Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Một số biện pháp đổi mới hình thức giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi thông qua hoạt động giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (949.01 KB, 23 trang )

PHÒNG GDĐT THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG MẦM NON

ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN

Tên sáng kiến: Một số biện pháp đổi mới hình thức giáo
dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ mẫu giáo
5 – 6 tuổi thông qua hoạt động giáo dục
Tác giả:
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị: Trường mầm non

TP. Thái Nguyên, tháng 3 năm 2019


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính gửi: Hội đồng sáng kiến thành phố Thái Ngun.
Tơi tên là

Số
TT

Họ và tên

1

Tỷ lệ (%) đóng
góp vào việc
Ngày Nơi cơng tác


Trình độ tạo ra sáng
Chức
tháng năm (hoặc nơi
chun
kiến
danh
sinh
thường trú)
mơn (ghi rõ đối với
từng đồng tác
giả, nếu có)
31/12/1990

Giáo Đại học

100%

viên sư phạm
mầm non
I. Đề nghị xét công nhận sáng kiến “ Một số biện pháp đổi mới hình thức
giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi
thông qua hoạt động giáo dục”
II. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
III. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Lĩnh vực chuyên môn mầm non, lĩnh vực
phát triển nhận thức, thẩm mỹ cho trẻ mầm non, sáng kiến đưa ra một số biện pháp
giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm thông qua các hoạt động học,
hoạt động chơi, hoạt động góc, hoạt động ngoại khóa hàng ngày của trẻ mầm non
IV. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử (ghi ngày nào sớm
hơn): Ngày 10/9/2018
V. Mô tả bản chất sáng kiến



NỘI DUNG SÁNG KIẾN
I) ĐẶT VẤN ĐỀ
1) Lý do chọn đề tài
Thực phẩm vô cùng cần thiết và quan trọng đối với con người. Sử dụng thực
phẩm không đàm bảo vệ sinh rất dễ xảy ra ngộ độc thực phẩm. Vì vậy vệ sinh dinh
dưỡng và an tồn vệ sinh thực phẩm giữ một vị trí rất quan trọng đối với sức khỏe
con người, góp phần nâng cao sức lao động phòng chống bệnh tật đem lại hạnh
phúc cho mọi nguời, mỗi gia đình và cộng đồng xã hội.
Thực hiện nhiệm vụ của Bộ Giáo Dục và Đào tạo, ngành học mầm non đã
đưa nội dung giáo dục dinh dưỡng sức khỏe và chương trình chăm sóc giáo dục trẻ
ở trường mầm non. Việc đưa các nội dung giáo dục dinh dưỡng sức khỏe vào giảng
dạy cho trẻ là một việc rất cần thiết, như vậy sẽ tạo ra sự liên thông về giáo dục
dinh dưỡng liên tục từ tuổi mầm non đến tuổi học đường. Mặc khác ở lứa tuổi
mầm non trẻ rất dễ nhạy cảm và mong chóng tiếp thu những điều được dạy bảo.
Tiến hành giáo dục dinh dưỡng, vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ mầm non góp
phần quan trọng trong chiến lược cao người, tạo ra một lớp người mới có sự hiểu
biết đầy đủ về vấn đề dinh dưỡng , sức khỏe, biết lựa chọn một cách thông minh và
tự giác các cách ăn uống để đảm bảo cho sức khỏe của mình. Công tác này cũng
cần được triển khai rộng tới các bậc phụ huynh và các ban ngành có liên quan,
tuyên truyền cho họ các nội dung về giáo dục dinh dưỡng sức khỏe. Qua đó họ sẽ
tự nguyện phối kết hợp cùng nhà rường trong việc chăm sóc và ni dạy trẻ.
Các cơ sở giáo dục mầm non là nơi tập trung đơng trẻ, bản thân trẻ cịn yếu
ớt, sức đề kháng chưa cao, chưa chủ động ý thức được đầy đủ về dinh dưỡng và vệ
sinh an toàn thực phẩm. Giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm, đề
phòng ngộ độc thực phẩm là một vấn đề có ý nghĩa thực tế và vơ cùng quan trọng
trong trường mầm non.
“Trẻ em hôm nay, thế giới ngày, mai”. Muốn có được những chủ nhân tương
lai của đất nước khỏe mạnh, được chăm sóc ni dưỡng ngay từ khi còn nhỏ, đặc

biệt là trẻ em trong độ tuổi mầm non thì bữa ăn của trẻ tại trường mầm non phải
được xây dựng theo khẩu phần thực đơn, các món ăn thường xuyên được thay đổi


để trẻ ăn ngon miệng, tăng sự tiêu hóa, hấp thu giúp trẻ phát triển tốt giảm tỉ lệ trẻ
em bị suy dinh dưỡng.
Từ những quan điểm trên và qua thực tế tìm hiểu thực trạng chất lượng giáo
dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn vệ sinh thực phẩm trường mầm non cho thấy
trình độ chun mơn nghiệp vụ của giáo viên dinh dưỡng cịn nhiều hạn chế trong
cơng tác chế biến món ăn, chọn mua thực phẩm, thực hiện công tác vệ sinh trong
khi chế biến, việc bảo quản thực phẩm, vệ sinh dụng cụ, sử dụng ăn uống trong
bếp ăn bán trú nhà trường.
Bản thân tôi đang cơng tác tại Trường Mầm non

, hàng năm nhà trường

đón nhận các cháu từ những gia đình khá, trung bình, nghèo, có khoảng 50% số trẻ
là gia đình trung nơng. Trình độ văn hóa khơng đồng đều, thời gian dành nhiều cho
cơng việc, một phần vì kinh tế khó khăn nên chắn chắc sẽ ảnh hưởng ít nhiều đến
việc chăm sóc, ni dạy, vệ sinh an tồn thực phẩm cho con. Hiện tôi đang là giáo
viên trực tiếp giảng dạy và chăm sóc các cháu từ 5 – 6 tuổi, lứa tuổi mà tất cả các
cháu đã nhận thức được những điều cơ bản về dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực
phẩm . Lại là lứa tuổi đang dần hồn thiện về tâm lý, nếu trẻ được ni dưỡng tốt
là tiền đề cho sự phát triển về sau của trẻ, tôi thiết nghĩ đây quả là một điều rất cần
thiết khi tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp đổi mới hình thức giáo dục dinh
dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ mẫu giáo 5–6 tuổi thơng qua các
hoạt động ở trường”.
2) Mục đích nghiên cứu
Thơng qua đề tài “Một số biện pháp đổi mới hình thức giáo dục dinh
dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi thông qua các

hoạt động ở trường” nhằm mục đích bảo đảm dinh dưỡng và vệ sinh an tồn thực
phẩm khơng xảy ra ngộ độc thực phẩm và các bệnh lây truyền qua thực phẩm. Bảo
vệ và nâng cao sức khỏe thông qua việc “Giáo dục dinh dưỡng vệ sinh an toàn thực
phẩm” cho học sinh 5 – 6 tuổi tại trường.


Nhằm tìm ra giải pháp tốt nhất để làm tốt cơng tác giáo dục vệ sinh dinh
dưỡng an tồn thực phẩm. Hạn chế tuyệt đối tình trạng ngộ độc thực phẩm trong
trường mầm non.
Đề xuất một số hình thức giáo dục để góp phần nâng cao chất lượng giáo
dục vệ sinh dinh dưỡng an toàn thực phẩm ở trường mầm non bằng.
3) Phạm vi, dịa điểm, thời gian nghiên cứu
- Địa điểm nghiên cứu: Trường mầm non
- Thời gian nghiên cứu: Năm học 2018 - 2019, bắt đầu từ tháng 9/2018.
- Đối tượng nghiên cứu: Trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi (Cụ thể tại lớp A1, A2, A3
trường mầm non …………..
4) Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực
phẩm cho trẻ.
- Nghiên cứu thực trạng (Thuận lợi và khó khăn) khi thực hiện hoạt động
giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm tại trường mầm non Tích
Lương;
- Đề xuất một số biện pháp đổi mới hình thức giáo dục dinh dưỡng và vệ
sinh an tồn thực phẩm cho trẻ.
5) Phương pháp nghiên cứu
Để thực thi đề tài này tôi sử dụng các phương pháp sau:
.- Phương pháp nghiên cứu lý luận: Phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, hệ
thống hóa tri thức từ các tài liệu các cơng trình có liên quan đến đề tài
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
- Phương pháp quan sát: Nhằm thu thập thông tin về đối tượng nghiên cứu.

Dùng phương pháp này để quan sát các hoạt động của trẻ trong ngày.


- Phương pháp thực hành, thực nghiệm sư phạm: Nhằm kiểm tra tính khả thi
và hiệu quả của các biện pháp đề ra.
- Phương pháp thống kê toán học: Nhằm tổng kết các kết quả thu được trong
quá trình điều tra
II) GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1) Cơ sở lý luận
Ở lứa tuổi mầm non quá trình tăng trưởng của trẻ diễn ra rất nhanh chóng
nhưng cơ thể của trẻ lại quá non nớt, trẻ dễ chịu ảnh hưởng của những tác động
bên ngoài, sức đề kháng của trẻ kém cho nên trẻ dễ mắc các loại bệnh nguy hiểm
đến tính mạng. Do vậy trẻ chỉ có thể phát triển thể lực tốt nếu như người lớn chú ý
đến việc chăm sóc giữ gìn sức khỏe, bảo vệ hệ thần kinh khỏe mạnh cho trẻ. Khi
đứa trẻ khỏe mạnh, hồn nhiên sẽ có ảnh tốt đến phát triển chung của trẻ. Giáo
dục sức khỏe càng có ý nghĩa hơn, là khâu then chốt trong cơng tác chăm sóc –
giáo dục trẻ vì chính những năm tháng đầu tiên của sống, sức khỏe tốt sẽ là một
điều kiện tốt cho cuộc sống sau này của trẻ.
Các cơ sở giáo dục mầm non có nhiệm vụ tạo điều kiện tốt nhất để trẻ
phát triển hài hoà thể chất và tinh thần, phối kết hợp giữa gia đình và nhà trường,
gia đình - xã hội để chăm sóc giáo dục trẻ từ 0-6 tuổi phát triển một cách toàn diện,
đặt nền tảng đầu tiên cho sự hình thành những phẩm chất con người mới :
- Khoẻ mạnh, nhanh nhẹn cơ thể phát triển hoàn hảo cân đối.
- Thơng minh, năng động, trước hồn cảnh thực tế của đất nước.
- Biết yêu Tổ Quốc, giàu lòng yêu thương, biết quan tâm, giúp mọi người.
- Có cá tính mạnh mẽ, có kỉ luật, có văn hóa.
Vậy để có được những con người như vậy thì cần phải cung cấp một
lượng dinh dưỡng theo phương châm 6 chữ : Toàn diện – cân đối – đủ lượng.
Toàn diện chính là đầy đủ, bằng mọi cách để cung cấp cho con người đầy đủ các
chất dinh dưỡng; phối hợp các loại thức ăn, hỗ trợ nhau về dinh dưỡng.

Cân bằng tức là cân đối để các chất dinh dưỡng để các chất dinh


dưỡng cần thiết cho cơ thể luôn trong trạng thái cân bằng dựa theo chất và lượng
nhất định, dựa theo tỉ lệ nhất định, không thể thiếu cà cũng không thể thừa. Nếu
không dễ dẫn đến thiếu dinh dưỡng hoặc thừa dinh dưỡng. Đủ lượng là chỉ số
lượng thích hợp, vừa có thể thỏa mãn nhu cầu sống lại vừa có thể đảm bảo yêu cầu
sinh trưởng phát triển.
Dinh dưỡng là nền tảng vật chất cho sự sinh trưởng và phát triển của
con người. Nếu trẻ thiếu dinh dưỡng sẽ khiến trẻ sinh trưởng phát triển chậm hoặc
trì trệ. Thừa dinh dưỡng sẽ dẫn tới hiện tượng béo phì hoặc gây ra bệnh tật khi
trưởng thành.
Dinh dưỡng có ảnh hưởng vô cùng quan trọng đối với sự sinh trưởng
phát triển ở trẻ nhỏ. Dinh dưỡng không chỉ ảnh hưỡng trực tiếp tới sự phát triển cơ
thể và trí tuệ ở trẻ nhỏ mà còn ảnh hưởng tới sự phát triển sau này.
Trong giai đoạn phát triển, trẻ ở độ tuổi khác nhau thì giai đoạn sinh trưởng
phát triển của chúng cũng khác nhau nên tâm lí và sinh lí cũng khơng giống nhau
và có sự khác biệt về nhu cầu dinh dưỡng. Do vậy, những người chăm sóc và giáo
dục trẻ mầm non cần tính tới đặc điểm dinh dưỡng ở mỗi giai đoạn của trẻ, phải có
phương pháp, sự quan tâm chăm sóc đặc biệt và cả sự lựa chọn đúng đắn. Vì vậy
mỗi đứa trẻ phải được cung cấp đầy đủ năng Chương trình lồng ghép giáo dục dinh
dưỡng vào giảng dạy cho trẻ mầm non giúp trẻ hiểu và nhận biết về lợi ích của giá
trị dinh dưỡng đối với cơ thể con người. Nên việc tiến hành giáo dục dinh dưỡng –
vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ mầm non sẽ góp phần quan trọng trong chiến
lược đào tạo và phát triển con người, tạo ra một lớp người mới có sự hiểu biết đầy
đủ về vấn đề dinh dưỡng – vệ sinh an toàn thực phẩm, biết lựa chọn ăn uống đúng
ách để đảm bảo sức khỏe của mình.
Qua đó, giáo dục dinh dưỡng giúp trẻ hiểu được giá trị dinh dưỡng
của các loại thức ăn đồng thời hướng dẫn trẻ cách sử dụng các chất đạm,
đường, béo, vitamin, nước, muối khoáng để giúp tăng thêm dinh dưỡng, năng

lượng cho cơ thể. Giáo dục dinh dưỡng còn cung cấp cho trẻ biết những chất đó có
trong các thực phẩm khác nhau: Gạo, thịt, trứng, sữa, rau,… Giáo dục dinh dưỡng


và vệ sinh an toàn thực phẩm giúp trẻ biết ăn uống đúng cách, hợp vệ sinh và văn
minh.
Là một giáo viên mầm non tôi thấy việc giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an
toàn thực phẩm cho trẻ em là rất cần thiết. Tuy nhiên, việc giáo dục thế nào cho
hiệu quả nhất lại phụ thuộc lớn vào các hình thức giáo dục trẻ.
2) Cơ sở thực tiễn
2.1) Tình hình chung về trường mầm non …………
Trường mầm non Tích Lương là có địa chỉ tại ………………… thành phố
…………. Trường nằm trong khu vực đơng dân cư, diện tích rộng, đi lại thuận lợi
và có trình độ dân trí đa dạng; có phụ huynh trí thức, phụ huynh là cơng nhân, là
nông dân và kinh doanh.
Năm học 2018-2019, tôi được phân công dạy lớp mẫu giáo 5-6 tuổi A2 với
tổng số 30 trẻ. Hiện nay, nhà trường đã có cơ sở vật chất khang trang và thiết bị
đầy đủ cho hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ. Nhà trường đã được công nhận đạt
tiêu chuẩn chất lượng giáo dục mức độ 3 và trường chuẩn Quốc gia mức độ 2 vào
tháng 12 năm 2018.
2.2) Những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện hoạt động giáo dục dinh
dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ
* Thuận lợi:
Ngay từ đầu năm học Nhà trường đã xây dựng kế hoạch tuyên truyền giáo
dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm, kế hoạch phòng chống ngộ độc thực
phẩm. Tháng 9/2018, Ban giám hiệu đã tổ chức buổi tập huấn đối với giáo viên về
chủ đề dinh dưỡng và an toàn thực phẩm. Xây dựng các nội quy, quy định về bếp
ăn an toàn và kiểm tra nghiêm ngặt quy trình sơ chế, chế biến, chia thức ăn và các
hoạt động đảm bảo an toàn thực phẩm trong nhà trường.
Các lớp, các giáo viên luôn được sự quan tâm của Ban giám hiệu trong cơng

tác chăm sóc, ni dưỡng trẻ. Đảm bảo các điều kiện về cơ sở vật chất để phục vụ
giáo dục dinh dưỡng và an toàn thực phẩm cho trẻ.


100% giáo viên có trình độ chun mơn đạt chuẩn và trên chuẩn trở lên, có
kiến thức về dinh dưỡng và an toàn thực phẩm. Các giáo viên đều nhiệt tình, tâm
huyết với nghề, yêu trẻ như con.
Cha mẹ học sinh luôn quan tâm tới con, trao đổi, kết hợp với giáo viên và
nhà trường trong việc chăm sóc và giáo dục trẻ.
Học sinh của nhà trường nề nếp, tích cực học hỏi và tham gia các hoạt động.
* Khó khăn
Giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm không phải là một môn
học nên phải lồng ghép, tích hợp vào các hoạt động học và các hoạt động khác.
Cùng trong một lớp, một độ tuổi nhưng khả năng tiếp thu của trẻ khơng
giống nhau, có trẻ chậm, có trẻ nhanh nên khi sử dụng các hình thức giáo dục thì
chất lượng đánh giá trên trẻ chưa đồng đều.
Khá nhiều trẻ cuối năm học trước cân nặng và chiều cao đều đạt chuẩn
nhưng sau thời gian nghỉ hè bị rơi vào ngưỡng thấp còi và suy dinh dưỡng. Cụ thể,
kết quả cân đo lần 1 năm học 2018-2019 có:
+ Tổng số trẻ suy dinh dưỡng:
+ Tổng số trẻ thấp cịi:
Có một số trẻ “Kén ăn”, chỉ ăn một loại thức ăn và có nhiều trẻ biếng ăn
phải đợi cơ bón mới ăn.
Một số phụ huynh chưa thực sự dành nhiều thời gian trao đổi và phối kết
hợp với nhà trường trong việc chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ.
3) Một số biện pháp đổi mới hình thức giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh
an toàn thực phẩm cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi thông qua hoạt động giáo dục
3.1) Biện pháp 1: Hình thức trong tiết học
Như đã nói ở trên, hoạt động giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực
phẩm phải lồng ghép vào các môn học khác như cho trẻ làm quen với toán, âm

nhạc, cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học … nên trong các tiết học này giáo
viên thực hiện lồng ghép giáo dục cho trẻ về các thực phẩm, các món ăn trong các
bữa ăn hàng ngày của chúng ta. Cùng với đó, giới thiệu với trẻ về tên gọi, đặc


điểm, giá trị dinh dưỡng của từng loại thực phẩm …. Nhưng khơng lấn áp mất nội
dung chính của tiết học.
Đối với mỗi thực phẩm, giáo viên giúp trẻ hiểu được cấu tạo của thực phẩm,
ví dụ như rau bắp cải có những bộ phận gì? Giới thiệu với trẻ các thành phần dinh
dưỡng của thực phẩm đó là chất béo, chất đạm, chất đường bột và các loại vitamin,
khoán chất. Ví dụ như trong cá chất béo, chất đạm…..
Ví dụ: Trong giờ tạo hình “nặn bánh trơi, bánh quẩy”, cơ có thể đưa bánh
mẫu đã làm sẵn và đặt hệ thống câu hỏi cho trẻ trả lời:
- Cô đang có gì trên tay?
- Bánh trơi, bánh quẩy được làm từ gì?
- Cách chế biến hai loại bánh này?
- Để đảm bảo vệ sinh khi làm chúng ta phải làm những gì?
- Trước khi ăn mình phải làm gì?....
CHÈN ẢNH
3.2) Biện pháp 2: Hình thức ngồi giờ học
* Giáo dục trong các bữa ăn:
Đối với hình thức này, giáo viên cần vừa thực hiện các nhiệm vụ trong giờ
ăn đối với trẻ vừa giảng giải, đặt ra các hệ thống câu hỏi để giúp trẻ tiếp thu được
các nội dung về dinh dưỡng và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
Trước khi cho trẻ ngồi vào bàn, giáo viên cần hỏi trẻ “Các con phải làm gì
trước khi ăn?” hướng cho trẻ trả lời “Phải rửa tay trước khi ăn” và yêu cầu trẻ đi
rửa tay bằng xà phòng rồi mới ngồi vào bàn.
Khi tiến hành chia thức ăn cho trẻ, cơ giới thiệu với trẻ các món ăn trong bữa
ăn ngày hơm đó. Đồng thời, nói cho trẻ biết món ăn đó được làm từ gì và có giá trị
dinh dưỡng như thế nào, để chế biến món ăn hợp vệ sinh, đảm bảo an toàn phải

làm như thế nào.
Ví dụ: Vào giờ ăn trưa, có 04 món chính như sau:


- Cơm tẻ;
- Thịt gà rim;
- Bí xanh xào thịt lợn;
- Canh rau ngót nấu nước xương
Với cơm tẻ: Cơm tẻ là thực phẩm chính trong đời sống của con người. Cơm
tẻ được nấu từ gạo tẻ và trong cơm có chủ yếu là chất đường bột. Trước khi nấu
cơm cần phải vo gạo sạch, rửa sạch nồi cho gạo và nước vào nồi ở mức nhất định
rồi bắc lên bếp nấu. Khi vo gạo cần phải sử dụng nước sạch, rửa sạch xoong hoặc
nồi nấu. Sau khi nấu chín sẽ chia ra bát. Nhắc học sinh chú ý phải đợi cơm nguội
mới ăn tránh bị bỏng.
Món thịt gà rim: Thành phần chính của món này là thịt gà, có cho thêm gừng
hoặc nghệ tăng hương vị món ăn. Thịt gà có nhiều chất đạm và chất béo….. Trước
khi rim thịt gà cần sơ chế gà thật sạch sẽ….. Từ nguồn thực phẩm là gà có thể chế
biến thành nhiều món ăn khác. Cơ có thể hỏi trẻ và hỏi cách chế biến.
Với các món ăn khác giới thiệu tương tự. Lưu ý chung, khi giới thiệu với trẻ
về các món ăn và giá trị dinh dưỡng của món ăn cần giáo dục cho trẻ cách giữ vệ
sinh khi chế biến, nấu ăn, khi ăn.


Trẻ rửa tay trước và sau khi ăn
Hướng dẫn trẻ sau khi ăn cần thực hiện các nhiệm vụ:
- Cất bát, thì vào nơi cơ quy định để cơ thu dọn và vệ sinh;
- Cất ghế của mình ngồi;
- Đi rửa tay, lau miệng và uống nước sau khi ăn.
* Giáo dục trong hoạt động góc
Với hoạt động góc giáo viên thực hiện giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an

toàn thực phẩm cho học sinh bằng cách hướng dẫn trẻ xây dựng các góc nấu ăn,
góc bán hàng cho trẻ chơi. Thơng qua đó giới thiệu với trẻ các loại thực phẩm, các
món ăn và giá trị dinh dưỡng của món ăn. Đồng thời, hướng dẫn trẻ giữ gìn vệ sinh
thân thể, vệ sinh khi nấu ăn và khi ăn.


Góc bán hàng
Ví dụ: Khi xây dựng góc bán hàng thì sẽ có cửa hàng bán rau, cửa hàng bán
thực phẩm. Người bán (Học sinh đóng vai chơi) và người mua cùng trao đổi với
nhau về các loại thực phẩm (Cô cùng tham gia hướng dẫn trẻ). Ở cửa hàng bán rau
cơ sẽ hỏi trẻ những câu hỏi để kích thích trẻ tham gia và tìm hiểu:
- Các con đang bán gì?
- Có những loại rau gì trong cửa hàng của con?
- Đây là rau gì? Loại rau này sẽ làm được những món gì ?
- Con có biết món này có giá trị dinh dưỡng thế nào khơng ? (Đối với câu
hỏi này cô sẽ gợi mở và giúp trẻ trả lời).


Góc nấu ăn
- Khi chế biến món ăn chúng ta cần chú ý những gì ? (Đảm bảo vệ sinh an
toàn thực phẩm: Sử dụng nước sạch để nấu, rửa rau thật sạch, đeo tạp dề khi nấu
ăn, tránh để bị bỏng trong khi nấu)
* Giáo dục trong giờ hoạt động chiều
Thực hiện giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm trong giờ hoạt
động chiều bằng các hình thức như cho trẻ ơn luyện những bài thơ, bài đồng dao
để trẻ nhớ được kiến thức đã học và đặt ra những câu hỏi để gợi cho trẻ trả lời và
thêm phần hứng thú.
Ví dụ cho trẻ đọc bài thơ “Vườn cây của ba”
Má trồng toàn những cây dễ thương
Nào là hoa là rau là lúa



Cịn Ba trồng tồn cây dễ sợ
Cây xù xì cây lại có gaị
Cái gai bưởi đụng vào là chảy máu
Trái sầu riêng rớt trúng thì đầu u
Nhựa hột điều dính vào là rách áo
Cây dừa cao eo ôi ôi là caọ
Cây Ba trồng sống lâu lâu thiệt là lâu
Mưa chẳng dập gió lay chẳng đổ
Thân xù xì cứ đứng trơ trơ
Cành gai góc đâm ngang tua tuả
Bưởi, sầu riêng, dừa, điều và nhiều nữa
Cho em bốn mùa vị ngọt hương thơm
Vườn cuả Ba cây trồng thì dễ sợ
Mà Trái nào cũng thiệt dễ thương
Đặt các câu hỏi cho trẻ trả lời:
- Các con vừa đọc bài thơ gì?
- Bài thơ nói về điều gì?
- Má trồng những cây gì?
- Những cây má trồng để làm gì?
- Chúng cung cấp cho chúng ta những chất gì?
- Cịn ba trồng những cây gì?
- Cây ba trồng mang lại cho chúng ta những gì?
- Chúng cung cấp cho chúng ta những chất gì?
- Trước khi ăn các loại trái cây chúng ta phải làm gì?.....


3.3) Biện pháp 3: Giáo dục thông qua tổ chức các hội thi
Việc tổ chức các hội thi, chuyên đề để giáo dục dinh dưỡng cũng là một hoạt

động giáo dục trẻ có hiệu quả tích cực. Việc tổ chức các hội thi dành cho các bé
như Hội thi “Bé khỏe bé ngoan”, Hội thi “Bé làm đầu bếp”…. sẽ giúp các con tiếp
cận thực tế với các loại thực phẩm và các cách chế biến. Thơng qua đó sẽ giáo dục
trẻ về các giá trị dinh dưỡng của thực phẩm và hướng dẫn trực tiếp trẻ cách đảm
bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
Chèn ảnh: Xin ảnh của c Linh năm ngối tổ chức chun đề tạo hình bánh
trơi bánh quẩy nhé
Ví dụ: Với Hội thi “Bé làm đầu bếp”, sẽ tổ chức cho 03 lớp mẫu giáo 5-6
tuổi A1, A2, A3 cùng tham gia thi làm các món ăn
Lớp A1 (Đặt tên là đội Ngũ sắc) sẽ làm món xơi ngũ sắc. Giáo viên sẽ chuẩn
bị đủ các ngun liệu để làm món xơi này và cùng trẻ tham gia quá trình nấu. Khi
tiến hành giáo viên sẽ giới thiệu và gợi ý cho trẻ bằng cách vừa làm vừa đặt hệ
thống câu hỏi như:
- Chúng ta đang chuẩn bị làm món gì?
- Món xơi ngũ sắc được làm từ những ngun liệu gì?
- Các con có biết cách làm món này khơng?
- Khi làm chúng ta phải làm gì để đảm bảo vệ sinh?
Cùng với việc hỏi trẻ, cô sẽ gợi ý cho trẻ trả lời và tiến hành làm món xơi
ngũ sắc. Cơ và trẻ cùng đeo tạp dề, khẩu trang, đi găng tay. Sau khi làm xong trang
trí món ăn, dọn dẹp thật sạch sẽ…..
Đối với lớp A2, A3 chọn các món ăn tham gia thi cũng sẽ làm tương tự.


Sau khi thi nấu ăn xong, Ban tổ chức sẽ tiến hành thi kiến thức giữa các đội
(Các bé sẽ là người tham gia). Nội dung các câu hỏi kiến thức xoay quanh các nội
dung liên quan đến món ăn bé vừa làm như:
- Đội ngũ sắc vừa làm món ăn gì?
- Cách làm như thế nào?
- Giá trị dinh dưỡng của món ăn?
- Các cách đảm bảo vệ sinh khi nấu ăn và khi ăn?....

3.4) Biện pháp 4: Cho trẻ đi tham quan
Tổ chức cho trẻ đi tham quan cũng là một hoạt động giáo dục nhằm củng cố
và mở rộng kiến thức cho trẻ. Khi tổ chức cho trẻ tham quan có hai cách:
- Cho trẻ tham quan nhà bếp
- Cho trẻ tham quan vườn rau của nhà trường
- Tổ chức cho trẻ tham quan các khu sinh thái, các trang trại…..
Chèn ảnh trẻ cùng tham gia sơ chế món ăn với giáo viên dinh dưỡng
Với hình thức thứ nhất, cho trẻ tham quan nhà bếp. Giáo viên sẽ đưa trẻ
xuống bếp ăn của nhà trường và cho trẻ tham gia vào q trình nấu ăn đồng thời
trị chuyện với trẻ:
+ Các con quan sát xem các cô ni đang làm gì?
+ Cơng việc của mỗi cơ có giống nhau khơng?
+ Hãy đốn xem hơm nay các con sẽ được ăn món gì?
+ Các cơ đã sơ chế thực phẩm như thế nào để đảm bảo vệ sinh?
+ Khi nấu trang phục của các cô như thế nào?


+ Các cô để lẫn thức ăn sống với thức ăn chín khơng? Vì sao khơng được
làm như vậy?
+ Khi nấu chín xong thì phải làm gì?
Sau khi tham quan ở bếp và trải nghiệm việc sơ chế các món ăn cho trẻ trở
lại lớp và đàm thoại lại với trẻ những nội dung vừa tham gia. Các giáo viên phải
nhớ nhắc trẻ cảm ơn các cô nuôi đã nấu ăn cho mình.
Hình thức thứ hai, cho trẻ tham quan vườn rau của nhà trường. Trường mầm
non Tích Lương với khn viên rộng đã bố trí trồng vườn rau xanh. Tổ chức cho
trẻ tham quan vườn rau, giới thiệu với trẻ những loại rau có trong vườn. Hỏi trẻ về
giá trị dinh dưỡng của từng loại rau. Cách chế biến, cách đảm bảo vệ sinh an toàn
thực phẩm và cách chăm sóc vườn rau.

Trẻ tham quan vườn rau của nhà trường

Hình thức thứ ba, tham quan trải nghiệm tại các trang trại khu du lịch sinh
thái. Hiện nay, các trường mầm non đều lấy thực phẩm do công ty thực phẩm Thái
Cương cung cấp. Nhà trường đề nghị với công ty cho trẻ được đến tham quan trang
trại nuôi lợn, ni tơm cá, nơi trồng các loại rau. Q trình tham quan giáo viên
cũng đặt các câu hỏi cho trẻ về các vật ni, các loại rau được nhìn thấy, giáo dục


cho trẻ về giá trị dinh dưỡng của từng loại và các cách đảm bảo vệ sinh an toàn
thực phẩm.
3.5) Biện pháp thứ 5: Phối hợp với cha mẹ học sinh và trạm Y tế
Thứ nhất, phối kết hợp với cha mẹ học sinh để giáo dục dinh dưỡng và vệ
sinh an toàn thực phẩm cho trẻ bằng cách như cung cấp các sách báo, tài liệu về
giáo dục dinh dưỡng và VSATTP cho phụ huynh cùng kết hợp với giáo viên để
giáo dục trẻ. Trao đổi với phụ huynh về các kỹ năng vệ sinh trước và sau khi ăn
của trẻ để phụ huynh tiếp tục rèn trẻ thực hiện khi ở nhà. Trò chuyện với phụ
huynh trong giờ đón trả trẻ về các kiến thức giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an
toàn thực phẩm mà giáo viên dạy trẻ ở lớp để phụ huynh giáo dục khi trẻ ở nhà
như: Trong bữa ăn phụ huynh hỏi trẻ: Tên món ăn, các chất dinh dưỡng có trong
món ăn… Vận động phụ huynh sưu tầm đóng góp tranh ảnh, câu chuyện, bài hát,
thơ, băng đĩa có nội dung giáo dục dinh dưỡng và VSATTP cho giáo viên để giáo
viên dạy trẻ trên lớp. Giáo viên trò chuyện với những phụ huynh làm cơng việc về
y tế để có một số hiểu biết về dinh dưỡng và VSATTP, các chất dinh dưỡng cần và
đủ cho một cơ thể khỏe mạnh. Khuyến khích trẻ tập làm nội trợ, phụ giúp mẹ nấu
cơm như: nhặt rau, pha nước chanh, nước cam… Phối hợp với phụ huynh tổ chức
các hội thi, triển lãm các món ăn để góp phần làm phong phú thêm các hoạt động
giáo dục dinh dưỡng cho trẻ.
Chèn ảnh nói chuyện với phụ huynh về dinh dưỡng
Thứ hai, phối hợp với trạm Y tế phường Tích Lương để tuyên truyền cho trẻ
và cha mẹ học sinh thông qua việc tổ chức khám sức khỏe định kỳ cho trẻ. Khi tiến
hành khám, các bác sĩ thông báo cho cha mẹ trẻ về tình trạng sức khỏe của trẻ và

tư vấn về dinh dưỡng cũng các cách đảm bảo an toàn, vệ sinh cho trẻ. Riêng đối
với trẻ, các bác sĩ sẽ động viên, khuyến khích trẻ chịu khó ăn, ăn các thực phẩm
cung cấp nhiều dưỡng chất, khuyên trẻ chịu khó đánh răng, rửa tay sau khi đi vệ
sinh, trước và sau khi ăn vì đối với trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi tỷ lệ trẻ bị sâu răng rất
nhiều.
Chèn ảnh khám sức khỏe


3.6) Biện pháp 6: Tuyên truyền trên website và bảng tin
Khi tổ chức tuyền truyền trên website và bảng tin của nhà trường thì đối
tượng chúng ta hướng tới là cha mẹ học sinh và nhân dân tại địa phương. Việc
tuyên truyền này yêu cầu nhà trường phải cử cán bộ phụ trách công tác y tế thường
xuyên cập nhật tình hình về sức khỏe, tâm lý của trẻ, chế độ dinh dưỡng dành cho
trẻ, các bữa ăn dành cho trẻ tại trường…. để viết các bài tuyên truyền giúp cho cha
mẹ khơng có nhiều thời gian đưa đón con có thể tiếp cận được các thơng tin liên
quan tới tình hình của con em mình. Các bài viết phải giúp cha mẹ hiểu được về
dinh dưỡng dành cho trẻ ở độ tuổi mầm non. Các cách đảm bảo dinh dưỡng cho
trẻ, các cách đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ.
Chụp bảng tin và website có bài tuyên truyền dinh dơngx
Đồng thời, nhà trường thường xuyên cập nhật tình hình về các bệnh, dịch
theo mùa, các phương pháp phòng tránh cho cha mẹ trẻ thực hiện.
4) Hiệu quả khi áp dụng các biện pháp
Sau khi thử nghiệm các biện pháp trên ở ba lớp mẫu giáo 5-6 tuổi trường
mầm non Tích Lương và áp dụng tới 11/11 lớp của nhà trường, tới thời điểm tháng
3/2019 tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng và thấp còi đã được cải thiện rất nhiều. Cụ thể:

Khi tổ chức Hội thi “Bé làm đầu bếp”, các bé trả lời các câu hỏi của Ban tổ
chức những kiến thức về dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm rất tốt. Đặc
biệt, bé Tùng Anh đã đưa ra lời khuyên cho tất cả các bạn về việc đảm bảo vệ sinh
khi nấu ăn.

Sau một thời gian thực hiện các biện pháp này, trong giờ ăn 100% trẻ đã tự
giác thực hiện việc vệ sinh cá nhân trước và sau khi ăn không đợi giáo viên nhắc
nhở.


VI. Thơng tin cần được bảo mật: Khơng có
VII. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến
1. Những điều kiện về cơ sở vật chất
Những điều kiện trong lớp học và ngoài lớp học: Để thực hiện sáng kiến này
cần phải có mơi trường vật chất trong và ngồi lớp học đảm bảo như: Phải có lớp
học, có mơi trường rộng rãi, thống để giáo viên tạo khn viên cho trẻ khảo sát
thử nghiệm. Bếp ăn đảm bảo, vệ sinh sạch sẽ.
2. Những điều kiện về giáo viên
Để thực hiện sáng kiến đòi hỏi giáo viên phải tâm huyết, u nghề trình độ
chun mơn vững vàng, tích cực suy nghĩ tìm tịi sáng tạo trong q trình tổ chức
hoạt động giáo dục, hỗ trợ đồng nghiệp khảo sát, áp dụng thực hành. Được ban
giám hiệu ủng hộ và tạo điều kiện hỗ trợ về kinh phí.
3. Những điều kiện về phụ huynh và các cá nhân, tổ chức
Được phụ huynh nhiệt tình ủng hộ, quan tâm giúp đỡ giáo viên thử nghiệm
sáng kiến, đóng góp các tài liệu để thực hiện công tác giáo dục dinh dưỡng và an
tồn thực phẩm cho trẻ.
Có sự phối kết hợp của trạm Y tế phường Tích Lương, cơng ty thực phẩm
Thái Cương.
4. Những điều kiện về trẻ:
Trẻ trong ba lớp mẫu giáo 5-6 tuổi và trẻ thuộc các khối lớp khác tích cực
tham gia vào các hoạt động.
VIII. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp
dụng sáng kiến
1. Những lợi ích đối với giáo viên
Tất cả giáo viên khi áp dụng các biện pháp đều nhận thức được tầm quan

trọng của hoạt dộng giáo dục dinh dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ và
cho cha mẹ học sinh. Thơng qua hình thức giáo dục này giáo viên sẽ dễ dàng hơn
trong việc chăm sóc trẻ đồng thời phát huy được tính tích cực và chủ động của
mình. Hiện nay bản thân tơi đã nắm vững nội dung phương pháp, hình thức tổ chức


của hoạt động này khơng cịn bỡ ngỡ như trước đây và hoạt động giáo dục dinh
dưỡng và vệ sinh an tồn thực phẩm.
2. Những lợi ích đối với phụ huynh
Cha mẹ học sinh nhận thức rõ được tầm quan trọng của việc giáo dục dinh
dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ, giúp trẻ cải thiện được tình hình sức
khỏe. Phụ huynh ủng hộ mang thêm đồ dùng, đồ chơi, tranh ảnh, sách báo sưu tầm
hỗ trợ giáo viên khi thực hiện giáo dục trẻ.
3. Những lợi ích đối với trẻ
Sau khi thực hiện các biện pháp trên lợi ích mang lại lớn nhất là: Trẻ có
hiểu biết về các loại thực phẩm, cách chế biến món ăn, giá trị dinh dưỡng của từng
loại và đặc biệt nâng cao kỹ năng vệ sinh cá nhân cũng như đảm bảo vệ sinh khi ăn
uống và nấu ăn. Đồng thời trẻ có kinh nghiệm sống của trẻ đã phong phú hơn, trẻ
hứng thú tham gia các giờ học. Cuối năm học tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng và thấp còi
đã được cải thiện rất nhiều so với đầu năm học.
IX. Danh sách những người đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng
kiến lần đầu (nếu có):
Số
TT

1

2

Họ và

tên

Ngày
tháng
năm
sinh

Nơi công
tác (hoặc
nơi thường
trú)

Chức
danh

Nội dung công
việc hỗ trợ

Giáo
Viên

Đại Học
Giáo viên phụ

và hỗ trợ áp
Phạm MN dụng sáng kiến

Giáo
Viên


Đại Học
Giáo viên hỗ

trợ áp dụng thử
Phạm MN sáng kiến ở lớp
khác.

Giáo
Viên

Cao đẳng
Giáo viên hỗ

trợ áp dụng thử
Phạm MN sáng kiến ở lớp
khác.

Giáo

Cao Đắng

3
4

Trình độ
chuyên
môn

Giáo viên hỗ



Viên

Sư Phạm

trợ áp dụng thử
sáng kiến ở lớp
khác.

Giáo
Viên

Đại Học
Sư Phạm

Giáo viên hỗ
trợ áp dụng thử
sáng kiến .

5
6

Giáo viên hỗ
trợ áp dụng thử
sáng kiến .

Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật và
hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật./.
….., ngày ... tháng... năm …..
Người nộp đơn

(Ký và ghi rõ họ tên)



×