Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

Tài liệu ĐỀ ÁN: “Tác động tràn của FDI đến khu vực kinh tế trong nước” doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (613.48 KB, 34 trang )

…………..o0o…………..

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

Tác động tràn của FDI đến khu
vực kinh tế trong nước


Lời mở đầu
FDI có thể ảnh hưởng tới nến kinh tế ở tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá và xã
hội. Tuy nhiên, đối với các nước đang phát triển, nhất là các nước nghèo, kỳ vọng lớn
nhất của việc thu hút FDI chủ yếu là nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Kỳ vọng này
dường như được thể hiện trong tư tưởng của các nhà kinh tế và các nhà hoạch định
chính sách với 3 lý do chính. Một là, FDI góp phần làm tăng thặng dư của tài sản vốn,
góp phần cải thiện cán cân thanh tốn nói chung và ổn định kinh tế vĩ mơ. Hai là, các
nước đang phát triển thường có tỷ lệ tích luỹ vốn thấp và vì vậy, FDI được coi là một
nguồn vốn quan trọng để bổ sung đầu tư trong nước nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh
tế. Ba là, FDI tạo cơ hội cho các nước nghèo tiếp cận công nghệ tiên tiến hơn, dễ dàng
chuyển giao công nghệ hơn, thúc đẩy quá trình phổ biến kiến thức, nâng cao tràn của
FDI, góp phần làm tăng năng suất của các doanh nghiệp trong nước và cuối cùng là
đóng góp vào tăng trưởng kinh tế nói chung. Trên thực tế không phải nước nào cũng
đạt được cùng một lúc hai kỳ vọng này. Một số nước thu hút được dòng vốn FDI khá
lớn nhưng tác động tràn hầu như không xảy ra. Ở kỹ năng quản lý và trình độ lao
động.v.v… Tác động này được xem là tác động một tình thế khác, vốn FDI vào một
nước có thể làm tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế nhưng đóng góp của nguồn vốn này
vào tăng trưởng là thấp. Cả hai trường hợp trên đều được coi là không thành cơng với
chính sách thu hút FDI chưa tận dụng triệt để và lãng phí nguồn lực này dưới góc độ
tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là của các nước đang phát triển, thông qua hai kênh tác
động ở trên.
Đề tài: “Tác động tràn của FDI đến khu vực kinh tế trong nước” sẽ
tập trung giải thích và làm rõ tác động gián tiếp của FDI tới tăng trưởng kinh tế.



Kết luận
Trong khoảng gần 20 năm kể từ khi Luật Đầu tư nước ngoài được ban hành Việt
Nam đã thu được những kết quả khá ấn tượng về thu hút FDI. Cùng với sự tăng
trưởng nhanh về GDP chung của cả nền kinh tế, khu vực có vốn FDI chiếm tỷ trọng
1


ngày càng tăng trong GDP. Thành quả trên được đánh giá là lết quả của cải cách
chính sách kinh tế ở Việt Nam thực hiện trong giai đoạn vừa qua, đồng thời kết quả
đó cũng gợi mở về quan hệ hai chiều giữa tăng trưởng kinh tế và đầu tư trực tiếp nước
ngồi.
Trong thời gian qua chính sách đầu tư nước ngồi của Việt Nam khơng kém hấp
dẫn so với một số nước trong khu vực và trên thế giới, nhưng hiệu lực và tính thực thi
chính sách thấp làm giảm dịng vốn FDI đăng ký và gây khó khăn cho giải ngân
nguồn vốn này. Dù xét dưới góc độ nào, biến động thất thường về FDI đăng ký sẽ bất
lợi cho tăng trưởng kinh tế, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế và cạnh tranh
trong khu vực về thu hút FDI ngày càng gay gắt hơn.
Ngoài ra, ít dự án có quy mơ lớn cũng là một dấu hiệu không tốt nếu xét về
chuyển giao công nghệ và phổ biến kiến thức. Các Công ty lớn thường có năng lực về
cơng nghệ, nên sự hiển diện của các Cơng ty này ít ra cũng là biểu hiện cho việc đầu
tư sản xuất các hàng hố vốn có hàm lượng cơng nghệ cao. Các Cơng ty lớn cịn
mang lại niềm hy vọng cho nước nhận đầu tư có được tác động tràn tích cực từ kênh
chuyển giao cơng nghệ và kiến thức.
Mức thu nhập cao phản ánh năng suất lao động cao của khu vực có vốn FDI là
một biểu hiện bình thường ở các nước đang phát triển. Năng suất lao động cao từ khu
vực FDI thường mong đợi sẽ lan toả ra các khu vực khác, và thực tế ở một số quốc
gia điều đó đã được kiểm định là có xảy ra. Tuy nhiên, trong trường hợp của Việt
Nam cũng cần phải xem xét. Khu vực có vốn FDI tập trung trong các ngành sản xuất
thay thế nhập khẩu, tức được bảo hộ và trong chừng mực nào đó có sức mạnh thị

trường. Do vậy, khả năng sinh ra tác động tràn tích cực hay tác động lan toả chắc
chắn bị hạn chế. FDI tập trung cao trong các ngành được bảo hộ, tập trung vốn có thể
ngăn cản q trình di chuyển lao động giữa các doanh nghiệp FDI. Như vậy, khả
năng xuất hiện tác động tràn tích cực do di chuyển lao động là rất hạn chế.
Do vậy chính phủ cần tạo mơi trường đầu tư thuận lợi tạo điều kiện cho các nhà
đầu tư nước ngoài vào đầu tư ở Việt Nam nhưng đồng thời cần chú ý tới tác động tràn
của FDI tới khu vực kinh tế trong nước để nền kinh tế tăng trưởng và phát triển hơn
nữa.

2


Phần một

LÝ LUẬN CHUNG
I. FDI
1. Các khái niệm:
Đầu tư trực tiếp nước ngồi là hình thức đầu tư trong đó người bỏ vốn đầu tư và
người sử dụng vốn đầu tư là một chủ thể. Có nghĩa là các doanh nghiệp, các cá nhân
người nước ngoài trực tiếp tham gia vào quá trình quản lý, sử dụng vốn đầu tư và vận
hành các kết quả đầu tư nhằm thu hồi vốn đã bỏ ra.
Theo IMF thì đầu tư trực tiếp nước ngoài là một tổ chức kinh tế(nhà đầu tư trực
tiếp) thu được lợi ích lâu dài từ một doanh nghiệp đặt tại một nền kinh tế khác. Mục
đích của nhà đầu tư trực tiếp là muốn có nhiều ảnh hưởng trong việc quản lý doanh
nghiệp đặt tại nền kinh tế đó.
Theo luật đầu tư trực tiếp nước ngồi thì đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc tổ
chức, cá nhân người nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản
nào được chính phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng
hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài theo
quy định của luật này.

Kể từ năm 1996 thì khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài được hiểu là việc nhà
đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất cứ tài sản nào khác để
tiến hành hoạt động đầu tư theo quy định của luật đầu tư nước ngồi.
Tóm lại, đầu tư trực tiếp nước ngoài tại một quốc gia là việc nhà đầu tư ở một
nước khác đưa vốn bằng tiền hoặc bất kỳ một tài sản nào khác vào quốc gia đó để có
được quyền sở hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát một thực thể kinh tế tại quốc gia
đó với mục tiêu tối đa hố lợi ích của mình.
Như vậy đầu tư trực tiếp nước ngoài bao giờ cũng là một dạng quan hệ kinh tế có
nhân tố nước ngồi : chủ đầu tư, vốn đầu tư, địa điểm đầu tư từ các quốc gia khác
nhau. Nhân tố nước ngồi ở đây khơng chỉ thể hiện ở sự khác biệt về quốc tịch hoặc
lãnh thổ cư trú thường xuyên của các bên tham gia vào quan hệ đầu tư trực tiếp nước
ngồi mà cịn thể hiện ở việc di chuyển tư bản trong đầu tư trực tiếp vượt ra khỏi biên
giới một quốc gia.
Qua đó ta có thể thấy được đầu tư trực tiếp nước ngồi hiện nay có hai đặc điểm
nổi bật đó là : có sự di chuyển tư bản trong phạm vi quốc tế và chủ đầu tư trực tiếp
tham gia vào quá trình hoạt động sử dụng vốn và quản lý đối tượng đầu tư.
Trong thực tiễn, FDI được thực hiện theo những hình thức khác nhau, trong đó
những hình thức được áp dụng phổ biến bao gồm:
+ Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh
+ Doanh nghiệp liên doanh
3


+ Doanh nghiệp 100% vốn nước ngồi
Ngồi những hình thức đầu tư trên , cịn một vài hình thức đầu tư 100% vốn nước
ngoài khác như BOT( xây dựng – kinh doanh – chuyển giao), BTO( xây dựng –
chuyển giao – kinh doanh)…
2. Vai trò FDI đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế ở các nước đang
phát triển:
2.1. FDI bỉ sung vèn cho nỊn kinh tÕ:

Tõ thÕ kû tr−íc, nhμ kinh tÕ häc Paul Samuelson ®· ®−a ra lý thut vßng
ln qn cđa sù chËm tiÕn vμ có hch tõ bªn ngoμi . Theo lý thut nμy, ®a sè
c¸c n−íc ®ang ph¸t triĨn ®Ịu thiÕu vèn, do khả năng tích luỹ vốn hạn chế.
Những nớc dẫn đầu trong chạy đua tăng trởng phải đầu t ít nhất 20% thu
nhập quốc dân vo việc tạo vốn. Trái lại, những nớc nông nghiệp lạc hậu
thờng chỉ có thể tiết kiệm đợc 5% thu nhập quốc dân. Hơn nữa, phần nhiều
trong khoản tiết kiệm nhỏ bế ny phải dùng để cung cấp nh cửa v những công
cụ giản đơn cho số dân đang tăng lên .
Trong cuốn Những vấn đề hình thnh vốn ở các nớc chậm phát triển ,
R.Nurkes đà trình by có hệ thống việc giải quyết vấn đề vốn . Theo ông, xét về
lợng cung ngời ta thấy khả năng tiết kiệm ít ỏi, tình hình đó lμ do møc ®é thÊp
cđa thu nhËp thùc tÕ. Møc thu nhập thực tế phản ánh năng suất lao động thấp,
đến lợt mình, năng suất lao động tháp phần lớn do tình trạng thiếu t bản gây
ra. Thiếu t bản lại l kết quả của khả năng tiết kiệm ít ỏi đa lại. V thế l cái
vòng đợc khép kín. Trong cái vòng luẩn quẩn của sự nghoè đói đó, nguyên
nhân cơ bản l thiếu vốn. Do vậy, mở6 cửa cho đầu t trực tiếp nớc ngoi đợc
ông xem l giải pháp thực tế nhất đối với các nớc đang phát triển.
Samuelson cũng cho rằng, để phát triển kinh tế phải có cú huých từ bên
ngoi nhằm phá vỡ cái vòng luẩn quẩn đó, phải có đầu t của nớc ngoi vo
các nớc đang phát triển. Theo ông, nếu có quá nhiều trở ngại đối với việc đi tìm
nguồn tiết kiệm trong nớc để tạo áôn thì tại sao không dựa nhiều hơn vo các
nguồn bên ngoi? Chẳng phải lý thut kinh tÕ ®· tõng nãi víi chóng ta r»ng,
mét nớc giu sau khi đà hút hết những dự án đầu t có lợi nhuận cao cho mình,
cũng có thể lm lợi cho chính nó v nớc nhận đầu t bằng cách đầu t vo
những dự án lợi nhuận cao ra nớc ngoi đó sao .
FDI không chỉ bổ sung nguồn vốn đầu t phát triển m còn l một luồn vốn
ổn định hơn so với các luồng vốn đầu t quốc tế khác, bởi FDI dựa trên quan
điểm di hạn về thị trờng, về triển vọng tăng trởng v không tạo ra nợ cho
chính phủ nớc tiếp nhận đầu t−, do vËy, Ýt cã khuynh h−íng thay ®ỉi khi có tình
huống bất lợi.

2.2. FDI cung cấp công nghệ mới cho sù ph¸t triĨn:
4


Có thể nới công nghệ l yếu tố quyết định tốc độ tăng trởng v sự phát triển
của mọi quốc gia, đối với các nớc đang phát triển thì vai trò ny cng đợc
khẳng định rõ. Bởi vậy, tăng cờng khả năng công nghệ luôn l một trong những
mục tiêu u tiên phát triển hng đầu của mọi quốc gia. Tuy nhiên, để thực hiện
mục tiêu ny đòi hỏi không chỉ cần nhiều vốn m còn phải có một trình độ phát
triển nhất định của khoa học - kỹ thuật.
Lênin cũng đà từng khẳng định: Không có kỹ thuật đại t bản chủ nghĩa
đợc xây dựng trên những phát minh mới nhất của khoa học hiện đại, không có
một tổ chøc nhμ n−íc cã khoa häc khiÕn cho hμng triƯu ngời phải tuân theo hết
sức nghiêm ngặt một tiêu chuẩn thống nhất trong công việc sản xuất v phân
phối sản phẩm thì không thể nói đến chủ nghĩa xà hội đợc .
Đầu t nớc ngoi (đặc biệt l FDI) đợc coi l nguồn quan trọng để phát
triển khả năng công nghệ của nớc chủ nh. Vai trò ny đợc thể hiện qua hai
khía cạnh chính l chuyển giao công nghệ sÃn có từ bên ngoi vo v sự phát
triển khả năng công nghệ của các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng của nớc chủ nh.
Đây l những mục tiêu quan trọng đợc nớc chủ nh mong đợi từ các nh đầu
t nớc ngoi.
Chuyển giao công nghệ thông qua con đờng FDI thờng đợc thực hiện chủ
yếu bởi các TNC, dới các hình thức chuyển giao trong nội bộ giữa các chi nhánh
của một TNC v chuyển giao giữa các chi nhánh của các TNC. Phần lớn công
nghệ đợc chuyển giao giữa các chi nhánh của các TNC sang nớc chủ nh (nhất
l các nớc đang py_ đợc thông qua các doanh nghiƯp 100% vèn n−íc ngoμi vμ
doanh nghiƯp liªn doanh m bên nớc ngoi nắm phần lớn cổ phần dới các
hạng mục chủ yếu nh tiến bộ công nghệ, ap công nghệ, công nghệ thiết kế v
xây dựng, kỹ thuật kiểm tra chất lợng, công nghệ quản líy, công nghệ
marketing. Theo số liệu thống kê của trung tâm nghiên cứu TNC của Liên hợp

quốc, các TNC đà cung cấp khoảng 95% trong số các hạng mục công nghệ m
các chi nhánh của TNC ở các nớc đang phát triển nhận đợc trong năm 1993.
Cùng với hình thức chuyển giao trên, chuyển giao công nghệ giữa các chi
nhánh của các TNC cũng tăng lên nhanh chóng trong những năm gần đây.
Trong giai đoạn 80-96 các TNC đà thực hiện khoảng 8254 hợp đồng chuyển giao
công nghệ theo kênh ny, trong đó 100 TNC lớn nhất thế giới chiếm bình quân
khoảng 35%.
Bên cạnh việc chuyển giao các công nghệ sẵn có, thông qua FDI, các TNC
còn góp phần lm tăng năng lực ngiên cứu v phát triển (R&D) công nghệ của
nớc chủ nh. Đến năm 1993 đà có 55% chi nhánh của c¸c TNC lín vμ 45% chi
nh¸nh cđa c¸c TNC võa v nhỏ thực hiện các hoạt động R&D ở các nớc đang
phát triển. Trong những năm gần đây, xu hớng ny còn tiếp tục tăng nhanh ở
các nớc đang phát triển châu á
5


Mặt khác, trong quá trình sử dụng các công nghệ nớc ngoi )nhất l ở các
doanh nghiệp liên doanh) các doanh nghiệp trong nớc học đợc cách thiết kế,
chế tạo từ công nghệ nguồn, sau đó cải biến cho phù hợp với điều kiện sử dụng
của mình. Đây l một trong những tác động tích cực quan trọng của FDI đối với
việc phát triển công nghệ ở các nớc đang phát triển.
2.3. FDI giúp phát triển nguồn nhân lực v tạo việc lm:
Phát triển nguồn nhân lực v tạo việc lm l nhân tố quan trọng thúc đẩy
tăng trởng kinh tế. Mục tiêu của nh đầu t nớc ngoi l thu đợc lợi nhuận
tối đa, củng cố chỗ đứng v duy trì thế cạnh tranh trên thị trờng thế giới. Do đó,
họ đặc biệt quan tâm đến việc tận dụng nguồn lao động rẻ ở các nớc tiếp nhận
đầu t. Số lao động trực tiếp lm việc trong các doanh nghiệp FDI ngy cng
tăng nhanh ở các nớc đang phát triển. Ngoi ra, các hoạt động cung ứng dịch vụ
v gia công cho các dự án FDI cũng tạo ra thêm nhiều cơ hội việc lm. Trên thực
tế, ở các nớc đang phát triển, các dự án FDI sử dụng nhiều lao động đà tạo

nhiều việc lm cho phụ nữ trẻ. Điều ny không chỉ mang lại cho họ lợi ích về thu
nhập cao m còn góp phần quan trọng vo sự nghiệp giải phóng phụ nữ ở các
nớc ny.
FDI cũng có tác động tích cực trong phát triển nguồn nhân lực của nớc chủ
nh thông qua các dự án đầu t vo lĩnh vực giáo dục đo tạo. Các cá nhân lm
việc cho các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoi có cơ hội học hỏi, nâng cao
trình độ bản thân khi tiếp cận với công nghệ v kỹ năng quản lý tiên tiến. Các
doanh nghiệp FDI cũng có thể tác động tích cực đến việc cải thiện nguồn nhân
lực ở các công ty khác m họ có quan hệ, đặc biệt l các công ty bạn hng. Những
cải thiện về nguồn nhân lực ở các nớc tiếp nhận đầu t còn có thể đạt hiệu quả
lớn hơn khi những ngời lm việc trong các doanh nghiệp FDI chuyển sang lm
việc cho các doanh nghiệp trong nớc hoặc tự mình thnh lập doanh nghiệp mới.
Đầu t nớc ngoi còn có vai trò đáng kể đối với tăng cờng sức khoẻ v dinh
dỡng cho ngời dân nớc chủ nh thông qua các dự án đầu t vo ngnh y tế,
dợc phẩm, công nghệ sinh học v chế biến thực phẩm.
2.4. FDI giúp mở rộng thị trờng v thúc đẩy xuất khẩu:
Xuất khẩu l yếu tố quan trọng của tăng trởng. Nhờ có đẩy mạnh xuất
khẩu, những lợi thế so sánh của yếu tố sản xuất ở nớc chủ nh đợc khai thác có
hiệu quả hơn trong phân công lao động quốc tế. Các nớc đang phát triển tuy có
khả năng sản xuất với mức chi phí có thể cạnh tranh đợc nhng vẫn rất khó
khăn trong việc thâm nhập thị trờng quốc tế. Bởi thế, khuyến khích đầu t nớc
ngoi hớng vo xuất khẩu luôn l u đÃi đặc biƯt trong chÝnh s¸ch thu hót FDI
cđa c¸c n−íc nμy. Thông qua FDI các nớc tiếp nhận đầu t có thể tiếp cận với
thị trờng thế giới, vì hầu hết các hoạt động FDI đều do các TNC thực hiện. ë tÊt
6


cả các nớc đang phát triển, các TNC đều đóng vai trß quan träng trong viƯc më
réng xt khÈu do vÞ thÕ vμ uy tÝn cđa chóng trong hƯ thèng sản xuất v thơng
mại quốc tế. Đối với các TNC, xuất khẩu cũng đem lại nhiều lợi ích cho họ thông

qua sử dụng các yếu tố đầu vo rẻ, khai thác đợc hiệu quả theo quy mô sản xuất
(không bị hạn chế bởi quy mô thị trờng của nớc chủ nh) v thực hiện chuyên
môn hoá sâu từng chi tiết sản phẩm ở những nới có lợi thế nhất, sau đó lắp ráp
thnh phẩm.
2.5. FDI thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế không chỉ l đòi hỏi của bản thân sự phát
triển nội tại nền kinh tế m còn l đòi hỏi của xu hớng quốc tế hoá đời sống
kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay. FDI l một bộ phận quan trọng của hoạt
động kinh tế đối ngọi, thông qua đó các quốc gia sẽ tham gia ngy cng nhiều
vo quá trình liên kết kinh tế giữa các nớc trên thế giới, đòi hỏi mỗi qgh phải
thay đổi cơ cấu kinh tế trong nớc cho phù hợp với sự phân công lao động quốc
tế. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia phù hợp với trình độ phát
triển chung trên thế giới sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động FDI. Ngợc lại,
chính FDI lại góp phần thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở
nớc chủ nh, vì nó lμm xt hiƯn nhiỊu lÜnh vùc vμ ngμnh nghỊ kinh tế mới v
góp phần nâng cao nhanh chóng trình độ kỹ thuật v công nghệ ở nhiều ngnh
kinh tế, phát triển năng suất lao động của các ngnh ny. Mặt khác, dới tác
động của FDI, một số ngnh nghề đợc kÝch thÝch ph¸t triĨn, nh−ng cịng cã mét
sè ngμnh nghỊ bị mai một v dần bị xoá bỏ.
II. TC NG TRÀN CñA FDI:
1. Khái niệm:
Các chuyên gia thực hiện nghiên cứu tác động của đầu tư nước ngoài tới tăng
trưởng kinh tế ở Việt Nam cho rằng, kỳ vọng lớn nhất của các nước đang phát triển
trong việc thu hút đầu tư nước ngoài là nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế với hai lý
do chính.
Thứ nhất, đầu tư nước ngoài được coi là một nguồn vốn quan trọng để bổ sung
vốn đầu tư trong nước.
Thứ hai, đầu tư nước ngoài tạo cơ hội cho các nước nghèo tiếp cận công nghệ tiên
tiến hơn, dễ dàng chuyển giao công nghệ hơn, thúc đẩy quá trình phổ biến kiến thức,
nâng cao kỹ năng quản lý và trình độ lao động...

Tác động này được xem là tác động tràn của đầu tư nước ngồi, góp phần làm
tăng năng suất của các doanh nghiệp trong nước và cuối cùng là đóng góp vào tăng
trưởng kinh tế nói chung.

7


Vậy Tác động tràn là tác động gián tiếp xuất hiện khi có mặt của các doanh
nghiệp FDI làm cho các doanh nghiệp trong nước thay đổi hành vi của mình như thay
đổi cơng nghệ, thay đổi chiến lược sản xuất kinh doanh…
Có 4 kênh xuất hiện tác động tràn nhiều nhất: kênh di chuyển lao động, kênh phổ
biến & chuyển giao công nghệ, kênh liên kết sản xuất và kênh cạnh tranh.
2. Các kênh chủ yếu xuất hiện tác động tràn:
2.1. Kênh di chuyển lao động:
Lao động có kỹ năng chuyển từ doanh nghiệp FDI tới doanh nghiệp trong nước
được coi là một kênh quan trọng có thể tạo ra tác động tràn tích cực. tác động tràn xảy
ra nếu như số lao động này sử dụng kiến thức đã học được trong thời gian làm việc tại
các doanh nghiệp FDI vào công việc trong doanh nghiệp trong nước. Có hai cách để
tạo ra tác động tràn. Đó là số lao động này tự thành lập Công ty riêng hoặc làm thuê
cho các doanh nghiệp trong nước, nhất là trong cùng ngành mà doanh nghiệp FDI
đang hoạt động.
2.2. Kênh phổ biến & chuyển giao công nghệ:
Đây là một kênh rất quan trọng để tạo ra tác động tràn tích cực của FDI. Cho đến
nay chỉ tiêu hay được dùng để đo khả năng hấp thụ cơng nghệ là trình độ học vấn
hoặc trình độ chun mơn của lao động trong doanh nghiệp và chỉ tiêu biểu thị cho
đổi mới công nghệ của doanh nghiệp thể hiện qua chỉ tiêu cho các hoạt động R&D.
Một yếu tố khác ảnh hưởng đến việc xuất hiện tác động tràn là khả năng tiếp thu
cơng nghệ mới của chính các doanh nghiệp FDI. Nhiều nghiên cứu cho rằng công
nghệ mới chủ yếu do các cơng ty mẹ tạo ra , trong khi đó các công ty con ở các nước
đang phát triển hầu như chỉ tập trung đến khâu sản xuất chiếm lĩnh thị trường dựa trên

các lợi thế về công nghệ do cơng ty cung cấp.Do đó khả năng tiếp thu cơng nghệ của
các công ty con hoạt động ở nước nhận đầu tư ngày càng cao , càng có lợi cho q
trình sinh ra tác động tràn tích cực qua rị rỉ công nghệ.
2.3. Kênh liên kết sản xuất
Kênh liên kết sản xuất là một kênh rất quan trọng tạo ra tác động tràn. Tác động “
ngược chiều “ có thể xuất hiện nên các doanh nghiệp trong nước cung cấp nguyên liệu
hoặc phân phối sản phẩm của các doanh nghiệp nước ngoài . Mức độ tác động càng
cao nếu khối lượng sản phẩm phân phối hoặc nguyên liệu cung cấp càng nhiều, tức là
quan hệ tỷ lệ thuận.
Trong liên kết sản xuất tồn tại dưới hai hình thức đó là liên kết dọc và liên kết
ngang. Liên kết dọc là sản phẩm của doanh nghiệp này là nguyên liệu đầu vào của
doanh nghiệp kia. Liên kết ngang là các doanh nghiệp cùng sản xuất một loại sản
phẩm.
2.4. Kênh cạnh tranh
8


Sự xuất hiện của các doanh nghiệp FDI có thể tạo ra áp lực cạnh tranh lớn cho các
doanh nghiệp trong nước , trước hết là đổi mới doanh nghiệp trong cùng nhóm ngành.
Để thu được biểu hiện của kênh tác động này chúng ta cần thu nhập những thông tinh
về sức ép cạnh tranh thị trường của doanh nghiệp do doanh nghiệp tự đánh giá. Trong
khu vực doanh nghiệp FDI chịu sức ép cạnh tranh lớn nhất giữa các doanh nghiệp này
với nhau thì các doanh nghiệp trong nước lại cho rằng họ đang chịu sức ép cạnh tranh
mạnh ngang nhau từ các doanh nghiệp FDI và chính các doanh nghiệp trong nước.
Trong khi doanh nghiệp FDI chịu áp lực mạnh nhất về sản phẩm như chủng loại , mẫu
mã, thì các doanh nghiệp trong nước lại đánh giá cao nhất về cơng nghệ có trình độ
cao hơn từ các doanh nghiệp FDI

Phần hai


TÁC ĐỘNG TRÀN CỦA FDI ĐẾN KHU VỰC KINH TẾ
TRONG NƯỚC
I. TÌNH HÌNH THU HÚT FDI CỦA VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM
QUA:
Từ đầu thập niên 1990, kinh tế vĩ mô của Việt Nam được ổn định, tốc độ phát triển
kinh tế cũng lên quỹ đạo và ở mức tương đối cao. Quan hệ với Trung Quốc và các
nước khác trong khu vực đã bình thường hố. Nhật đã quyết định viện trợ trở lại
(1992) và Hội nghị các nhà tài trợ giúp Việt Nam xây dựng cơ sở hạ tầng đã được
quyết định sẽ tổ chức hằng năm (bắt đầu năm 1993). Sự chuyển biến thuận lợi nầy
cùng với vị trí địa lý tốt, tình hình chính trị, xã hội ổn định và một nước có dân đơng,
có nguồn lao động phong phú đã làm cho Việt Nam trở thành môi trường đầu tư nhiều
tiềm năng. Theo kết quả thăm dò hằng năm về kế hoạch đầu tư nước ngoài của vài
ngàn doanh nghiệp lớn Nhật Bản do Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản (JBIC) thực
hiện, Việt Nam đã sớm trở thành một trong những môi trường mà doanh nghiệp Nhật
chú ý. Việt Nam xếp thứ 5 trong lần thăm dò năm 1992. Năm 1993 Việt Nam ở vị trí
thứ 4 và trong 2 năm liên tiếp sau đó đã vươn lên vị trí thứ 2. Từ năm 1996 vị trí của
Việt Nam giảm nhưng hầu như năm nào cũng nằm trong 5 nước được doanh nghiệp
Nhật đánh giá cao về tiềm năng.
Việt Nam tiếp tục được nước ngoài đánh giá cao về tiềm năng nhưng dòng chảy
FDI vào Việt Nam từ nửa sau thập niên 1990 đã giảm nhanh và hiện nay cũng chưa
hồi phục (Xem Hình 2)

9


Tuy các yếu tố về kinh tế vĩ mô, về dân số, lao động, về vị trị địa lý vẫn thuận lợi
nhưng chính sách liên quan đến FDI của Việt Nam chưa ổn định, thiếu nhất quán, hay
thay đổi và chưa có chiến lược phát triển cơng nghiệp lâu dài. Đến năm 2000, Việt
Nam mới sửa đổi Luật đầu tư nước ngoài theo hướng cạnh tranh được với các nước
chung quanh. Hơn nữa, việc vận dụng luật vào việc quản lý thực tế vẫn chưa có hiệu

quả.
Biểu 1 cho thấy vị trí của FDI trong các chỉ tiêu của kinh tế Việt Nam. So với kinh
nghiệm các nước Á châu khác, vị trí nầy khá cao. Chẳng hạn tỉ trọng của FDI trong
tổng đầu tư của Việt Nam xấp xỉ với Malaixia và cao hơn Thái Lan nhiều (trong giai
đoạn 1988-93, xem Biểu 2). So với Trung Quốc những năm gần đây thì con số của
Việt Nam cũng cao hơn.

10


Tuy ở mức cao trong tổng đầu tư, FDI ở Việt Nam vẫn cịn ít nếu xét trên một số
chỉ tiêu khác. Biểu 3 so sánh Việt Nam với Trung Quốc nói chung và tỉnh Quảng
Đơng (một tỉnh có nhiều điều kiện như dân số, vị trí địa lý giống Việt Nam) nói riêng.
FDI tính trên đầu nguời ở Việt Nam chỉ bằng 60% của nước Trung Quốc rộng lớn với
số dân 1,3 tỉ và chỉ bằng 13% của tỉnh Quảng Đơng. Như Biểu 3 cho thấy, FDI có
tương quan mật thiết với các chỉ tiêu về thành quả phát triển như GDP trên đầu người
và kim ngạch xuất khẩu hàng cơng nghiệp. Từ nhận xét nầy, có thể nói tỉ lệ của FDI
trong tổng đầu tư ở Việt Nam cao là vì đầu tư vốn trong nước (nội lực) cịn q ít.
Việt Nam cần huy động vốn trong dân, cải thiện môi trường đầu tư cho dân doanh
hơn nữa để tăng nội lực. Tóm lại, tỉ lệ khá cao của FDI khơng có nghĩa là Việt Nam
khơng cần ngoại lực nhiều hơn mà vấn đề ở đây là cả nội lực và ngoại lực đều cần
tăng cường.

11


Xét về chất, FDI tại Việt Nam cho đến nay có các đặc tính chưa mang lại hiệu
quả tích cực cho phát triển kinh tế. Trước hết có thể thấy tỉ trọng của FDI trong sản
xuất công nghiệp khá cao (gần 40% năm 2000) nhưng chỉ chiếm độ 10% trong lao
động cơng nghiệp (Biểu 1). Dĩ nhiên điều đó cũng có nghĩa là năng suất lao động của

các doanh nghiệp FDI cao hơn các thành phần kinh tế khác. Nhưng FDI ít tạo ra cơng
ăn việc làm khơng phải chỉ vì lý do đó mà chủ yếu vì cho đến nay FDI có khuynh
hướng tập trung vào những ngành thay thế nhập khẩu và ít dùng lao động. Như Biểu 1
cho thấy, vị trí của FDI trong tổng nhập khẩu cao hơn trong tổng xuất khẩu. Dĩ nhiên
các doanh nghiệp FDI nhập khẩu nhiều nguyên liệu và máy móc để phục vụ cho cả
các dự án đầu tư hướng về xuất khẩu nhưng nếu phần lớn FDI là hướng về xuất khẩu
thì tỉ lệ của FDI trong nhập khẩu sẽ thấp hơn nhiều.
Để phân tích sâu hơn tính chất của các doanh nghiệp có vốn nước ngồi, ta thử
chia khu vực công nghiệp chế biến (manufacturing sector) thành 23 ngành và tính thử
tỉ lệ của tư bản dùng cho mỗi lao động (capital/labor ratio, viết tắt là K/L) và tỉ lệ xuất
khẩu trong tổng doanh số bán ra (export/sales, viết tắt là E/S) trong từng ngành.
Thống kê về tư bản được tính bằng cách cộng tất cả kim ngạch đầu tư đã thực hiện từ
trước đến thời điểm cuối năm 2002. Thống kê về lao động lấy số liệu vào cuối năm
2002, kim ngạch xuất khẩu và doanh số bán ra là của năm 2002.
Trong Hình 3, trục tung đo tỉ lệ E/S và trục hoành đo tỉ lệ K/L. Ta thấy ngay rằng
trừ một vài ngoại lệ, những ngành có hàm lượng lao động cao (tỉ lệ K/L thấp) là
những ngành mà FDI hoạt động chủ yếu là phục vụ xuất khẩu (tỉ lệ E/S cao), điển
hình là may mặc, giày dép, chế biến đồ gỗ,... Điều này hợp với lý luận cơ bản về kinh
tế quốc tế vì Việt Nam là nước phong phú về lao động nên có lợi thế so sánh trong các
ngành có hàm lượng lao động cao.
12


Nhưng cho đến nay những ngành mà kim ngạch FDI chiếm vị trí hàng đầu là
những ngành thay thế nhập khẩu. Bốn ngành có kim ngạch FDI nhiều nhất (kim
thuộc, thực phẩm và đồ uống, ô tô xe máy và hoá chất) chiếm tới 53% tổng kim ngạch
FDI (luỹ kế từ 1988 đến 2002) đều là những ngành có tỉ lệ K/L cao và tỉ lệ E/S thấp.
Những ngành thay thế nhập khẩu nầy thường là những ngành được bảo hộ bằng hàng
rào quan thuế khá cao. Do được bảo hộ và do kỳ vọng vào sự lớn mạnh của thị trường
gần 80 triệu dân, doanh nghiệp nước ngồi có khuynh hướng muốn đầu tư vào các

ngành thay thế nhập khẩu.
Dĩ nhiên không phải tất cả các dự án FDI có mục đích thay thế nhập khẩu đều
đáng bị chỉ trích như ta thấy ở một số nghiên cứu khác. Nếu các ngành đó dần dần
khơng cần bảo hộ vẫn cạnh tranh được trên thị trường thế giới và do đó chuyển từ
thay thế nhập khẩu sang xuất khẩu trong tương lai thì vẫn đáng được đánh giá cao
(xem như là những ngành non trẻ có thể được bảo hộ trong thời gian nhất định). Một
điểm nữa là nếu các dự án FDI thay thế nhập khẩu đó có hiệu quả lan toả (spill over
effects), tác động tích cực trong việc chuyển giao cơng nghệ và năng lực kinh doanh,
kích thích phát triển các doanh nghiệp bản xứ và phát triển các ngành cơng nghiệp
phụ trợ trong nước thì những phí tổn bảo hộ cho tồn xã hội sẽ nhỏ đi và các dự án
FDI đó cũng đáng được đánh giá tích cực. Nhưng lịch sử FDI của các ngành nầy cịn
ngắn chưa có cơ sở để đánh giá các ngành thay thế nhập khẩu hiện nay thoả mãn các
điều kiện của những ngành công nghiệp non trẻ không. Do đó, ở đ ây ta sẽ chỉ phân
tích hiệu quả lan toả của các dự án FDI kể cả các dự án thay thế nhập khẩu và hướng
về xuất khẩu
13


II. TÁC ĐỘNG TRÀN CđA fdi §ÕN KHU VùC KINH TÕ TRONG
N¦íC:
1. Kênh di chuyển lao động:
Có thể thấy chỉ tiêu này rất cao ở khu vực doanh nghiệp FDI (43,4%) và cao nhất
ở nhóm ngành may mặc và da giày. Trong số chuyển đi, khoảng 42% là lao động có
kỹ năng, tỷ lệ thấp nhất trong nhóm ngành dệt may - da giày (37%) và cao nhất là
nhóm ngành chế biến thực phẩm (50,3%). Nếu so sánh chỉ tiêu này thì khả năng có
thể sinh ra tác động tràn ở ngành chế biến thực phẩm cao hơn là dệt may.
Tuy nhiên 32% số doanh nghiệp FDI được hỏi cho rằng lao động đã chuyển đi
khỏi chủ yếu chuyển tới các doanh nghiệp FDI khác, 23% cho rằng số lao động này tự
mở Công ty và 18% trả lời lao động chuyên đi làm cho các doanh nghiệp trong nước
(số cịn lại trả lời khơng biết). Như vậy, tuy tính linh hoạt về di chuyển lao động khá

cao của khu vực doanh nghiệp FDI trong ba nhóm ngành trên, nhưng 1/3 số lao động
chỉ di chuyển trong nội bộ khu vực doanh nghiệp FDI và rất có thể phần lớn trong số
họ là lao động có kỹ năng. Kết quả này có phần ủng hộ cho nhận định về hiện tượng co cụm
về lao động của khu vực FDI hay thấy ở các nước đang phát triển.
Chỉ có 4,6% doanh nghiệp trong nước thuộc nhóm ngành chế biến thực phẩm trả lời
đã tiếp nhận lao động từ doanh nghiệp FDI, trong khi khơng doanh nghiệp nào trong hai
nhóm cịn lại tuyển được lao động từ các doanh nghiệp FDI chuyển sang.
Tổng hợp kết quả các cuộc điều tra gần đây cho thấy các doanh nghiệp FDI tích
cực chuyển giao cơng nghệ cho lao động ở nhà máy và chuyển giao tri thức điều
hành, quản lý cho kỹ sư, nhân viên quản lý các cấp người Việt Nam. Khi nguời Việt
Nam không hoặc chưa thoả mãn các điều kiện về chuyên mơn, doanh nghiệp nước
ngồi mới đưa người ở các nước khác đến. Người nước khác ở đây không nhất thiết là
người nước gốc của MNCs mà kể cả người ở các nước thứ ba. Đặc biệt nhiều công ty
FDI gốc Đài Loan hoặc Hong Kong thường thuê kỹ sư người ở Trung Quốc, công ty
FDI Nhật thường thuê người Đài Loan, v.v... Sau 3-4 năm hoạt động, các doanh
nghiệp FDI dần dần tìm người Việt Nam thay thế để giảm phí tổn sản xuất. Tiền
lưong của một kỹ sư người Việt Nam bằng nửa người Trung Quốc và bằng 1/4 người
cùng trình độ từ Đài Loan sang.
Để tăng hiệu quả việc di chuyển lao động, điều tiên quyết của Việt Nam là cần
tăng cường giáo dục, đào tạo để cung cấp nguồn nhân lực cần thiết. Chính sách gần
đây của Việt Nam (hạn chế doanh nghiệp FDI chỉ được dùng người nước ngoài trong
giới hạn 3% tổng lao động trong cơng ty) là khơng có cơ sở khoa học và chỉ làm môi
trường FDI ở Việt Nam xấu hơn.
Về việc di chuyển lao động, chưa có số liệu đầy đủ để phân tích có hệ thống
nhưng những thơng tin liên quan thu thập được trong mấy năm qua cho thấy là hiệu
quả chuyển giao rất yếu vì các lý do sau: Thứ nhất, phần lớn đối tác phía Việt Nam
trong các liên doanh FDI là doanh nghiệp quốc doanh (SOEs). Người quản lý, lãnh
14



đạo kinh doanh được gửi tới các liên doanh thường là cán bộ ở SOEs hoặc ở các bộ
chủ quản của SOEs liên quan. Trong số nầy cũng có nhiều người vốn có tinh thần
doanh nghiệp, tinh thần trách nhiệm và ham học hỏi nên đã làm việc hiệu quả trong
các liên doanh, tích cực hấp thu tri thức và kinh nghiệm từ đồng nghiệp nước ngoài.
Nhưng một phần khá lớn họ là những người hành động như các quan chức và dồn hết
quan tâm về những vấn đề khác, thay vì làm cho liên doanh phát triển. Thứ hai,
nguyên tắc nhất trí 100% thành viên hội đồng quản trị áp dụng vào việc quyết định
các vấn đề kinh doanh trong liên doanh kéo dài quá lâu, cải thiện quá chậm gây ảnh
hưởng hoạt động của doanh nghiệp FDI. Vì lý do nầy, MNCs đầu tư ở Việt Nam có
khuynh hướng lập doanh nhgiệp 100% vốn nước ngồi thay vì liên doanh. Các liên
doanh trong quá khứ cũng có khuynh hướng xin chuyển sang hình thức 100% vốn
nước ngồi
Tóm lại, phân tích kết quả từ hai góc độ: (1) lao động chuyển đi khỏi doanh
nghiệp FDI và (2) nguồn lao động mới tuyển dụng của doanh nghiệp trong nước đều
cho thấy có hiện tượng di chuyển lao động giữa doanh nghiệp FDI và trong nước,
nhưng ở mức rất thấp. Ngay cả khi chưa tính đến kỹ năng của số lao động di chuyển
này, điều đó cũng có nghĩa là khả năng xuất hiện tác động tràn cũng rất thấp theo
kênh này.
2. Kênh phổ biến & chuyển giao công nghệ:
Kết quả điều tra cho thấy, năm 2003 các doanh nghiệp trong nước có tỷ lệ lao
động có kỹ năng thấp hơn rất nhiều so với tỷ trọng lao động kỹ năng của doanh
nghiệp FDI. Đáng quan tâm hơn tỷ trọng này cịn có xu hướng giảm đi theo các năm
Các doanh nghiệp FDI chỉ tiêu cho hoạt động R&D cao gấp gần 3 lần so với các
doanh nghiệp trong nước, trong đó mức chênh lệch cao nhất ở nhóm ngành cơ khí điện tử. Nếu tính cả chỉ tiêu mức độ tập trung vốn thì có thể thấy sản phẩm có khí
điện tử của khu vực doanh nghiệp FDI có hàm lượng cơng nghệ cao hơn nhiều và vì
vậy khả năng năng xẩy ra tác động tràn là thấp.
Chi cho R&D ở nhóm ngành dệt may cao hơn hẳn so với ngành chế biến thực
phẩm và mức chênh lệch giữa doanh nghiệp trong và nước ngoài là thấp. Đáng lưu ý
là xu hướng giảm tỷ trọng chi tiêu bình quân cho R&D so với doanh thu trong khu
vực doanh nghiệp FDI, đặc biệt trong nhóm ngành cơ khí, điện tử. Điều này có thể có

nhiều nguyên nhân, chẳng hạn các doanh nghiệp khơng có đối thủ cạnh tranh trong
nước.
kết quả điều tra cho thấy tới 70% doanh nghiệp FDI rất ít khi tiếp cận với công
nghệ từ Công ty mẹ chuyển giao và 36% cho rằng ý tưởng đổi mới công nghệ bắt
nguồn từ nhu cầu thực tiễn cũa. Như vậy, thực tế là các doanh nghiệp FDI ở Việt Nam
hoạt động khá độc lập với Công ty mẹ ở nước ngồi đặc biệt là trong đầu tư đổi mới
cơng nghệ. Có 2 cách lý giải cho điều này. Một là bản thân các Công ty mẹ cũng là
Công ty nhỏ, do đó năng lực cho hoạt động R&D khơng cao và không thể hỗ trợ
15


nhiều cho các Công ty con. Lý giải này phù hợp với nhận định khá phổ biến hiện nay
là các Cơng ty nước ngồi đầu tư vào Việt Nam chủ yếu là các Công ty vừa và nhỏ.
Cách lý giải thứ 2 là Việt Nam chưa phải là thị trường đầu tư trọng tâm, hoặc trình độ
cơng nghệ trong nước yếu dẫn đến không cần thiết phải đầu tư với cơng nghệ cao
hơn. Chúng tơi cho rằng có thể trong thực tiễn cả hai cách lý giải này đều đúng và bổ
sung cho nhau.
Như vậy, dù phân tích dưới góc độ nào, kết quả điều tra mẫu 93 doanh nghiệp
phần nào phản ánh thực tế ở Việt Nam là ít thấy biểu hiện về tác động tràn tích cực
thơng qua kênh chuyển giao cơng nghệ và nếu xuất hiện thì các tác động cũng chỉ ở
mức thấp. Theo như kết quả điều tra thì tác động này dễ xảy ra hơn đối với nhóm
ngành dệt may và chế biến thực phẩm.
3. Kênh liên kết sản xuất:
Kết quả điều tra cho thấy, chỉ 31% nguyên liệu sản xuất mà các doanh nghiệp FDI
sử dụng được mua từ các doanh nghiệp trong nước, số còn lại mua từ doanh nghiệp
FDI, nhập khẩu hoặc mua trực tiếp từ hộ gia đình. Quan trọng hơn, chỉ số này hầu
như không thay đổi qua 3 năm từ 2001 – 2003. Về lý do nhập khẩu nguyên liệu, có tới
42,6% doanh nghiệp FDI cho rằng nguyên liệu đó khơng có ở Việt Nam, 15% cho
rằng có những giá cao hơn nhập ngoại, 25% cho rằng chất lượng không tốt bằng
nguyên liệu ngoại nhập.

Kết quả cũng tương tự khi xem cơ cấu nguồn cung cấp nguyên liệu của các doanh
nghiệp trong nước. Trung bình cho cả 3 ngành chỉ 8% - 13% tổng giá trị nguyên liệu
mà doanh nghiệp sử dụng được mua từ các doanh nghiệp FDI trong nước.
Xét kênh phân phối sản phẩm cho thấy tỷ lệ sản phẩm mà các doanh nghiệp FDI
phân phối thông qua các doanh nghiệp trong nước tương đối thấp, nhất là nhóm ngành
dệt may. Một nguyên nhân khách quan quan trọng là chính sách áp đặt tỷ lệ xuất khẩu
bắt buộc với doanh nghiệp FDI.
Hiệu quả lan toả từ FDI đến các thành phần khác trong nền kinh tế càng cao thì
nội lực càng được tăng cường. Qua sự liên kết giữa doanh nghiệp FDI với các doanh
nghiệp trong nước (SOEs, doanh nghiệp tư nhân, các đơn vị cá thể,...), công nghệ và
năng lực kinh doanh được chuyển giao từ doanh nghiệp FDI đến các thành phần khác
của nền kinh tế. Để kiểm chứng hiệu quả nầy, xét ngành cụ thể là ngành may mặc:
Dệt vải và may mặc là những ngành công nghiệp quan trọng của Việt Nam. Năm
2001, hai ngành nầy chiếm độ 11% giá trị tính thêm trong tồn bộ ngành cơng nghiệp
chế biến.Từ đầu thập niên 1990s, may mặc trở thành ngành xuất khâủ hàng đầu của
Việt Nam. Vào giữa thập niên 1990, ngành nầy chiếm 15% tổng kim ngạch xuất khẩu
và độ 50% kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp. Với sự lớn mạnh của ngành da
giày và một số ngành xuất khẩu khác, vị trí của ngành may mặc có giảm nhưng vẫn
chiếm 10% tổng kim ngạch xuất khẩu vào năm 2001.
16


Trước giai đoạn may mặc (apparel) là các giai đoạn kéo sợi (spinning), dệt
(weaving) và dệt kim (knitting). Theo Biểu 7, số doanh nghiệp FDI hiện diện khá
đông đảo trong tất cả các giai đoạn, đặc biệt là khá tích cực trong giai đoạn may mặc.
Trong hai ngành may mặc và dệt nầy, các nước, các nền kinh tế đầu tư tích cực nhất
là Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore và Hong Kong. Nhiều cơng ty Nhật cũng tích cực.
Trừ Singapore, các dự án của các nước nầy có tỉ lệ xuất khẩu rất cao và tỉ lệ K/L thấp.
Điều nầy cho thấy các nước công nghiệp mới ở Á châu và Nhật Bản đã tận dụng lao
động Việt Nam để sản xuất và xuất khẩu mặt hàng điển hình có hàm lượng lao động

cao.
Nhưng hoạt động của các doanh nghiệp FDI trong ngành may mặc có tạo ra một
sự liên kết với các doanh nghiệp trong nước thuộc các giai đoạn kéo sợi và dệt không?
Theo điều tra của Viện quản lý kinh tế Trung Ương, vào năm 2002, vẫn còn tới hơn
2/3 số doanh nghiệp FDI dùng nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng may mặc.
Điều tra của tôi vào tháng 8 và tháng 9/2003 cho thấy các doanh nghiệp có vốn 100%
nước ngồi thường có khuynh hướng nhập khẩu hầu như toàn bộ bán thành phẩm và
nguyên liệu cần thiết. Chẳng hạn truờng hợp công ty 100% vốn Nhật Bản sản xuất
quần áo ở Khu chế xuất Tân Thuận, vào năm 2003, mặc dầu đã sau 7 năm hoật động
tại Việt Nam, vẫn cịn có tới 97% nguyên liệu và bán thành phẩm nhập khẩu từ nước
ngoài.
Những doanh nghiệp FDI có dùng (mặc dù số lượng chưa nhiều) nguyên liệu và
bán thành phẩm sản xuất trong nước nằm trong 2 trường hợp sau: Một là các xí
nghiệp liên doanh với các đối tác phía Việt Nam, các đối tác nầy thường là các công
ty quốc doanh mà sản xuất chính của họ là các mặt hàng trung gian đó. Một trong
những động cơ hoặc điều kiện để lập liên doanh với nước ngoài là tiêu thụ bán thành
phẩm hay nguyên liệu họ có sản xuất. Hai là các doanh nghiệp FDI ngành may mặc
mua bán chế phẩm hay nguyên liệu từ những liên doanh FDI khác. Từ giữa thập niên
1990, FDI vào Việt Nam để sản xuất các sản phẩm nầy bắt đầu tăng và vào đầu năm
2003 đã có trên dưới 50 doanh nghiệp vốn nước ngoài sản xuất sợi và vải tại Việt
Nam (xem Biểu 7).

17


Kết quả khảo sát nầy cho thấy sự liên kết giữa các doanh nghiệp FDI với các
doanh nghiệp thuần tuý vốn trong nước là rất yếu. Doanh nghiệp FDI có khuynh
hướng dùng nguyên liệu và bán thành phẩm nhập khẩu hoặc do các công ty FDI khác
sản xuất. Nguyên nhân là vì doanh nghiệp nhà nước trong ngành khơng cung cấp các
sản phẩm chất lượng cao và/hoặc không đảm các điều kiện về giao hàng. Doanh

nghiệp tư nhân trong nước còn quá yếu.
4. Kênh cạnh tranh:
Thực tế cho thấy, trong khi khu vực doanh nghiệp FDI chịu sức ép cạnh tranh lớn
nhất giữa các doanh nghiệp này với nhau, thì các doanh nghiệp trong nước lại cho
rằng họ đang chịu sức ép cạnh tranh mạnh ngang nhau từ doanh nghiệp FDI và chính
các doanh nghiệp trong nước. Trong khi doanh nghiệp FDI chịu áp lực mạnh nhất về
sản phẩm (chủng loại, mẫu mã mới), thì doanh nghiệp trong nước lại đánh giá cao
nhất sức ép về cơng nghệ có trình độ cao hơn từ phía doanh nghiệp FDI.
Đánh giá về sức ép cạnh tranh
Doanh nghiệp FDI
DN NN

DN TN

DN FDI

Doanh nghiệp trong nước
Hộ GĐ

DN trong
nước

DN FDI

Hộ GĐ

Vệ thị phần

4.18


4.88

7.00

2.81

6.02

6.62

2.85

Về sản phẩm

4.00

5.00

7.24

2.90

6.12

6.41

2.62

Về cơng nghệ


3.47

4.59

7.14

2.45

6.11

7.43

2.75

Về lao động có
tay nghề

3.97

4.47

6.25

2.36

5.76

7.00

3.23


Nguồn: Điều tra doanh nghiệp của CIEM

18


Điều tra này cũng phản ánh phần nào việc các doanh nghiệp FDI liên tục tung các
sản phẩm mới ra thị trường, trong khi các doanh nghiệp trong nước dường như vẫn
đang phải dòn sức lực vào dây chuyền và công nghệ sản xuất.
Bột giặt Daso đang phải đối mặt với Omo, Tide; sữa Vinamilk, Nutifood phải
cạnh tranh với Nestle, Abott, Mead&Johnson, Dumex...; bia Sài Gòn, Laser đang
"chống trả" Heineken, Tiger, Foster…Thị trường hàng điện tử Việt Nam dù nhỏ
nhưng có sự hiện diện đầy đủ của các "anh hào" điện tử toàn cầu: Sony, Panasonic,
Toshiba, Samsung, LG... Các DN Việt Nam rất vất vả trong cuộc cạnh tranh này, thất
bại là khả năng khó tránh khỏi". Hiện các sản phẩm lắp ráp trong nước đang chiếm
khoảng 70% thị phần hàng điện tử Việt Nam, tuy nhiên phần lớn vẫn là những thương
hiệu của các tập đoàn điện tử hàng đầu thế giới.
Theo nghiên cứu của Công ty GFK trong năm 2004, các sản phẩm thương hiệu
Việt Nam chỉ chiếm 6% thị phần sản phẩm điện tử nghe nhìn; 48% là các sản phẩm
có thương hiệu Nhật Bản và 35% là các thương hiệu Hàn Quốc... Đối với sản phẩm
điện tử gia dụng, thương hiệu Việt Nam chỉ chiếm 3%; các thương hiệu Nhật chiếm
53%; các thương hiệu Hàn Quốc là 35%...
Một số DN sản xuất hàng tiêu dùng trong nước đã nỗ lực rất lớn và đạt được
những thành quả bước đầu trong cuộc cạnh tranh với các thương hiệu nước ngồi. Có
thể kể sản phẩm nước tăng lực Number One của Công ty Tân Hiệp Phát như một điển
hình. Bất ngờ xuất hiện một cách ấn tượng trên thị trường với phong cách mới lạ và
độc đáo, những chai nước tăng lực Number One đã kéo tụt doanh số của những "đại
gia" nước giải khát có ga, nhảy lên vị trí số một cả về thị phần lẫn doanh số của ngành
giải khát trong một thời gian dài. G7 - sản phẩm cà phê hịa tan của Cơng ty Cà phê
Trung Nguyên ngay khi xuất hiện đã lập tức cho thấy khả năng... đe dọa các đại gia

khác trong lĩnh vực này. Ngay lập tức, thị trường cà phê hịa tan sơi động với những
phản ứng của Nescafe khi thương hiệu này cùng lúc tung ra đến ba loại phục vụ
những đối tượng thích gu cà phê từ nhạt đến đậm. Nescafe cũng đưa ra thông điệp
"100% cà phê Việt Nam" nên "hương vị Việt Nam hơn" để đối chọi với lời kêu gọi
"Người Việt dùng hàng Việt" của Trung Nguyên...
Tuy nhiên, những cuộc "phản kích" như vậy của các thương hiệu trong nước
không nhiều. Chuyện được nhắc nhiều hơn là những thất bại của một số thương hiệu
trong nước trong cuộc chiến này mà sản phẩm bia L. là một thí dụ. Đầu tư cơng nghệ,
tiếp thị rất lớn nhưng bia L. vẫn phải chịu thất bại khi các kênh phân phối quan trọng
trên thị trường như hệ thống nhà hàng, khách sạn, quán ăn... đều đã bị các thương
hiệu nước ngoài khống chế.

19


III. PHÂN TÍCH ĐỊNH LƯỢNG TÁC ĐỘNG TRÀN:
1. Tác động tràn của FDI tới năng suất lao động của doanh nghiệp trong
nước.
Mơ hình.
Mơ hình phân tích lượng ở đây được xây dựng như sau:
nangsuati = f (cuongdovoni, tytrongii, trinhdoi, quimoi, hopdongi , Dtinhi,
Dnganh).
Kết quả và đánh giá.
Ở mặt bằng chung, ngoại trừ biến hopdong, tất cả các biến khác đều có tác động
dương tới thay đổi NSLĐ. Tuy nhiên, ở từng nhóm ngành và từng nhóm doanh
nghiệp, đóng góp của các biến là khác nhau. Đặc biệt chú ý là lao động có tay nghề
khơng ảnh hưởng tới thay đổi về NSLĐ của các nhóm ngành phân tích và của nhóm
doanh nghiệp tư nhân trong nước. Đối với doanh nghiệp tư nhân trong nước ở ngành
dệt - may và cơ khí - điện tử từ thậm chí cả vốn và lao động kỹ năng đều khơng có tác
động rõ rệt tới thay đổi NSLĐ của doanh nghiệp. Kết quả này phản ánh phần nào thực

trạng ở Việt Nam là các doanh nghiệp tư nhân chủ yếu sử dụng lao động phổ thơng là
chính và doanh nghiệp dệt may và cơ khí -điện tử cũng là các doanh nghiệp nhỏ xét
về vốn. Ngồi rakết quả tính tốn cho thấy ở những đơ thị lớn có ảnh hưởng tích cực
đối với các doanh nghiệp thuộc nhóm dệt may nói chung và thuộc nhóm DNNN,
nhưng lại khơng có ảnh hưởng đến nhóm doanh nghiệp tư nhân trong nước. Điều này
có thể là do sản phẩm của các doanh nghiệp tư nhân khó cạnh trang được với cùng
loại sản phẩm do các doanh nghiệp khác sản xuất tại các đô thị lớn. Do vậy, doanh
nghiệp tư nhân thường cung cấp sản phẩm cho các thị trường có sức mua thấp hơn,
chẳng hạn ở vùng nông thôn.
Kết quả kiểm định ở ước lượng I cho biết sự xuất hiện của doanh nghiệp FDI làm
thay đổi NSLĐ của các doanh nghiệp trong nước theo hướng tích cực hay cho thấy
dấu hiệu của việc xuất hiện tác động tràn tích cực. Ở góc độ ngành, biến tytrong có
dấu dương ở tất cả các nhóm ngành, ở cả hai nhóm doanh nghiệp nhưng chỉ có ý
nghĩa ở nhóm ngành chế biến thực phẩm. Xét trên giác độ loại hình doanh nghiệp, sự
xuất hiện của doanh nghiệp FDI dường như khơng có ảnh hưởng gì tới NSLĐ của
DNNN cùng ngành nói chung và trong từng nhóm khảo sát nói riêng. Trong khi đó,
các doanh nghiệp FDI lại có tác động làm tăng NSLĐ của các doanh nghiệp tư nhân
nói chung và doanh nghiệp ngành dệt - may và chế biến thực phẩm.

20


21


Kết quả đánh giá tác động của FDI tới NSLĐ của doanh nghiệp trong nước

với biến tytrong
Doanh nghiệp trong nước


Doanh nghiệp Nhà nước

I

II

III

IV

V

VIII

IX

X

XI

XII

Chung

Thực
phẩm

Dệt-may

Cơ khí Điện tử


Chung

Thực
phẩm

Dệt-may

Cơ khí Điện tử

Chung

Thực phẩm

Dệt-may

Cơ khí Điện tử

0,146***

0.105*

0.086**

0.070*

0.158***

0.114*


0.122***

0.103**

0.156***

0.123**

0.097

0.081

(4.79)

(1.86)

(2.76)

(1.91)

(7.69)

(2.01)

(4.61)

(2.09)

(3.81)


(2.1)

(1.57)

(1.08)

tytrong

0.290***

0.602**

0.117

0.064

0.032

0.04

0.028

0.012

0.621***

0.903***

0.261**


0.209

(3,05)

(2.71)

(1.69)

trinhdo

0,070***

0.009

0.062

(1.53)

(0.91)

(0.35)

(0.42)

(0.26)

(4.33)

(4.19)


(2.85)

(1.48)

0.095

0.096***

0.044

0.063*

0.124

0.036

-0.016

0.055

0.044

(3,08)

(0.23)

(1.53)

(1.6)


(4.66)

(1.19)

(2.03)

(1.64)

(1.6)

(-0.47)

(0.78)

(0.56)

Quimo

0,113***

0.077***

0.101***

0.105***

0.102***

0.075***


0.084***

0.104***

0.128***

0.057

0.140***

0.081

(8,58)
Hopdong

-0.098

(2.98)

(5.74)

(4.31)

(9.93)

(4.38)

(4.72)

(4.88)


(5.81)

(1.36)

(4.98)

(1.08)

-0.067

-0.108

0

-0.139**

-0.145

-0.098**

0

-0.066

-0.049

-0.074

0


(-1,44)

(-0.58)

(-1.18)

(.)

(-2.23)

(-0.93)

(-2.3)

(.)

(-0.55)

(-0.41)

(-0.28)

(.)

0,117***

-0.118

0.147***


0.115

0.213***

0.083

0.165***

0.241**

0.061

-0.147

0.164

0.035

(2,22)

(-0.74)

(3.47)

(1.52)

(4.7)

(0.96)


(4.18)

(2.36)

(1.32)

(-1.46)

(1.73)

(0.32)

Nganh

Ước tính

Ước tính

Ước tính

Ước tính

Ước tính

Ước tính

Ước tính

Ước tính


Ước tính

Ước tính

Ước tính

Ước tính

Hệ số tự do

0,353***

0.301**

-0.049

2.264***

0.49***

0.601***

-0.015

1.92***

0.12

0.216**


-0.104

0.349

(2,65)

(2.81)

(0.33)

(7.71)

(6.63)

(4.26)

(-0.1)

(7.03)

(0.66)

(2.11)

(-0.45)

(0.74)

9590


2865

1121

381

4297

843

738

219

5293

20.22

383

162

0,2291

0.3001

0.1790

0.2660


0.198

0.074

0.222

0.248

0.403

0.500

0.179

0.294

Cuongdovon

Dtinh

Số quan sát
2

R

VII

VII


Doanh nghiệp tư nhân

Chú thích
1. Biến phụ thuộc là năng suất lao động, tính bằng giá trị gia tăng/số nhân cơng bình qn. Các biến được chuẩn hố tại giá trị trung bình của mẫu.
2. Giá trị trong ngoặc ở phía dưới mỗi dòng là giá trị kiểm định t, dựa trên sai số điều chỉnh cho phương sai không đồng đều.
3. Các dấu *. **, *** thể hiện mức độ ý nghĩa tương ứng 10%, 5% và 1%

19


Tuy nhiên, việc lý giải trên thực tế là rất phức tạp do đó tách bạch rạch rịi tác
động tràn qua từng kênh, vì vậy cùng khó có thể kết luận một cách chính xác về việc
khơng có tác động tràn trong DNNN. Chẳng hạn, tác động tràn tích cực có thể xuất
hiện ở kênh này, nhưng lại là tiêu cực qua kênh khác và cuối cùng là triệt tiêu lẫn
nhau, thể hiện qua kết quả ước lượng mơ hình trên.
2. Khả năng hấp thụ tác động tràn của doanh nghiệp trong nước
Nhiều nghiên cứu định lượng cho các nước đang phát triển, nhất là các nước
nghèo đã chỉ ra sự xuất hiện tác động tràn qua kênh tiếp thu cơng nghệ cịn phụ thuộc
vào khả năng hấp thụ của doanh nghiệp. Kokko (1993) lại cho thấy tác động tràn tỷ lệ
thuận với mức độ khác biệt về công nghệ. Tổng kết các nghiên cứu này cho thấy các
kết luận trái ngược nahu có thể là do phương pháp phân tích khác nhau, nhưng cũng
có thể do đặc điểm của ngành và của quốc gia được khảo sát. Mặc dù vậy hầu hết các
tác giả đều cho rằng việc xác định khả năng hấp thụ tác động tràn là khó khăn, nhưng
lại có ý nghĩa cho xây dựng chính sách.
Để kiểm định các giả thuyết trên đây cho trường hợp của Việt Nam, phần này
cũng tiến hành một số ước lượng sử dụng mẫu số liệu thống nhất như ở các phần trên.
Trong phạm vi số liệu cho phép, các ước lượng lần lượt được thực hiện cho các nhóm
doanh nghiệp phân theo chất lượng lao động (biểu thị cho khả năng hấp thụ công
nghệ), theo quy nô vốn, theo quy mơ lao động và theo vị trí địa lý. Từ đó có thể đưa
ra một số nhận xét về mối quan hệ giữa các yếu tố nêu trên với tác động tràn.

Về phương pháp luận khả năng hấp thụ tác động tràn được đánh giá bằng cách so
sánh ít nhất hai n nhóm doanh nghiệp có khả năng hấp thụ công nghệ khác nhau, ở
đây được thể hiện qua trình độ của lao động, đo bằng tỷ lệ lao động có chun mơn
tay nghề trên số lao động khơng có chun mơn tay nghề của doanh nghiệp. Chỉ số
này được sắp xếp theo thứ tự tăng dần, trong đó nhóm 25% số quan sát đầu tiên được
định nghĩa là có chất lượng lao động thấp và 25% số quan sát cuối cùng thể hiện mức
chất lượng cao. Vì vậy, khái niệm chất lượng cao và thấp về trình độ lao động trong
phần này mang tính tương đối giữa các quan sát với nhau trong mẫu số liệu.
Phân loại doanh nghiệp theo quy mô vốn và lao động phần lớn dựa vào tiêu thức
hiện nay của TCTK, nhưng được điều chỉnh nhằm tìm ra các điểm cắt hợp lý hơn cho
nghiên cứu dựa vào đường phân bổ của vốn và lao động.
Vai trị của vị trí địa lý đã được thể hiện qua biến Dtinh. Phần này sẽ xét tác động
của biến tytrong tới các nhóm doanh nghiệp trong và ngồi các đơ thị lớn bằng cách
thực hiện hai ước lượng khác nhau và so sánh.
Để so sánh với các phần trước, doanh nghiệp vẫn được chia thành hai nhóm,
nhóm DNNN và nhóm doanh nghiệp tư nhân. Theo như kết quả, dường như các
doanh nghiệp tư nhân quy mô nhỏ và vừa có khả năng hấp thụ tác động tràn tích cực
mạnh hơn các doanh nghiệp có quy mơ lớn xét cả tiêu thức vốn lẫn lao động (ước
21


lượng I - VIII). Điều này có thể là do khả năng thích nghi cao với mơi trường kinh
doanh thay đổi của các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ và vì vậy sự xuất hiện của
doanh nghiệp FDI trong cùng ngành không làm cho các doanh nghiệp này "rời bỏ thị
trường". Hơn nữa, dệt may là nhóm ngành sử dụng công nghệ nhiều lao động nên
cũng làm giảm sức ép công nghệạh tranh từ doanh nghiệp FDI do các doanh nghiệp
FDI khơng hồn tồn phát huy được lợi thế về vốn.
Rất đáng lưu ý là khả năng hấp thụ tác động tràn của doanh nghiệp tư nhân có vẻ
khơng phụ thuộc vào chất lượng của lao động (ước lượng IX - XI). Tuy nhiên, mức
độ hấp thụ vẫn mạnh hơn đối với doanh nghiệp có trình độ lao động cao hơn nói

chung và ở hai ngành dệt may và chế biến thực phẩm nói riêng. Điều này cũng có
nghĩa là nếu như tăng lao động có trình độ, các doanh nghiệp này sẽ thu được tác
động tràn nhiều hơn.
Các ước lượng từ XIII - XVI cho thấy các doanh nghiệp tư nhân ngồi các đơ thị
lớn và trung tâm cơng nghệ lại có khả năng đón nhận tác động tràn tích cực ở mức
cao hơn. Điều này có thể có nhiều lý do, nhưng ít ra các doanh nghiệp tư nhân ở ngồi
các đơ thị lớn và trung tâm cơng nghệ ít phải đối mặt trực tiếp với áp lực cạnh tranh từ
phía các doanh nghiệp FDI và DNNN cùng ngành. Hơn nữa, như đã phân tích ở trên,
hầu hết các doanh nghiệp tư nhân, nhất là trong ngành chế biến thực phẩm ra đời
muôn hơn các DNNN và thậm chí muộn hơn một số doanh nghiệp FDI trong ngành.
Tức là các doanh nghiệp này một mặt chấp nhận mơi trường hoạt động cạnh tranh,
nhưng mặt khác vẫn có thể cung cấp sản phẩm cho những khách hàng riêng ở các
vùng nghèo hơn mà doanh nghiệp FDI hoặc DNNN quy mơ lớn chưa quan tâm đến.
Nói cách khác, rất có thể có sự bổ sung cho nhau giữa các doanh nghiệp FDI và
doanh nghiệp tư nhân trong ba nhóm ngành trên dưới góc độ thị trường tiêu thụ và đối
tượng khách hàng. Một cách lý giải khác nhìn từ góc độ các doanh nghiệp FDI ở
ngồi vùng đơ thị lứon cho rằng các doanh nghiệp FDI này thường hoạt động trong
ngành đặc thù hoặc sản xuất dựa vào vùng nguyên liệu. Do vậy, sự cạnh tranh đối với
các doanh nghiệp trong nước cũng có thể giảm đi. Trong một số trường hợp, sự xuất
hiện của doanh nghiệp FDI còn tạo ra mối liên kết ngang giữa các doanh nghiệp trong
và ngồi nước và nhờ đó xuất hiện tác động tràn tích cực. Tuy nhiên, do định nghĩa
"ngồi vùng đơ thị" trong nghiên cứu này là quá rộng nên ở đây chưa thể lý giải được
hoàn toàn kết quả của mơ hình do thiếu các thơng tin cần thiết.
Về khả năng hấp thụ tác động này của nhóm DNNN, có nếu xét ở mặt bằng
chung, tác động tràn không xuất hiện ở các DNNN như đã phân tích ở trên. Tuy
nhiên, thông qua phân loại DNNN theo quy mô, tác động tràn tích cực đã xuất hiện ở
nhóm DNNN có quy mơ vừa nếu xét tiêu chí vốn và ở nhóm DNNN có quy mơ nhỏ
nếu xét tiêu chí lao động. Mức độ tác động tuy nhiên rất yếu so với các doanh nghiệp
tư nhân cùng quy mô (vốn hoặc lao động) và chỉ được kiểm định ở mức ý nghĩa 10%.
Tức là, ở mức ý nghĩa 1% và 5%, tác động tràn có thể khơng xẩy ra. Kết quả này

khẳng định lại các doanh nghiệp có quy mơ vừa và nhỏ nói chung và cso khả năng
22


×