Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Tài liệu luận văn tốt nghiệp "Thực hiện kĩ thuật điều chế đa tần rời rạc DMT cho công nghệ đường dây thuê bao số bất đối xứng ADSL" doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.6 MB, 93 trang )

Thực hiện kĩ thuật điều chế đa tần rời rạc DMT cho công nghệ đường dây thuê bao số
bất đối xứng ADSL.
Mục lục
Mục lục 1
Lời nói đầu 2
Chương I: Tổng quan về công nghệ đường dây thuê bao số xDSL 4
1. Sự ra đời của đường dây thuê bao số xDSL 4
2. So sánh công nghệ DSL với một số công nghệ truyến dẫn tốc độ cao khác .7
2.1. So sánh DSL với phương pháp truy nhập quang 7
2.2. So sánh DSL với Cáp đồng trục 8
2.3. So sánh DSL với truyền dẫn không dây 9
2.3.1. Vô tuyến mặt đất 9
2.3.2. Các dịch vụ vệ tinh 9
3. Mô hình tổng quát của một hệ thống DSL 10
4. Kết luận 11
5. Ứng dụng của DSL trên thế giới và tại Việt nam 11
Chương II: Mạch vòng thuê bao và vấn đề nhiễu 14
1. Sự hình thành một mạch vòng thuê bao 14
2. Đôi dây xoắn 15
2.1. Tín hiệu mode chung và tín hiệu vi sai 16
2.2. Cân bằng 16
2.3. Cầu rẽ 16
3. Nhiễu trên mạch vòng thuê bao 17
3.1. Xuyên âm 17
3.1.1. Các loại xuyên âm 17
3.1.1.1. Xuyên âm đầu gần (NEXT)
3.1.1.1.1. NEXT suy giảm và NEXT được khuếch đại
3.1.1.1.2. Tự xuyên âm đầu gần (sefl-NEXT)
3.1.1.2. Xuyên âm đầu xa (FEXT)
3.1.1.2.1. FEXT đồng mức (EL-FEXT)
3.1.1.2.2. FEXT không đồng mức (Unequal Lever-FEXT)


3.1.2. Các kết quả thống kê về xuyên âm
3.1.2.1. 1% trường hợp xấu nhất của NEXT
3.1.2.2. 1% trường hợp xấu nhất của FEXT
3.2. Nhiễu tần số Radio.
3.3. Nhiễu xung
4. Các phương pháp song công
4.1. Song công 4 dây
4.2. Song công triệt tiếng vọng
4.3. Song công phân chia theo tần số
4.4. Song công phân chia theo thời gian
4.5. Các phương pháp song công hỗn hợp
Chương III: Công nghệ đường dây thuê bao số bất đối xứng ADSL và lí thuyết
đa tần rời rạc
I - Tổng quan về công nghệ đường dây thuê bao số bất đối xứng ADSL
1. Mô hình tổng quát và nguyên lí hoạt động của ADSL
2. Điều chế tín hiệu trong ADSL
SV: Cù Thị Hạnh - Lớp ĐT2 – CĐ1A
1
Thực hiện kĩ thuật điều chế đa tần rời rạc DMT cho công nghệ đường dây thuê bao số
bất đối xứng ADSL.
3. Song công và sử dụng tần số
3.1. Song công phân chia theo tần số
3.2. Song công triệt tiếng vọng
4. ADSL Lite
5. Truyền tải qua ADSL
6. Các ưu và nhược điểm của ADSL
6.1. Các ưu điểm của ADSL
6.2. Các nhược điểm của ADSL
II – Các phương pháp điều chế
1. Điều chế đa tần rời rạc

1.1. Điều chế đa sóng mang
1.2. Điều chế QAM
2. Điều chế đa tần rời rạc (DMT)
2.1. Nguyên lí của điều chế đa tần rời rạc
2.2. DMT và DFT
2.3. Hệ thống DMT và các tham số của nó
2.3.1. Kênh truyền và ảnh hưởng của kênh truyền
2.3.2. Hệ thống đơn sóng mang
2.3.3. Xấp xỉ QAM vuông
2.3.4. Phân tích đa sóng mang
2.3.4.1. Các giả thiết
2.3.4.2. Tính tốc độ hoặc độ dự phòng
2.3.4.3. Tổng kết các bước tính toán hoạt động của một hệ thống
DMT
2.3.5. DMT với khối chiều dài hữu hạn
2.3.6. Phân chia tải bit (Bit Loading)
2.3.6.1. Các thuật toán tải bit
2.3.6.2. Thuật toán tối ưu “rót nước”
2.3.7. Cân bằng cho DMT
2.4. Sơ đồ tổng thể một hệ thống DMT
2.4.1. Máy phát DMT
2.4.2. Máy thu DMT
3. Mã sửa lỗi Reed – Solomon
3.1. Giới thiệu về mã Reed – Solomon
3.2. Các đặc điểm của mã RS
3.2.1. Cấu tạo mã RS
3.2.1.1. Đa thức trường
3.2.1.2. Đa thức sinh
3.2.2. Khả năng sửa sai của mã RS
3.2.3. Tăng ích điều chế (coding gain) củ

a mã RS
3.3. Mã hóa và giải mã các mã RS
3.3.1.Mã hóa RS và kiến trúc bộ mã hóa RS
3.3.2. Giải mã RS và kiến trúc bộ mã RS
Chương IV: Kiến trúc ADSL ứng dụng kĩ thuật điều chế đa tần rời rạc DMT
1. Mô hình tham chiếu của hệ thống ADSL
2. Sơ đồ máy thu phát ADSL
SV: Cù Thị Hạnh - Lớp ĐT2 – CĐ1A
2
Thực hiện kĩ thuật điều chế đa tần rời rạc DMT cho công nghệ đường dây thuê bao số
bất đối xứng ADSL.
3. Cấu trúc kênh thông tin trong ADSL
4. Mào đầu ADSL
4.1. Kênh EOC
4.2. Kênh AOC và Bit swapping
4.3. Các bit chỉ thị (indicator bits)
5. Vấn đê chuẩn định thời mạng (NTR)
5.1. Sự cần thiết của chuẩn định thời mạng
5.2. Việc truyền NTR
5.3. Khôi phục định thời
6. Chi tiết các khối
6.1. Máy phát
6.1.1. Tạo khung
6.1.2. Tạo mã kiểm tra CRC
6.1.3. Ngẫu nhiên hóa (Scrambler)
6.1.4. Mã sữa lỗi tiến FEC (mã hoá Reed-Solomon)
6.1.5. Cài xen (Interleaving)
6.1.6. Âm chuẩn (Pilot Tone)
6.1.7. Sắp xếp tone (tone ordering) và mã hoá chòm sao
6.1.7.1. Tone ordering

6.1.7.2. Mã hoá chòm sao
6.1.8. Điều chế DMT (IFFT)
6.1.9. Thêm Cyclic Prefix
6.1.10. Biến đổi số
- tương tự và xử lí tín hiệu tương tự
6.2. Máy thu
6.2.1. Biến đổi tương tự - số
6.2.2. Cân bằng miền thời gian (TEQ)
6.2.3. Giải điều chế DMT và cân bằng miền tần số (FEQ)
6.2.4. Giải mã chòm sao và tách bit
6.2.5. Giải cài xen
6.2.6. Giải mã sửa lỗi tiến và giải ngẫu nhiên hoá
6.2.7. Giải mã CRC và phân khung (deframe)
7. Khởi tạo kết nối truyền thông
7.1. Kích hoạt và xác nhận
7.2. Huấn luyện bộ thu phát
7.3. Phân tích kênh truyền
7.4. Trao đổi
Phụ lục A: Các thuật ngữ và từ viết tắt
Phụ lục B: Các tổ chức, các khuyến nghị và các chuẩn về xDSL
Phụ lục C: Tài liệu tham khảo







SV: Cù Thị Hạnh - Lớp ĐT2 – CĐ1A
3

Thực hiện kĩ thuật điều chế đa tần rời rạc DMT cho công nghệ đường dây thuê bao số
bất đối xứng ADSL.
Lời mở đầu
Cách đây hơn một trăm năm, loài người đã chứng kiến sự ra đời của chiếc
máy điện thoại đầu tiên trên thế giới. Từ đó đến nay, điện thoại luôn đóng một vị trí
quan trọng trong cuộc sống của con người và ngày càng trở thành một phương tiện
không thể thiếu được trong mỗi gia đình. Theo dự báo của tổng công ty Bưu chính
Viễn thông Việt nam, số máy điện thoại của Việt nam năm 2000 đến năm 2010 sẽ
đạt bình quân từ 20 đến 22 máy trên 100 dân. Ngoài mục đích đàm thoại, đã từ lâu
đường dây điện thoại được sử dụng cho mục đích truyền số liệu, nhất là từ khi
Internet ra đời thì việc truy cập Internet bằng Modem thoại ngày càng phổ biến.
Ban đầu, người ta chỉ có nhu cầu truyền và nhận thông tin dưới dạng những kí tự
hay hình ảnh tĩnh nên tốc độ của những Modem băng thoại dường như đã đáp ứng
đủ. Thế nhưng, trong những năm gần đây khi mà Internet trở thành một mạng toàn
cầu với số lượng thông tin khổng lồ, những dịch vụ hấp dẫn với âm thanh và hình
ảnh sống động, đòi hỏi thời gian thực thì những Modem băng thoại không còn đủ
khả năng truyền tải nữa bởi băng thông cho những dịch vụ đó quá lớn lên đến hàng
chục, hàng trăm Mbps trong khi Modem thoại chỉ truyền tối đa vài chục Kbps. Hơn
thế nữa, trong thời kì này các dịch vụ băng rộng phi thoại như đào tạo từ xa, truyền
hình theo yêu cầu… cũng bắt đầu phát triển mạnh dẫn đến nhu cầu của mạng truy
nhập thuê bao ngày càng tăng. Trong khi việc cáp quang hoá hoàn toàn chưa thực
hiện được vì chi phí khá cao mà những đối tượng như gia đình hay văn phòng nhỏ
khó có thể đáp ứng được nên việc tồn tại song song cả cáp quang và cáp đồng là
điều tất yếu. Thực tế này thúc đẩy các nhà nghiên cứu Viễn thông phải nhanh
chóng tìm ra một giải pháp hiệu quả để cung cấp các dịch vụ băng rộng tới khách
hang. Trong số các giải pháp được đưa ra, công nghệ đường dây thuê bao số xDSL
(Digtal Subscriber Line) nổi bật tính khả thi hơn cả. Công nghệ xDSL không những
đáp ứng được yêu cầu truyền số liệu một cách nhanh chóng đáp ứng nhu cầu ngày
càng đa dạng của khách hàng mà nó còn không đòi hỏi vốn đầu tư ban đầu lớn do
tận dụng cơ sở hạ tầng sẵn có của mạng điện thoại truyền thống.

Mặc dù đã phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây trên thế giới nhưng
ở Việt nam xDSL còn khá mới mẻ. Tuy nhiên, trong tương lai không xa chắc chắn
xDSL và đặc biệt là sự phát triển của ADSL trên cơ sở kĩ thuật điều chế đa tần rời
rạc DMT đã được chuẩn hoá sẽ có một ví trí quan trọng trong thị trường Viễn thông
Việt nam. Qua quá trình tìm hiểu với những kiến thức ban đầu về công nghệ xDSL,
em đã chọn đề tài cho đồ án tốt nghiệp của mình là “Thực hiện kĩ thuật điều chế đa
tần rời rạc DMT với công nghệ ADSL”

Đồ án được chia làm 4 chương:

Chương I: Tổng quan về công nghệ đường dây thuê bao số xDSL.
Trong chương này sẽ trình bày sự ra đời của công nghệ và triển vọng của nó.

Chương II: Mạch vòng thuê bao và vấn đề nhiễu.
Trong chương này sẽ trình bày sẽ trình bày một mạch vòng thuê bao và vấn đề
nhiễu trên mạch vòng thuê bao.

SV: Cù Thị Hạnh - Lớp ĐT2 – CĐ1A
4
Thực hiện kĩ thuật điều chế đa tần rời rạc DMT cho công nghệ đường dây thuê bao số
bất đối xứng ADSL.
Chương III: Công nghệ đường dây thuê bao số bất đối xứng ADSL và lí thuyết đa
tần rời rạc AMT.
Trong chương này sẽ trình bày tổng quan về hệ thống ADSL và phương pháp xử lí
tín hiệu DMT trong ADSL.

Chương IV: Kiến trúc ADSL dùng kĩ thuật điều chế đa tần rời rạc DMT.
Chương này sẽ trình bày sơ đồ máy thu phát ADSL và cấu trúc khung thông tin
ADSL và các vấn đề khác có liên quan.
Mặc dù đã hết sức cố gắng nhưng do hạn chế về mặt thời gian cũng như về

trình độ nên đồ án của em chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, em rất
mong nhận được sự phê bình, hướng dẫn và giúp đỡ của thầy cô và các bạn.
Cuối cùng, em xin bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc tới cô Nguyễn Thuý Anh – giáo
viên đã tận tình hướng,dẫn chỉ bảo, cung cấp tài liệu cho em trong suốt thời gian
thực hiện. Em xin cảm ơn thầy Nguyễn Hữu Trung - người đã tận tình giúp đỡ em
trong quá trình thực hiện đồ án này. Em cũng xin được cảm ơn sự giúp đỡ của các
thầy cô khác trong khoa Điện tử - Viễn thông, trường đại học Bách Khoa Hà nội.









Hà nội, tháng 5 năm 2005
Sinh Viên: Cù Thị Hạnh

















SV: Cù Thị Hạnh - Lớp ĐT2 – CĐ1A
5
Thực hiện kĩ thuật điều chế đa tần rời rạc DMT cho công nghệ đường dây thuê bao số
bất đối xứng ADSL.
Chương I:
Tổn
g
quan v

côn
g
n
g
hệ
đường dây thuê bao số xDSL.

1. Sự ra đời của đường dây thuê bao số xDSL.
xDSL, viết tắt của cụm từ Digital Subscriber Line (đường dây thuê bao số)
trong đó chữ “x” thể hiện các kĩ thuật khác nhau, là thuật ngữ để chỉ công nghệ
truyền số liệu tốc độ cao đi và đến trên đôi dây điện thoại truyền thống.
Như ta biết, đường dây điện thoại từ tổng đài đến mỗi thuê bao thường là
một đôi dây đồng, hai sợi trong một đôi dây được xoắn lấy nhau tạo nên một đôi
dây xoắn. Với dịch vụ điện thoại thông thường người ta chỉ lấy khoảng tần số từ 0,3
đến 3,4 Khz của tiếng nói và truyền tín hiệu trong khoảng tần số đó trên mạch vòng
thuê bao. Trong khi đó, bản chất của sợi dây đồng có khả năng truyền tải các tần số
lớn hơn rất nhiều. Nghĩa là, còn một khoảng băng thông rất lớn của đường dây thuê

bao điện thoại tương tự chưa được sử dụng. Công nghệ DSL ra đời chính là để khai
thác khoảng băng thông đó. Sự ra đời của DSL đã tạo ra một bước ngoặt cho việc
sử dụng đường dây điện thoại. Các nhà giả kim đã phải thốt lên rằng DSL đã biến
đồng thành vàng.
Tùy thuộc vào độ dài của các mạch vòng, các công nghệ DSL có thể cung
cấp băng thông từ 128Kbps đến 52Mbps. Băng thông của các công nghệ DSL có
thể là đối xứng (Symmetric) hoặc bất đối xứng (Asymmetric). Các công nghệ DSL
đối xứng cung cấp băng thông bằng nhau cho cả hai hướng: hướng lên (Upstream)
là hướng từ khách hàng đến mạng và hướng xuống (Downstream) là hướng từ
mạng đến khách hàng trong khi các công nghệ DSL bất đối xứng cung cấp băng
thông không bằng nhau cho mỗi hướng (thông thường hướng xuống có băng thông
cao hơn hướng lên). DSL bất đối xứng rất thích hợp cho những ứng dụng mà các
thuê bao có nhu cầu nhận dữ liệu nhiều hơn là gửi dữ liệu như truy cập Internet hay
truyền hình theo yêu cầu (Video On Demand)

Họ xDSL có những thành viên sau đây:

IDSL-ISDN DSL: DSL đa dịch vụ.
Ngay từ đầu những năm 1980, ý tưởng về một đường dây thuê bao số cho
phép truy nhập mạng số đa dịch vụ (ISDN) đã hình thành. DSL cho phép sử dụng
tốc độ 144 Kbps của mạch vòng 2B+D ở cả hai chiều. Trong ISDN, một đầu đấu
nối tới tổng đài trung tâm bằng một kết cuối đường dây LT (Line Termination), đầu
kia nối tới tổng đài trung tâm bằng một kết cuối mạng NT (Network Termination).
Để cho phép truyền song công người ta sử dụng kĩ thuật khử tiếng vọng. ISDL có
thể đáp ứng được các dịch vụ như: Hội nghị truyền hình, đường dây thuê riêng
(Leased Line), các hoạt động thương mại như truy cập Internet…

HDSL-High bit Rate DSL: DSL tốc độ bit cao.
Truyền song công sử dụng kĩ thuật mã hoá 2B1Q có khử tiếng vọng. Đây là
loại DSL đối xứng, cung cấp tốc độ đường truyền tương đương với đường T1 hoặc

SV: Cù Thị Hạnh - Lớp ĐT2 – CĐ1A
6
Thực hiện kĩ thuật điều chế đa tần rời rạc DMT cho công nghệ đường dây thuê bao số
bất đối xứng ADSL.
E1. Đây là loại DSL đối xứng, cung cấp tốc độ đường truyền tương đương với
đường T1 hoặc E1 (1,536 Mbps, sử dụng hai đôi dây và 2,048Mbps sử dụng 2 hoặc
3 đôi dây). Mục đích chính của HDSL là để thay thế các đường T1 và E1. Tuy
nhiên, loại này đòi hỏi đường dây riêng, không sử dụng chung đường dây với
đường dây điện thoại. HDSL có tầm hoạt động tối đa không có trạm lặp là 1200
feet. HDSL- 2 là một phiên bản của HDSL được các cơ quan tiêu chuẩn thông qua
năm 1999, có tốc độ giống như HDSL nhưng chỉ cần một đôi dây.
Các ứng dụng của HDSL:
- Với tốc độ truyền 2 Mbit/s, HDSL có thể sử dụng để kết nối các tổng đài.
HDSL cung cấp các giao diện kết nối G703 hoặc G704 sử dụng cáp 0,5 mm trên
khoảng cách dài hơn. HDSL cho thấy đây là một giải pháp kết nối sử dụng cáp
đồng truyền luồng 2Mbit/s với giá tương đối rẻ so với cáp quang, dễ lắp đặt và tin
cậy. Một khi các mạng PABX phát triển mạnh với các nhu cầu về truyền dữ liệu và
kết nối tăng lên, HDSL sẽ là giải pháp rất tốt để kết nối.
- Các dịch vụ truy nhập chung.
- Lắp đặt các PABX đầu xa.
- Hội nghị truyền hình.
- Các dịch vụ đường dây thuê riêng (nx64 Kbit/s đến 2048 Kbit/s).
- Các dịch vụ truyền số liệu: phần lớn các sản phẩm HDSL cung cấp giao
diện V35/V36/X21. Ngoài ra các giao diện n x 64 Kbit/s tạo ra khả năng cung cấp
mềm dẻo cho các dịch vụ truyền số liệu. HDSL cũng có khả năng sử dụng để kết
nối các mạng máy tính LAN-LAN, truyền các dịch vụ ISDN, truyền các dịch vụ hội
thoại Video
MSDSL - Multirate Symmetric DSL: DSL đối xứng đa tốc độ.
Là loại DSL có tốc độ dữ liệu ở hai chiều bằng nhau và có thể cung cấp
nhiều mức tốc độ khác nhau do nhà cung cấp dịch vụ qui định.

RADSL - Rate Adaptive DSL: DSL tốc độ thích nghi.
RADSL thừa hưởng ưu điểm của mã hoá Discrete Multitone (DMT) của
công nghệ ADSL để cung cấp băng thông tối đa trên các mạch vòng khác nhau.
Tùy theo từng điều kiện chiều dài và chất lượng dây, RADSL sẽ cho phép modem
tự động điều chỉnh băng thông cho thích hợp trên cả hai hướng.
SDSL - Symmetric DSL: DSL đối xứng.
Là các hệ thống chưa được chuẩn hoá, truyền song công trên một đôi dây.
Tốc độ đạt được dưới 1,536 Mbps. SDSL thích hợp cho các ứng dụng hội nghị
truyền hình hoặc truy nhập vào các mạng LAN từ xa.
ADSL - Asymmetric DSL: DSL bất đối xứng.
Gọi là bất đối xứng vì tốc độ tải xuống thuê bao lớn hơn tốc độ tải lên.
Chuẩn ANSI T1.413 định nghĩa một hệ thống ADSL có tốc độ hướng xuống
(downstream) và hướng lên (upstream) lần lượt là 8 và 0,64 Mbps trong vòng bán
kính 12kft từ CO (gọi là vùng phục vụ: CSA) và tốc độ 1,544 và 0,176 Mbps trong
phạm vi bán kính 18kft (gọi là vùng phục vụ mở rộng: ECSA). Khuyến nghị
G.992.1 của ITU định nghĩa một hệ thống dựa trên phần xương sống là T1.413
nhưng mở rộng thông qua 3 phụ lục để thoả mãn nhu cầu của từng vùng riêng biệt.
G.992.2 định nghĩa một hệ thống đơn giản hơn với nhiều tốc độ hơn so với
G.992.1, được gọi là ADSL.Lite. ADSL.Lite là loại ADSL không có bộ tách tín
SV: Cù Thị Hạnh - Lớp ĐT2 – CĐ1A
7
Thực hiện kĩ thuật điều chế đa tần rời rạc DMT cho công nghệ đường dây thuê bao số
bất đối xứng ADSL.
hiệu thoại với tín hiệu số liệu ở phía khách hàng. Yếu điểm chủ yếu của ADSL.Lite
là tốc độ dữ liệu có thể giảm do các nguồn nhiễu.
Các ứng dụng của ADSL:
- Các dịch vụ truy nhập Internet tốc độ cao. ADSL rất phù hợp với Internet
vì đa phần người sử dụng đều xem và tải xuống dữ liệu nhiều hơn là tải lên.
- Truyền hình theo yêu cầu (Video on Demand).
- Đào tạo từ xa.

- Âm nhạc chất lượng cao theo yêu cầu.
VDSL - Very high bit-rate DSL: DSL có tốc độ bit rất cao.
Là loại DSL không đối xứng, có tốc độ rất cao (tốc độ gửi dữ liệu lên tối đa
có thể đạt 16Mbps, tốc độ tải xuống tối đa là 52Mbps). Tuy nhiên, cự li làm việc
của loại này ngắn. VDSL được xem như là một công nghệ cuối cùng của DSL, nó
khai thác khả năng băng thông tối đa có thể đạt được trên Local Loop. VDSL được
sử dụng chủ yếu trong các hệ thống lai cáp quang - cáp đồng để kết nối các đơn vị
mạng quang (ONUs) tới thiết bị của thuê bao. Trong các hệ thống sợi quang đến
tổng đài (FTTE - Fiber To The Exchange) thì các ONU là các CO và chúng ta gọi
các bộ thu phát VDSL là các VTU-C. Trong các hệ thống khác như cáp quang tới
khu dân cư (FTTN: Fiber To The Neighborhood), cáp quang tới vỉa hè (FTTC:
Fiber To The Curb) và cáp quang tới tòa nhà (FTTB: Fiber To The Building) thì
các ONU sẽ nằm ngoài các CO. Điểm khác biệt duy nhất giữa các hệ thống này là
độ dài của mạch vòng từ ONU đến thiết bị của thuê bao: đạt đến 6kft với các hệ
thống FTTN và 1,5kft đối với các hệ thống FTTB. Chúng ta gọi chung các hệ thống
này là FTTC (Fiber To The Cabinet) và gọi các máy thu phát là các VTU-O. Cự ly
của VDSL từ 1 đến 6 kft, phụ thuộc vào vị trí của ONU và tổng tốc độ bit của
hướng lên và hướng xuống thay đổi từ khoảng 4,6 đến 58 Mbps.
Các ứng dụng của VDSL:
- Truyền hình theo yêu cầu (Video on Demand).
- Hội thoại, hội nghị video.
- Truy nhập Internet tốc độ cao
- Các dịch vụ điện thoại bình thường
Trong các công nghệ DSL trên đây thì hiện nay được sử dụng rộng rãi nhất
là ADSL bởi vì nó rất phù hợp với nhu cầu sử dụng Internet đang bùng nổ, không
đòi hỏi đường dây riêng và cho phép sử dụng điện thoại bình thường trong khi đang
kết nối Internet. Hơn nữa, đầu tư cho ADSL tương đối rẻ. Một công nghệ nữa cũng
đang rất có triển vọng là VDSL, công nghệ này phát triển cùng với sự phát triển của
các mạng cáp quang lai cáp đồng với khả năng cung cấp tốc độ đường truyền rất
lớn.

Có thể tóm tắt những đặc điểm của các công nghệ DSL nêu trên trong bảng sau:




SV: Cù Thị Hạnh - Lớp ĐT2 – CĐ1A
8
Thực hiện kĩ thuật điều chế đa tần rời rạc DMT cho công nghệ đường dây thuê bao số
bất đối xứng ADSL.
Bảng1.1: Các công nghệ DSL.
Loại
DSL
Chế độ
truyền
Tốc độ gửi
tối đa
(Mbps)
Tốc độ
nhận tối
đa (Mbps)
Khoảng
cách tối
đa (m)
Số đôi
dây yêu
cầu

Hỗ trợ
điện
thoại

HDSL
Đối xứng 1,54 hoặc 2 1,54 hoặc 2 3.650 2 Không
IDSL
Đối xứng 0,144 0,144 10.700 1 Không
MSDSL
Đối xứng 2 2 8.800 1 Có
SDSL
Đối xứng 2,3 2,3 6.700 1 Không
RADSL
Bất đối xứng 1 7 5.500 1 Không
ADSL
Bất đối xứng 0,64 8 5.500 1 Có
VDSL
Bất đối xứng 15 52 1.200 1 Có

2. So sánh công nghệ DSL với một số công nghệ truyền dẫn tốc độ cao khác.
DSL cho phép truyền các tín hiệu trên băng thông rộng đến khách hàng bằng
đôi dây xoắn đang tồn tại. Các phương thức cạnh tranh khác trong việc đưa tín hiệu
đến khách hàng rất đa dạng, nhưng thường yêu cầu cài đặt các phương tiện mới
hoặc dành riêng băng thông.
Sau đây chúng ta mô tả ngắn gọn về các điểm mạnh cũng như điểm yếu của
các phương tiện truyền dẫn khác với DSL:
2.1. So sánh DSL với phương pháp truy nhập quang
ư
Xu hướng phát triển của Việt Nam cũng nh
của nhiều nước trên thế giới là
sẽ mở rộng các dịch vụ băng hẹp sang băng rộng song song với việc phát triển
mạng điện thoại hiện nay. Mạng truy nhập quang có thể đảm nhiệm hết các dịch vụ
băng rộng và tốc độ cao, cũng như tạo ra các đường truyền dung lượng lớn. Khi so
sánh với mạng cáp đồng thì mạng cáp quang có rất nhiều ưu điểm như:

- Tốc độ rất cao: tốc độ của cáp quang đối với một khách hàng có thể đạt từ
600 Mbit/s đến 2,4 Gbit/s.
- Khoảng cách truyền dẫn lớn hơn.
- Không bị ảnh hưởng của nhiễu điện từ.
- Tính bảo mật cao.
ượng nhỏ (cáp).
- Kích thước và khối l
- Dễ dàng song công vì các xung ánh sáng di chuyển theo các hướng khác nhau
không xâm lấn nhau.
Mặc dù có những ưu điểm nổi trội như vậy nhưng việc thay thế mạng hiện
tại bằng một mạng quang băng rộng sẽ rất khó có thể thực hiện được ngay do chi
phí rất lớn. Hơn nữa, do tuổi thọ của cáp đồng rất cao nên nếu thay thế ngay bằng
cáp quang sẽ dẫn đến tình trạng cáp đồng không được sử dụng nữa nên không sinh
ra lợi nhuận, doanh thu đổ dồn vào mạng cáp quang làm cho việc khấu hao của toàn
mạng tăng lên. Để có thể tiến tới cáp quang hóa hoàn toàn, đạt hiệu quả kinh tế,
chúng ta cần tiến hành cáp quang hóa từng phần, được phân loại theo mạng truy
nhập FTTx:
- FTTB (Fiber To The Building): Một phần cáp quang chạy từ tổng đài đến
chân tòa nhà sau đó cáp đồng sẽ nối tới văn phòng hoặc phòng riêng.
- FTTC (Fiber To The Curb): Phần cáp quang chạy từ tổng đài tới cách nhà
thuê bao vài trăm met sau đó cáp đồng sẽ nối tới nhà thuê bao.
SV: Cù Thị Hạnh - Lớp ĐT2 – CĐ1A
9
Thực hiện kĩ thuật điều chế đa tần rời rạc DMT cho công nghệ đường dây thuê bao số
bất đối xứng ADSL.
- FTTH (Fiber To The Home) : cáp quang chạy thẳng đến nhà thuê bao.
Trong các bước chuyển dần sang mạng toàn quang thì trong các cấu hình trên sẽ
phải sử dụng một phần cáp đồng để chuyển tải thông tin đến tận thuê bao và giảm
chi phí mạng. xDSL hoàn toàn có thể cung cấp giải pháp truy nhập cho các dịch vụ
tốc độ cao t

ừ khối ONU đến thuê bao. Như vậy xDSL là giải pháp trung gian hữu
hiệu để cung cấp dịch vụ tốc độ cao tới khách hàng trước khi có thể quang hóa
mạng truy nhập.
2.2. So sánh DSL với cáp đồng trục
Các nhà cung cấp dịch vụ có thể cung cấp dịch vụ như của DSL trên các
mạng cáp truyền hình (cáp đồng trục). Tuy nhiên, trung bình khoảng 90% số cáp
lắp đặt hiện nay là một chiều. Các công ty cáp đang nâng cấp thành cáp hai chiều
tại những nơi ưu tiên. Vì chi phí cho việc nâng cấp này đắt, do vậy tỷ lệ của cáp
đồng trục hai chiều đang tăng một cách chậm chạp.
Theo sau FTTH là các mạng cáp quang ghép HFC (Hybrid Fiber Coaxial).
Người ta cho rằng HFC có thể được triển khai một cách kinh tế hơn là DSL và có
băng thông lớn hơn. HFC là loại mạng quang thụ động (PON), cung cấp các băng
thông lớn đến các điểm phân tán, và sau đó cáp đồng trục được triển khai đến mạch
vòng tới một vài khách hàng. Cáp đồng trục có băng tần từ 500 MHz đến 1000
MHz, theo lý thuyết giới hạn đến 10 Gbit/s hoặc lớn hơn, chia sẻ cho từ vài trăm
đến vài nghìn khách hàng trong những vùng mà cáp được triển khai. HFC đã cung
cấp các dịch vụ hai chiều. Khi chuyển sang dịch vụ hai chiều, các modem cáp hoạt
động bằng việc chuyển thông tin theo hướng đến ở tốc độ từ 384 Kbit/s đến 2
Mbit/s trong hệ thống cáp tại tần số trên 350 MHz đến 500 MHz, phụ thuộc vào
người điều khiển. Cáp đồng trục phải được khuếch đại tại các tần số này để truyền
dẫn có kết quả tốt. Băng tần chiều đi bị hạn chế trong khoảng 5 và 40 MHz.
Trong cuộc cạnh tranh giữa DSL của các công ty điện thoại và cáp đồng trục
thì lợi điểm công nghệ của công ty điện thoại là khả năng sử dụng cáp đồng hiện
có, do vậy tránh chi phí cho việc xây dựng lại cấu trúc. Mỗi khách hàng cũng có
đường truyền dẫn cá nhân và độ an toàn bảo mật cao hơn là chia sẻ trên cùng
phương tiện cáp đồng trục. Tuy nhiên, trong tương lai không xa cáp đồng trục sẽ
được cải tiến và trở thành một đối thủ tương xứng của DSL.
2.3. So sánh DSL với truyền dẫn không dây.
2.3.1. Vô tuyến mặt đất
Trong những năm gần đây, điện thoại đi động đã có sự bùng nổ về thuê bao

trên toàn thế giới. Trong khi dịch vụ vô tuyến số ngày nay sử dụng băng tần hẹp
(thông thường mỗi khách hàng sử dụng khoảng 8 Kbit/s), đang nổi lên các mạng vô
tuyến thế hệ 3 (3G) có khả năng cung cấp đường truyền đến 1 Mbit/s cho các khách
hàng sẵn sàng trả tiền cho dịch vụ này. Các dịch vô tuyến số này sẽ có khả năng
cung cấp tất cả các dịch vụ như DSL. Người ta tin tưởng rằng truy nhập vô tuyến sẽ
có được vị trí đáng kể trong thị trường dịch vụ truyền dữ liệu. Tuy nhiên, đằng sau
tất cả những sự sôi động đó là một vài vấn đề kỹ thuật cơ bản cần phải được giải
quyết. Đó là:
- Triển khai antenna.
- Không đủ băng thông.
- Độ tin cậy.
SV: Cù Thị Hạnh - Lớp ĐT2 – CĐ1A
10
Thực hiện kĩ thuật điều chế đa tần rời rạc DMT cho công nghệ đường dây thuê bao số
bất đối xứng ADSL.
Các vấn đề này ở một mức độ nào đó có liên quan với nhau. Việc triển khai
anten có thể được sử dụng để giải quyết các vấn đề về độ tin cậy và không đủ băng
thông, nhưng làm được việc này đòi hỏi phải có chi phí cao. Ngày nay, các vấn đề
về sự khan hiếm băng thông đã được giảm nhẹ thông qua việc sử dụng cấu trúc tế
bào trong vùng địa lý. Càng nhiều tế bào nhỏ thì băng thông được tái sử dụng càng
nhiều - điều quan trọng là phải tận dụng được sự dung hoà giữa băng thông và
khoảng không. Cho đến nay, kết nối vô tuyến vẫn được coi là có độ tin cậy và độ
an toàn không cao, tuy nhiên nó chủ yếu được sử dụng để cung cấp dịch vụ điện
thoại.
2.3.2. Các dịch vụ vệ tinh
Thông tin đại chúng vô tuyến vệ tinh số đang được xem là phát triển nhanh
hơn bất kỳ một dịch vụ truyền thông nào, với hàng triệu thuê bao chỉ trong vòng vài
năm cung cấp dịch vụ và một lượng lớn khách hàng đang tiếp tục đăng ký sử dụng.
Thông tin đại chúng vô tuyến giải trí sẽ thống trị bằng việc cung cấp dịch vụ qua
vệ tinh sẽ bắt đầu vào thế kỷ tới. Để tồn tại, các dịch vụ DSL, cáp quang hoặc mạng

mạch vòng vô tuyến cần cách biệt với vệ tinh.

Ngoài các công nghệ trên, trong thời gian gần đây cũng có một công nghệ
truyền thông tốc độ cao khác đang thu hút đ
ược sự chú ý đó là truyền dẫn tốc độ
cao qua đường dây điện (po
werline). Công nghệ này cho phép truyền tín hiệu với
tốc độ cao hơn nhiều loại DSL, tốc độ đường lên có thể đạt 27Mbps và đường
xuống là 18Mbps. Tuy nhiên, công nghệ này cũng mới chỉ ở giai đoạn khởi đầu và
nhược điểm của nó là cần có nhiều trạm lặp trên đường truyền.






Bảng 1.2: So sánh các công nghệ truy nhập nêu trên
Công nghệ Ưu điểm Nhược điểm
DSL sử dụng đôi
dây đồng
Hàng tỉ mạch vòng thuê bao sẵn

Khoảng cách bị hạn chế
Cáp đồng trục Băng thông cao Số lượng đường (lines) bị
hạn chế
Không dây Không cần đi cáp Băng thông hạn chế
Cáp quang Băng thông không giới hạn Cần đi cáp
Đường dây điện Cơ sở hạ tầng dây điện sẵn có Công nghệ chưa phát triển
SV: Cù Thị Hạnh - Lớp ĐT2 – CĐ1A
11

Thực hiện kĩ thuật điều chế đa tần rời rạc DMT cho công nghệ đường dây thuê bao số
bất đối xứng ADSL.

Hình 1.1: Lịch sử phát triển của một số phương pháp truy nhập số
3. Mô hình tổng quát một hệ thống DSL


Hình 1.2: Mô hình tổng quát của một hệ thống DSL
Trong mô hình trên:
- Kết cuối đường dây (LT) là Modem DSL tại đầu cuối nhà vận hành của
mạch vòng nội hạt. Trong các hệ thống xDSL, LT thường đ
ược gọi là xTU-C,
nghĩa là đơn vị xDSL ở trung tâm.
- Kết cuối mạng (NT) đặt tại đầu cuối khách hàng của mạch vòng thuê bao,
NT có thể là Modem DSL hay bộ định tuyến (router) v.v Trong các hệ thống
xDSL, NT thường được gọi là xTU-R, nghĩa là đơn vị xDSL ở xa.
- Thiết bị đầu cuối (TE) là các thiết bị của người sử dụng như máy tính, máy
fax, điện thoại v.v
- Bộ lặp (repeater) là thiết bị tái tạo tín hiệu và thường đặt gần điểm giữa của
mạch vòng. Hầu hết đường dây điện thoại ngày nay không cần bộ lặp.
SV: Cù Thị Hạnh - Lớp ĐT2 – CĐ1A
12
Thực hiện kĩ thuật điều chế đa tần rời rạc DMT cho công nghệ đường dây thuê bao số
bất đối xứng ADSL.
- Mạch vòng nội hạt là đôi dây đồng xoắn nối tổng đài nội hạt (CO) với thiết
bị của khách hàng.
ược
- Thiết bị chuyển mạch hay ghép kênh trong CO đ
sử dụng để giao diện
giữa các Modem LT và cáp quang của đường trung kế. Một thiết bị ghép kênh có

thể giao tiếp với nhiều LT. Trong DSL, thiết bị này được gọi là Bộ ghép kênh truy
nhập DSL (DSLAM: DSL Access Multiplexor). Thường thì DSLAM chỉ là một bộ
ghép kênh dùng để tập hợp các luồng bit từ các kênh thuê bao vào một luồng bit
tổng sau đó chuyển đến mạng băng rộng. Một số nhà cung cấp DSLAM chế tạo các
DSLAM bao gồm cả chức năng định tuyến hoặc/và chuyển mạch. Các thiết bị như
vậy thường được gọi là các DSLAM thông minh hay các DSLAM có khả năng
chuyển mạch. Ở phía thuê bao, DSLAM có thể hỗ trợ nhiều loại DSL trên cùng một
Box, với số lượng cổng khác nhau, các DSLAM hiện có trên thị trường hiện nay có
thể cung cấp từ 10 đến 1000 kết nối. Ở phía mạng, DSLAM có thể hỗ trợ nhiều
phương pháp vận chuyển tốc độ cao khác nhau, tiêu biểu là các giao tiếp ATM
SONET/SDH và các giao tiếp 10/100Mb Ethernet. Một số DSLAM cũng hỗ trợ cả
các giao tiếp T1/E1, T3/E3.
ược
- Đơn vị mạng quang (ONU) đ
sử dụng cho dịch vụ VDSL. ONU đặt
gần nhà thuê bao hơn CO, mạch vòng khi đó bắt đầu từ ONU chứ không phải từ
CO vì VDSL đòi hỏi mạch vòng ngắn hơn các dịch vụ DSL khác (d
ưới 3000feet)
4. Kết luận
Chúng ta không thể kết luận một cách chính xác phương thức truyền dẫn nào
trong các phương thức nêu trên là tốt nhất bởi mỗi phương thức đều có những ưu
điểm nhất định trong những điều kiện nhất định. Tuy có những nơi chúng là đối thủ
cạnh tranh của nhau nhưng chúng vẫn đang phát triển song song và bổ trợ cho nhau
nhằm thỏa mãn nhu cầu của người sử dụng. Nhưng xét trong một phạm vi địa lý
hẹp và với những hạn chế về chi phí đầu tư thì việc sử dụng DSL rõ ràng là một
phương án phù hợp cho cả các công ty viễn thông và người sử dụng. DSL rất phù
hợp với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn mà nhu cầu truyền số liệu tốc
độ cao đang phát triển rất mạnh (đặc biệt là truy cập Internet tốc độ cao) trong điều
kiện nguồn vốn đầu tư còn còn hạn hẹp.
5. Ứng dụng của DSL trên thế giới và tại Việt nam.

Mặc dù mới thực sự phát triển trong vài năm trở lại đây và luôn đứng trước
sự cạnh tranh gay gắt của một số phương thức truyền dẫn tốc độ cao khác nhưng do
những ưu điểm nhất định về mặt tốc độ và kinh tế nên công nghệ DSL mà chủ yếu
là ADSL và VDSL đã có những bước phát mạnh mẽ và đầy hứa hẹn.
Hãng tư vấn Ovum có trụ sở tại Anh dự báo số đường dây DSL được lắp đặt
trên thế giới sẽ tăng từ 803.000 năm 2000 lên 45,1 triệu năm 2005. Bắc Mỹ sẽ có
23,9 triệu đường DSL vào năm 2005. Tây Âu sẽ có 10,5 triệu và khu vực châu Á -
Thái Bình Dương sẽ có 8,5 triệu đường. Trong khi đó tập đoàn Pelorus dự đoán
năm 2004 số đường DSL được cài đặt sẽ chiếm 70% số gia đình ở Mỹ và thị trường
thiết bị DSL sẽ đạt doanh số 1,2 tỉ đô la. Theo số liệu của Diễn đàn DSL (DSL
Forum) thì số thuê bao DSL trên thế giới đã tăng từ 7,6 triệu tháng 12 năm 2000 lên
23,3 triệu vào tháng 3 năm 2002, vượt xa con số 15,8 triệu thuê bao Modem cáp,
trong đó khu vực châu Á – Thái Bình Dương có số thuê bao dẫn đầu. Các con số đó
chứng tỏ DSL có sức hấp dẫn rất lớn.
SV: Cù Thị Hạnh - Lớp ĐT2 – CĐ1A
13
Thực hiện kĩ thuật điều chế đa tần rời rạc DMT cho công nghệ đường dây thuê bao số
bất đối xứng ADSL.


Hình 3: Tăng trưởng của thị trường DSL
Ở Việt Nam, để phát triển các dịch vụ truyền thông băng rộng đặc biệt là
truy nhập Internet tốc độ cao, Tổng công ty Bưu chính Viễn thông đã lựa chọn công
nghệ ADSL và VDSL để thử nghiệm trên mạng cáp đồng của mình. Ngày
27/3/2002, Bưu điện Hải Phòng và Công ty VDC đã phối hợp cùng Korean
Telecom (Hàn Quốc) chính thức khai trương dịch vụ ADSL thử nghiệm tại Hải
Phòng. Kết quả truy nhập mạng Internet VNN đạt tốc độ tải về xấp xỉ 3Mbps, còn
dịch vụ VoD cho phép tải về và xem phim mầu với chất lượng như xem từ đĩa
VCD tại máy tính. Sau đó, công nghệ ADSL một lần nữa được thử nghiệm thành
công tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Từ 1/8/2002, VNPT đã cung cấp dịch vụ

ADSL thử nghiệm cho một số khách hàng đầu tiên và từ 1/7/2003 VNPT đã chính
thức cung cấp dịch vụ truy nhập Internet qua ADSL tại Hà Nội, TP HCM và Hải
Phòng. Mới đây, ngày 23/01/2003, tại Hà Nội, Trung tâm Điện toán Truyền số liệu
Khu vực 1 (VDC1) kết hợp với các công ty của Tập đoàn Korea Telecom Hàn
Quốc (KT) đã giới thiệu dịch vụ truy nhập Internet tốc độ cao sử dụng công nghệ
VDSL tại khách sạn Daewoo Hotel Hà Nội. Gần 30 khách hàng tại khách sạn
Daewoo dùng thử dịch vụ này đều cho rằng dịch vụ đáp ứng được nhu cầu của họ:
tốc độ truy nhập Internet cao, ứng dụng nhiều công nghệ, tận dụng hệ thống mạng
điện thoại hiện có
SV: Cù Thị Hạnh - Lớp ĐT2 – CĐ1A
14
Thực hiện kĩ thuật điều chế đa tần rời rạc DMT cho công nghệ đường dây thuê bao số
bất đối xứng ADSL.

Hình 1.4: Một số dịch vụ DSL
Cũng như các nước khác trên thế giới, trong những năm tới, cùng với nhu
cầu truy cập Internet băng thông rộng và truyền hình đang tăng trưởng mạnh, chắc
chắn Việt Nam sẽ trở thành một thị trường đầy hứa hẹn cho công nghệ DSL nói
chung và ADSL nói riêng.



















SV: Cù Thị Hạnh - Lớp ĐT2 – CĐ1A
15
Thực hiện kĩ thuật điều chế đa tần rời rạc DMT cho công nghệ đường dây thuê bao số
bất đối xứng ADSL.
Chương II:
Mạch vòng thuê bao và vấn đề nhiễu.

Công nghệ DSL ra đời nhằm truyền số liệu tốc độ cao trên mạch vòng thuê
bao điện thoại. Vì vậy, việc nghiên cứu về DSL không thể tách rời những kiến thức
về mạch vòng thuê bao.
1. Sự hình thành một mạch vòng
Mỗi mạch vòng cấu tạo gồm một đôi dây đồng được bọc cách điện có cỡ từ
26 AWG đến 19 AWG (xấp xỉ 0,4->0,91mm), (AWG là số đo đường kính của dây
theo tiêu chuẩn Mỹ, 26AWG có đường kính dây là 1/24 inch). Một mạch vòng điển
hình được thể hiện như trên hình 2.1 gồm có một cáp feeder có nhiều đôi dây xuất
phát từ tổng đài nội hạt (CO), cáp này có thể có tới 50 binder groups, mỗi binder lại
có thể có 10, 25 hoặc 50 đôi dây. Tại giao diện phân phối feeder (FDI: Feeder
Distribution Interface) một cáp feeder sẽ được chia ra thành một số cáp phân phối
nhỏ hơn (có tối đa 50 đôi dây); các cáp này cuối cùng lại được chia nhỏ ra nhiều
đôi dây đồng được gọi là drop-wire nối tới nhà thuê bao.

Hình 2.1: Một mạch vòng thuê bao


Hoa Kỳ, hầu hết các cáp nhiều đôi dây đều được chế tạo sao cho các đôi
dây trong cáp là công bằng
, có nghĩa là vị trí của các đôi dây trong cáp luôn thay
đổi, không có hai đôi dây nào ở gần nhau trong một đoạn dài, cách bố trí như vậy
nhằm bình quân xuyên âm giữa các đôi dây khác nhau và giảm mức chênh lệch
giữa trường hợp nhiễu nhiều nhất và ít nhất.
Ở các nước khác như Nhật Bản hay
Đức thì trước tiên người ta xoắn hai đôi dây với nhau tạo thành một bộ tứ (quad)
rồi các quad lại được nhóm với nhau trong một cáp lớn hơn. Xuyên âm giữa các đôi
dây trong cùng một quad luôn nhiều hơn mức trung bình nhưng giữa các đôi dây
trong các quad khác nhau lại ít hơn mức trung bình.







SV: Cù Thị Hạnh - Lớp ĐT2 – CĐ1A
16
Thực hiện kĩ thuật điều chế đa tần rời rạc DMT cho công nghệ đường dây thuê bao số
bất đối xứng ADSL.











2. Đôi dây xoắn
H
×nh 2.2: M¹ch vßng ®−êng d©y thuª bao
Vßn
g

y
thuª bao
Ngày nay chúng ta đã quá quen thuộc với đôi dây đồng gồm hai sợi xoắn
vào nhau được sử dụng cho đường điện thoại đến mỗi gia đình. Lịch sử của đôi dây
xoắn đó đã bắt đầu hơn một thế kỷ trước đây, bắt nguồn từ những đ
ường dây được
sử dụng để mang thông tin điện báo. Khi điện thoại ra đời người ta cũng sử dụng
đôi dây đó để truyền thoại. Dần dần điện thoại trở nên phổ biến, nhu cầu về đường
dây tăng lên không ngừng và cáp điện thoại gồm nhiều dây được bọc trong một lớp
vỏ đã ra đời. Một trong những vấn đề lớn nhất của thời gian đầu là xuyên âm giữa
các dây. Ở vào thời điểm đó, do xuyên âm giữa các dây nên khi ta nói ở một đôi
dây thì có thể nghe thấy mình nói gì ở một đôi dây khác.
Trong những năm tiếp theo, người ta đã đi tìm rất nhiều giải pháp để giảm
xuyên âm, chủ yếu là tập trung vào bọc các sợi dây lại hay thực hiện nối đất ở các
khoảng lặp. Cuối cùng, vào năm 1881, bằng sáng chế cho đôi dây kim loại xoắn đã
được trao cho Alexander Graham Bell vì đôi dây đó đã thực hiện tốt việc loại bỏ
xuyên âm. Từ đó đôi dây kim loại xoắn ngày càng được sử dụng rộng rãi trên thế
giới. Đặc điểm của đôi dây là hai sợi dây đều không nối với điểm đất
chung. Do
chúng gần nhau và có tính đối xứng về mặt hình học với nhau như vậy nên bất kỳ
một tín hiệu nào tác động lên một trong hai sợi dây thì cũng tác động một cách
tương tự lên sợi còn lại. Do đó, nếu máy thu chỉ thu sự chênh lệch giữa hai sợi dây

thì ảnh hưởng của các nhân tố bên ngoài sẽ bị loại bỏ.
Ngày nay, các đôi dây xoắn thường được nhóm lại trong những bó cáp gồm
nhiều đôi và được bọc ở bên ngoài. Cáp thông dụng sử dụng trong các mạch vòng
thuê bao thường chứa từ 25 đến 100 đôi dây xoắn. Mỗi dây trong đôi dây có một
lớp bọc cách điện có thể bằng giấy hoặc bằng chất dẻo. Các bó cáp thường có một
vỏ bọc kim loại bên ngoài. Vỏ bọc này được nối đất ở đầu cáp để giảm nhiễu từ các
nguồn ngoài. Bước xoắn của một đôi dây xoắn cụ thể là cố định nhưng của các đôi
dây khác nhau thường khác nhau, thay đổi từ 2 đến 6 inch. Sự thay đổi bước xoắn
của những đôi dây cạnh nhau giúp làm giảm xuyên âm giữa các đôi dây đó.
2.1. Tín hiệu mode chung và mode vi sai
Một khái niệm quan trọng khi nghiên cứu về đôi dây xoắn là sự khác nhau
giữa tín hiệu mode chung và mode vi sai. Tín hiệu mode vi sai là tín hiệu giữa hai
dây của một đôi dây xoắn còn tín hiệu mode chung là tín hiệu của riêng một sợi
trong đôi dây so với đất. Tín hiệu mode vi sai đôi khi còn được gọi là tín hiệu kim
loại (metallic signals) còn tín hiệu mode chung đôi khi được gọi là tín hiệu theo
SV: Cù Thị Hạnh - Lớp ĐT2 – CĐ1A
17
Thực hiện kĩ thuật điều chế đa tần rời rạc DMT cho công nghệ đường dây thuê bao số
bất đối xứng ADSL.
chiều dọc (longitudinal signals). Tín hiệu mode chung thường được tạo ra do những
ảnh hưởng từ bên ngoài nh
ư nhiễu 50Hz từ đường dây điện gần đó, tín hiệu RF từ
các đài phát thanh và nhiễu từ các đôi dây xoắn khác. Trong một số hệ thống như
đơn vị cấp nguồn cho HDSL thì mode chung đ
ược sử dụng để truyền tín hiệu
nguồn một chiều cho trạm xa. Tất cả tín hiệu truyền trên mạch vòng thuê bao đều
được truyền theo chế độ vi sai, trong chế độ này dòng điện trên một dây được cân
bằng bởi một dòng điện cùng độ lớn có hướng ngược lại ở dây kia. Tại phía thu, chỉ
có điện áp vi sai của đôi dây xoắn mới được xử lý để lấy ra thông tin, tín hiệu mode
chung bị loại bỏ bởi các biến áp và các bộ khuếch đại vi sai. Các nhà sản xuất cáp

cũng như các nhà sản xuất thiết bị đầu cuối luôn cố gắng giảm tối đa thành phần
mode chung. Các máy phát có thể đạt được tỷ số mode vi sai trên mode chung là
55dB. Với cáp loại 3, loại cáp UTP thông dụng nhất ở Hoa Kỳ thì tỉ số mode vi sai
trên mode chung ở đầu ra là khoảng 50 dB ở tần số dưới 100 Khz và chỉ còn 35 dB
ở 10 Mhz.
2.2. Cân bằng (Balance)
Sự cân bằng của đường dây truyền dẫn phản ánh khả năng chống lại dòng rò
rỉ theo chiều dọc (“cân bằng kim loại”) và đồng thời khả năng tương hỗ tránh tín
hiệu chiều dọc chạy đến dòng kim loại (“cân bằng theo chiều dọc”). Sự cân bằng
luôn luôn là hàm của tần số và giảm ở các tần số cao. Độ xoắn chặt của đôi dây
xoắn nâng cao độ cân bằng. Trong băng tần điện thoại thông thường (0-4kHz), độ
cân bằng thông thường từ 50 đến 60 dB. Tuy nhiên ở tần số cao trong ADSL/HDSL
độ cân bằng có thể giảm tới 30dB và thậm chí còn có thể giảm hơn nữa ở tần số của
VDSL.
2.3. Các cầu rẽ (Bridged Taps)
Cầu rẽ là các đoạn dây UTP hở mạch nối vào đường dây đang xét. Các cầu
rẽ có thể do rất nhiều nguyên nhân gây ra trong đó có nguyên nhân của việc lắp đặt,
bảo dưỡng và sử dụng trong thực tế như:
• Các đường dùng chung: Trong thời kỳ đầu của điện thoại, thường có tình
trạng một số hộ dùng chung một đường dây điện thoại. Khi số lượng cáp nhiều lên
và tính riêng tư trở nên quan trọng thì những hộ dùng chung đó ngắt đi không dùng
nữa, để lại những đoạn dây hở mạch đầu cuối. Đó chính là các cầu rẽ. Trường hợp
đơn giản là có một cầu rẽ, trường hợp phức tạp hơn là có cầu rẽ của cầu rẽ.

• Do sửa chữa : nếu một đôi dây bị đ
t ở đâu đó trong cáp thì công nhân sửa
chữa chỉ đơn giản là nối một đoạn khác vào giữa chỗ bị đứt và do đó hai đầu của
đoạn bị đứt tạo ra một cầu rẽ (xem hình 2.3 c).
SV: Cù Thị Hạnh - Lớp ĐT2 – CĐ1A
18

Thực hiện kĩ thuật điều chế đa tần rời rạc DMT cho công nghệ đường dây thuê bao số
bất đối xứng ADSL.

Hình 2.3: Cầu rẽ
Các cầu rẽ sẽ gây ra phản xạ tín hiệu trên mạch vòng thuê bao làm suy yếu tín hiệu
truyền dẫn. Đặc biệt, theo lý thuyết mạch, khi cầu rẽ có chiều dài bằng nguyên lần
một phần tư chiều dài một bước sóng nào đó trong tín hiệu thì hệ số phản xạ sẽ
bằng -1 và có thể làm suy yếu nghiêm trọng tín hiệu truyền đi.

Hình 2.4: Ảnh hưởng của cầu rẽ
3. Nhiễu trên mạch vòng thuê bao và các giải pháp cho nhiễu.
Nhiễu trên đường dây điện thoại thường xảy ra do sự cân bằng không hoàn
hảo của đôi dây. Có nhiều loại nhiễu nhưng phổ biến nhất là nhiễu xuyên âm, nhiễu
sóng vô tuyến và nhiễu xung.
3.1. Xuyên âm
Có thể nói xuyên âm là một trong những vấn đề lớn nhất khi nghiên cứu về
đôi dây xoắn, đặc biệt là khi sử dụng đôi dây xoắn cho các hệ thống DSL tốc độ cao
bởi xuyên âm có ảnh hưởng trực tiếp và chủ yếu đến tốc độ tín hiệu trên đường dây.
Nguyên nhân của xuyên âm là do các đôi dây trong cáp đều phát ra điện từ tr
ường.
Các tr
ường điện và từ của một đôi dây tạo ra dòng điện chạy trong các đôi dây bên
cạnh dẫn đến tín hiệu xuyên âm không mong muốn trên các đôi dây này.
SV: Cù Thị Hạnh - Lớp ĐT2 – CĐ1A
19
Thực hiện kĩ thuật điều chế đa tần rời rạc DMT cho công nghệ đường dây thuê bao số
bất đối xứng ADSL.

Hình 2.5: Xuyên âm đầu gần (NEXT) và xuyên âm đầu xa (FEXT)
Xuyên âm giữa các đôi dây trong một cáp nhiều dây là nguồn nhiễu chính

trong bất kỳ một hệ thống DSL nào.
3.1.1. Các loại xuyên âm
Nếu một đôi dây được xét như một nguồn một gây nhiễu thì điện áp và dòng
điện cảm ứng của nó lên các đôi dây khác sẽ đi theo hai hướng: những dòng điện
mà tiếp tục đi theo hướng của tín hiệu gây nhiễu sẽ cộng lại tạo thành xuyên âm
đầu xa (FEXT), những dòng điện đi ngược về phía nguồn gây nhiễu sẽ cộng lại tạo
thành xuyên âm đầu gần (NEXT). Nếu cả xuyên âm đầu gần và xuyên âm đầu xa
cùng xuất hiện trong một hệ thống DSL thì nói chung xuyên âm đầu gần sẽ trầm
trọng hơn nhiều so với xuyên âm đầu xa. Xuyên âm đầu gần tăng lên theo tần số và
ở tần số VDSL (lên đến 15 Mhz) nó sẽ trở nên không chấp nhận được; do đó, các
hệ thống VDSL được thiết kế để ngăn chặn triệt để loại xuyên âm này.
Đối với xuyên âm, người ta quan tâm nhiều đến những giá trị tồi nhất của
hàm truyền đạt xuyên âm giữa nhiều đôi dây với một đôi dây (multiple pair-to-pair
crosstalk); các giá trị này đã được sử dụng bởi các kỹ sư thiết kế Modem DSL và
các nhà cung cấp dịch vụ để dự đoán (thực tế là để bảo đảm) tốc độ dữ liệu, và bởi
các tổ chức tiêu chuẩn để định nghĩa các mạch vòng kiểm tra Modem DSL. Hiện
nay, với khả năng tăng lên của các giao thức truyền dẫn sử dụng bất kỳ tốc độ bit
nào có sẵn, các giá trị thống kê trung bình cũng đáng quan tâm. Các mô hình thống
kê cho cả 1% trường hợp xấu nhất và giá trị trung bình sẽ được nói tới ở phần sau.
Các mô hình cho các giá trị trung bình thì chỉ là tạm thời nhưng nói chung cũng đủ
chính xác cho việc lập kế hoạch hệ thống.
3.1.1.1. Xuyên âm đầu gần (NEXT)

Hình 2.6: Xuyên âm đầu gần (NEXT)
Như thể hiện trên hình 2.6, NEXT truyền từ đôi dây số 12 đến đôi dây 34 là
tổng của một số vô hạn các tín hiệu nhỏ truyền lan một đoạn nào đó trên đôi dây
SV: Cù Thị Hạnh - Lớp ĐT2 – CĐ1A
20
Thực hiện kĩ thuật điều chế đa tần rời rạc DMT cho công nghệ đường dây thuê bao số
bất đối xứng ADSL.

12, ghép sang đôi dây 34 và truyền ngược lại trên đôi dây 34. Như vậy có thể biểu
diễn dưới dạng toán học:
H
NEXT
(l,f) = H
0
l

f12
(
λ
,f) H
XT
(
λ
,f) H
b34
(
λ
,f)d
λ
(2.1)
với H
f12
(
λ
,f) là hàm truyền đạt tiến của chiều dài
λ
của đôi dây 12, H
XT

(
λ
,f) là
hàm ghép ở khoảng cách
λ
trên đường dây và H
b34
(
λ
,f) là hàm truyền đạt ngược
trên đôi dây 34 (ở đây ta giả thiết không có sự tương tác giữa các hàm truyền đạt
với hàm ghép). Phương trình (2.1) có thể được đơn giản đi nếu các đôi dây 12 và 34
không có cầu rẽ hoặc có cấu hình cầu rẽ giống nhau. Khi đó đặc tính truyền dẫn của
hai đôi dây như nhau và:
H
f12
(
λ
,f) = H
b34
(
λ
,f)= H(
λ
,f)

e
-
γ
λ


(2.2)
thay vào (2.1) ->
H
NEXT
(l,f) = H(2
0
l

λ
,f) H
XT
(
λ
,f)d
λ
(2.3)
Có thể coi rằng: vì H có sự dịch pha phụ thuộc vào tần số nên các giá trị của H ở
các tần số khác nhau có thể cộng hoặc tr
ừ lẫn nhau và tùy thuộc vào dấu và biên độ
của H
XT
(l,f) mà chúng có thể gây ra các nút và bụng. Tuy nhiên, nếu xét về mặt
công suất thì H
XT
được biểu diễn là một tích vô hướng của điện nạp chéo và một trở
kháng tải nào đó. Hàm truyền đạt công suất của xuyên âm có thể được biểu diễn :
|H
NEXT
(l,f)|

2

0
l

|H(2
λ
,f)|
2
(
ω
CR)
2
d
λ
(2.4)
Nếu coi suy hao xấp xỉ tỷ lệ với
f
thì:
|H
NEXT
(l,f)|
2

0
l

(2
π
CR)

2
f
2
e
-4
α
f
l
df =
2
4
1,5
(2 )
(1 )
4
f
l
CR
fe
α
π
α


(2.5)
Thành phần thứ 2 trong dấu ngoặc sẽ tiến tới 0 (
4
0
fl
e

α


) khi l lớn vô cùng (có
thể coi l ->

ở cự ly mà một mạch vòng có suy giảm ở tần số đang xét lớn hơn
20dB. Khi đó, |H
NEXT
(f,l)|
2
đạt đến một giá trị tiệm cận và trở thành độc lập với độ
dài mạch vòng, giá trị công suất NEXT trung bình giới hạn này tỷ lệ với f
1,5
.
3.1.1.1.1. NEXT suy giảm và NEXT đ
ược khuếch đại (ANEXT)
Tại tổng đài, nguồn và tải của NEXT được đặt cạnh nhau nhưng ở đầu xa
chúng lại cách xa nhau như hình 2.7. Có thể thấy rằng nếu mạch vòng gây nhiễu dài
hơn hoặc ngắn hơn mạch vòng bị gây nhiễu thì NEXT sẽ bị suy giảm do sự chênh
lệch về độ dài. Với hầu hết các mạng điện thoại thì sự chênh lệch về chiều dài của
các đôi dây trong cùng một nhóm cáp (binder group) là khá nhỏ (<20% tổng chiều
dài mạch vòng) do đó sự suy giảm NEXT là không đáng kể; giá trị NEXT trung
bình thường chỉ nhỏ hơn 1dB so với trường hợp xấu nhất được mô hình hóa.
SV: Cù Thị Hạnh - Lớp ĐT2 – CĐ1A
21
Thực hiện kĩ thuật điều chế đa tần rời rạc DMT cho công nghệ đường dây thuê bao số
bất đối xứng ADSL.

Hình 2.7: Suy giảm NEXT từ máy phát đầu xa 1 vào máy thu đầu xa 2

Tuy nhiên, sự ảnh hưởng có thể lớn hơn nhiều nếu nguồn gây xuyên âm là
đường T1 (1,544 Mbps) vì cứ 3kft nó lại có một trạm lặp (như hình 2.8). Khi đó
NEXT phụ thuộc rất nhiều vào vị trí của trạm xa (xTU-R) so với các bộ lặp. Hệ số
ghép NEXT trung bình được định nghĩa trong T1.413 nhỏ hơn 5,5 dB so với các
giá trị xấu nhất cho trong bảng 2.1. Kết quả tính toán này dựa trên giả thiết là có thể
có các bộ lặp ở cả phía trước (hướng lên) và phía sau (hướng xuống) của xTU-R, cụ
thể là R
b
và R
c
trong hình 2.8.

Hình 2.8: NEXT và FEXT từ các bộ lặp T1
Bảng 2.1: Tổn hao NEXT ở tần số 0,772 Mhz
Tổn hao giữa từng đôi dây
(dB)
Tổn hao của 49 đôi dây
cho một đôi dây (dB)
Trung bình
77 50
1% trường hợp xấu nhất
53 45

Bảng 2.2: Tổn hao FEXT ở tần số 3,15 Mhz
Tổn hao giữa từng đôi dây
(dB)
Tổn hao của 49 đôi dây
cho một đôi dây (dB)
Trung bình
65 38

1% trường hợp xấu nhất
42 32

3.1.1.1.2. Tự xuyên âm đầu gần (Self-NEXT)

Phát và thu thông tin s
dụng cùng phổ tần số sẽ tạo ra nhiễu ngay bên trong
bản thân mạch vòng. Nhiễu này khác với xuyên âm vì dạng sóng phát gây nhiễu là
đã biết đối với máy thu và có thể được loại trừ một cách có hiệu quả ra khỏi những
tín hiệu thu được đã bị suy giảm. Việc loại bỏ các ảnh hưởng của máy phát được
gọi là triệt tiếng vọng (sẽ được đề cập đến trong phần sau của đồ án). Tuy nhiên các
hệ thống triệt tiếng vọng cùng loại sẽ tạo ra cái gọi là tự xuyên âm đầu gần (self
SV: Cù Thị Hạnh - Lớp ĐT2 – CĐ1A
22
Thực hiện kĩ thuật điều chế đa tần rời rạc DMT cho công nghệ đường dây thuê bao số
bất đối xứng ADSL.
NEXT). Tự xuyên âm đầu gần gây ra nhiễu đáng kể đối với các hệ thống triệt tiếng
vọng tương tự trong cùng một binder group. Kết quả là, việc lắp đặt nhiều hệ thống
triệt tiếng vọng tương tự nhau sẽ làm giảm chất lượng hoạt động của tất cả các hệ
thống t
ương tự khác trong cùng một binder group. Ví dụ, một hệ thống HDSL T1
dùng điều chế CAP riêng lẻ có thể đạt được phạm vi mạch vòng là 12kft. Tuy
nhiên, khi có thêm những hệ thống CAP khác trong cùng binder group thì phạm vi
mạch vòng của hệ thống ban đầu và các hệ thống mới sẽ giảm xuống còn 9kft hoặc
nhỏ hơn. Hiện tượng t
ương tự xảy ra đối với hầu như tất cả các hệ thống triệt tiếng
vọng như 2B1Q, các hệ thống CAP HDSL và SDSL, các hệ thống ADSL DMT. Do
đó, khi lựa chọn một công nghệ DSL, nhà cung cấp dịch vụ phải xem xét hoạt động
của hệ thống trong sự có mặt của tự xuyên âm đầu gần vì nó chắc chắn sẽ tồn tại
khi ngày càng có nhiều dịch vụ được triển khai.

3.1.1.2. Xuyên âm đầu xa (FEXT)

Hình 2.9: Xuyên âm đầu xa (FEXT)

Hình 2.10: Các trường hợp xuyên âm đầu xa
3.1.1.2.1. FEXT đồng mức: EL-FEXT
Dạng đơn giản nhất của FEXT, gọi là FEXT đồng mức (EL-FEXT: equal-
level FEXT) được vẽ trên hình 2.10a. Các máy phát Xmit
12
và Xmit
34
và các máy
thu Rec
12
và Rec
34
được đặt ở cùng vị trí. Có thể thấy tất cả các tín hiệu đóng góp
SV: Cù Thị Hạnh - Lớp ĐT2 – CĐ1A
23
Thực hiện kĩ thuật điều chế đa tần rời rạc DMT cho công nghệ đường dây thuê bao số
bất đối xứng ADSL.
vào FEXT thu được tại Rec
34
đều đi qua một quãng đường bằng với quãng đường
tín hiệu từ Xmit
34
phát đến Rec
34
( vì chúng truyền lan một đoạn nào đó trên đôi
dây 12 sau đó là đoạn còn lại trên đôi dây 34 mà hai đôi dây đó có cùng độ dài do

các máy phát và máy thu của chúng đặt cùng vị trí). Có nghĩa là, nếu không có
tương tác giữa các hàm truyền đạt và hàm ghép thì hàm truyền đạt FEXT là:
H
FEXT
(l,f) = H
0
l

12
(
λ
,f) H
XT
(
λ
,f) H
34
(l-
λ
,f)d
λ
(2.6)
Tương tự như NEXT ta có:
H
12
(
λ
,f). H
34
(l-

λ
,f)= H(l,f) (2.7)
H
FEXT
(l,f) = H(l,f) f
0
l

H
XT
(
λ
)d
λ
(2.8)
hàm ghép H
XT
(
λ
) là một hàm ngẫu nhiên của
λ
và nhiễu đóng góp vào phép tích
phân chỉ trên phương diện công suất. Do đó, hàm truyền đạt công suất FEXT có thể
viết:
|H
FEXT
(l,f)|
2
= |H(l,f)|
2

k
FEXT
lf
2
(2.9)
k
FEXT
là hệ số ghép tổng, có giá trị khác nhau đối với từng đôi dây.
Nếu các máy phát phát cùng mức công suất thì tỉ số tín hiệu trên EL-FEXT (SFR),
còn gọi là tổn hao EL-FEXT cho một đôi dây là:
SFR(l,f) =
2
1
FEXT
klf
(2.10)
Sự sắp xếp trong hình 2.10a là đối xứng, các máy phát có thể được thay thế bằng
các máy thu và ngược lại, do đó FEXT sẽ không thay đổi. Các mạch vòng mẫu để
thử nghiệm của T1.413 cũng giả thiết trường hợp này nhằm mục đích đơn giản hóa
việc thử nghiệm nhưng trong thực tế đòi hỏi phải có những tính toán phức tạp hơn
nhiều như ở trường hợp hình 2.10b và 2.10c.
3.1.1.2.2. FEXT không đồng mức: UL-FEXT (Unequal Level –FEXT)
Tổng quát hóa phương trình (2.10) ta có SFR cho xuyên âm FEXT của
những mạch vòng có độ dài khác nhau:
SFR(l,f) =
2
1
2
2
|| 1

||
FEXT
H
2
H
klmin f

(2.11)
Trong đó H1, H2 là hàm truyền đạt của đường tín hiệu và đ
ường xuyên âm,
l
min
=min(l
1
,l
2
).
3.1.2. Các kết quả thống kê về xuyên âm
Vào những năm 1970 và đầu những năm 1980 người ta đã thực hiện hàng
trăm nghìn phép đo xuyên âm, chủ yếu là trên những nhóm dây có 50 đôi dây đ
ược
sử dụng cho kết nối giữa các tổng đài của tín hiệu T1 và T2. Có hai loại phép đo:

1. Đo xuyên âm giữa từng đôi dây. V
i một cáp N đôi dây thì sẽ có N(N-1)/2
phép đo ở những dải tần số khác nhau.
SV: Cù Thị Hạnh - Lớp ĐT2 – CĐ1A
24
Thực hiện kĩ thuật điều chế đa tần rời rạc DMT cho công nghệ đường dây thuê bao số
bất đối xứng ADSL.

2. Đo xuyên âm của N-1 đôi dây đối với một đôi còn lại, bao gồm các phép đo
khi tất cả các đôi dây gây nhiễu đồng thời, gây nhiễu độc lập và gây nhiễu
ngẫu nhiên.
Từ các kết quả đo được của hai loại phép đo trên người ta vẽ nên hàm mật độ xác
suất tích lũy (PDF) và người ta đã ước tính được xác suất của một số trường hợp
xấu nhất. Với các hệ thống DSL không có bộ lặp thì xác suất 1% trường hợp xấu
nhất là đủ.
3.1.2.1. 1% trường hợp xấu nhất của NEXT
tính NEXT cho
Ủy ban T1.413 đã đưa ra công thức tổng quát
1% trường
hợp xấu nhất
, trường hợp có N nguồn gây xuyên âm là:
10log|H
NEXT
(N,f)|
2
= -50,6 + 6log(N)+15log(f) dB (2.12)

Zimmerman lại cho rằng trong một bó cáp gồm toàn những nguồn gây
xuyên âm thì mức 1% xuyên âm xấu nhất độc lập với số đôi dây và sửa công thức
(2.12) thành:
10log|H
NEXT
(N,f)|
2
= -40,3 + 6log
1
bg
N

N

+15log(f) dB (2.13)
với N
bg
là số lượng đôi dây trong bó cáp. Cho đến nay chưa rõ sự sửa đổi này có
được chấp nhận hay không.
3.1.2.2. 1% trường hợp xấu nhất của FEXT
ượ
Một công thức tổng quát đ
c chấp nhận cho FEXT đồng mức (EL-FEXT)
là:
10log|H
FEXT
(N,f,l)|
2
= -51,1 + 6log(N)+ 20log(f) + 10log(l) dB (2.14)
với l tính theo kft.
Werner-Zimmerman sửa đổi công thức trên thành:

10log|H
FEXT
(N,f)|
2
=-41,0+6log
1
bg
N
N


+ 20log(f) + 10log(l) dB (2.15)
3.1.3. Giảm thiểu xuyên âm
Nếu ảnh hưởng của suy hao và xuyên âm không quá lớn, các hệ thống DSL
có thể tái tạo một cách chính xác tín hiệu trở về lại dạng số. Tuy nhiên, nếu ảnh
hưởng của những hiện t
ượng này trở nên quá lớn, các tín hiệu có thể bị thu sai ở
đầu xa và xuất hiện lỗi bit. Một số hệ thống DSL sử dụng các phổ tần khác nhau
cho tín hiệu phát và tín hiệu thu. Kỹ thuật này được gọi là ghép kênh phân chia theo
tần số (FDM). Ưu điểm của các hệ thống dựa trên FDM so với các hệ thống triệt
tiếng vọng là loại bỏ được NEXT. Điều này là do hệ thống không nhận tín hiệu ở
dải tần số cùng với dải tần số mà hệ thống lân cận đang phát tín hiệu. Xuyên âm
đầu xa FEXT có mặt và tín hiệu FEXT bị suy giảm đáng kể và gây nhiễu ít hơn bởi
vì khởi nguồn của tín hiệu FEXT ở mãi đầu xa của mạch vòng. Do đó, các hệ thống
dựa trên FDM thường cho hoạt động tốt hơn các hệ thống triệt tiếng vọng khi xét
về mặt xuyên âm từ các hệ thống t
ương tự ở lân cận. Sự dung hòa về mặt kỹ thuật
của hệ thống FDM là ở chỗ các tín hiệu hướng lên và hướng xuống riêng rẽ chiếm
các một dải tần số lớn hơn so với các hệ thống triệt tiếng vọng nơi có sự chồng lấn
SV: Cù Thị Hạnh - Lớp ĐT2 – CĐ1A
25

×