Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Biện pháp thế chấp tài sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.66 KB, 21 trang )

1


MỤC LỤC

2


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT

3

Ký hiệu chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

1

BLDS

Bộ luật Dân sự

2

AL

Án lệ

3


KDTM-PT

Kinh doanh thương mại–phúc thẩm

4

DS-ST

Dân sự-sơ thẩm

5

NĐ-CP

Nghị định-Chính phủ


4

A. MỞ BÀI
Đất nước ta đang phát triển theo nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Xã hội phát triển kéo theo nhu cầu của con người ngày một gia tăng, trong đó
đặc biệt là nhu cầu về vay vốn đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh của các tổ chức,
cá nhân là rất lớn. Ngoài ra, vay vốn còn là nhu cầu thiết yếu của các cá nhân, gia đình
nhằm giải quyết những khó khăn trong cuộc sống. Tương ứng với nó là hoạt động cho
vay của các tổ chức tín dụng, tổ chức, cá nhân ngày càng phát triển. Hoạt động cho
vay đem lại lợi nhuận cao nhưng luôn tồn tại những rủi do. Do vậy, để đảm bảo an
toàn cũng như hiệu quả của hoạt động cho vay, pháp luật dân sự có các quy định về
các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.
Hiện nay, khi thực hiện các nghĩa vụ dân sự, để đảm bảo lòng tin giữa các bên

thì họ thường áp dụng các biện pháp nhằm bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, và thế
chấp tài sản là một trong số đó. Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự bằng biện pháp thế
chấp tài sản là một phương thức khá phổ biến, bởi không những thủ tục của thế chấp
tài sản đơn giản, nhanh gọn mà người thế chấp vẫn tiếp tục được sử dụng, khai thác
công dụng của tài sản thế chấp, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản này làm tăng thu nhập.
Tuy nhiên, cũng giống như các biện pháp bảo đảm khác, thế chấp cũng có những ưu,
nhược điểm riêng. Trên thực tế, việc không hiểu rõ biện pháp này xảy ra rất nhiều và
chúng đã gây ra những hậu quả, những tranh chấp khơng đáng có. Vì vậy, trong phạm
vi bài tiểu luận này em xin nghiên cứu đề tài: “Thế chấp tài sản – Một biện pháp bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam” với mong
muốn làm rõ những quy định của pháp luật về biện pháp thế chấp tài sản theo pháp
luật dân sự Việt Nam và qua đó đưa ra những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn và
kiến nghị những biện pháp khắc phục.
Trong quá trình nghiên cứu khó tránh khỏi những thiếu sót, em mong thầy cơ
bỏ qua và góp ý để bài làm của em được đầy đủ và hoàn thiện hơn. Em xin chân thành
cảm ơn!


5

B. NỘI DUNG
I. Khái quát chung về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
1. Khái niệm về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
Căn cứ theo Điều 274 BLDS 2015 quy định về nghĩa vụ đó là: “Nghĩa vụ là
việc mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải
chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện công việc
hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể
khác (sau đây gọi chung là bên có quyền)”.
Theo quy định Điều 292 BLDS năm 2015 các biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ gồm: Cầm cố tài sản; Thế chấp tài sản; Đặt cọc; Ký cược; Ký quỹ; Bảo lưu

quyền sở hữu; Bảo lãnh; Tín chấp; Cầm giữ tài sản. So với BLDS năm 2005, thì BLDS
2015 quy định thêm hai biện pháp bảo đảm đó là bảo lưu quyền sở hữu và cầm giữ tài
sản. Mặc dù thêm hai biện pháp bảo đảm mới về bản chất của biện pháp bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ vẫn thực hiện hai chức năng chính của mình là chức năng đảm bảo thực
hiện nghĩa vụ và bảo đảm việc giao kết khi các bên mong muốn. Do vậy, biện pháp
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự được hiểu là việc thoả thuận giữa các bên hoặc do
pháp luật quy định; dưới góc độ là các giao dịch, bảo đảm thực hiện nghĩa vụ chỉ là sự
thoả thuận giữa các bên nhằm tạo ra một biện pháp tác động và dự phòng để bảo đảm
cho việc thực hiện nghĩa vụ dân sự của bên có nghĩa vụ đối với bên có quyền trong
quan hệ về nghĩa vụ, đồng thời nhằm khắc phục những hậu quả xấu do việc không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ gây ra.
2. Đặc điểm của các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự phát sinh trên cơ sở các bên
chủ thể tham gia giao dịch dân sự xác định, thỏa thuận với nhau về nghĩa vụ cần bảo
đảm là nghĩa vụ nào và bảo đảm nghĩa vụ này như thế nào. Do đó các biện pháp bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự được coi là nghĩa vụ phụ, phát sinh từ nghĩa vụ chính,
nghĩa vụ được bảo đảm. Mối quan hệ giữa giao dịch bảo đảm và hợp đồng có nghĩa vụ
được bảo đảm vừa phụ thuộc vừa độc lập.
Các biện pháp bảo đảm ra đời nhằm bảo đảm lợi ích cho bên có quyền, bên có
lợi ích vật chất (nghĩa vụ thanh tốn, thực hiện cơng việc trị giá được bằng tiền… ) do
đó các biện pháp bảo đảm có đối tượng là tài sản, lợi ích vật chất.


6

Bản chất biện pháp bảo đảm sinh ra không phải vì chính nó mà sinh ra để phục
vụ cho nghĩa vụ và chỉ cần thiết khi nghĩa vụ bị vi phạm, khi nghĩa vụ khơng được
thực hiện đúng. Nếu có vi phạm của bên có nghĩa vụ đối với bên có quyền làm cách
nào bảo vệ quyền của mình, hạn chế tối đa rủi ro. Do vậy, có thể thấy biện pháp bảo
đảm mang tính chất dự phịng.

3. Đối tượng của biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
Đối tượng của biện pháp bảo đảm chính là tài sản, việc thực hiện cơng việc
hoặc uy tín.
Tất cả các tài sản đều có thể dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ nếu thuộc
quyền sở hữu của bên bảo đảm, trừ trường hợp cầm giữ tài sản, bảo lưu quyền sở hữu.
Ngồi ra, tài sản hình thành trong tương lai cũng có thể dùng để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ.
Việc thực hiện công việc tức là một bên thực hiện một công việc nhất định vốn
là nghĩa vụ của bên kia. Công việc phải thực hiện chỉ là đối tượng của biện pháp bảo
đảm nếu các bên thỏa thuận hoặc được pháp luật quy định và đây là cơng việc có thực.
Uy tín: Với đối tượng này để đảm bảo cho một bên có thể được lợi thường
thơng qua hình thức vay. Không phải cá nhân hay tổ chức nào cũng có thể đúng ra để
đảm bảo thực hiện việc này mà có những điều kiện cụ thể theo quy định của pháp luật.
Đối tượng này thường xảy ra ở biện pháp bảo đảm tín chấp.
II. Thế chấp tài sản là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ theo quy định của
pháp luật dân sự Việt Nam.
1. Khái niệm và đặc điểm của biện pháp bảo đảm thế chấp tài sản
Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản
thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và không giao tài sản cho bên
kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp).
Từ định nghĩa trên, biện pháp thế chấp tài sản mang những đặc điểm cơ bản
sau:
Trong quan hệ thế chấp, bên thế chấp không chuyển giao tài sản cho bên nhận
thế chấp, mà chỉ phải chuyển giao những giấy tờ pháp lý là chứng từ gốc chứng minh
quyền sở hữu của mình đối với tài sản thế chấp cho bên nhận thế chấp. Bên thế chấp
vẫn sử dụng, khai thác công dụng của tài sản thế chấp, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản


7


này. Mặt khác, bên nhận thế chấp cũng không phải bảo quản, chịu trách nhiệm về tài
sản thế chấp. [8, tr.152]
Ví dụ: Do cần một khoản tiền để thực hiện việc kinh doanh, buôn bán nên A đã
thế chấp ngôi nhà của mình cho ngân hàng B. Trong trường hợp này, A chỉ cần giao
cho ngân hàng giấy tờ chứng minh quyền sở hữu nhà ở đó mà khơng phải chuyển giao
tài sản.
Tài sản thế chấp chỉ có tính ổn định tương đối khi thời hạn hợp đồng thế chấp
có hiệu lực pháp luật. Thế chấp không phải là một biện pháp bảo đảm mang tính ổn
định trong mọi thời điểm khác nhau mà bản thân thế chấp vẫn có khả năng bị thay đổi
do nhiều nguyên nhân khác nhau như thay đổi về giá trị của tài sản thế chấp, thay đổi
về trạng thái của tài sản thế chấp (đối với tài sản thế chấp là tài sản hình thành trong
tương lai), thay đổi về chủ thể… gây ra những khó khăn, phức tạp cho bên nhận thế
chấp. [8, tr.152]
Mỗi biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đều có những ưu và nhược điểm
khác nhau. Chính ưu và nhược điểm đó cho các bên khi giao kết thực hiện nghĩa vụ
với nhau lựa chọn được biện pháp bảo đảm phù hợp với những nội dung giao dịch.
Biện pháp thế chấp tài sản được xem là một biện pháp nhanh chóng, thuận tiện, khá
đơn giản cho các bên trong quan hệ thế chấp nhưng nhược điểm lớn nhất là mức độ rủi
ro tương đối cao đặt ra cho bên nhận thế chấp. Bởi lẽ bên nhận thế chấp không nắm
giữ tài sản thế chấp dẫn đến tình trạng bên thế chấp có thể bán hoặc cho thuê tài sản đó
làm giảm giá trị của tài sản thế chấp.
Về hình thức của biện pháp thế chấp phải được lập thành văn bản, có thể lập
thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính. Văn bản thế chấp phải có chứng
nhận của Công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm
quyền nếu pháp luật có quy định. Việc chứng nhận, chứng thực tạo điều kiện thuận lợi
cho việc quản lý nhà nước một cách chặt chẽ hơn đối với việc chuyển giao các bất
động sản. Nếu bất động đó được dùng thế chấp để bảo đảm nhiều nghĩa vụ, thì mỗi
một lần thế chấp phải được lập thành một văn bản riêng. [17,19]
2. Đối tượng của biện pháp bảo đảm thế chấp tài sản
2.1. Bản chất của đối tượng của biện pháp thế chấp tài sản

Nếu như đối tượng chung của các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ có thể
là tài sản, cơng việc được thực hiện hay là uy tín thì đối tượng của biện pháp thế chấp


8

chỉ là tài sản. Tuy nhiên, không phải tất cả mọi tài sản đều là đối tượng của thế chấp.
Mà nó cần phải có đặc trưng nhất định sau:
Về phạm vi thuộc đối tượng của thế chấp rộng hơn so với cầm cố. Tài sản thuộc
đối tượng của thế chấp gồm: vật, quyền tài sản, giấy tờ có giá, có thể là tài sản hiện có
hoặc tài sản hình thành trong tương lai; bên cạnh đó thì tài sản đang cho thuê, cho
mượn cũng có thể được xem là đối tượng của thế chấp. Tài sản thuộc đối tượng của
thế chấp là tài sản hợp pháp của người đi thế chấp để bảo đảm nghĩa vụ được thực hiện
và tài sản đó khơng được giao cho bên kia. Tức là người đi thế chấp phải có quyền sở
hữu đối với tài sản mà mình mang đi thế chấp.
Ví dụ: A cho B vay 50 triệu đồng, B dùng chiếc xe máy của mình để thế chấp
bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ. Hợp đồng vay giữa A và B đã có hiệu lực do đó hợp
đồng thế chấp này cũng có hiệu lực. Trong trường hợp này, B chỉ được sử dụng tài sản
thuộc quyền sở hữu của mình để thế chấp cho hợp đồng vay tài sản và cụ thể ở đây là
chiếc xe máy. B không phải chuyển xe thuộc sở hữu của mình cho A mà vẫn có thể
tiếp tục sử dụng theo khoản 1 Điều 321 BLDS 2015: “Khai thác công dụng, hưởng
hoa lợi, lợi tức từ tài sản thế chấp”.
2.2. Đối tượng thế chấp là động sản, bất động sản
Theo khoản 1 Điều 107 BLDS quy định về bất động sản bao gồm: “Đất đai;
Nhà, cơng trình xây dựng gắn liền với đất đai; Tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà,
cơng trình xây dựng; Tài sản khác theo quy định của pháp luật.” [1, Điều 107, khoản
1] Động sản thì là những tài sản không phải bất động sản. Tùy từng trường hợp, các
bên có thể thỏa thuận dùng tồn bộ hoặc một phần bất động sản, động sản bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ. Trong trường hợp bất động sản được mang ra thế chấp có vật phụ
kèm theo như là một tồ cơng ty có máy phát điện. Máy phát điện này cần sử dụng khi

cơng ty mất điện, vì vậy nếu cơng ty có những vật phụ kèm theo thì chúng đều là tài
sản thế chấp. Đối với động sản mà có vật phụ kèm theo khi thế chấp thì vật phù là tài
sản thế chấp, trừ trường hợp các bên thoả thuận vật phụ không thể thế chấp. Trường
hợp thế chấp một phần bất động sản, động sản mà có vật phụ thì vật phụ gắn với tài
sản đó thuộc tài sản thế chấp, trừ trường hợp có thoả thuận khác. [1, 9]
2.3. Đối tượng của biện pháp thế chấp là quyền sử dụng đất.
Theo quy định, cá nhân không có quyền sở hữu đối với đất đai, nhưng có quyền
sử dụng đất và được để thế chấp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Khi thế chấp quyền sử


9

dụng đất mà tài sản gắn liền với đất thuộc quyền sở hữu của bên thế chấp thì tài sản
gắn liền với đất cũng thuộc tài sản thế chấp, trừ trường hợp có thoả thuận khác.Ngồi
ra, BLDS 2015 đã phân biệt thế chấp quyền sử dụng đất trong hai trường hợp:
a. Thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất.

Trường hợp thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với
đất và người sử dụng đất đồng thời là chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất thì tài sản
được xử lý bao gồm cả tài sản gắn liền với đất, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Trường hợp thế chấp quyền sử dụng đất mà người sử dụng đất không đồng thời là chủ
sở hữu tài sản gắn liền với đất thì khi xử lý quyền sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn
liền với đất được tiếp tục sử dụng đất trong phạm vi quyền, nghĩa vụ của mình; quyền
và nghĩa vụ của bên thế chấp trong mối quan hệ với chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất
được chuyển giao cho người nhận chuyển quyền sử dụng đất, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác [1, Điều 325].
BLDS năm 2015 không nêu rõ đối với trường hợp trên đất có nhiều tài sản và
các tài sản đó thuộc sở hữu của nhiều bên. Để giải quyết vấn đề này án lệ số
11/2017/AL của Tồ án nhân dân tối cao có nêu rõ: Trường hợp trên đất có nhiều tài
sản gắn liền với đất mà có tài sản thuộc sở hữu của người sử dụng đất, có tài sản thuộc

sở hữu của người khác mà người sử dụng đất chỉ thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản
gắn liền với đất thuộc sở hữu của mình, hợp đồng thế chấp có nội dung và hình thức
phù hợp với quy định của pháp luật thì hợp đồng thế chấp có hiệu lực pháp luật…
Trường hợp bên thế chấp và bên nhận thế chấp thỏa thuận bên nhận thế chấp được bán
tài sản bảo đảm là quyền sử dụng diện tích đất mà trên đất có nhà thuộc sở hữu của
người khác khơng phải là người sử dụng đất thì cần dành cho chủ sở hữu nhà đó được
quyền ưu tiên nếu họ có nhu cầu mua (nhận chuyển nhượng).
b. Thế chấp tài sản gắn liền với đất mà không thế chấp quyền sử dụng đất.

Theo đó, trường hợp chỉ thế chấp tài sản gắn liền với đất mà không thế chấp
quyền sử dụng đất và chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất đồng thời là người sử dụng
đất thì tài sản được xử lý bao gồm cả quyền sử dụng đất, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác. Trường hợp chỉ thế chấp tài sản gắn liền với đất mà không thế chấp quyền sử
dụng đất và chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất không đồng thời là người sử dụng đất
thì khi xử lý tài sản gắn liền với đất, người nhận chuyển quyền sở hữu tài sản gắn liền


10

với đất được tiếp tục sử dụng đất trong phạm vi quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu tài sản
gắn liền với đất được chuyển giao, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. [1, Điều 326]
Ví dụ: Tại bản án dân sự số 11/2017/KDTM-PT ngày 12/09/2017 về tranh chấp
yêu cầu chấm dứt hợp đồng thế chấp và thực hiện nghĩa vụ giải chấp tài sản. Ngày
04/5/2009, giữa Ngân hàng A và Cơng ty B đã ký hợp đồng tín với số tiền vay là
366.300.000.000 đồng. Để đảm bảo khoản vay theo hợp đồng tín dụng giữa Cơng ty B
và Ngân hàng A ký các hợp đồng thế chấp bao gồm: Hợp đồng thế chấp máy móc,
thiết bị, phương tiện vận tải hình thành trong tương lai số DL.01290409/CC; Hợp đồng
thế chấp thế chấp tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai số
DAL.BĐ.DN.02080210/CC. Ở đây việc Toà án công nhận tài sản là tài sản gắn liền
với đất hình thành trong tương phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 326 BLDS năm

2015.
2.4. Đối tượng của thế chấp là tài sản được bảo hiểm.
Trường hợp tài sản thế chấp được bảo hiểm thì bên nhận thế chấp phải thông
báo cho tổ chức bảo hiểm biết về việc tài sản bảo hiểm đang được dùng để thế chấp.
Tổ chức bảo hiểm chi trả tiền bảo hiểm trực tiếp cho bên nhận thế chấp khi xảy ra sự
kiện bảo hiểm. Trường hợp bên nhận thế chấp không thông báo cho tổ chức bảo hiểm
biết về việc tài sản bảo hiểm đang được dùng để thế chấp thì tổ chức bảo hiểm chi trả
tiền bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm và bên thế chấp có nghĩa vụ thanh tốn cho bên
nhận thế chấp. [1, Điều 318, khoản 4]
Ví dụ: A do thiếu tiền vì làm ăn thua lỗ nên đã thế chấp ơ tơ của mình tại ngân
hàng B (A đã mua bảo hiểm cho ơ tơ của mình từ công ty C). Khi thực hiện hợp đồng
thế chấp này, A đã thông báo đến cho bên bảo hiểm bằng văn bản. Một hơm, khi có
hẹn ký hợp đồng với đối tác do khơng tìm được chỗ gửi xe nên A đã đỗ xe ở gần chỗ
Tòa nhà đang xây dựng. Sau khi giải quyết xong công việc A thấy xe của mình bị đè
bởi cả một tảng betong to do đứt dây. A đã liên hệ với bên bảo hiểm yêu cầu giải
quyết. Trong trường hợp này, C đã trả lời với A rằng do phát sinh sự kiện bảo hiểm mà
tài sản của A là tài sản bảo hiểm được thế chấp tại B nên số tiền bảo hiểm của A yêu
cầu đối với bên bảo hiểm sẽ được chi trả trực tiếp cho bên nhận thế chấp tài sản bảo
hiểm này là B.


11

3. Chủ thể của biện pháp bảo đảm thế chấp tài sản
Đối với chủ thể của biện pháp thế chấp khơng có quy định cụ thể nào về điều
kiện của chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật. Tuy nhiên, theo quy định tại phần
chung của Bộ luật Dân sự thì chủ thể tham gia vào biện pháp thế chấp tài sản phải đáp
ứng về điều kiện của giao dịch dân sự được quy định tại Điều 117 BLDS năm 2015.
Trong quan hệ thế chấp, chủ thể thế chấp tài sản bao gồm bên thế chấp và bên
nhận thế chấp. Bên có nghĩa vụ phải dùng tài sản của mình để bảo đảm cho việc thực

hiện nghĩa vụ của mình được gọi là bên thế chấp. Bên thế chấp dùng tài sản của mình
với mục đích chính nhằm bảo đảm thực hiện cho một nghĩa vụ nào đó mà bên thế chấp
muốn hướng đến. Bên có quyền được gọi là bên nhận thế chấp. Chủ thể của thế chấp
tài sản phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện mà pháp luật nước ta đã quy định đối với
người tham gia giao dịch dân sự nói chung. Bên nhận thế chấp nhận tài sản thế chấp
nhằm mục đích thực hiện một công việc mà bên thế chấp mong muốn từ bên nhận thế
chấp.
Ví dụ: Bản án 36/2020/DS-ST ngày 25/09/2020 về tranh chấp hợp đồng tín
dụng. Ngân hàng Q (VIB) và bà Nguyễn Thị Đ, ông Lê P đã ký kết Hợp đồng tín dụng
số 386.HDTD.406.18 ngày 05-7-2018, với số tiền vay 400.000.000 đồng, mục đích
phục vụ hoạt động kinh doanh thủy sản. Tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và tài
sản gắn liền với đất tại thửa đất số 28, tờ bản đồ số 14 tại xã N do Ủy ban nhân dân
huyện T, tỉnh Quảng Ngãi cấp ngày 20/12/2011 cho bà Nguyễn Thị Đ và ông Lê P và
Hợp đồng thế chấp tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai số
386.1.HDTC.406.18 ngày 05/07/2018. Từ bản án trên có thể xác định bên thế chấp ở
đây được xác định là bà Nguyễn Thị Đ và ông Lê P khi thế chấp quyền sử đất và tài
sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai để bảo đảm thực hiện hợp đồng vay.
Còn bên nhận thế chấp là Ngân hàng Q nhận tài sản thế chấp cho bên nhận thế chấp
thực hiện hợp đồng vay tiền.
4. Hiệu lực của biện pháp bảo đảm thể chấp tài sản
Theo Điều 319 BLDS 2015 quy định rằng, hợp đồng thế chấp tài sản có hiệu
lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác hay do các bên
thoả thuận; thế chấp tài sản phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời
điểm đăng ký. Việc đăng ký này không ảnh hưởng tới hiệu lực của hợp đồng thế chấp.
Bởi hợp đồng thế chấp có hiệu lực ngay từ thời điểm giao kết, việc đăng ký thế chấp


12

ảnh hưởng đến hiệu lực đối kháng với người thứ ba. Như vậy, bên nhận thế chấp và

bên thế chấp khi giao kết hợp đồng có sử dụng biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
dân sự là thế chấp, mà sau khi ký hợp đồng thế chấp này, bên nhận thế chấp không
thực hiện việc đăng ký thế chấp theo quy định pháp luật thì sẽ khơng làm phát sinh
hiệu lực đối kháng với người thứ ba. Như vâỵ bên nhận thế chấp tự đánh mất quyền lợi
của mình. [8, tr.152]
Biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba từ khi đăng
ký biện pháp bảo đảm hoặc bên nhận bảo đảm nắm giữ hoặc chiếm giữ tài sản bảo
đảm. Nghĩa là, khi giao dịch bảo đảm (như cầm cố, thế chấp, cầm giữ tài sản…) được
xác lập, khơng chỉ có hiệu lực với các bên tham gia, mà còn phát sinh hiệu lực pháp lý
với bên thứ ba. Theo khoản 1, Điều 23 Nghị định số 21/2021/NĐ-CP quy định: “Biện
pháp bảo đảm chỉ phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba trong trường hợp hợp
đồng bảo đảm đã có hiệu lực pháp luật”. Cũng giống như biện pháp cầm cố, hiệu lực
đối kháng đối với người thứ ba đối với biện pháp thế chấp kể từ thời điểm đăng ký.
Ví dụ: A thế chấp xe cho Ngân hàng (xe có được từ việc vay vốn Ngân hàng) và
thế chấp này đã được đăng ký. Sau đó, A mang xe đến chỗ B để sửa và khơng trả tiền
cho B. Do đó, B đã cầm giữ chiếc xe. Về mối quan hệ giữa B Ngân hàng (đều có
quyền đối với chiếc xe: Ngân hàng có quyền thế chấp và B quyền cầm giữ). Theo các
quy định nêu trên (khoản 1 Điều 297 và khoản 2 Điều 2 BLDS 2015), quyền của Ngân
hàng đối kháng với người thứ ba (trong đó có B kể thời điểm đăng ký còn quyền của B
chỉ đối kháng với người thứ ba (trong đó có Ngân hàng) kể từ thời điểm chiếm giữ tài
sản nhưng quyền đối kháng của B xuất hiện sau quyền đối kháng của Ngân hàng. Theo
điểm a khoản 1 Điều 308 BLDS 2015 trong trường hợp này, ngân hàng được ưu tiên
thanh toán so với B.
5. Nội dung của biện pháp bảo đảm thế chấp tài sản
Nội dung của biện pháp bảo đảm thế chấp được hiểu là những lợi ích mà các
bên hướng tới khi tham gia vào biện pháp bảo đảm thế chấp tài sản. Những lợi ích mà
các bên khi tham gia vào biện pháp bảo đảm thế chấp này là những quyền và nghĩa vụ
được quy định BLDS năm 2015.
5.1. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ thế chấp
a. Quyền và nghĩa vụ của bên thế chấp



13

Thứ nhất, bên thế chấp tài sản có nghĩa vụ sau đây: Bên thế chấp không những
phải bảo quản tài sản thế chấp mà còn phải giao lại các giấy tờ liên quan đến tài sản
thế chấp trong trường hợp các bên có thoả thuận. Bên thế chấp cần phải khắc phục hay
ngừng việc việc khai thác công dụng của tài sản đó nếu việc khai thác gây ảnh hưởng
đến giá trị của tài sản thế chấp. Khi tài sản thế chấp bị hư hỏng, trong một thời gian thì
bên thế chấp phải sửa chữa hoặc thay thế bằng tài sản khác có giá trị tương đương, trừ
khi có thoả thuận khác. Bên thế chấp cần báo cáo thông tin thực trạng cho bên nhận
thế chấp; giao tài sản cho bên nhận thế chấp xử lý theo trường hợp tại Điều 299
BLDS; không được bán hay thay thế, tặng cho tài sản thế chấp, trừ quy định tại khoản
4, 5 Điều 321 BLDS. Ngồi ra, bên thế chấp phải thơng báo cho bên nhận thế chấp về
quyền của người thứ ba với tài sản thế chấp, trường hợp không thông báo thì bên nhận
thế chấp có quyền hủy hợp đồng thế chấp và yêu cầu bồi thường thiệt hại hoặc duy trì
hợp đồng và chấp nhận quyền của người thứ ba đối với tài sản thế chấp. [1, Điều 320]
Thứ hai, quyền của bên thế chấp đó là: Bên thế chấp được khai thác công dụng,
hoa lợi lợi tức từ tài sản thế chấp, trừ trường hợp lợi tức cũng là tài sản thế chấp theo
thoả thuận; đầu tư để làm tăng giá trị tài sản thế chấp; được cho thuê, cho mượn tài sản
thế chấp nhưng phải thông báo cho bên thuê, bên mượn biết tài sản này là tài sản thế
chấp và phải báo cho bên nhận thế chấp biết việc này. Bên thế chấp được nhận lại tài
sản từ người thứ ba, giấy tờ có liên quan đến tài sản này do bên nhận thế chấp giữ, khi
nghĩa vụ thế chấp chấm dứt hoặc được thay thế bằng nghĩa vụ khác; được bán, trao đổi
nếu tài sản thế chấp là hàng hố ln chuyển trong q trình sản xuất. Ngoài ra, nếu
được bên nhận thế chấp đồng ý thì bên thế chấp có thể bán, trao đổi, tặng cho tài sản
này nhưng khơng phải là hàng hố luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh.
[1, Điều 321]
b. Quyền và nghĩa vụ của bên nhận thế chấp
Thứ nhất, bên nhận thế chấp tài sản có các nghĩa vụ sau: Trường hợp các bên

thoả thuận bên nhận thế chấp giữ giấy tờ liên quan đến tài sản thế chấp, sau khi chấm
dứt thế chấp thì bên nhận thế chấp trả lại cho bên thế chấp. Ngoài ra, thực hiện thủ tục
xử lý tài sản thế chấp theo quy định pháp luật. [1, Điều 322]
Thứ hai, bên nhận thế chấp tài sản có các quyền sau: Bên nhận thế chấp được
trực tiếp kiểm tra tài sản thế chấp nhưng khơng được gây khó khăn cho việc hình
thành, sử dụng tài sản này; yêu cầu bên thế chấp cung cấp đầy đủ thông tin – thực


14

trạng về tài sản thế chấp; trong trường hợp tài sản có nguy cơ bị giảm sút giá trị, ảnh
hưởng thì có quyền u cầu bên thế chấp sử dụng biện pháp để bảo toàn giá trị của tài
sản này; thực hiện việc đăng ký theo thoả thuận; xử lý tài sản thế chấp khi thuộc
trường hợp Điều 299 BLDS. Ngồi ra, khi bên thế chấp thực hiện khơng đúng nghĩa
vụ thì bên nhận thế chấp có quyền u cầu bên thế chấp hay bên thứ ba giữ tài sản giao
lại tài sản để xử lý. Cuối cùng, bên nhận thế chấp có quyền giữ các giấy tờ liên quan
đến tài sản thế chấp nếu có thoả thuận. [1, Điều 323]
5.2. Quyền và nghĩa vụ của người thứ ba giữ tài sản thế chấp
Khi các bên trong quan hệ thế chấp tài sản thoả thuận để người thứ ba giữ tài
sản, thì người thứ ba được luật định có các quyền sau đây: Bên thứ ba được khai thác
công dụng tài sản thế chấp, nếu có thỏa thuận. Bên cạnh đó, bên thứ ba được trả thù
lao và chi phí bảo quản, giữ gìn tài sản thế chấp, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. [1,
Điều 324, khoản 1]
Ví dụ: A cho B vay 50 triệu đồng, B dùng chiếc xe máy của mình để thế chấp
bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ. Hợp đồng vay giữa A và B đã có hiệu lực do đó hợp
đồng thế chấp này cũng có hiệu lực. B khơng phải chuyển xe thuộc sở hữu của mình
cho A vẫn được quyền sử dụng đối với chiếc xe máy trên. Do A cảm thấy khơng an
tồn để B tiếp tục sử dụng xe máy, do có thể B sẽ làm hư hỏng, nên đã vưới B cùng đi
đến thoả thuận việc để cho C giữ chiếc xe máy. Và hai bên sẽ chi trả tiền trông giữ
chiếc xe máy, tài sản bảo đảm này cho C trong thời gian hai bên đã thoả thuận thực

hiện nghĩa vụ.
Người thứ ba giữ tài sản thế chấp có các nghĩa vụ sau: “Bảo quản, giữ gìn tài
sản thế chấp; nếu làm mất tài sản thế chấp, làm mất giá trị hoặc giảm sút giá trị của
tài sản thế chấp thì phải bồi thường; Khơng được tiếp tục khai thác công dụng tài sản
thế chấp nếu việc tiếp tục khai thác có nguy cơ làm mất giá trị hoặc giảm sút giá trị
của tài sản thế chấp; Giao lại tài sản thế chấp cho bên nhận thế chấp hoặc bên thế
chấp theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật.” [1, Điều 324, khoản 2]
6. Xử lý tài sản thế chấp và chấm dứt biện pháp bảo đảm thế chấp tài sản.
6.1. Xử lý tài sản thế chấp
Cũng giống như biện pháp bảo đảm cầm cố tài sản, biện pháp bảo đảm thế chấp
khơng có quy định nào riêng về xử lý tài sản thế chấp mà điều này được quy tại phần
chung của biện pháp bảo đảm. Theo đó, nếu đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên


15

thế chấp không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì tài sản thế chấp
được xử lý để thực hiện nghĩa vụ. Theo Điều 300 BLDS năm 2015 quy định các
phương thức xử lý tài sản thế chấp. Theo đó, bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm có
quyền thỏa thuận một trong các phương thức xử lý tài sản cầm cố, thế chấp sau đây:
Bán đấu giá tài sản; Bên nhận bảo đảm tự bán tài sản; Bên nhận bảo đảm nhận chính
tài sản để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm hay là các phương
thức khác. Trường hợp khơng có thỏa thuận về phương thức xử lý tài sản bảo đảm thì
tài sản được bán đấu giá, trừ trường hợp luật có quy định khác. Ở đây, có thể thấy
phương thức bán đấu giá tài sản được ưu tiên hàng đầu, bởi lẽ tính khách quan của
phương thức này cao bảo đảm quyền và lợi ích của bên thế chấp và bên nhận thế chấp.
Bên nhận thế chấp được ưu tiên thanh toán từ số tiền bán tài sản thế chấp sau khi trừ
chi phí bảo quản và các chi phí liên quan khác.
Trường hợp phải xử lý tài sản thế chấp để thực hiện một nghĩa vụ đến hạn mà
tài sản đó được dùng thế chấp để đảm bảo nhiều nghĩa vụ thì các nghĩa vụ khác dù

chưa đến hạn cũng được coi là đến hạn. Quyền được ưu tiên thanh toán của những
người nhận thế chấp (các chủ nợ) được xác định theo thứ tự giống như thanh toán
nghĩa vụ đối với những người nhận cầm cố tài sản.
6.2. Chấm dứt thế chấp tài sản
Điều 357 BLDS năm 2005 quy định về chấm dứt thế chấp tài sản so với quy
định tại BLDS 2015 khơng có sự khác nhau về nội dung của việc chấm dứt thế chấp
tài sản. So với quy định của cầm cố tài sản một biện pháp có hình thức và nội dung
khá tương tự với thế chấp, các nhà làm luật cũng quy định cụ thể về các trường hợp
chấm dứt và các trường hợp đó gần giống như hồn tồn các trường hợp chấm dứt đối
với thế chấp tài sản. Bởi lẽ về nội dung và bản chất hai biện pháp này cũng có nhiều
điểm tương đồng nhất định.
Theo đó, thế chấp tài sản chấm dứt trong trường hợp sau đây: Nghĩa vụ được
bảo đảm bằng thế chấp chấm dứt; việc thế chấp tài sản được hủy bỏ hoặc được thay
thế bằng biện pháp bảo đảm khác; tài sản thế chấp đã được xử lý; theo thỏa thuận của
các bên.
III. Những bất cập, vướng mắc về quy định về biện pháp bảo đảm thế chấp tài
sản và kiến nghị hoàn thiện.
1. Những bất cập, vướng mắc về quy định biện pháp bảo đảm thế chấp tài sản


16

Thế chấp là một trong những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ phổ biến
trong các biện pháp bảo đảm thực hiện nghã vụ được quy định tại BLDS năm 2015.
Chính vì sự phổ biến của biện pháp này nên trên thực tế khi áp dụng các quy định của
pháp luật về biện pháp thế chấp bên cạnh những sự điều chỉnh của pháp luật thì cịn
gặp nhiều khó khăn, vướng mắc và bất cập khi áp dụng.
Thứ nhất, đối với các đối tượng của thế chấp là quyền tài sản và tài sản hình
thành trong tương lai chưa được quy định cụ thể. Đối với các đối tượng của thế chấp
về quyền tài sản còn rất hạn chế về các quy định. Mặc dù nghị định 21/2021/NĐ-CP

đã quy định đối với vệc thế chấp một số quyền tài sản như quyền địi nợ, quyền u
cầu thanh tốn. Tuy nhiên, một số quyền tài sản như quyền sở hữu trí tuệ chưa được
một văn bản nào đề cập tới việc thế chấp các quyền sở hữu trí tuệ. Đối với quyền này
Luật sở hữu trí tuệ cũng như BLDS cũng bỏ ngõ đối tượng này. Điều này gây khó
khăn trong việc nếu có tranh chấp xảy ra thì quyền sở hữu trí tuệ có được xem xét là
một đối tượng của thế chấp hay khơng. Bên cạnh đó, đối với đối tượng là tài sản hình
thành trong tương lai tuy đã hiện hữu từ nhiều năm. Tuy được xác định là tài sản hình
thành trong tương lai do chưa hoàn thành giao dịch hoặc chưa được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà. Tuy nhiên, đối với tài sản chưa hình thành
trên thực tế vẫn được coi là tài sản thế chấp để bảo đảm nghĩa vụ thì vẫn gặp nhiều khó
khăn trong việc định giá, đánh giá giá trị tài sản, thậm chí khó có thể xác định được
khi nào sẽ hình thành xong [9,10].
Thứ hai, pháp luật liên quan về thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền
trên đất còn thiếu đi các quy định chi tiết về vấn đề này. Mặc dù, đây là một đối tượng
thế chấp phổ biến và chiếm đa số gần như toàn bộ đối với các vụ án liên quan đến thế
chấp. Cụ thể đối với trường hợp thế chấp quyền sử dụng đất tuân thủ quy định của
pháp luật nhưng sau đó giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bị thu hồi, hủy bỏ do sai
sót về diện tích đất và trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Mặc dù
án lệ số 36/2020/AL đã giải quyết việc thu hồi, hủy bỏ giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất không làm mất đi quyền sử dụng đất hợp pháp của người sử dụng đất. Tuy nhiên,
những vấn đề xung quanh đó vẫn chưa được quy định một cách chi tiết và cụ thể dẫn
đến vướng mắc trên thực tiễn áp dụng.
Thứ ba, vấn đề nhức nhối đối với thế chấp tài sản của bên thứ ba. Bản chất của
thế chấp thì giao dịch thế chấp là để bảo đảm nghĩa vụ của mình hoặc nghĩa vụ của


17

người khác. Trong giải quyết tranh chấp thực tế có thể thấy rằng có nhiều trường hợp
thế chấp bằng tài sản của bên thứ ba và trường hợp bảo lãnh nhưng bên bảo lãnh dùng

tài sản để bảo đảm cho nghĩa vụ bảo lãnh của chính mình đang có sự lẫn lộn, chưa
được phân biệt một cách cụ thể. Với quy định mở của Bộ luật Dân sự 2015 đã có rất
nhiều cơ quan hiểu sai quy định này và từ chối việc công chứng hoặc đăng ký giao
dịch thế chấp tài sản để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ của người khác, nhiều Tòa án
khi áp dụng quy định này tuyên vô hiệu hợp đồng thế chấp hoặc căn cứ vào các quy
định về bảo lãnh để giải quyết bảo đảm nghĩa vụ của người khác.
2. Kiến nghị hoàn thiện quy định về biện pháp bảo đảm thế chấp tài sản
Từ những vướng mắc trên, em xin đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy
định của pháp luật về thế chấp:
Thứ nhất, cần có những quy định rõ, cụ thể và chi tiết hơn quy định về đối
tượng của biện pháp thế chấp tài sản. Hiện nay, BLDS quy định chung chung tài sản
nên khi áp dụng đối với mỗi loại tài sản sẽ có nhiều phương thức áp dụng khác nhau
gây khó khăn cho việc giải quyết thực tiễn. Do vậy, điểm gỡ thắc mắc này đó là việc
quy định chi tiết đối với các đối tượng của thế chấp đặc biệt đối với tài sản là quyền tài
sản và tài sản hình thành trong tương lại. Những quy định này phải được đặt trong một
giải pháp tổng thể để hoàn thiện chế định về giao dịch bảo đảm của BLDS 2015.
Thứ hai, hiện nay số lượng án về tín dụng liên quan đến vấn đề thế chấp ngày
càng phổ biến và chiếm số lượng lớn. Tuy nhiên pháp luật về thế chấp quyền sử dụng
đất và tài sản gắn liền trên đất chưa có quy định cụ thể và đồng thời thiếu những
hướng dẫn chi tiết từ phía trung ương. Dẫn đến gây nhiều khó khăn trong việc giải
quyết làm ảnh hưởng quyền và nghĩa vụ của các bên. Do vậy, cần có quy định chi tiết
cụ thể đối với tài sản là quyền sử dụng đất; tài sản gắn liền với đất và các vấn đề liên
quan.
Thứ ba, hợp đồng thế chấp liên quan với người thứ ba và và bảo lãnh gây nhiều
khó khăn và vướng mắc cho các cơ quan thực hiện. Do vậy, cần có quy định về mối
quan hệ giữa bên có nghĩa vụ với bên thế chấp trong trường hợp bên thế chấp dùng tài
sản của mình để đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ của người khác nhằm tránh gây
nhầm lẫn giữa hợp đồng thế chấp bằng tài sản của người thứ ba với hợp đồng bảo lãnh,




18

Thứ tư, thế chấp là biện pháp bảo đảm không chuyển giao tài sản. Việc rủi ro
đối với bên nhận thế chấp rất lớn vì tài sản vẫn thuộc quyền nắm giữ bên thế chấp. Do
vậy, cần có những quy định để hạn chế tối đa những rủi ro cho bên nhận thế chấp. Quy
định về tính minh bạch về tình trạng pháp lý của tài sản thế chấp hay là việc thơng báo
cơng khai thơng tin tình trạng của tài sản thế chấp cho bên nhận thế chấp.
Thứ năm, pháp luật về các biện pháp bảo đảm đang thiếu đi việc đăng ký trong
biện pháp bảo đảm nói chung và biện pháp thế chấp nói riêng. Cần quy định cụ thể về
việc đăng kí thế chấp là bắt buộc để công bố quyền trên tài sản thế chấp đồng thời
phân biệt với thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng thế chấp, đảm bảo cho hiệu
lực đối với người thứ ba được thực hiện một cách tròn nhiệm vụ về bản chất của nó.


19

C. KẾT LUẬN
Pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự nói chung và thế chấp tài sản
nói riêng ln đóng vai trị quan trọng trong các giao dịch dân sự, thương mại. Có thể
thấy rằng biện pháp thế chấp tài sản có nhiều ưu điểm hơn so với các biện pháp bảo
đảm khác, xét từ góc độ tiện dụng cho bên thế chấp và bên nhận thế chấp tài sản. Vì
vậy các tổ chức tín dụng hay cá nhân vay trong quan hệ vay vốn thường ưu tiên lựa
chọn phương pháp này. Đặc biệt là trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng,
biện pháp bảo đảm thế chấp tài sản tỏ ra hiệu quả và thường được các bên liên quan
lựa chọn áp dụng, bởi lẽ tài sản đem thế chấp có giá trị lớn và cơ chế cho phép bên thế
chấp tài sản được tiếp tục sử dụng, khai thác hoa lợi, lợi tức từ tài sản đó hoặc cho
người khác thuê tài sản thếp chấp trong suốt thời gian thế chấp.
Thế chấp tài sản là một chế định pháp luật có vai trị quan trọng trong việc bảo
đảm an tồn giao dịch cũng như thúc đẩy sự phát triển của giao dịch dân sự nói chung

và hoạt động cho vay tiền nói riêng. Với sự phổ biến của biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự này, qua bài tiểu luận trên em mong rằng mọi người có thể hiểu rõ hơn
về những quy định của pháp luật về biện pháp thế chấp tài sản theo pháp luật dân sự
Việt Nam. Trong giai đoạn này, nước ta ngày càng hội nhập sâu rộng với nền kinh tế
thế giới, việc nghiên cứu và hoàn thiện các quy định của pháp luật về các biện pháp
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự nói chung, hay biện pháp thế chấp tài sản nói riêng
là rất cần thiết, tạo ra khung pháp lý và niềm tin cho các chủ thể trong giao dịch này.


20

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Quốc hội (2017), Bộ luật Dân sự, NXB Lao động, 2019;
2. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng dân sự, NXB Chính trị quốc gia sự thật,
2019;
3. Quốc hội (2005), Bộ luật Dân sự, NXB Lao động, 2007;
4. Quốc hội (2018), Luật đất đai, NXB Lao động, 2019;
5. Chính phủ (2021), Nghị định số 21/2021/NĐ-CP quy định thi hành Bộ luật
dân sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, Hà Nội;
6. Chính phủ (2017), Nghị định số 102/2017/NĐ-CP quy định về đăng ký biện
pháp bảo đảm, Hà Nội;
7. Các án lệ số: Án lệ 11/2017/AL; Án lệ 36/2020/AL; Các bản án: Bản án dân
sự số 11/2017/KDTM-PT ngày 12/09/2017 về tranh chấp yêu cầu chấm dứt hợp đồng
thế chấp và thực hiện nghĩa vụ giải chấp tài sản; Bản án 36/2020/DS-ST ngày
25/09/2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng…
8. Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam – tập 2,
NXB Chính trị quốc gia sự thật, 2017;
9. Nguyễn Minh Tuấn (2016), Bình luận Bộ luật Dân sự năm 2015, NXB
Thơng tin và truyền thông, 2021;
10. Nguyễn Văn Tiến – Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao (2020), Một số hạn

chế, vướng mắc thường gặp trong giải quyết tranh chấp liên quan hợp đồng tín dụng;
truy cập ngày 21/7/2021, đăng trên: />11. Nơng Thị Bích Diệp (2006), Thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ theo pháp luật dân sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà
Nội, Hà Nội;
12. Hồ Thị Nga (2013), Xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất tại các tổ
chức tín dụng – thực trạng và hướng hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại
học Luật Hà Nội, Hà Nội;
13. Trần Lê Hưng (2017), Thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với
đất để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học
Luật Hà Nội, Hà Nội;


21

14. Vũ Thị Hồng Yến (2010), Khái quát chung về thế chấp theo quy định của
Bộ luật dân sự và một số văn bản pháp lý tín dụng có liên quan, Đề tài nghiên cứu
khoa học cấp trường, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội;
15. Nguyễn Anh Tuấn (2019), Thế chấp nhà đất của người thứ ba để bảo đảm
vay vốn ngân hàng có trái pháp luật?, truy cập ngày 21/7/2021, đăng trên:
/>16. Nga Phạm – Kim Thuý (2019), Thế chấp quyền sử dụng đất của người thứ
ba đế bảo đảm vay vốn, truy cập ngày 21/7/2021, đăng trên: />17. Nguyễn Thị Kim Anh (2021), Thế chấp tài sản là gì ? Quy định về nội
dung, chủ thể của thế chấp tài sản, truy cập ngày 21/7/2021, đăng trên:
/>18. Nguyễn Tiến Đạt (2021), Thế chấp tài sản là gì?, truy cập ngày 21/7/2021,
đăng trên: />19. Đinh Thuỳ Dung (2021), Thế chấp tài sản là gì? Quy định về biện pháp thế
chấp tài sản?, truy cập ngày 21/7/2021, đăng trên: />20. Luatvietnam (2021), Phân biệt cụ thể cầm cố và thế chấp, truy cập ngày
22/7/2021,đăngtrên: />prints.aspx?tinid=1852;
21. Luật Lawkey, Thế chấp tài sản là gì? Nội dung và hình thức của thế chấp tài
sản, truy cập ngày 22/7/2021, đăng trên: />



×