Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

đánh giá tác động của thực tiễn sử dụng các yếu tố đầu vào cho sản xuất cà phê tỉnh đắk lắk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (536.25 KB, 50 trang )

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
VIỆN KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
TRUNG TÂM TƯ VẤN CHÍNH SÁCH NÔNG NGHIỆP
****************
BÁO CÁO NGHIÊN CỨU
ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA THỰC TIỄN SỬ
DỤNG CÁC YẾU TỐ ĐẦU VÀO CHO SẢN
XUẤT CÀ PHÊ TỈNH ĐẮK LẮK
Nhóm nghiên cứu:
Trần Thị Quỳnh Chi
1

Dave D’haeze
2

Hà Nội, tháng 10/2005
1
Trung tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp
2
EDE Consulting for Coffee
1
LỜI CẢM ƠN
Nghiên cứu “Đánh giá tác động thực tiễn sử dụng các yếu tố đầu vào cho sản xuất
cà phê" được hoàn thành với sự đóng góp của nhiều tổ chức cá nhân.
Trước hết, nhóm nghiên cứu xin chân thành cảm ơn Đại Sứ quán Pháp - Dự án
“Tăng cường năng lực thông tin phục vụ công tác hoạch định chính sách nông
nghiệp” (MISPA) đã hỗ trợ kinh phí để triển khai nghiên cứu này.
Nhóm nghiên cứu xin cảm ơn TS. Đặng Kim Sơn, Viện trưởng Viện Kinh tế
Nông nghiệp đã gợi ý tưởng, đóng góp ý kiến nhận xét và hỗ trợ nhóm nghiên
cứu hoàn tất báo cáo này. Ngoài ra, cũng xin gửi lời cảm ơn tới các cán bộ Trung
tâm Tư vấn Chính sách Nông nghiệp, Trung tâm Thông tin Chiến lược, Dự án


MISPA và một số phòng ban khác trong Viện Kinh tế Nông nghiệp đã tạo điều
kiện và đóng góp ý kiến cho nhóm nghiên cứu.
Báo cáo này cũng không thể hoàn thiện nếu thiếu sự giúp đỡ, hướng dẫn nhiệt tình của
các chuyên gia thuộc văn phòng Công ty Tư vấn Châu Á, Thái Bình Dương - EDE; đặc
biệt là TS. Dave D’haeze.
Chúng tôi cũng xin chân thành cảm ơn Sở Nông nghiệp và PTNT Đắk Lắk, Trung
tâm khuyến nông Tỉnh Đắk Lắk, Viện nghiên cứu khoa học nông nghiệp Tây
Nguyên, Trạm Nghiên cứu đất Tây Nguyên, Phân viện Quy hoạch Nông nghiệp
miền Trung, các Trung tâm khuyến nông huyện Krong Ana và CuMgar, lãnh đạo
và nông dân hai huyện Krong Ana và CuMgar đã tham gia các cuộc họp chuyên
gia, trả lời phỏng vấn của nhóm nghiên cứu.
Báo cáo này được hoàn thiện trong thời gian ngắn (6 tháng) và điều kiện kinh phí hạn
hẹp, vì vậy không thể tránh được thiếu sót. Nhóm nghiên cứu rất mong nhận được ý kiến
đóng góp của bạn đọc để tiếp tục hoàn thiện báo cáo này.
Xin chân thành cảm ơn.
2
ĐÁNH GIÁ VIỆC SỬ DỤNG NƯỚC, PHÂN BÓN VÀ THUỐC TRỪ SÂU TRONG SẢN
XUẤT CÀ PHÊ Ở TÌNH ĐẮC LẮC
PHẦN I: GIỚI THIỆU
1. Lịch sử phát triển cây cà phê Robusta ở Việt Nam
Cây cà phê đầu tiên được đưa vào Việt Nam năm 1857 và được trồng ở Việt Nam từ năm
1888 (Nhạn và cộng sự, 1999). Người Pháp đã mang cây cà phê Arabica từ đảo Bourbon
sang trồng ở phía Bắc Việt Nam sau đó mở rộng sang các vùng khác. Hầu hết cà phê
được xuất khẩu sang Pháp dưới thương hiệu "Arabica du Tonkin". Đầu thế kỷ 20, cây cà
phê được trồng ở một số đồn điền người Pháp tại Phủ Quỳ (Nghệ An) và một số nơi ở
Tây Nguyên với diện tích không quá vài nghìn ha. Năm 1930, Việt Nam có khoảng 5900
ha cà phê (VICOFA, 2002). Trong thời kỳ những năm 1960-1970, cây cà phê được phát
triển ở một số nông trường quốc doanh ở các tỉnh phía Bắc, khi cao nhất (1964-1966) đã
đạt tới 13000 ha. Sau khi đất nước thống nhất năm 1975, tổng diện tích cà phê Việt Nam
có khoảng 20.000 ha. Nhờ vốn từ các Hiệp định hợp tác liên Chính phủ với các nước

Liên Xô (cũ), CHDC Đức, Bungary, Tiệp Khắc và Ba Lan, cây cà phê bắt đầu được chú
trọng đầu tư, đặc biệt ở các tỉnh Tây Nguyên. Năm 1980, Việt Nam xuất khẩu khoảng
6000 tấn cà phê với diện tích khoảng 23 nghìn ha. Bản kế hoạch ban đầu được xây dựng
năm 1980 đặt mục tiêu cho ngành cà phê Việt Nam có khoảng 180 nghìn ha với sản
lượng 200 nghìn tấn. Sau đó, bản kế hoạch này đã nhiều lần sửa đổi. Các con số cao nhất
dừng lại ở mức 350 nghìn ha với sản lượng 450 nghìn tấn (VICOFA, 2002).
Trong thời kỳ từ 1982 đến 1988, cà phê được trồng mới thêm khoảng vài chục nghìn ha.
Đến năm 1990, Việt Nam có khoảng 119300 ha. Trong giai đoạn từ 1990 đến 1994, giá
cà phê thế giới ở mức rất thấp và diện tích cà phê Việt Nam không thay đổi nhiều, mỗi
năm tăng khoảng 10 nghìn ha. Năm 1994, tổng diện tích cà phê Việt Nam đạt 150.000 ha,
vẫn chỉ chiếm một tỷ lệ khiêm tốn (1,32%) trong tổng diện tích các loại cây trồng của
Việt Nam (ICARD & Oxfarm, 2002).
Năm 1994, khi sương muối ở Brazil phá huỷ phần lớn diện tích cà phê nước này đã làm
cung thế giới giảm mạnh, giá thế giới tăng đột biến. Giá tăng đã khuyến khích người
trồng cà phê Việt Nam mở rộng diện tích trồng và tăng thâm canh cà phê. Những người
nghèo và đồng bào dân tộc ít người mở rộng diện tích cà phê bằng cách khai hoang, phá
rừng.
Diện tích trồng cà phê đã tăng lên nhanh hơn, bình quân 23,9%/năm, đưa tổng diện tích
cây cà phê năm 2000 lên đến 516,7 nghìn ha, chiếm 4,14% tổng diện tích cây trồng của
Việt Nam, đứng thứ ba chỉ sau hai loại cây lương thực chủ lực là lúa (chiếm 61,4%) và
ngô (chiếm 5,7%). Trong thập kỷ 90 thế kỷ XX, sản lượng tăng lên trên 20%/năm (và các
năm 1994, 1995, 1996 sản lượng tăng thậm chí còn cao hơn với tỷ lệ lần lượt là 48,5%,
45,8% và 33%). Năm 2000, Việt Nam có khoảng 520 nghìn ha cà phê, tổng sản lượng đạt
800 nghìn tấn. Nếu so với năm 1980, diện tích cà phê của Việt Nam năm 2000 đã tăng
gấp 23 lần và sản lượng tăng gấp 83 lần. Mức sản lượng và diện tích vượt xa mọi kế
hoạch trước đó và suy đoán của các chuyên gia trong nước và quốc tế. Tăng trưởng cà
3
phê Việt Nam trong quá khứ chủ yếu dựa trên tăng diện tích, đặc biệt là những năm đầu
thập niên 90. Sau đó, tăng năng suất trở thành yếu tố chính đóng góp cho tăng trưởng sản
lượng cà phê ở Việt Nam. Tính chung cho cả giai đoạn 1994 - 2002, năng suất đóng góp

khoảng 38% tốc độ tăng sản lượng và diện tích đóng góp khoảng 62%.
Nghề trồng cà phê ở Việt Nam là một nguồn thu nhập cho một nhóm đông dân cư ở nông
thôn, trung du và miền núi. Cà phê đã tạo việc làm cho hơn 600 nghìn nông dân và số
người có cuộc sống liên quan tới cà phê trên 1 triệu người. Cà phê chiếm khoảng 8% giá
trị sản lượng nông nghiệp khoảng 25% giá trị xuất khẩu nông nghiệp.
Đắk Lắk là vùng trồng cà phê lớn nhất của Việt Nam, chủ yếu là cà phê vối với tổng diện
tích năm 2004 đạt khoảng 160.000 ha. Việc mở rộng diện tích trồng cà phê cũng chủ yếu
diễn ra ở tỉnh này.
Đăk Lăk là tỉnh lớn nhất Việt Nam nằm ở trung tâm vùng Tây Nguyên với tổng diện tích
tự nhiên khoảng 1,3 triệu ha bao gồm 422 nghìn ha đất nông nghiệp, chủ yếu là đất đỏ Bazan.
Khí hậu thời tiết vùng Tây Nguyên đã tạo cho Đăk Lăk điều kiện rất thích hợp để phát
triển những loại cây công nghiệp có giá trị hàng hoá lớn như cà phê, cao su, hồ tiêu v.v
Trong giai đoạn 1995 - 2000, cây cà phê là một cây công nghiệp đem lại nhiều lợi ích cho
người dân nói riêng và cho cả tỉnh Đăk Lăk nói chung. Do lợi nhuận trồng cà phê cao nên
người dân đã giàu lên và có tới hàng chục vạn người từ 61 tỉnh thành Việt Nam đến Đăk
Lăk để lập nghiệp, trong đó phần lớn là dân di cư tự do, mở rộng diện tích trồng cà phê
(Sở NN&PTNT Đắk Lắk, 2002). Những người dân đi di cư tự do này đã gây ra biết bao
khó khăn cho Đăk Lăk trong quản lý nhân hộ khẩu, an ninh trật tự và thực hiện các mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Hàng ngàn vụ tranh chấp đất đai, hàng ngàn vụ vi phạm
lâm luật đã xảy ra. Nhiều trường học, cơ sở y tế quá tải.
3

Do diện tích trồng cà phê tăng trưởng quá nhanh và nước tưới được xem là yếu tố sống
còn cho cây cà phê nên các vườn trồng cà phê ở khu vực này đang phải đối mặt với
những dấu hiệu đáng báo động của việc khan hiếm nước tưới cũng như mực nước ngầm
(D’haeze, 1999; Ha, 2002). Trong mùa khô, khi cây cà phê đến giai đoạn trổ hoa và ra
quả, mỗi ha cà phê cần tới 1500-3000 m³ nước (Luu, 2002; Bau, L.N., 1984).
Mặt khác, phân hoá học và thuốc trừ sâu dường như cũng đã được sử dụng quá mức quy
định (D’haeze, 1999). Do đất bazal ở Đắk Lắk rất xốp nên các chất dinh dưỡng dễ thẩm
thấu xuống nước ngầm, ảnh hưởng đến nước sinh hoạt và về lâu dài có thể ảnh hưởng

đến việc nuôi trồng tôm ở vùng đồng bằng. Ngoài ra, giá đầu vào (phân bón và nhiên
liệu) cũng đang ngày càng tăng trong thời gian gần đây. Việc sử dụng quá mức những
yếu tố đầu vào này do đó không chỉ ảnh hưởng đến môi trường mà còn ảnh hưởng đến
kinh tế của hộ gia đình.
3. Mục tiêu của nghiên cứu
Mục tiêu tổng thể
Nghiên cứu này được tiến hành nhằm phân tích thực trạng sử dụng các nguồn lực dành
cho sản xuất cà phê hiện nay ở hai huyện trồng cà phê điển hình của tỉnh Đắk Lắk. Từ đó,
nghiên cứu sẽ xác định những tác động của việc sử dụng nguồn lực này đến môi trường
và kinh tế các hộ điều tra.
Mục tiêu cụ thể
Nghiên cứu nhằm đạt được một số mục tiêu cụ thể như sau:
3

4
1. Đánh giá và giải thích việc sử dụng các nguồn lực trong sản xuất cà phê hiện nay ở
hai huyện Cu M’gar và Krong Ana thuộc tỉnh Đắk Lắk.
2. So sánh và giải thích việc sử dụng các yếu tố đầu vào này với các tiêu chuẩn địa
phương do các viện nghiên cứu và trung tâm khuyến nông đưa ra.
3. Đánh giá tác động môi trường và kinh tế của việc sử dụng các nguồn lực nước, phân
bón và thuốc trừ sâu hiện nay.
4. Đưa ra các đề xuất và kiến nghị cho nông dân và hệ thống khuyến nông.
4. Kết cấu bài viết
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu trên, trong phần giới thiệu chung bài viết trước hết
sẽ giới thiệu qua về lịch sử phát triển của cây cà phê Vối ở Việt Nam, giới thiệu tóm tắt
về các nghiên cứu trước đây trong lĩnh vực này, trên cơ sở đó nêu ra những lý do phải
tiến hành nghiên cứu này. Phần này cũng nêu ra các mục tiêu nghiên cứu chung và cụ thể
và đặc biệt nhấn mạnh đến những phương pháp nghiên cứu thu thập số liệu thứ cấp và sơ
cấp thông qua phỏng vấn thực địa và tổ chức hội thảo chuyên gia.
Trong phần thứ hai, tác giả sẽ mô tả kết quả điều tra để thấy rõ thực trạng sử dụng ba yếu

tố đầu vào chính (nước, phân bón và thuốc trừ sâu) cho sản xuất cà phê ở các vùng điều
tra.
Trong phần thứ ba, bài viết sẽ phân tích các tác động của việc sử dụng những yếu tố này
đến môi trường và kinh tế nông hộ.
Cuối cùng, bài viết sẽ đề xuất ra một số khuyến nghị về việc sử dụng tối ưu nguồn lực
cho hai đối tượng chính: nông dân và hệ thống khuyến nông.
5. Hạn chế của nghiên cứu
Trong khuôn khổ của một nghiên cứu nhỏ bị hạn chế về thời gian và nguồn lực, nhóm tác
giả chỉ lựa chọn 80 hộ trong 2 huyện điển hình về sử dụng các nguồn lực cho sản xuất cà
phê ở Đắk Lắk để thấy được hiện trạng sử dụng hiện nay. Ngoài ra, nghiên cứu cũng
không có tham vọng phân tích một cách rất cụ thể về mặt kỹ thuật các tác động của việc
sử dụng này đến môi trường. Nhóm tác giả chỉ có thể dựa trên sự so sánh giữa thực trạng
sử dụng và các khuyến nghị về việc sử dụng các nguồn lực này của các cơ quan khuyến
nông, các Viện nghiên cứu trong vùng và cả những nghiên cứu ngoài nước.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Biện pháp thu thập số liệu
a. Thu thập các thông tin, số liệu thứ cấp: chủ yếu là các kết quả nghiên cứu trước đây về
các biện pháp kỹ thuật mà các đơn vị nghiên cứu trong và ngoài nước triển khai về việc
sử dụng các nguồn đầu vào chính trong sản xuất cà phê. Nguồn thông tin chủ yếu là qua
internet, thu viện và các Viện, tổ chức nghiên cứu. Ngoài ra, tác giả cũng thu thập những
tờ rơi giới thiệu kỹ thuật trồng và chăm sóc cây cà phê của hệ thống khuyến nông tại tỉnh
Đắk Lắk.
b. Thu thập số liệu sơ cấp
• Lựa chọn địa điểm nghiên cứu
Nhóm nghiên cứu đã lựa chọn 2 huyện điển hình của tỉnh đắk Lắk, tỉnh sản xuất cà phê
vối lớn nhất của Việt nam. Đó là 2 huyện Krong Ana và CưMgar. Năm 2004, tổng diện
tích trồng cà phê của tỉnh đạt khoảng 160.000 ha. Trong đó, diện tích trồng cà phê của 2
huyện đạt 52339 ha, chiếm 54% tổng diện tích nông nghiệp của hai huyện.
5
Hai huyện và 4 xã được lựa chọn điều tra bắt đầu trồng cà phê từ thập kỷ 60 của thế kỷ 20 từ

nhiều giống cà phê khác nhau do người Pháp đem vào. Quy mô vườn trồng cà phê lúc đó
khoảng 10-20 ha, do các nông trường quốc doanh quản lý. Sau năm 1975, cà phê ở khu vực này
không được đầu tư phát triển.
Cho đến tận năm 1980, trong một số vùng thuộc huyện Krong Ana, đặc biệt là hai xã điều tra Ea
Tieu and Ea Ktul, các công ty liên doanh Việt - Đức đã được thiết lập và năm 1991 được đổi
thành Tổng công ty cà phê Việt Nam, đầu tư phát triển mạnh cà phê ở vùng này. Cà phê ở
CuMgar phát triển chậm hơn Krong Ana.
• Cách lấy mẫu điều tra hộ
Nhóm nghiên cứu đã lựa chọn 80 hộ
nông dân thuộc 4 xã, 2 huyện, mỗi
xã 20 hộ. Việc lựa chọn dựa trên
tình hình thu nhập của hộ (trong đó
phân ra nhóm hộ giàu, hộ nghèo và
hộ trung bình).
Ngoài ra, nhóm nghiên cứu cũng có
tính đến vấn đề dân tộc, cố gắng lựa
chọn một số hộ dân tộc thiểu số để
đưa vào nghiên cứu (số hộ dân tộc
thiểu số chiếm 6,25% tổng số mẫu
nghiên cứu) . Khả năng tiếp cận với
các nguồn lực tự nhiên khác nhau cũng là một tiêu chí được sử dụng để lựa chọn hộ.
Chẳng hạn như, nhóm điều tra đã lựa chọn cả các nhóm hộ tiếp cận rất dễ với nguồn
nước, do vậy không bị ảnh hưởng nhiều của tình trạng hạn hán và cả các nhóm hộ gặp
khó khăn trong việc tiếp cận nguồn nước và do vậy bị ảnh hưởng rất lớn của hạn hán năm
2004.
• Nội dung bảng hỏi hộ nông dân
Nhóm nghiên cứu đã tập trung vào một số nội dung chính trong khi lập bảng hỏi điều tra
hộ như sau:
- Các đặc điểm của hộ: tâp trung vào các đặc điểm của chủ hộ như tên, giới tính, dân tộc,
quê gốc, trình độ học vấn, nghề nghiệp trước đây. Ngoài ra, bảng hỏi cũng lấy thêm các

thông tin về tổng số thành viên trong gia đình, số lượng người trưởng thành và tổng số
thành viên là nông dân. Những thông tin này sẽ cho biết số lượng lao động trong gia đình
được huy động vào các sản xuất nông nghiệp, có thể sử dụng để đối chứng với các thông
tin được cung cấp trong các phần sau về ngày công lao động trong sản xuất cà phê. Trong
phần này, tình trạng hộ giàu, nghèo, trung bình cũng được đề cập đến theo đánh giá định
tính của chính chủ hộ, của người đi điều tra và cán bộ địa phương. Thông tin này sau đó
sẽ được so sánh với tổng thu nhập của hộ gia đình do nhóm nghiên cứu tính toán để thấy
rõ tình trạng của hộ. Thông tin về tình trạng thu nhập của hộ là rất quan trọng để đánh giá
mức độ sử dụng các nguồn lực của hộ trong những điều kiện kinh tế khác nhau.
- Tình hình sử dụng đất:
Bảng hỏi tập trung trước hết vào các thông tin chung về tổng diện tích đất nông nghiệp,
đất trồng cà phê trong các mảnh khác nhau. Ngoài thông tin về diện tích, phần này cũng
đề cập đến các loại đất, đá mẹ, độ dốc khác nhau trong từng mảnh ruộng. Những thông
6
Biểu đồ 1: Phân loại hộ điều tra (%)
tin về sản lượng cà phê trong 3 năm, thu nhập của hộ trong 3 năm và tổng ngày công lao
động vụ 2003-04 theo từng công đoạn chăm sóc khác nhau (có so sánh với năm 2002-03)
cũng được thu thập ở đây nhằm có một bức tranh chung về tình hình sản xuất cà phê. Mặt
khác những thông tin về thu nhập và chi phí lao động cũng giúp nhóm nghiên cứu phân
tích được tác động của việc sử dụng các nguồn lực đến kinh tế hộ gia đình.
- Thông tin về thực trạng sử dụng nước (chỉ tập trung vào 1 mảnh ruộng chính):
Phần này đề cập đến các thông tin chung như phương pháp tưới, nguồn nước, số lượng
tưới, chu kỳ tưới. Các câu hỏi giành riêng cho phương pháp tưới phun mưa và phương
pháp tưới gốc và các thông tin về nguồn nước cụ thể (thuỷ lợi, giếng ), các loại công cụ
sử dụng trong tưới nước cũng được nêu ra để tính lượng và chi phí về nước sử dụng thực
tế trong sản xuất cà phê của vụ. Ngoài ra, phần này cũng nêu ra các câu hỏi định tính như
có đủ nước tưới không, việc thiếu nước tưới có ảnh hưởng như thế nào đến cây cà phê và
khó khăn trong việc tưới nước.
- Thông tin về việc sử dụng phân bón: phần này tập trung vào các thông tin như số lượng
bón trong mỗi lần bón, thời gian bón phân, giá phân bón cho các loại phân khác nhau.

Lượng phân bón của các loại cũng được so sánh với mức của năm 2002. Các thông tin về
việc chuyên chở phân bón cũng được để cập đến để thấy được tổng chi phí bón phân của
các hộ nông dân.
- Thông tin về việc sử dụng thuốc trừ sâu: loại thuốc, nhãn hiệu, số lượng phun, thời gian
phun và giá thuốc là những thông tin định lượng chính trong bảng hỏi về thuốc trừ sâu.
Những thông tin về số lượng phun thuốc cũng được so sánh với năm 2002. Các thông tin
về biện pháp sử dụng thuốc phòng trừ sâu bệnh tổng hợp, biện pháp chuyên chở và dự trữ
thuốc trừ sâu cũng được đề cập đến nhằm có bức tranh tổng thể về các biện pháp phòng
trừ sâu bệnh và tổng chi phí cho việc sử dụng thuốc trừ sâu.
- Thông tin về dịch vụ khuyến nông: các thông tin chung về dịch vụ khuyến nông tổng
thể, dịch vụ khuyến nông cho từng loại đầu vào sản xuất cà phê đều được đề cập đến
trong phần này với những nội dung chính tập trung vào số lần sử dụng trong năm và chi
phí sử dụng cho từng nguồn thông tin khuyến nông khác nhau. Phần này cũng nêu ra các
câu hỏi định tính như mong đợi của hộ về dịch vụ khuyến nông, đường truyền thông tin
khuyến nông ở địa phương
- Câu hỏi mở: một số câu hỏi mở được đề cập ở đây là việc xây dựng kế hoạch chi tiêu
cho các đầu vào sản xuất cà phê, mức giá hoà vốn trong sản xuất cả phê vối, và việc sử
dụng các nguồn đầu vào này có ảnh hưởng như thế nào đến môi trường xung quanh.
Những thông tin này được thu thập để biết được đánh giá của hộ nông dân đối với tác
động của việc sử dụng đầu vào đến môi trường và kinh tế hộ. Trên cơ sở đó có thể so
sánh với các số liệu định lượng đã lấy được trong các phần trên và ý kiến của chuyên gia
về vấn đề này.
• Nội dung họp chuyên gia
Ngoài các bảng hỏi phỏng vấn hộ, nhóm nghiên cứu cũng tổ chức các cuộc họp chuyên
gia. Các cuộc họp chuyên gia với các trung tâm khuyến nông tỉnh và 2 huyện phỏng vấn.
Nội dung của các cuộc họp này tập trung vào: (i) cơ cấu tổ chức, trình độ cán bộ của
trung tâm; (ii) những thông tin chung về việc chuyển giao kỹ thuật trồng và chăm sóc cà
phê: kênh nhận thông tin, kênh chuyển giao, đối tượng chuyển giao, hình thức chuyển
giao, chi phí chuyển giao ; (iii) các thông tin cụ thể về kỹ thuật sử dụng phân bón (loại
phân, thời gian bón cho từng loại đât, tuổi cây, năng suất khác nhau); kỹ thuật sử dụng

7
thuốc trừ sâu (phương thức phun, thời gian phun cho các loại bệnh và năng suất khác
nhau, kỹ thuật sử dụng phương pháp phòng trừ sâu bệnh tổng hợp); kỹ thuật tưới nước.
Nhóm nghiên cứu cũng tổ chức họp chuyên gia với các Viện nghiên cứu như Viện Khoa
học Kỹ thuật Tây nguyên, Trạm Nghiên cứu đất thuộc Viện Nông hoá Thổ nhưỡng. Các
câu hỏi tập trung vào những lĩnh vực sau: (i) cơ cấu tổ chức, trình độ cán bộ, mạng lưới
chuyển giao công nghệ của đơn vị; (ii) các thông tin về chuyển giao công nghệ: phương
thức chuyển giao, loại thông tin chuyển giao, tần suất chuyển giao, đối tượng chuyển
giao, mối quan hệ với các trung tâm khuyến nông; (iii) các thông tin cụ thể kỹ thuật như
tỉ lệ lấy chất dinh dưỡng của cà phê Vối ở Tây nguyên, tỉ lệ chất dinh dưỡng thấm xuống
đất ở các điều kiện đất, tuổi cây, năng suất khác nhau
d. Thảo luận về các vật tư/tài liệu sử dụng lấy từ bên ngoài (số liệu tham khảo của WASI,
NISF, AEC + nêu rõ độ chính xác của số liệu)
6.2. Các biện pháp phân tích số liệu
a. Bản đồ sử dụng, nêu rõ tỷ lệ và hệ phóng + nguồn cung cấp bản đồ (tham khảo + ngày)
b. Các biện pháp phân tích thống kê (kiểm trình giá trị
“t”, biểu đồ định tính, phân tích tương quan, phân tích
phương sai ANOVA một chiều).
- Biện pháp kiểm định giá trị “t”, bao gồm hai biện pháp sau:
+ Kiểm định giá trị “t” một đuôi: được sử dụng để so sánh xem có sự khác biệt giữa giá
trị trung bình của mẫu so với giá trị trung bình đã biết của tổng thể. Chẳng hạn như có thể
kiểm định xem lượng nước sử dụng trung bình cho cà phê ở huyện Krong Ana có khác
mức nước do Viện Khoa học Nông nghiệp Tây Nguyên (WASI) khuyến cáo hay không.
+ Kiểm định giá trị “t” hai đuôi: phương pháp này được sử dụng để kiệm định sự khác
biệt giữa hai giá trị trung bình của hai nhóm mẫu thu thập. Chẳng hạn như có thể kiểm
định lượng thuốc trừ sâu sử dụng cho huyện Krong Ana có khác huyện CưMgar hay
không.
- Biện pháp phân tích phương sai ANOVA
Phương pháp được sử dụng để so sánh giá trị trung bình của 3 nhóm mẫu độc lập trở lên.
Chúng ta có thể kiểm định xem có sự khác biệt về thống kê của lượng nước sử dụng ở 4

xã. Nếu sắc xuất p value lớn hơn 0,05 thì chúng ta chấp nhận giả thiết Ho, tức là không
có sự khác biệt về lượng nước sử dụng cho trồng cà phê ở 4 xã nghiên cứu.
- Phân tích tương quan (Correlation analysis).
Phương pháp này dùng để phân tích mối quan hệ giữa hai biến. Chẳng hạn như chúng ta
có thể xem xét mối quan hệ giữa tổng thu nhập của hộ và tổng chi phí cho các đầu vào
sản xuất cà phê. Mối quan hệ này có thể là dương hoặc âm tuỳ theo từng điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể. Ở đây chúng ta có thể sử dụng phương pháp kiểm định Pearson. Giá trị
Pearson sẽ chạy trong khoảng -1 đến +1. Nếu giá trị Pearson = -1, mối tương quan là
nghịch hoàn toàn. Nếu giá trị Pearson = +1, mối tương quan là thuận hoàn toàn.
8
PHẦN II: THỰC TIỄN SỬ DỤNG CÁC NGUỒN LỰC NƯỚC, PHÂN BÓN VÀ THUỐC TRỪ
SÂU CHO SẢN XUẤT CÀ PHÊ ĐẮK LẮK
1 Mô tả nông hộ
Tại hai huyện điều tra, phần lớn chủ hộ là nam giới, chiếm
khoảng 84% tổng số hộ, chỉ có 16% là nữ giới. Trong đó,
huyện Krong Ana chỉ có 77% chủ hộ là nam trong khi ở
huyện CuMgar, con số này lên tới 90%.
Độ tuổi trung bình của chủ hộ được phỏng vấn là khoảng 45 tuổi. 96% nằm trong độ tuổi
lao động (nam từ 16 đến 60, nữ từ 16 đến 55). Điều này cho thấy hai huyện điều tra đều
có tiềm năng lao động cho sản xuất nông nghiệp.
Độ tuổi phân bố khác biệt đôi chút theo huyện và theo giới. Chủ hộ là nam giới có độ tuổi
trung bình 45 trong khi nữ giới là 43. Độ tuổi trung bình chủ hộ ở hai huyện Krong Ana và
CuMgar là 43,5 và 46 (xem hình 2 và 3). Tính theo nhóm thu nhập, độ tuổi trung bình của
hộ thu nhập cao, trung bình và thấp lần lượt là 46,44 và 47.
Trong số các hộ được phỏng vấn, có tới 91% nhập cư từ nơi khác đến, chủ yếu từ miền
Trung (Nghệ An, 32%; Quảng Ngãi,
18%, Hà Tĩnh, 14%). Chỉ có huyện
Krong Ana là có hộ dân địa phương
chính gốc, chiếm khoảng 18% tổng số
hộ trong huyện. Trong khi đó, ở

CuMgar, tất cả các hộ điều tra đều là
dân nhập cư. Tính trung bình, các hộ
nhập cư cách đây khoảng 25 năm, đủ
dài để định cư và phát triển sản xuất.
Tình trạng nhập cư còn khác biệt theo
dân tộc. 75% só hộ dân tộc được
phỏng vấn là dân địa phương gốc, chỉ
có 1 hộ nhập cư từ Nghệ An cách đây
17 năm
Số thành viên trung bình trong các hộ
khu vực điều tra là 5 người/hộ, với 3,4
là người trưởng thành. Ở hai huyện
Krông Ana và CuMgar, số thành viên
trung bình mỗi hộ lần lượt là 4,5 và
5,4 người, số người trưởng thành là 3
và 3,8 người và trẻ em dưới 16 tuổi là
1,5 và 1,6 người. Điều này cho thấy
9
Biểu đồ 2: Độ tuổi trung bình chủ hộ phân
theo giới
Biểu đồ 3: Độ tuổi trung bình chủ hộ phân theo
huyện
Biểu đồ 4: Số thành viên trung bình của hộ
và số người trưởng thành phân theo huyện
Biểu đồ 5: Số lượng hộ phân theo nhóm
lực lượng lao động khá dồi dào ở vùng điều tra. Tuy nhiên, nguồn lao động trong khu
vực còn phụ thuộc vào số người trưởng thành còn lại trong gia đình tham gia vào hoạt
động nông nghiệp. Mặc dù 100% số người được phỏng vấn cho biết trước đây họ tham
gia vào sản xuất nông nghiệp nhưng chỉ có 2,4 trong số 5 thành viên hiện nay là nông
dân. Điều tra cũng cho thấy, rất nhiều người trưởng thành (đặc biệt là thanh niên) đã ra

thành phố lớn làm việc và học tập chứ không ở nhà làm nông nghiệp. Chỉ có lúc thu
hoạch khi quá hiếm lao động hoặc chi phí sản xuất quá cao, một số người có thể trở về
giúp đỡ gia đình.
Khi phân loại hộ theo nhóm, rất khó để có thể thống nhất các tiêu chí phân hộ giàu,
nghèo và trung bình. Nên ban đầu, nghiên cứu chỉ dựa vào quan sát của người điều tra,
chính quyền địa phương và nong dân để xác định nhóm hộ. Theo cách phân biệt này,
hầu hết các hộ ở đây đều thuộc nhóm hộ trung bình, chiếm 80% trong khi hộ giàu và hộ
nghèo chỉ chiếm lần lượt 11 và 9%. Tất cả các hộ dân tộc thiểu số đều thuộc nhóm hộ
trung bình. Tuy nhiên, do tiêu chí phân loại không rõ ràng nên trong quá trình phân tích,
nhóm nghiên cứu đã chia số hộ điều tra thành 3 nhóm dựa vào thu nhập hàng năm của
hộ lấy từ kết quả phỏng vấn, đó là nhóm thu nhập thấp, trung bình và cao. Số lượng hộ
trong mỗi nhóm và thu nhập trung bình của hộ được trình bày trong bảng sau.
Bảng 1: Thu nhập trung bình của 3 nhóm hộ (000 đ)
Biến số
Số
quan
sát %
GT
trung
bình
Độ lệch
chuẩn Min Max
Nghèo 27 33.75 17884 4152 3400 23000
Trung bình 27 33.75 31084 5055 23900 43500
Giàu 26 32.5 77515 36562 44100 200000
Theo Ngân hàng Thế giới, chuẩn nghèo quốc tế là 1 USD/người/ngày, tương đương với
6 triệu đồng/người/năm. Với số lượng thành viên trung bình trong hộ ở Đắk Lắk là 5
người, thu nhập trung bình của hộ thoát nghèo là phải trên 30 triệu đồng/hộ/năm. Kết
quả nghiên cứu cho thấy có tới khoảng 30% số hộ điều tra ở đây có thu nhập dưới 30
triệu/năm, nằm trong mức nghèo thế giới. Nhưng người lại nhóm hộ giàu chiếm 33% có

thu nhập rất cao, cá biệt có hộ thu nhập lên tới 200 triệu đồng/năm. Có tới 5% số hộ có
thu nhập trên 100 triệu/năm. Điều này cho thấy chênh lệch giàu nghèo ở khu vực này
khá lớn. Phỏng vấn nông dân cho thấy, sở dĩ khoảng cách thu nhập khác biệt như vậy
phần lớn là do thu nhập từ cà phê tăng đột biến ở một số hộ vào khoảng giữa những
năm 90. Sau khủng hoảng, nhiều hộ vẫn duy trì được thu nhập khá, tuy không được như
trước nhưng ngược lại, một số hộ còn nghèo hơn trước đây. Ngoài ra, một phần thành
viên trong gia đình ra thành phố cũng gửi tiền về nhà, đây cũng là nguồn thu nhập lớn
của một số hộ.
Trình độ giáo dục của các hộ điều tra khá thấp. Có tới 55% số hộ mới tốt nghiệp cấp II và
30% tốt nghiệp cấp I. Chỉ có 10% tốt nghiệp cấp III và 1% có bằng đại học. Không có ai
tốt nghiệp từ cao học trở lên. Trình độ giáo dục cũng khác biệt giữa các huyện. Krong
Ana có trình độ giao dục cao hơn CuMgar với 1 người tốt nghiệp đại học, 1 người có
bằng cao đẳng và 7 người tốt nghiệp câp III. Trong khi đó, 62,5% số người điều tra ở
CuMgar chỉ tốt nghiệp trường cấp II và 3,7% tốt nghiệp cấp I. Người Kinh (với 59% tốt
nghiệp cấp II và không có ai mù chữ) có xu hướng học cao hơn người dân tộc Edê (với
20% người mù chữ và chỉ có 40% tốt nghiệp cấp II). Phụ nữ có trình độ giáo dục cao
hơn nam giới chút ít với 55 và 58% nam giới và nữ giới có bằng cấp II và 9 và 15% tốt
nghiệp trung học.
2. Tình hình sử dụng đất.
10
Diện tích đất trung bình trên 1 hộ ở hai huyện điều tra
khoảng 1,45 ha, trong đó 1,15 ha dành cho sản xuất cà
phê, chiếm 79%.
Tình hình sử dụng đất có khác biệt rõ rệt ở hai huyện. Ở Krong Ana, hầu hết đất được
giành cho sản xuất cà phê trong khi ở CuMar, chỉ có 68% tổng diện tích đất nông nghiệp
giành cho sản xuất cà phê, cho thấy xu hướng đa dạng hoá cao hơn ở huyện CuMgar.
Có tới 96% số hộ ở đây đều đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Tình hình sử đụng đất giữa các nhóm hộ cũng khác nhau. Biểu đồ 8 cho thấy hộ có thu
nhập càng cao thì càng có xu hướng dành ít đất hơn cho sản xuất cà phê. Trong khi đó,
nhóm hộ thu nhập thấp nhất lại giành toàn bộ đất cho sản xuất cà phê, con số này của

nhóm hộ trung bình và hộ giàu là 79% và 74%. Mức độ tương quan giữa đa dạng hoá và
thu nhập của hộ sẽ được chứng minh bằng thống kê trong phần phân tích cụ thể về thu
nhập sau). Diện tích đất của nhóm người Kinh (1,5 ha tổng diện tích đất NN/hộ và 1 ha
cho cà phê) có xu hướng cao hơn nhóm dân tộc (0,5 ha/hộ).
Tổng diện tích đất trung bình/hộ là 1,45 ha, chia thành 1,7 mảnh, tương đương với 0,85
ha/mảnh. Quy mô đất cà phê cao hơn chút ít 0,875 ha/mảnh.
Đất nông nghiệp ở huyện Krong Ana manh mún hơn huyện CuMgar. Như đã đề cập ở
trên, hầu hết đất ở Krong Ana dành cho sản xuất cà phê, với diện tích trung bình 0,74
ha/mảnh. Ở CuMgar, quy mô đất trồng cà phê là 1 ha/mảnh và quy mô đất nông nghiệp
là 0,93 ha/mảnh.
Diện tích đất của các nhóm thu nhập cũng khác nhau. Nhóm thu nhập thấp có quy mô
đất nhỏ, 0,6ha/mảnh. QUy mô đất nông nghiệp và đất trồng cà phê của hộ trung bình là
0,75 và 0,77 ha/mảnh, so với quy mô rất cao của hộ thu nhập cao lần lượt là 1,37 và 1,5
ha/mảnh. Điều này phản ánh xu hướng tập trung đất của nhóm thu nhập cao.
Tính trung bình, cây cà phê được trồng khoảng 16 năm ở 2 huyện, với cây lâu năm nhất
là 25 năm và non nhất là 6 năm. Tuổi cây cà phê ở huyện Krong Ana cao gấp 1,2 lần
huyện CuMgar. Như vậy, cà phê ở các hộ điều tra đều đã trưởng thành và già, trồng chủ
yếu trên đất đỏ bazal.
11
Biểu đồ 7: Tổng diện tích đất tự nhiên và đất trồng cà
phê phân theo (ha/mảnh)
Biểu đồ 6: Tổng diện tích đất nông nghiệp và đất
trồng cà phê phân theo loại hộ (ha/mảnh)
3. Thu nhập và chi phí
Khác với xu thế tăng sản lượng cà phê liên tục từ giữa
thậm kỷ 90 đến năm 2002, kể từ năm 2003 sản xuất cà
phê có xu hướng giảm. Có một số nguyên nhân dẫn đến
tình trạng trên. Trước hết, khi giá cà phê liên tục giảm từ
năm 1998 xuống mức thấp kỷ lục năm 2002, đầu tư vào
sản xuất cà phê do đó cũng giảm liên tục. Thứ hai, chính

sách của chính phủ cũng khuyến khích giảm diện tích
trồng cà phê ở những khu vực không thuận lợi xuống
khoảng 450.000 ha trồng cà phê cả nước, điều này cũng
khiến sản lượng cà phê giảm theo.
Chính vì vậy sản lượng cà phê năm 2004 ở những vùng
này đã giảm 14% so với năm 2003. Năm 2005 sản lượng
12
Biểu đồ 8: Tuổi cây cà phê phân theo huyện và nhóm hộ (năm)
Biểu đồ 9: Sản lượng cà phê (tấn/hộ)
Biểu đồ 11: Năng suất cà phê phân theo
huyện (tấn/ha)
Biểu đồ 10: Năng suất cà phê phân theo loại hộ
cà phê ước tính đạt bằng năm 2004 (2.8 tấn/hộ). Tuy thời
tiết khô hanh trong năm 2005 có ảnh hưởng tới nhiều
trang trại trồng cà phê, song sản lượng ước tính năm 2005
của vùng điều tra có thể sẽ ngang bằng với năm 2004 do
khu vực này có nhiều hộ sinh sống gần nguồn nước, hoặc
có nguồn nước tưới ổn định từ hệ thống nước tưới tiêu
công cộng.
Nếu phân theo huyện, năng suất cà phê trung bình 3 năm
của Krong Ana cao hơn CuMgar, đặc biệt là năm 2003
năng suất cà phê của Krong Ana cao gấp 1,3 lần so với
CuMgar. Tuy nhiên, do diện tích đất trồng cà phê trung
bình năm 2004 của CuMgar (1,3ha/hộ) cao hơn Krong
Ana (1ha/hộ) tổng sản lượng cà phê bình quân hộ của
CuMgar vì thế cùng cao hơn so với Krong Ana (3,14 tấn
so với 2,95 tấn).
Năng suất cà phê không có sự khác biệt nhiều giữa hộ
giàu và hộ trung bình. Tuy nhiên, do diện tích đất trồng cà
phê năm 2004 của nhóm hộ giàu cao hơn rất nhiều so với

nhóm hộ nghèo (gấp 4 lần) và nhóm hộ trung bình (gấp
2,3 lần) nên tổng sản lượng cà phê bình quân của hộ giàu
cao gấp 4,6 lần so với hộ nghèo và 2,1 lần so với hộ trung
bình. Năng suất cà phê của hộ nghèo rất thấp, chỉ đạt 2
tấn/ha. Nguyên nhân chính là do mức đầu tư vào cây cà
phê của hộ nghèo giảm trước tín hiệu giá cà phê sụt giảm
vào cuối thập niên 90.
Thu nhập
Bảng 2: Tổng thu nhập năm 2003-2004 từ các nguồn
khác nhau
Nhìn chung, tổng thu nhập bình quân hộ năm 2004 có cao
hơn chút ít so với năm 2003 (chênh lệch khoảng 1,4 triệu
VNĐ). Cơ cấu tổng thu nhập không khác nhau nhiều trong
hai năm 2003 và 2004. Thu nhập từ sản xuất cà phê
chiếm gần 80% tổng thu nhập trong cả hai năm. Chăn
nuôi và trồng trọt cũng là những nguồn thu nhập quan
trọng, chiếm khoảng 8% tổng thu.
Nguồn thu nhập 2003 2004
Giá trị
(000 d) %
Giá trị
(000 d) %
1.
Cà phê 32283 79.99 33200 79.58
2.
Lương thực 688 1.7 700 1.68
3.
Chăn nuôi 2869 7.11 3040 7.29
4.
Cây trồng khác 3169 7.85 3410 8.17

5.
Làm thuê, phi NN 1350 3.35 1369 3.28
Tổng 40358 100 41719 100
13
Bảng 3: Nguồn thu nhập phân theo huyện
Nguồn thu
nhập
Krong Ana CuMgar
2003 2004 2003 2004

Giá trị
(000 đ) %
Giá trị
(000 đ) %
Giá trị
(000 đ) %
Giá trị
(000 đ) %
Cà phê 33123 92.28 29838 90.64 31485 70.58 36399 72.67
Lương thực 0 0.00 0 0.00 1341 3.01 1366 2.73
Chăn nuôi 1205 3.36 1518 4.61 4451 9.98 4488 8.96
Cây trồng
khác 0 0.00 0 0.00 6183 13.86 6654 13.28
Làm thuê,
phi NN 1564 4.36 1564 4.75 1146 2.57 1183 2.36
Tổng 35892 100 32920 100 44607 100 50098 100
Tổng thu nhập hộ là rất
khác nhau trong 2 huyện. Ở
huyện CuMgar, tổng thu
nhập hộ trong năm 2004

cao gấp 1,12 lần so với
năm 2003, trong khi ở
huyện Krong Ana con số
này có thấp hơn đôi chút so
với năm 2003. Sự khác biệt
chủ yếu ở thu nhập từ sản
xuất cà phê. Thu nhập từ
sản xuất cà phê của
CuMgar tăng hơn 2% trong
năm 2003-2004 trong khi ở
Krong Ana lại bị giảm mất
gần 2%.
Năm 2003, tổng thu nhập hộ ở huyện CuMgar cao gấp 1,24 lần so với huyện Krong Ana,
trong khi đó con số này của năm 2004 là 1,52 lần. Thông tin chi tiết về nguồn thu nhập
năm 2004 sẽ được phân tích cụ thể ở phần dưới đây.
Phân tích chuyên sâu về các nguồn thu nhập cho thấy cây cà phê vẫn là nguồn thu nhập
chính. Tỷ trọng cà phê trong tổng thu nhập năm 2004 của Krong Ana cao hơn CuMgar
18%. Điều này cho thấy sự phụ thuộc rất nhiều của Krong Ana vào sản xuất cà phê, mặc
dù sự phụ thuộc này đã giảm dần từ 92,3% năm 2003 xuống còn 90,6% năm 2004.
Tuy nhiên, giá trị tuyệt đối của cây cà phê trong tổng thu nhập huyện CuMgar lại cao gấp
1,22 lần so với huyện Krong Ana. Điều này cho thầy CuMgar có xu hướng đa dạng hóa
thu nhập cao hơn Krong Ana. Có thể thấy rõ xu hướng này trong Biểu đồ 11. Thu nhập
từ chăn nuôi và trồng trọt của huyện CuMgar chiếm 22.2% năm 2003 và 24% năm 2004,
trong khi đó thu nhập từ cây lương thực và các loại cây màu khác ở huyện Krong Ana
chỉ là con số không, còn thu nhập từ chăn nuôi thì vẫn còn rất khiêm tốn (lần lượt là
3,4% và 4,6% trong năm 2003 và 2004). Đây cũng là một trong những nguyên nhân giải
thích tại sao tổng thu nhập của CuMgar lớn hơn Krong Ana.
14
Biểu đồ 12: Phân bố thu nhập hộ năm 2004 (%)
Cà phê vẫn là nguồn thu

nhập chính trong các
nhóm thu nhập. Đóng góp
của cà phê trong tổng thu
nhập của nhóm hộ nghèo
và hộ trung bình cao hơn
so với nhóm hộ giàu (lần
lượt là 86%, 87% và
75%). Thu nhập từ trồng
trọt trong số các hộ nghèo
và hộ trung bình là rất
thấp (chỉ chiếm 1% và
4%) trong khi ở các hộ
giàu con số này khá cao,
đạt 15%. Thu nhập từ
chăn nuôi của hộ nghèo
chiếm tới 10% tổng thu
nhập. Điều này cho thấy
nhóm hộ giàu có xu hướng đa dạng hoá thu nhập hơn hai nhóm còn lại.
Điều này được giải thích rõ ràng qua bảng phân tích tương quan giữa tổng thu nhập
năm 2004 với tỷ trọng diện tích đất trồng cà phê và tổng diện tích đất nông nghiệp của
hộ. Kết qủa cho thấy có sự tương quan nghịch giữa hai biến này, với mức ý nghĩa 99%
(kiểm định 2 đuôi) và hệ sô biến -0.52, nghĩa là hộ càng giàu thì mô hình sử dụng đất
nông nghiệp của hộ càng được đa dạng hóa.
Bảng 4: Tương quan giữa tỉ lệ đất cà phê/đất NN với thu nhập hộ
totincome04 prop
totincome04 Tương quan
Pearson
1 520(**)
Mức ý nghĩa (2
đuôi)

. .000
N
80 80
prop Tương quan
Pearson
520(**) 1
Mức ý nghĩa (2
đuôi)
.000 .
N
80 80
** Tương quan có ý nghĩa ở mức 0.01 (2 đuôi)
Chi phí sản xuất
Trong trường hợp không sử dụng lao động gia ìinh, chi phí sản xuất năm 2004 (khi sử dụng biện
pháp tưới phun) là 7.258 đồng/kg, cao hơn so với sử dụng biện pháp tưới gốc (6.589 đồng/kg).
Để hiểu được nguyên nhân của sự khác biệt này, có thể tham khảo Chương quản lý nước.
.
Bảng 5: Phân bổ chi phí sản xuất cà phê không sử dụng lao động gia
đình
# Hạng mục Chi phí (000 đ/tấn)
Tưới gốc
(%)
Tưới phun
(%)
1 PP tưới gốc 2152 32.66
PP tưới phun 2821 38.87
15
Biểu đồ 13: Phân loại thu nhập năm 2004 theo nhóm
thu nhập
2 Thuốc trừ sâu 208 3.16 2.87

3 Phân bón 3009 45.67 41.46
4 Làm cỏ 178 2.70 2.45
5 Làm luống 85 1.29 1.17
6 Tỉa cành 212 3.22 2.92
7 Thu hoạch 603 9.15 8.31
8 Vận chuyển 141 2.14 1.94


Tổng chi phí-tưới
phun 7257 100.00

Tổng chi phí-tưới
gốc 6588 100.00
Trong số chi phí này, phân bón chiếm tỷ lệ cao nhất khoảng 41%, kế đến là nước tưới
(39%) và thu hoạch (8%). Các hoạt động còn lại mỗi thứ chỉ chiếm từ 2%-3%, chủ yếu là
chi phí thuê lao động. Chi phí về nước tưới, phân bón và thuốc trừ sâu sẽ được phân
tích kỹ trong phần tiếp theo của báo cáo.
Theo một cuộc điều tra do SDC_MISPA tiến hành vào năm 2003, chi phí sản xuất bình
quân vào khoảng 8.020 đ/kg, có cao hơn đôi chút so với năm 2004, mặc dù giá phân bón
và xăng dầu trong năm 2004 cao hơn năm 2003 (Xem Bảng 6). Sở dĩ như vậy là do cuộc
điều tra năm 2003 không tính đến chi phí về đất đai, khấu hao đất đai, vay vốn, thuế sử
dụng đất. Do vậy khó có thể so sánh nếu sử dụng các phương pháp tính toán khác
nhau.
Bảng 6: Đơn giá các loại phân bón năm 2004
Loại phân bón Đơn giá (d/kg)
SA 2761
Urea 4354
Thermo-Phosphate 1992
Super-phosphate 1600
KCl 3859

NPK 4418
Nitrate 3867
Lime 3250
Manure 286
DAP 4200
Loại khác 4433
Trong trường hợp sử dụng lao động gia đình, tổng chi phí lớn hơn rất nhiều. Với biện
pháp tưới phun, chi phí là 8.642 đ/kg trong khi với biện pháp tưới gốc chi phí là 8.026
đ/kg. Sự khác biệt giữa hai trường hợp này cho thấy lao động gia đình cũng là một
nguồn quan trọng. Lao động gia đình sử dụng để làm cỏ, bảo dưỡng bồn tưới, tỉa thưa,
thu hoạch và vận chuyển cũng chiếm tỷ lệ đáng kể. Chi phí lao động gia đình cao nhất là
trong tỉa thưa, vận chuyển và thu hoạch, lần lượt chiếm 57%, 55% và 50% tổng chi phí
nhân công. Kế đến là chi phí về làm cỏ và bảo dưỡng bồn tưới cây (lần lượt là 47% và
42%).
16
Bảng 7: Chi phí sản xuất cà phê (có sử dụng lao động gia đình)
# Chi phí
Chi phí
(000 đ/tấn)
Tưới
phun (%) Tưới gốc (%)
1 PP tưới gốc 2321 28.92
PP tưới phun 2936 33.98
2 Thuốc trừ sâu 209 2.6 2.42
3 Phân bón 3009 37.49 34.82
4 Làm cỏ 334 4.16 3.87
5 Làm luống 147 1.84 1.71
6 Tỉa thưa 491 6.11 5.68
7 Thu hoạch 1205 15.01 13.94
8 Vận chuyển 312 3.89 3.61



Tổng chi phí-tưới
phun 8643 100.00

Tổng chi phí-tưới
gốc 8027 100.00
Chi phí sản xuất cà phê khác nhau rất nhiều ở cả hai huyện, trong cả hai trường hợp áp
dụng hai biện pháp tưới lẫn chi phí lao động gia đình. Với biện pháp tưới phun, có lao
động gia đình, tổng chi phí của Krong Ana cao hơn CuMgar 335 đ/kg. Trong trường hợp
không sử dụng lao động gia đình, chênh lệch thấp hơn nhiều (161 đ/kg). Với biện pháp
tưới gốc, chênh lệch về tổng chi phí giữa hai huyện là không đáng kể, cho dù chi phí của
Krong Ana có cao hơn đôi chút. Trong trường hợp sử dụng lao động gia đình, khoảng
cách về chi phí vẫn còn lớn hơn so với khi không sử dụng lao động gia đình, ở mức 136
đ/kg. Qua so sánh ở trên có thể thấy rằng sự khác biệt về chi phí nhân công giữa Krong
Ana và CuMgar khi áp dụng biện pháp tưới phun cao hơn so với khi áp dụng biện pháp
tưới gốc.
Bảng 8: Chi phí sản xuất cà phê không sử dụng lao động gia đình phân theo
huyện (000 đ/tấn)
# Activities
Không sử dụng lao
động gia đình
Có sử dụng lao động gia
đình
Krong Ana CuMgar Krong Ana CuMgar
1 PP tưới gốc 2313.504 2008.698 2511.033 2151.424
PP tưới phun 2984.595 2592.937 3116.929 2683.548
2 Thuốc trừ sâu 246 170 246 170
3 Phân bón 2836 3244 2836 3244
4 Làm cỏ 208 157 359 318

5 Làm luống 67 102 145 150
6 Tỉa thưa 178 233 353 574
7 Thu hoạch 643 571 1272 1151
8 Vận chuyển 160 93 397 100

Tổng chi phí-tưới phun 7324 7163 8725 8390
Tổng chi phí-tưới gốc 6653 6579 7922 7715
17
1.1 Thực tiễn tưới nước của các hộ điều tra
Nông dân trồng cà phê Đắk Lắk thường sử dụng hai biện pháp tưới nước chính là tưới gốc
và tưới phun mưa.
tưới phun mưa là biện pháp được áp dụng rộng rãi nhất ở các nước trồng cà phê do rất dễ
hoạt động ở những địa hình núi không bằng phẳng. Biện pháp này cũng cho hiệu quả cao do
có khả năng tưới nước đều trên các ngọn cây. Tuy nhiên, trở ngại lớn nhất của biện pháp
này là chi phí đầu tư thiết bị rất tốn kém (trị giá của một hệ thống hoàn thiện la fkhoảng 1200
USD/ha cà phê), có nguy cơ bị mất nhiều nước, đặc biệt là trong điều kiện gió mạnh, tốn
nhiên liệu do áp lực bơm phải rất khoẻ) (Bau& Hien, 2005).
Ngoài ra, người trồng cà phê cũng áp dụng biện pháp tưới gốc. Biện pháp này có những ưu
điểm sau:
- Đầu tư ban đầu thấp
- Không hao hụt nhiều nước nếu tưới đúng cách
- Không tốn nhiều nhiên liệu do không cần áp lực bơm quá khoẻ
- Không bị nhiều hao hụt do bay hơi vì nước được tưới trực tiếp vào hệ thống rễ
Biện pháp này cũng có một số nhược điểm như sau:
- Đòi hỏi chi phí nhân cộng lớn để vận hành và chăm sóc bồn
- Hầu hết các nước sản xuất cà phê đều không muốn dùng biện pháp này bởi vì việc xây
bồn xung quanh từng cây cà phê có thể gây hại đến hệ thống rễ (Bau& Hien, 2005).
Tuy nhiên, có tới 85 % số hộ điều tra áp dụng phương pháp tưới gốc, chỉ có 15% áp dụng
phương pháp tưới phun. Tất cả các hộ dân tộc đều áp dụng phương pháp tưới gốc, chỉ có
người Kinh áp dụng phương pháp tưới phun.

Số hộ áp dụng biện pháp tưới gốc ở hai huyện không khác nhau nhiều (82 % và 88 % số hộ
ở Krong Ana và CuMgar). Lý do khiến cho Krong Ana sử dụng phương pháp tưới phun nhiều
hơn là vì nhiều hộ nông dân ở đây ký hợp đồng sản xuất cà phê với các nông trường quốc
doanh nên được hỗ trợ chi phí đầu tư trang thiết bị và hướng dẫn phương pháp tưới nước.

Tuy nhiên, rất khó có thể rút ra kết luận do số lượng các hộ dùng biện pháp tưới phun mưa
rất ít. Chỉ có thể đưa ra kết luận mang tính xu hướng. Điều này có thể thấy rõ phân bổ số hộ
áp dụng các biện pháp tưới khác nhau theo các nhóm trong bảng sau.
Bảng 9: Số hộ sử dụng các biện pháp tưới khác
nhau trong năm 2004
Nhóm Tưới phun Tưới gốc
Tổng số 12 68
Dân tộc
Kinh 12 63
E-đê 5
Huyện
Krong Ana 7 32
CuMgar 5 36
Loại hộ
Nghèo 4 23
Trung bình 6 21
Giàu 2 24
18
Biểu đồ 15: Tỷ lệ % số hộ áp dụng các biện
pháp tưới khác nhau
Biểu đồ 14: Tỷ lệ % số hộ áp dụng các biện
pháp tưới khác nhau
Tỉ lệ hộ áp dụng biện pháp tưới gốc không khác nhau nhiều giữa nhóm thu nhập thấp và cao
(85 và 92 %). Chỉ có nhóm thu nhập trung bình áp dụng biện pháp tưới phun nhiều hơn hai
nhóm còn lại tới 22%. Mặc dù tỉ lệ hộ thu nhập cao áp dụng phương pháp tưới phun ít hơn

nhóm có thu nhập thấp và trung bình nhưng đó cũng chỉ là xu hướng như đã trình bày ở trên,
số hộ áp dụng biện pháp tưới phun hạn chế.
Các hộ điều tra sử dụng các nguồn nước khác nhau: nguồn nước mặt (bồn chứa nước, công
trình thuỷ lợi), và nước ngầm (giếng đào và giếng khoan). Có tới 88 % số hộ dùng nước
ngầm (65% giếng đào và 23% giếng khoan).
Chỉ có 1,2% số hộ dùng nước từ bồn chứa
gần đó và 10% sử dụng nước của các công
trình thuỷ lợi. Nguồn nước cũng được chia
thành nước công cộng và tư nhân. Hầu hết
số hộ đều sử dụng nguồn nước tư nhân
(chiếm 85%). Chỉ có 15% số họ sử dụng
các công trình thuỷ lợi hoặc nguồn
nước công cộng do nhà nước đầu tư.
Các hộ gia đình điều tra
tưới khá nhiều lần trong
cả năm 2003 và 2004. Có
tới 65 % và 62.5 % số hộ
tưới 4 lần trong hai năm
2003 và 2004. Có 1,25%
số hộ tưới từ 6 lần trở lên
trong 2 năm này. Sở dĩ số
lượng tưới trong hai năm
không khác nhau nhiều là
do cả hai năm này đều là
năm khô hạn với lượng
mưa trung bình năm
2003 (1,680 mm) chỉ cao
hơn năm 2004 chút ít
(1,545 mm). Phân tích phân bổ lượng mưa theo
tháng cho thấy đối với sản xuất cà phê, năm 2004 là

năm khó khăn hơn nhiều do vào những tháng đầu
năm và cuối năm khi bắt đầu mùa sản xuất cà phê,
ở Đắk Lắk hầu như không có mưa, gây hạn hán lớn,
làm giảm khả năng nở hoa của cây cà phê.
Theo chuyên gia cà phê, nhìn vào biểu đồ phân bổ
lượng mưa của hai năm này, nông dân nên tưới
khoảng 2-3 lần vào giữa tháng 1 để kích thích hoa
19
Biểu đồ 16: Tỷ lệ % số hộ sử dụng các nguồn
nước khác nhau
Bảng 10: Tương quan giữa số lần tưới trong năm
2004 và nhóm thu nhập
Quintiles Irri_times04
Income
quintiles
Tương quan
Pearson
1 317(**)
Mức ý nghĩa (2
đuôi)
. .004
N
80 80
Irri_times0
4
Tương quan
Pearson
317(**) 1
Mức ý nghĩa (2
đuôi)

.004 .
N
80 80
** Tương quan có ý nghĩa ở mức 0.01 (2 đuôi)
Biểu đồ 17: % hộ gia đình áp dụng các lần
tưới
Biểu đô 18: Biều đồ phân bổ lượng mưa tại Đắk
Lắk
nở khoảng 70-80% và lần thứ hai vào tháng 2 để kích thích hoa nở nốt 20% còn lại. Đến
tháng 3 và tháng 4, ở Đắk Lắk đã bắt đầu có mưa, đủ để quả phát triển. Tuy nhiên, trên thực
tế hầu hết các hộ đều tưới từ 4 lần trở lên, gây lãng phí nước nghiêm trọng.
Các nhóm thu nhập áp dụng số lần tưới khác nhau. Nhóm thu nhập cao chỉ tưới 3-4 lần trong
năm 2004. Trong số những hộ tưới 3 lần trong năm 2004, nhóm thu nhập cao chiếm tơi 58%
so với 23 và 19% của nhóm thu nhập thấp và trung bình. Phân tích độ tương quan cũng cho
thấy tương quan chặt chẽ giữa thu nhập và số lần tưới, với độ tin cậy tới 99% và (Pearson R
= -0.317; p < 0.01). Nhóm thu nhập
thấp tưới nhiều hơn hai nhóm kia rất
nhiều, thậm chí có trường hợp tưới
đến 7 lần trong năm 2004.
Lượng nước
Tại hai huyện điều tra, hộ nông dân
tưới trung bình 820 lít/cây/lần đối với
biện pháp tưới gốc và 630 lít/cây/lần
đối với biện pháp tưới phun. Thực tế
này có vẻ như trái ngược với bản chất
của biện pháp tới phun là tốn nhiều
nước hơn biện pháp tưới gốc. Nhưng
trên thực tế, lượng nước tưới còn phụ
thuộc vào nhận thức của hộ nông dân, lượng nước sẵn có và hỗ trợ của các dịch vụ khuyến
nông. Như đã đề cập ở trên, phần lớn các hộ sử dụng biện pháp tưới phun ở Krong Ana

được hỗ trợ kỹ thuật của các nông trường quốc doanh nên họ áp dụng hiệu quả hơn
CuMgar.
Bảng 11: Lượng nước trung bình áp dụng phương pháp tưới khác nhau
Biến số
Số quan
sát
GT trung
bình
Sai
số Min Max
Lượng nước/cây-tưới gốc (m3) 68 0.82 0.31 0.48 1.45
Lượng nước/năm-tưới gốc (lít/ha) 68 3195 797 2123 5324
Lượng nước/năm - tưới phun
(lít/ha) 12 2812 601 2000 4275
Lượng nước/cây-tưới phun (m3) 12 0.63 0.15 0.38 0.98
Khoảng cách giữa lượng nước tối thiểu và tối đa/cây của hai biện pháp này cũng khác nhau.
Đối với các hộ dùng biện pháp tưới gốc, lượng tối thiểu là 480 lít/cây/lần tưới và lượng tối đa
là 1450 lít/cây/lần tưới. Đối với hộ dùng biện pháp tưới phun mưa, số liệu này là từ 380 đến
980 lít/lần tưới/cây. Như vậy qua số liệu mô tả có thể thấy biện pháp phun mưa dường như
hiệu quả hơn với lượng nước sử dụng ít hơn và khoảng cách giữa các hộ không lớn như các
hộ dùng biện pháp tưới gốc.
Lượng nước tưới hàng năm cho biện pháp tưới gốc là 3195.5 m3l/ha/year, lớn hơn nhiều so
với hộ dùng biện pháp tưới phun mưa (2812 m3/ha/year). Tuy nhiên, độ giao động về lượng
nước sử dụng hàng năm của hộ dùng biện pháp phun mưa (1140 m3-6,480 m3) cao hơn
biện pháp tưới gốc (2122.5 m3-5324 m3).
20
Biểu đồ 19: % hộ gia đình áp dụng các lần
tưới nước năm 2004
0
10

20
30
40
50
60
70
80
3 l?n 4 l?n 5 l?n 7 l?n
Nghèo
TB
Giàu
Bảng sau cho thấy sự khác biệt lượng nước sử dụng giữa các biện pháp tưới và giữa hai
huyện. Đối với những hộ dùng biện pháp tưới gốc, lượng nước/cây tại Krong Ana thấp hơn
rất nhiều so với CuMgar (654 và 959 lít/cây/lần tưới). Tình hình tương tự cũng diễn ra đối với
các hộ dùng biện pháp phun mưa nhưng độ chênh lệch thấp hơn giữa hai huyện (610 và 654
lít/cây). Lượng nước hàng năm mà các hộ áp dụng hai biện pháp này ở Krong Âna cũng
thấp hơn CuMgar (Bảng 12).

Trong số các hộ dùng biện pháp tưới gốc, lượng nước tưới cao hơn ở nhóm thu nhập cao,
trung bình và thấp ( 976, 735 và 722 lít/cây). Điều này được minh chứng rõ trong phân tích
độ tương quan giữa tổng thu nhập và lượng nước sử dụng trong trường hợp tưới gốc.
Tương quan này có ý nghĩa với độ tin cậy tới 99% (Pearson R=0.391, p<0.01).
Bảng 12: Tương quan giữa lượng nước theo phương pháp tưới gốc và thu nhập hộ
totincome04 basin_tree
totincome04 Tương quan
Pearson
1 .391(**)
Mức ý nghĩa (2
đuôi)
. .001

N
80 68
basin_tree Tương quan
Pearson
.391(**) 1
Mức ý nghĩa (2
đuôi)
.001 .
N
68 68
** Tương quan có ỹ nghĩa ở mức 0.01 (2 đuôi)
Lượng nước hàng năm không cho thấy xu hướng như trên do mật độ cây của các nhóm thu
nhập khác nhau. Trong khi lượng nước mà các hộ thu nhập thấp sử dụng hàng năm là 3,017
m
3
/ha thì nhóm thu nhập trung bình chỉ dùng 2,981 m
3
và nhóm thu nhập cao dùng hết 3,553
m
3
. Tuy nhiên, do mật độ cây cà phê ở ba nhóm thu nhập thấp, trung bình vào cao lần lượt là
1116, 1110 và 1124 cây/ha, nên nhóm thu nhập cao có xu hướng dùng lượng nước hàng
năm cho biện pháp tưới gốc nhiều hơn hai nhóm còn lại trong khi nhóm thu nhập thấp lại
dùng nhiều nước hàng năm hơn nhóm thu nhập trung bình.
Đối với các hộ dùng biện pháp tưới phun mưa, bức tranh này có khác đôi chút. Nhóm thu
nhập cao vẫn dùng lượng nước lớn nhất (795 lít/cây) trong khi nhóm thu nhập thấp (634
lít/cây) dùng nhiều nước hơn nhóm thu nhập trung bình (569 lít/cây). Lượng nước hàng năm
mà các hộ sử dụng cho biện pháp này tăng theo thu nhập (1,836, 2,420, and 5,950 m
3
/ha

cho 3 nhóm thu nhập thấp, trung bình và cao). Mối quan hệ này có ý nghĩa thông kê ở mức
độ tin cậy 95% trong phân tích tương quan giữa thu nhập và lượng nước mà hộ sử dụng
(Pearson R=0.391, p<0.05)
Bảng 13: Tương quan giữa lượng nước theo phương pháp tưới phun và thu nhập hộ
totincome04
vol_sprinkler_tr
ee
totincome04 Tương quan
Pearson
1 .685(*)
Mức ý nghĩa (2 đuôi)
. .014
N
80 12
vol_sprinkler_tree Tương quan
Pearson
.685(*) 1
Mức ý nghĩa (2 đuôi)
.014 .
N
12 12
21
* Tương quan có ỹ nghĩa ở mức 0.05 (2 đuôi).
Các hộ sử dụng nguồn nước tư nhân dùng nhiều nước hơn các hộ sử dụng nguồn nước
công cộng (với chênh lệch cho hai biện pháp tưới gốc và phun mưa là 50 và 70 lít/cây). Điều
này là do nguồn nước công cộng chỉ cho phép người dân sử dụng một lượng nước nhất
định. Các nông trường quốc doanh hoặc đơn vị cung cấp nước công cộng chỉ mở nguồn
nước vài lần một tháng nên nông dân không được sử dụng nhiều như họ muốn.
Bảng 14: Lượng nước sử dụng theo các nhóm
Tưới gốc Tưới phun

Huyện m3/cây lit/ha lít/ha m3/cây
Krong Ana 0.654 2909 2163 0.610
CuMgar 0.959 3450 3720 0.654
Nhóm thu nhập
Nghèo 0.722 3017 1836 0.634
Trung bình 0.735 2982 2420 0.569
Giàu 0.976 3553 5940 0.795
Nguồn nước
Tư nhân 0.820 3155 3520 0.663
Công cộng 0.772 3614 2104 0.594
Khi được hỏi về hiện tượng thiếu nước trong năm 2003 và 2004, hầu hết các hộ đều cho biết
năm 2004 thiếu nước hơn năm 2003. Chỉ có 51% số hộ cho biết có đủ nước sử dụng trong
năm 2004 trong khi năm 2003 có tới 85% số hộ có đủ nước. Năm 2004, huyện CuMgar thiếu
nhiều nước hơn huyện Krong Ana với 46 % và 51 % số hộ thừa nhận thiếu nước tại hai
huyện này. 65% hộ thu nhập thấp và trung bình đối mặt với hiện tượng thiếu nước trong khi
chỉ có 32% số hộ thu nhập cao thừa nhận khó khăn này. Đặc biệt số hộ sử dụng nguồn nước
tư nhân gặp khó khăn nhiều hơn với 55% số hộ thừa nhận khó khăn này trong khi chỉ có
16% số hộ sử dụng nguồn nước công cộng bị thiếu nước do nguồn nước công cộng lấy từ
hệ thống thuỷ lợi có xu hướng bền vững hơn nguồn nước tư nhân khai thác từ nguồn nước
ngầm.
Phân tích chi phí tưới nước
Như đã đề cập trong phần phân tích tổng chi phí sản xuất ở trên, chi phí tưới chiếm tỷ trọng
rất lớn trong tổng chi phí (tính cả chi phí lao động gia đình). Về lý thuyết, biện pháp tưới phun
tốn nhiều nước hơn, điều này giải thích phần nào về chi phí cao hơn. Tuy nhiên, chi phí của
mỗi biện pháp không chỉ phụ thuộc vào lượng nước mà còn phụ thuộc vào khoảng cách đến
nguồn nước gần nhất, nguồn nước, chi phí đầu tư ban đầu, điều kiện khí hậu của các vùng
khác nhau và các điều kiện ưu đãi của chính quyền địa phương (ví dụ như tài nguyên nước
công cộng, tư nhân). Việc phân tích chi phí nước tưới ở 80 hộ khác nhau trong nghiên cứu
này đã cho thấy rõ thực tế nêu trên.
Trong trường hợp sử dụng lao động gia đình, tổng chi phí nước tưới khi áp dụng biện pháp

tưới gốc (2.321 nghìn VND/tấn) thấp hơn 26% so với khi áp dụng biện pháp tưới phun (2.936
nghìn VND/tấn). Hơn nữa, chi phí tưới gốc cũng dao động khá nhiều, từ chi phí tối thiểu là
712 nghìn VND/tấn

cho tới hơn 11 triệu VND/tấn. Trong khi đó chi phí tưới phun chỉ dao động
từ 1,7 triệu VND/tấn

đến 4,2 triệu VND/tấn. Trong biện pháp tưới gốc tỷ lệ cao nhất là chi phí
cố định, chiếm gần 70% tổng chi phí. Chi phí cố định được đầu tư khá cao trong biện pháp
tưới phun. Điều này phần nào khiến nông dân không muốn áp dụng biện pháp tưới phun,
mặc dù họ biết rằng biện pháp này là hiệu qủa hơn so với tưới gốc. Chi phí hoạt động của
22
biện pháp tưới phun còn thấp hơn đôi chút so với tưới gốc (852 so với 928 nghìn đồng/tấn
khi sử dụng lao động gia đình) bởi vì tưới phun sử dụng nhân công ít hơn so với tưới gốc.
Trong trường hợp không sử dụng lao động gia đình, chi phí khi áp dụng biện pháp tưới gốc
cũng thấp hơn so với khi áp dụng biện pháp tưới phun (lần lượt là 2.152 và 2.821 nghìn VND
t
-1
) với độ lệch tiêu chuẩn cũng khác nhau (1.414 và 738 nghìn VND t
-1
).
Qua phân tích ở trên có thể thấy chi phí tươi phun cao hơn so với chi phí tưới gốc. Tuy nhiên
hiện nay biện pháp tưới gốc sử dụng nhiều nước hơn so với biện pháp tưới phun, do vậy
trong tương lai nếu người nông dân phải trả tiền nước tưới và tiếp tục áp dụng biện pháp
tưới như hiện nay thì chi phí tưới gốc sẽ rất cao. Đây cũng là một yếu tố cần phải xem xét.
Bảng 15: Chi phí tưới (000d/tấn quả)
Biến Số hộ TB Sai số Min Max
Tưới gốc - có LĐ gia
đình 68 2321 1469 712 11498
Tưới phun - có LĐ gia

đình 12 2936 779 1669 4261
Tưới gốc - ko LĐ gia
đình 68 2152 1414 498 10998
Tưới phun - ko LĐ gia
đình 12 2821 738 1591 3975
Việc phân tích phân bổ chi phí theo các nhóm khác nhau là một vấn đề rất đáng để xem xét.
Nhìn chung, chi phí tưới của Krong Ana cao hơn CuMgar, đặc biệt là về chi phía biến đổi.
Chi phí cố định của những hộ áp dụng biện pháp tưới gốc ở Krong Ana cao hơn 9% so với ở
CuMgar. Chi phí hoạt động ở Krong Ana thậm chí còn cao hơn 22% so với ở CuMgar. Sở dĩ
như vậy là vì cả giá nhân công và giá xăng dầu ở Krong Ana (25,2 nghìn đ/người-ngày và
4,5 nghìn đ/lít) đều cao hơn ở CuMgar (24 nghìn đ/người-ngày và 4,5 nghìn đ/lít).
Tất cả các hạng mục chi phí của những hộ sử dụng nguồn nước công cộng đều cao hơn so
với các hộ sử dụng nguồn nước tư nhân. Điều này là do trong biện pháp tưới gốc, chi phí lắp
đặt ống dẫn nước và bơm nước từ nguồn công cộng đều cao gấp 4 và 1,1 lần so với khi sử
dụng nguồn nước tư nhân. Chỉ có chi phí đào giếng và nước tưới công cộng là thấp hơn so
với của tư nhân, mặc dù chệnh lệch không nhiều như vậy (chỉ hơn 0,12 và 50 lần) (song cần
lưu ý rằng chi phí tưới nước của nguồn nước công cộng và nguồn nước tư nhân chỉ vào
khoảng 100 nghìn đ/ha so với 2 nghìn đ/ha, do đó mức chênh lệch 50 lần như vậy không
phải là qúa nhiều). Với biện pháp tưới phun, chi phí lắp đặt ống dẫn nước và đào giếng của
chủ sở hữu tư nhân cao gấp 1,4 và 8 lần so với của công cộng. Tuy nhiên, chi phí về máy
bơm, tưới nước và dụng cụ tưới phun của công cộng đều cao hơn rất nhiều so với của tư
nhân. Chi phí nhân công và nhiên liệu không khác nhau nhiều giữa hai nhóm này.
Bảng 16: Chi phí tưới theo nhóm (000 đ/tấn quả)
Các nhóm Chi phí cố đình Chi phí hoạt động
Tưới gốc Tưới phun
Có LĐ
gia đình
Ko LĐ
gia
đình

Huyện
Krong Ana 1458 2341 1011 823
CuMgar 1335 1785 826 690
Nguồn nước
Tư nhân 1317 1980 903 740
23
Công cộng 2174 2239 993 842
1.2 Thực tiễn sử dụng phân bón
Bón phân là hoạt động rất quan trọng trong sản xuất cà
phê. Có tới 99 % số hộ điều tra cho biết có sử dụng phân
bón. Chỉ có 1 hộ ở huyện CuMgar không sử dụng phân
bón.
Nông dân sản xuất cà phê ở Dak Lak dùng 11 loại phân.
Trung bình, một hộ bón 1140 kg phân cho 1 tấn cà phê
quả (tính tổng tất cả các loại phân). Loại phân bón chính
được sử dụng là NPK và phân xanh, chiếm tỉ lệ cao nhất
trong tổng lượng phân 26.5 % và 33 %. SA, urea, thermo-
phosphate, KCl chiếm khoảng 8% trong tổng lượng.
Bảng 17: Lượng phân bón theo loại
Loại phân Lượng (kg/tấn) %
SA 102.23 8.96
Urea 97.06 8.51
Thermo-Phosphate 97.26 8.53
Super-phosphate 7.41 0.65
KCl 93.63 8.21
NPK 301.92 26.48
Nitrate 3.74 0.33
Vôi 34.43 3.02
Phân xanh 375.20 32.90
DAP 11.60 1.02

Khác 15.83 1.39
Tổng 1140.31 100.00
Hộ dân huyện Krong Ana dùng ít phân bón hơn huyện
CuMgar (trung bình 1088 kg/tấn hạt và 1191 kg/tấn hạt).
Loại phân chủ yếu mà huyện Krong Ana sử dụng là NPK
và phân xanh, chiếm 33 và 40 %. Trong khi đó, huyện
CuMgar dùng nhiều loại phân hơn như phân xanh, NPK,
SA and Thermo-phosphate, chiếm lần lượt 27, 21,11 và
13 % tổng lượng bón.
Bảng 18: Lượng phân bón theo loại, theo huyện
Loại phân Krong Ana CuMgar
Lượng (kg/tấn) % Lượng (kg/tấn) %
SA 68 6.25 135 11.34
Urea 70 6.43 122 10.24
Thermo-Phosphate 40 3.68 152 12.76
Super-phosphate 15 1.38 0 0.00
KCl 53 4.87 133 11.17
24
NPK 360 33.09 247 20.74
Nitrate 8 0.74 0 0.00
Vôi 18 1.65 50 4.20
Phân xanh 434 39.89 319 26.78
DAP 0 0.00 23 1.93
Khác 22 2.02 10 0.84
Tổng 1088 100 1191 100
Các nhóm thu nhập cũng sử dụng phân bón khác nhau.
Nhóm thu nhập cao sử dụng ít phân bón nhất 1061 kg/tấn
hạt so với 1240 kg và 1161 kg/tấn hạt của nhóm thu nhập
trung bình và thấp. Điều này có thể là do nhóm thu nhập
cao có nhiều kiến thức hơn và có nhiều tiền đầu tư ban

đầu chăm sóc cây cà phê hơn nên đất tốt, không phải
dùng nhiều phân bón. Mặt khác, họ sử dụng chủ yếu là
phân hoá học (chiếm tới 40% tổng lượng phân), nên tác
dụng với đất mạnh hơn. Trong khi đó, nhóm thu nhập thấp
không có nhiều tiền mua phân hoá học nên họ chủ yếu sử
dụng chủ yếu là phân xanh (chiếm tới hơn 40% tổng
lượng phân).
Bảng 19: Lượng phân bón theo loại, theo nhóm hộ (kg/tấn)
Loại phân Nghèo TB Giàu
Lượng % Lượng % Lượng %
SA 72 6.21 86 6.91 151 14.83
Urea 97 8.34 59 4.77 137 13.45
Thermo-Phosphate 79 6.83 66 5.33 148 14.60
Super-phosphate 7 0.61 3 0.24 12 1.21
KCl 85 7.36 49 3.94 149 14.63
NPK 334 28.76 287 23.13 285 28.01
Nitrate 0 0.00 2 0.19 9 0.89
Vôi 0 0.00 91 7.37 11 1.09
Phân xanh 471 40.60 579 46.69 64 6.31
DAP 0 0.00 12 0.98 23 2.27
Khác 15 1.29 5 0.44 28 2.71
Tổng 1161 100 1240 100 1016 100
Lượng phân hoá học cũng được nhóm nghiên cứu phân
tích theo phân đơn, đó là đạm (N), lân (P
2
O
5
) và Kali (K
2
O)

để đánh giá hiệu quả sử dụng phân bón của nông dân
Đắk Lắk.
Tình trung bình năm 2004, lượng bón đạm cao nhất,
khoảng 191 kg/tấn so với mức 70 kg/tấn và 173 kg/tấn
lượng lân và kali. Khoảng giao động của hai yếu tố đạm
và kali cũng cao hơn với giá trị tối thiểu là 75 và 41 kg/tấn
và giá trị tối đa là 788 và 1108 kg/tấn, cho thấy biên độ sử
dụng phân bón giao động khá lớn trong số 80 hộ điều tra
năm 2004.
25

×