Ngày 30/1/2019, UBND Thành phố A ra văn bản số 504/UBND-TNMT v/v tạm trả hồ
sơ đăng ký cấp GCN của vợ chồng ông với lý do là trong Luật đất đai và các văn bản


hướng dẫn thi hành luật không quy định việc cấp GCN QSDĐ đối với trường hợp sử
dụng đất có nguồn gốc lấn biển. Trong thời gian chờ hướng dẫn, UBND Thành phố A
tạm trả hồ sơ.
Ngày 18/3/2019, UBND Thành phố A ra văn bản số 1126/UBND-TNMT v/v giải quyết
đơn khiếu nại ngày 07/01/2019 của ơng Bùi Quang Hải. Theo đó, UBND TP A cho
rằng đất nhà ông thuộc trường hợp lấn biển, trong luật không quy định việc cấp giấy
đối với loại đất này, UBND Thành phố A đã xin hướng dẫn giải quyết và đang chờ kết
quả nên việc tạm trả hồ sơ cấp giấy cho gia đình ơng là phù hợp.
Không đồng ý với nội dung trên, ngày 4/4/2019, Ông Bùi Quang Hải và vợ là Đặng Thị
Kim khởi kiện đến Tòa án nhân dân Tỉnh H: yêu cầu tòa án giải quyết hủy văn bản số
504/UBND-TNMT ngày 30/1/2019, văn bản số 1126/UBND-TNMT ngày 18/3/2019 và
buộc UBND Thành phố A tiếp nhận lại và giải quyết hồ sơ cấp GCN QSDĐ diện tích
54,7m2 cho gia đình ơng.

Thưa HĐXX,
Thơng qua phần xét hỏi và sau khi xem xét một cách toàn diện các chứng cứ mà các
Bên đưa ra, tơi xin nêu quan điểm của mình để chứng minh việc UBND thành phố A từ
chối cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho gia đình ơng Hải thơng qua văn bản số
504/UBND-TNMT v/v tạm trả hồ sơ và văn bản số 1126/UBND-TNMT của UBND
thành phố A v/v giải quyết đơn khiếu nại ngày 07/01/2019 của ơng Bùi Quang Hải là
khơng có cơ sở, trái quy định pháp luật, bởi những lý do sau đây:
1. Thửa đất 54,7m2 của vợ chồng ông Hải có đầy đủ các điều kiện để được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Căn cứ Điều 101 khoản 2 Luật Đất đai 2013:
“Điều 101. Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất mà khơng có giấy tờ về
quyền sử dụng đất
Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất khơng có các giấy tờ quy định tại Điều 100 của
Luật này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 và
không vi phạm pháp luật về đất đai, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất
khơng có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng
đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền phê duyệt đối với nơi đã có quy hoạch thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.”
Căn cứ Điều 1 khoản 20 Nghị định 01/2017/NĐ-CP:
“Trường hợp đo đạc lại mà diện tích thửa đất thực tế nhiều hơn diện tích ghi trên Giấy
chứng nhận đã cấp hoặc giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại Điều 100 của Luật
đất đai, Điều 18 của Nghị định này và ranh giới thửa đất thực tế có thay đổi so với ranh
giới thửa đất tại thời điểm có Giấy chứng nhận hoặc giấy tờ về quyền sử dụng đất thì
việc xem xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất đối với diện tích đất tăng thêm được thực hiện như sau:
3. Trường hợp diện tích đất tăng thêm khơng có giấy tờ về quyền sử dụng đất theo quy



định tại Điều 100 của Luật đất đai, Điều 18 của Nghị định này thì thực hiện như sau:
a) Trường hợp người sử dụng đất không vi phạm pháp luật về đất đai thì việc xem xét
xử lý và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất đối với diện tích đất tăng thêm thực hiện theo quy định tại Điều 20 của
Nghị định này”.
Căn cứ Điều 20 khoản 2 Nghị định 43/2014/NĐ-CP:
“2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có nhà ở, cơng trình xây dựng khác trong
thời gian từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày 01 tháng 7 năm 2004; nay được
Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là không có tranh chấp sử dụng đất; phù hợp với quy
hoạch hoặc không phù hợp với quy hoạch nhưng đất đã sử dụng từ trước thời điểm phê
duyệt quy hoạch hoặc sử dụng đất tại nơi chưa có quy hoạch; chưa có thơng báo hoặc
quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với trường hợp phải
thu hồi thì được cơng nhận quyền sử dụng đất…”
Đối chiếu với trường hợp của gia đình ơng Hải, diện tích 54,7m2 đất tăng thêm so với
diện tích 102m2 đã được cấp giấy chứng nhận QSDĐ thuộc thửa đất 164 tờ bản đồ số 9
(trên đất có dãy nhà cấp 4) được sử dụng ổn định từ trước 01/7/2004, kể từ khi tơn tạo
đến nay chưa có bất kỳ văn bản nào xác định là đất vi phạm hay bị lập biên bản xử lý vi
phạm, hiện tại đất không có tranh chấp căn cứ vào phiếu lấy ý kiến của cư dân ngày
21/6/2016 và xác nhận của UBND phường 5 ngày 13/7/2016, căn cứ vào Quyết định số
1352/QĐ-UBND ngày 27/6/2014 của UBND tỉnh H về việc phê duyệt quy hoạch sử
dụng đất chi tiết đến năm 2020 và bản đồ quy hoạch theo Quyết định 1352/QĐ-UBND
thì thửa đất này thuộc quy hoạch đất ở đô thị, đã được đăng ký trong sổ địa chính. Như
vậy, thửa đất nhà ơng Hải đủ điều kiện được cấp giấy chứng nhận QSDĐ theo quy
định.
Trường hợp UBND thành phố A cho rằng nguồn gốc khu đất này là do lấn chiếm, căn
cứ Điều 22 khoản 1 và khoản 5 Nghị định 43/2014/NĐ-CP, Điều 2 khoản 18 Nghị định
01/2017/NĐ-CP, đối với việc xử lý, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất có vi
phạm pháp luật đất đai trước ngày 01 tháng 7 năm 2014: “Trường hợp đã có điều chỉnh
quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê

duyệt mà nay diện tích đất lấn, chiếm khơng cịn thuộc hành lang bảo vệ an tồn cơng
trình cơng cộng; khơng thuộc chỉ giới xây dựng đường giao thơng; khơng có mục đích
sử dụng cho trụ sở cơ quan, cơng trình sự nghiệp và cơng trình cơng cộng khác thì
người đang sử dụng đất được xem xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo
quy định của pháp luật.

5. Người đang sử dụng đất ổn định trong các trường hợp quy định tại Khoản 1, Điểm a
và Điểm c Khoản 2, Điểm b Khoản 3 Điều này mà khơng có tranh chấp thì được cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất theo quy định như sau:


a) Trường hợp thửa đất có nhà ở thì diện tích đất ở được cơng nhận bằng hạn mức cơng
nhận đất ở tại địa phương nếu đã sử dụng đất ổn định trước ngày 15 tháng 10 năm
1993; diện tích đất ở được công nhận bằng hạn mức giao đất ở tại địa phương nếu đã sử
dụng đất ổn định từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày 01 tháng 7 năm 2014;”
Hiện tại thửa đất của gia đình ơng Hải thuộc quy hoạch đất ở đơ thị căn cứ vào Quyết
định số 1352/QĐ-UBND ngày 27/6/2014 của UBND tỉnh H về việc phê duyệt quy
hoạch sử dụng đất chi tiết đến năm 2020 và bản đồ quy hoạch theo Quyết định
1352/QĐ-UBND. Trên thửa đất 54,7m2 nhà ông Hải có dãy phịng trọ cấp 4 được xây
dựng từ năm 2000. Nếu UBND thành phố A cho rằng nguồn gốc khu đất này là do lấn
chiếm thì với quá trình quản lý, sử dụng ổn định, khơng có tranh chấp của gia đình ơng
Hải suốt từ năm 1998 đến nay và theo quy hoạch sử dụng đất của địa phương, cũng như
theo các quy định hiện hành của pháp luật nói trên, gia đình ơng Hải hồn tồn có đủ
điều kiện để được cấp giấy chứng nhận QSDĐ đối với thửa đất này.
2. Hành vi tạm trả hồ sơ thông qua Văn bản số 504/UBND-TNMT v/v đã vi phạm
thủ tục hành chính trong lĩnh vực đất đai
Căn cứ Điều 2 khoản 40 Nghị định 01/2017/NĐ-CP:
“40. Sửa đổi Điều 61 NĐ 43/2014 như sau:

“Điều 61. Thời gian thực hiện thủ tục hành chính về đất đai
2. Thời gian thực hiện thủ tục đăng ký đất đai, tài sản gắn liền với đất; …. được quy
định như sau:
a) Đăng ký đất đai, tài sản gắn liền với đất, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là không quá 30 ngày;
4. Thời gian quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này được tính kể từ ngày nhận được
hồ sơ hợp lệ; khơng tính thời gian các ngày nghỉ, ngày lễ theo quy định của pháp luật;
khơng tính thời gian tiếp nhận hồ sơ tại xã, thời gian thực hiện nghĩa vụ tài chính của
người sử dụng đất; khơng tính thời gian xem xét xử lý đối với trường hợp sử dụng đất
có vi phạm pháp luật, thời gian trưng cầu giám định.
Trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ, chưa hợp lệ thì trong thời gian khơng q 03 ngày làm
việc, cơ quan tiếp nhận, xử lý hồ sơ phải thông báo và hướng dẫn người nộp hồ sơ bổ
sung, hoàn chỉnh hồ sơ theo quy định.”
Căn cứ Điều 60 khoản 5 điểm c Nghị định số 43/2014/NĐ-CP:
“c) Trường hợp hồ sơ không đủ điều kiện giải quyết thì cơ quan nhận hồ sơ có trách
nhiệm trả lại hồ sơ và thông báo rõ lý do không đủ điều kiện giải quyết.”
Như vậy cần phải nhận định rõ rằng, trong trường hợp hồ sơ của gia đình ơng Hải
khơng đủ điều kiện giải quyết thì cơ quan nhận hồ sơ có trách nhiệm phải trả lại hồ sơ
và thông báo rõ lý do không đủ điều kiện giải quyết trong vòng 30 ngày kể từ ngày
nhận được hồ sơ hợp lệ. Tuy nhiên, UBND Thành phố A lại khơng thể tìm được lý do
hợp lý để trả lại hồ sơ, hay nói cách khác là hồ sơ của gia đình ơng Hải đủ điều kiện
được cấp như đã chứng minh ở luận điểm 1, tuy nhiên UBND lấy lý do chờ ý kiến
hướng dẫn của Sở Tài nguyên và Môi trường và Tổng cục Quản lý Đất đai để “tạm trả”


hồ sơ cho người khởi kiện. Trong các văn bản pháp luật về đến đất đai hiện hành,
khơng có thuật ngữ pháp lý nào là “Tạm trả hồ sơ” như nội dung Văn bản số
504/UBND-TNMT đề cập. Đây thực chất hành vi từ chối cấp, từ chối giải quyết hồ sơ
của UBND thành phố A bởi theo quy định tại Điều 19 khoản 5 Nghị định 61/2018/NĐCP, “Trường hợp quá thời hạn lấy ý kiến mà cơ quan, đơn vị được lấy ý kiến chưa có
văn bản giấy hoặc văn bản điện tử trả lời thì cơ quan, đơn vị chủ trì thơng báo cho

người đứng đầu Bộ phận Một cửa đã chuyển hồ sơ về việc chậm trễ để phối hợp xử lý”.
Như vậy, pháp luật quy định cơ quan đơn vị phải phối hợp để tìm cách tháo gỡ vướng
mắc, có thể bằng cách nào đó như gia hạn thời gian xử lý, làm công văn giục đơn vị
được lấy ý kiến trả lời đúng hạn, chứ không phải tìm cách lảng tránh trách nhiệm bằng
cách “tạm trả” hồ sơ về cho người dân.
Kết luận và kiến nghị:
Từ những lập luận có căn cứ nêu trên, tơi khẳng định Thửa đất 54,7m2 của vợ chồng
ơng Hải có đầy đủ các điều kiện để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, dù có
là đất lấn biển hay khơng. Do đó, việc UBND thành phố A viện dẫn lý do Luật Đất đai
năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành không quy định việc giải quyết cấp giấy
chứng nhận QSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với đất có
nguồn gốc do lấn, chiếm sơng hoặc biển trong hai văn bản số 504/UBND-TNMT và
Văn bản số 1126/UBND-TNMT là không có cơ sở. Pháp luật đất đai hiện hành khơng
có quy định về đất lấn biển hay đất có nguồn gốc lấn chiếm biển. Tuy nhiên, UBND
thành phố A lại căn cứ vào đó để từ chối, kéo dài thời gian giải quyết hồ sơ thay vì áp
dụng ngay những quy định điều chỉnh phù hợp sẵn có. Thêm vào đó, hành vi tạm trả hồ
sơ thơng qua Văn bản số 504/UBND-TNMT của UBND thành phố A đã vi phạm thủ
tục hành chính trong lĩnh vực đất đai, thể hiện sự lúng túng và thiếu trách nhiệm trong
vai trò quản lý nhà nước của mình.
Căn cứ Điều 193 khoản 2 điểm b, c Luật Tố tụng hành chính năm 2015, căn cứ Điều 9
khoản 2 và Điều 101 khoản 2 Luật Đất đai năm 2013, căn cứ Nghị định 43/2014/NĐCP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất
đai, căn cứ Nghị định 01/2017/NĐ-CP ngày 06/1/2017 sửa đổi, bổ sung một số nghị
định của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai, đề nghị
HĐXX:
- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Quang Hải và bà Đặng Thị Kim về
việc hủy văn bản số 504/UBND-TNMT và Văn bản số 1126/UBND-TNMT của
UBND thành phố A;
- Tuyên bố hành vi “tạm trả hồ sơ” của UBND thành phố A là trái pháp luật; Buộc
UBND thành phố A tiếp nhận lại và giải quyết hồ sơ cấp giấy chứng nhận QSDĐ
đối với diện tích 54,7m2 thuộc thửa đất số 164 tờ bản đồ số 09 phường A thành

phố A cho gia đình ơng Bùi Quang Khải.
Có thể thấy, ngay từ văn bản Luật Đất đai năm 1993, Nhà nước đã khuyến khích người
sử dụng đất đầu tư vật tư, tiền vốn vào việc khai hoang, vỡ hóa, lấn biển để mở rộng
diện tích đất sản xuất. Đây không chỉ là giải pháp để mở rộng quỹ đất, phát triển kinh tế
- xã hội mà còn là giải pháp chủ động ứng phó với tình trạng xói lở bờ biển, nước biển


dâng. Để hiện thực hóa chính sách này, thiết nghĩ cơ quan nhà nước nên có cơ chế tạo
điều kiện cho người sử dụng đất trong việc cấp/đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
áp dụng nhất quán các quy định pháp luật về đất đai.
Tôi xin cảm ơn HĐXX và quý vị đã lắng nghe!


NHẬN XÉT PHẦN DIỄN ÁN
Câu 1: Anh chị nhận xét và đưa ra biện pháp của mình đối với tình huống tại
phiên tòa:
1. Về sự vắng mặt của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh H và Tổng Cục Quản lý
đất đai và tư cách đại diện của UBND thành phố A
Căn cứ Điều 3 khoản 10 Luật Tố tụng hành chính năm 2015, Sở Tài ngun và
Mơi trường tỉnh H và Tổng Cục Quản lý đất đai là người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan được Tịa án đưa vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan.
Tuy nhiên, sự vắng mặt của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khơng ảnh
hưởng đến sự diễn ra của phiên tòa, nếu người vắng mặt có đơn đề nghị xét xử
vắng mặt. Trường hợp người đó khơng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt thì Hội
đồng xét xử hỗn phiên tịa căn cứ Điều 157 Luật Tố tụng hành chính năm 2015.
Trường hợp Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan vẫn vắng mặt mà khơng vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan,
trong điều kiện người đó khơng có u cầu độc lập thì tịa án vẫn tiến hành xét
xử trong trường hợp đương sự vắng mặt tại phiên tòa căn cứ Điều 158 Luật Tố

tụng hành chính năm 2015.
2. Về việc người khởi kiện bổ sung yêu cầu hủy văn bản 1126//UBND-TNMT ngày
18/3/2019 của UBND Thành phố A. Căn cứ Điều 173 khoản 1 Luật Tố tụng hành
chính năm 2015, nếu việc bổ sung yêu cầu của đương sự khơng vượt q phạm
vi u cầu khởi kiện thì HĐXX chấp nhận bổ sung yêu cầu của họ. Xét thấy văn
bản 1126//UBND-TNMT ngày 18/3/2019 của UBND Thành phố A v/v giải quyết
khiếu nại đơn khiếu nại của ông Hải không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện,
nên HĐXX chấp nhận yêu cầu bổ sung của người khởi kiện.
3. Về tư cách đại diện của UBND thành phố A
Ông Khang là Chun viên Phịng TNMT, khơng phải cấp phó của Chủ tịch
UBND thành phố A. Do đó, việc ơng Khang tham gia phiên tòa với tư cách đại
diện theo ủy quyền là không hợp lý. Căn cứ Điều 60 khoản 3 Luật Tố tụng hành
chính 2015, Trường hợp người bị kiện là cơ quan, tổ chức hoặc người đứng đầu
cơ quan, tổ chức thì người bị kiện chỉ được ủy quyền cho cấp phó của mình đại
diện.
Do đó, ơng Khang chỉ có thể tham gia phiên tịa với tư cách người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người bị kiện.
4. Đánh giá kỹ năng chứng minh của hai bên Luật sư về:
4.1 Loại đất và Quy hoạch sử dụng đất
Luật sư người khởi kiện đã xác định được diện tích 54,7m2 thuộc quy hoạch
đất ở đơ thị, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất căn cứ vào Quyết định số
1352/QĐ-UBND ngày 27/6/2014 của UBND tỉnh H về việc phê duyệt quy
hoạch sử dụng đất chi tiết đến năm 2020 và bản đồ quy hoạch theo Quyết


định 1352/QĐ-UBND => Cách xác định về loại đất và quy hoạch sử dụng đất
của luật sư người khởi kiện là có cơ sở pháp lý.
Luật sư người bị kiện cho rằng diện tích 54,7m2 là đất lấn chiếm sơng, biển,
tự ý định nghĩa một loại đất mới trong khi Luật đất đai 2013 đã có những quy
định pháp luật về vấn đề này. Ngoài ra, luật sư người khởi kiện cịn đề cập

đến việc ơng Mĩ lấn biển sai mục đích. Tuy nhiên, trong suốt q trình lấn
biển và sử dụng, ơng Mĩ và gia đình ơng Hải chưa bị xử phạt hành chính về
lấn biển sai mục đích bao giờ, thực tế là pháp luật cũng khơng có quy định về
xử phạt hành chính về hành vi này. Việc luật sư người khởi kiện đưa ra vấn
đề này để biện minh cho hành vi của UBND thành phố A cho thấy UBND
thành phố A có dấu hiệu vượt thẩm quyền, suy đoán thiếu căn cứ về quy định
pháp luật hiện hành.
4.2 Lý do: tạm trả lại hồ sơ cấp GCNQSDĐ
Luật sư người bị kiện khẳng định rằng việc tạm trả lại hồ sơ là để chờ văn
bản hướng dẫn của Sở TNMT và Tổng cục quản lý đất đai, đây là cách “xử
lý” mà các cơ quan đưa ra trong trường hợp quá thời hạn lấy ý kiến mà cơ
quan, đơn vị được lấy ý kiến chưa có văn bản giấy hoặc văn bản điện tử trả
lời thì cơ quan, đơn vị chủ trì thơng báo cho người đứng đầu Bộ phận Một
cửa đã chuyển hồ sơ về việc chậm trễ để phối hợp xử lý theo quy định tại
Điều 19 khoản 5 Nghị định 61/2018/NĐ-CP. Lý do này có cơ sở để bảo vệ
cho người bị kiện.
Luật sư người khởi kiện cho rằng trong các văn bản pháp luật về đến đất đai
hiện hành, khơng có thuật ngữ pháp lý nào là “Tạm trả hồ sơ” như nội dung
Văn bản số 504/UBND-TNMT đề cập. Tuy nhiên, luật sư người khởi kiện
cần làm rõ hơn. Cần phải nhận định rõ rằng, trong trường hợp hồ sơ của gia
đình ông Hải không đủ điều kiện giải quyết thì cơ quan nhận hồ sơ có trách
nhiệm phải trả lại hồ sơ và thông báo rõ lý do không đủ điều kiện giải quyết
trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ. Tuy nhiên, UBND
Thành phố A lại khơng thể tìm được lý do hợp lý để trả lại hồ sơ, hay nói
cách khác là hồ sơ của gia đình ơng Hải đủ điều kiện được cấp như đã chứng
minh ở luận điểm 1, tuy nhiên UBND lấy lý do chờ ý kiến hướng dẫn của Sở
Tài nguyên và Môi trường và Tổng cục Quản lý Đất đai để “tạm trả” hồ sơ
cho người khởi kiện. Trong các văn bản pháp luật về đến đất đai hiện hành,
khơng có thuật ngữ pháp lý nào là “Tạm trả hồ sơ” như nội dung Văn bản số
504/UBND-TNMT đề cập. Đây thực chất hành vi từ chối cấp, từ chối giải

quyết hồ sơ của UBND thành phố A bởi theo quy định tại Điều 19 khoản 5
Nghị định 61/2018/NĐ-CP, “Trường hợp quá thời hạn lấy ý kiến mà cơ quan,
đơn vị được lấy ý kiến chưa có văn bản giấy hoặc văn bản điện tử trả lời thì
cơ quan, đơn vị chủ trì thơng báo cho người đứng đầu Bộ phận Một cửa đã
chuyển hồ sơ về việc chậm trễ để phối hợp xử lý”. Như vậy, pháp luật quy
định cơ quan đơn vị phải phối hợp để tìm cách tháo gỡ vướng mắc, có thể
bằng cách nào đó như gia hạn thời gian xử lý, làm công văn giục đơn vị được


lấy ý kiến trả lời đúng hạn, chứ không phải tìm cách lảng tránh trách nhiệm
bằng cách “tạm trả” hồ sơ về cho người dân.



×