Tải bản đầy đủ (.docx) (107 trang)

hệ thống chính trị và cơ quan quản lý nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (564.05 KB, 107 trang )

VẤN ĐỀ 1: HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VÀ HỆ THỐNG CÁC CƠ QUAN
NHÀ NƯỚC
Câu 1: Hiểu thế nào về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam là “đảm bảo tính tối cao của pháp luật trong tổ chức,
hoạt động của nhà nước”
Quan niệm về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam:
Nhà nước pháp quyền là nhà nước của nhân dân, do nhân dân bầu ra để duy trì
sự ổn định và phát triển xã hội theo pháp luật, là nhà nước thượng tôn pháp luật và
đảm bảo dân chủ xã hội. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam vừa mang các giá trị
phổ biến của nhà nước pháp quyền đã được xác lập trong lý luận và thực tiễn của một
chế độ dân chủ hiện đại, vừa có bản sắc, đặc điểm của riêng mình.
Trong nhà nước pháp quyền, pháp luật là cơ sở cho hoạt động của các thiết chế
quyền lực, còn các thiết chế quyền lực phải thực sự bảo đảm cho pháp luật có được
những thuộc tính cơng bằng, bình đẳng và dân chủ.
Pháp luật là công cụ chủ yếu để quản lý nhà nước và xã hội. Do đó phải xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, nâng
cao ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao
đạo đức xã hội.
Như vậy đảm bảo tính tối cao của pháp luật trong tổ chức, hoạt động của nhà
nước là một nguyên tắc quan trọng trong tổ chức và hoạt động của nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Phân tích nguyên tắc “Đảm bảo tính tối cao của pháp luật trong tổ chức, hoạt động
của nhà nước”:
Thứ nhất, pháp luật là cơ sở pháp lý để tổ chức bộ máy thực thi các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp: Bộ máy nhà nướcxã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ
chức theo nguyên tắc “quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân công
chức năng, phân định thẩm quyền rành mạch và có sự phối hợp giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Mỗi cơ quan nhà
nước là một tổ chức tương đối độc lập trong bộmáy nhà nước và do cơ quan có thẩm
quyền thành lập. Thẩm quyền thành lập mỗi cơ quan nhà nước lại được quy định cụ
thể trong Luật. Thẩm quyền của cơ quan nhà nước phụ thuộc vào địa vị pháp lý của


nó trong bộ máy nhà nước. Thẩm quyền đó có những giới hạn về khơng gian (lãnh
thổ), về thời gian có hiệu lực và về đối tượng chịu tác động. Giới hạn thẩm quyền của
các cơ quan nhà nước là giới hạn mang tính pháp lý vì được pháp luật quy định.
Thứ hai, pháp luật quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan
nhà nước: Mỗi cơ quan nhà nước có chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền xác định và
có mối liên hệ với nhau tạo thành hệ thống cơ quan nhà nước. Mỗi cơ quan nhà nước
đều có thẩm quyền do pháp luật quy định – đó là tổng thể những quyền và nghĩa vụ
mang tính quyền lực – pháp lý mà nhà nước trao cho để thực hiện chức năng, nhiệm
-

-

1


vụ của nhà nước. Cơ quan nhà nước có tính độc lập tương đối với các tổ chức khác
trong việc thực hiện thẩm quyền mà pháp luật trao. Bản thân nó cũng bao gồm các bộ
phận khác nhau bảo đảm tính chuyên nghiệp trong việc thực hiện các chức năng
nhiệm vụ nhưng hợp thành thể thống nhất nhằm thực hiện mục tiêu chung.
Thứ ba, pháp luật là căn cứ để giải quyết các mối quan hệ với tổ chức, công dân
hoặc để cưỡng chế đối tượng vi phạm: Các cơ quan nhà nước được sử dụng quyền
lực nhà nước trong thực thi nhiệm vụ. Đây là đặc điểm cơ bản của cơ quan nhà nước
làm cho nó khác với các tổ chức khác. Các cơ quan nhà nước thực hiện quyền lực
được nhân dân giao cho. Tính quyền lực thể hiện ở chỗ các cơ quan nhà nước đều có
thẩm quyền được pháp luật quy định chặt chẽ, được quyền ban hành các quyết định
pháp luật mang tính chất chung, tính quy phạm có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với
mọi cơ quan, tổ chức khác hoặc công dân trong phạm vi lãnh thổ hoặc ngành lĩnh vực
mà nó phụ trách cũng như được quyền ban hành các quyết định cá biệt có hiệu lực thi
hành đối với từng cơ quan, tổ chức, người có chức vụ hoặc từng công dân cụ thể.
Thứ tư, pháp luật làm công cụ quản lý xã hội: Nhà nước quản lý xã hội bằng

quyền lực công thông qua hệ thống pháp luật bằng cách hoạch định các chính sách xã
hội và thể chế hóa bằng hệ thống văn bản pháp luật để đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ
công dân, thiết lập trật tự an toàn xã hội, bảo đảm quyền tự do của công dân trong
khuôn khổ pháp luật của nhà nước.
Thứ năm, lấy pháp luật làm chuẩn mực để duy trì các hoạt động kinh tế - xã
hội theo quy định:căn cứ quy định của pháp luật, nhà nước tổ chức, điều hành các
hoạt động kinh tế - xã hội, đưa pháp luật vào đời sống nhằm giữ gìn trật tự an ninh xã
hội, phục vụ lợi ích của cơng dân, bảo đảm dân sinh và giải quyết các vấn đề xã hội
và sử dụng có hiệu quả nguồn tài chính và cơng sản để phát triển đất nước một cách
có hiệu quả.
Thứ sáu, pháp luật là căn cứ để huy động và sử dụng các nguồn lực công và
nguồn lực xã hội vào thực hiện mục tiêu phát triển.
Thứ bảy, lấy pháp luật làm cơ sở để ban hành các quyết định hành chính: các
cơ quan hành chính nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở pháp luật và để
thực hiện pháp luật, trong quá trình hoạt động có quyền ban hành các quyết định hành
chính thể hiện dưới hình thức là các văn bản pháp quy và các văn bản cá biệt.
Thứ tám, Cán bộ công chức luôn tự giác chấp hành và vận động mọi người cùng
chấp hành quy định pháp luật.
 Cần phân tích, phát triển thêm ý

2


Câu 2:Phân tích đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là:
“nhà nước của nhân dân, Nhà nước do nhân dân, do Đảng cộng sản Việt Nam
lãnh đạo”
-

1.


Quan niệm về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam:
Nhà nước pháp quyền là nhà nước của nhân dân, do nhân dân bầu ra để duy trì
sự ổn định và pháp triển xã hội theo pháp luật, là nhà nước thượng tôn pháp luật và
đảm bảo dân chủ xã hội.
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam vừa mang các giá trị phổ biến của nhà
nước pháp quyền đã được xác lập trong lý luận và thực tiễn của một chế độ dân chủ
hiện đại, vừa có bản sắc, đặc điểm của riêng mình:
Một là, Nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền
lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân
với giai cấp lao động và tầng lớp trí thức.
Hai là, nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và
bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và Luật trong đời sống xã hội.
Ba là, Nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống
nhất; có sự phân cơng, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Bốn là, Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân; tôn trọng và
bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Năm là, Nhà nước tôn trọng và cam kết thực hiện các công ước, điều ước quốc
tế đã tham gia, ký kết, phê chuẩn; thực hiện đường lối đối ngoại hịa bình, hữu nghị
hợp tác, bình đẳng và pháp triển với các nước và dân tộc trên thế giới.
Sáu là, Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Như vậy từ đặc điểm trên cho thấy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là “nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng cộng sản Việt
Nam lãnh đạo”.
- Phân tích đặc trưng:
Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, nghĩa là dân có chủ
quyền đối với nhà nước. Đó là một nhà nước thể hiện đầy đủ tư tưởng bao nhiêu
quyền hạn đều của dân, nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước, nguồn gốc của
quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nhân dân. Điều 2 Hiến pháp 2013 khẳng định “Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”. Chủ quyền của nhân dân đối với đất nước
thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, nhân dân quyết định mọi vấn đề quan trọng của đất nước:nhân dân
quyết định mọi vấn đề quan trọng của đất nước thông qua cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Quốc hội - là cơ quan
đại biểu cao nhất của nhân dân, do cử tri cả nước trực tiếp bầu ra theo nguyên tắc phổ
3


thơng bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín). Quốc hội quyết định mọi vấn đề quan
trọng của đất nước thông qua các nhiệm vụ, quyền hạn mà nhân dân trao cho, cụ thể:
Thực hiện quyền lập pháp; Giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị
quyết của Quốc hội; Quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước; Quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ
quốc gia…; Quyết định chính sách dân tộc, chính sách tơn giáo của nhà nước v.v…
Nhân dân quyết định vấn đề quan trọng của đất nước cịn thơng qua chế độ
trưng cầu dân ý, một hình thức dân chủ đề ra khá sớm ở nước ta.
Thứ hai, Quyền lực nhà nước là của nhân dân: quyền lực nhà nước có nguồn
gốc từ Nhân dân. Quyền lực nhà nước, dù do bất cứ cơ quan, cá nhân nào nắm giữ
cũng có nguồn gốc từ sự trao quyền, ủy quyền (trực tiếp hoặc gián tiếp) của Nhân dân.
Trong thực tiễn tổ chức bộ máy nhà nước, tuy chỉ Quốc hội và Hội đồng nhân
dân các cấp là các cơ quan mà thành viên của cơ quan này do Nhân dân trực tiếp bầu
ra nhưng điều đó khơng có nghĩa rằng chỉ có các cơ quan này mới là các cơ quan
được nhân dân ủy thác quyền lực. Nguyên tắc Quyền lực nhà nước là của nhân dân
hàm ý rằng quyền lực nhà nước do các cơ quan nhà nước khác thực hiện (dù đó là cơ
quan thực hiện quyền hành pháp, tư pháp hay bất cứ cơ quan nhà nước nào khác)
cũng là sản phẩm của sự trao quyền một cách trực tiếp hoặc gián tiếp từ Nhân dân
(thông qua Hiến pháp và Pháp luật).
Thứ ba, nhân dân đóng góp vào Ngân sách nhà nước để duy trì hệ thống các
cơ quan nhà nước: hệ thống các cơ quan nhà nước được duy trì và hoạt động được là

do có sự đảm bảo từ Ngân sách nhà nước. Trong khi đó Ngân sách nhà nước có được
là do nhân dân đóng góp thơng qua việc đóng các loại thuế, phí, lệ phí v.v… Như vậy
thơng qua việc đóng góp vào Ngân sách nhà nước nhân dân đã góp phần duy trì hoạt
động của hệ thống các cơ quan nhà nước.
Thứ tư, nhân dân tham gia vào quản lý nhà nước để tăng cường hiệu lực,
hiệu quả hoạt động của nhà nước:
Các cơ quan trong bộ máy nhà nước là công cụ để thực hiện quyền lực nhà
nước, việc nhân dân tham gia vào hoạt động của các cơ quan nhà nước là hình thức
tham gia tích cực, trực tiếp và có hiệu quả nhất trong quản lý hành chính nhà nước.
Người lao động nếu đáp ứng các yêu cầu của pháp luật đều có thể tham gia một cách
trực tiếp hay gián tiếp vào công việc quản lý hành chính nhà nước trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội.
Người lao động có thể tham gia trực tiếp vào cơ quan quyền lực nhà nước với
tư cách là thành viên của cơ quan này - họ là những đại biểu được lựa chọn thông qua
bầu cử hoặc với tư cách là các viên chức nhà nước trong các cơ quan nhà nước. Khi ở
cương vị là thành viên của cơ quan quyền lực nhà nước, người lãnh đạo trực tiếp xem
xét và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, của từng địa phương trong đó
có các vấn đề quản lý hành chính nhà nước. Khi ở cương vị là cán bộ viên chức nhà
nước thì người lao động sẽ sử dụng quyền lực nhà nước một cách trực tiếp để thực
hiện vai trò người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội, có điều kiện biến những ý chí,
nguyện vọng của mình thành hiện thực nhằm xây dựng đất nước giàu mạnh.
4


Ngồi ra, người lao động có thể tham gia gián tiếp vào hoạt động của các cơ quan
nhà nước thông qua việc thực hiện quyền lựa chọn những đại biểu xứng đáng thay mặt
mình vào cơ quan quyền lực nhà nước ở trung ương hay địa phương. Ðây là hình thức
tham gia rộng rãi nhất của nhân dân vào hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
2.


Nhà nước do nhân dân: nghĩa là dân có quyền định đoạt nhà nước. Quyền định đoạt
nhà nước thể hiện ở các điểm:
Thứ nhất, nhân dân bầu ra cơ quan đại biểu tối cao ở Trung ương và cơ quan
đại biểu duy nhất ở địa phương. Từ các cơ quan này lập nên các cơ quan hành pháp
và tư pháp: Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, trong nhà nước do nhân dân, nhân dân thực
hiện quyền làm chủ của mình mà trước hết là quyền bầu ra nhà nước, bầu ra chính
quyền các cấp. Nhà nước chỉ là tổ chức do dân lập ra để thực hiện quyền lực nhân
dân. Chủ trương Tổng tuyển cử của Hồ Chí Minh thể hiện rõ tinh thần đó: “Tổng
tuyển cử là một dịp để cho tồn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có
đức để gánh vác cơng việc nước nhà; do tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra Quốc hội,
Quốc hội sẽ cử ra chính phủ. Chính phủ đó thật là một chính phủ của tồn dân”.
Cơ quan đại biểu tối cao ở Trung ương (Quốc hội) và cơ quan đại biểu duy
nhất ở địa phương (HĐND các cấp) là do nhân dân bầu ra. Sau khi được bầu, các cơ
quan đại biểu của nhân dân lập nên các cơ quan hành pháp và tư pháp: Quốc hội bầu
ra người đứng đầu của các cơ quan nhà nước (Thủ tướng chính phủ, Chánh án tòa án
nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng kiểm toán nhà
nước) và phê chuẩn các chức danh trong các cơ quan hành pháp và tư pháp (Phó thủ
tướng chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của chính phủ; Thẩm phán tòa án
nhân dân tối cao); Cơ quan đại biểu duy nhất ở địa phương (HĐND các cấp) bầu ra
cơ quan hành pháp ở địa phương (UBND).
Thứ hai, nhân dân làm chủ nhà nước:Nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, là
lực lượng quyết định quá trình cải biến xã hội. Vai trò quyết định của nhân dân thể
hiện trên các mặt chủ yếu sau:
- Nhân dân là lực lượng chủ yếu sản xuất ra của cải vật chất và của cải tinh
thần, góp phần quyết định vào sự tồn tại và phát triển của xã hội.
- Nhân dân là chủ thể của mọi quá trình cải biến xã hội.
- Lợi ích của nhân dân là động lực cơ bản của cách mạng xã hội, của những
quá trình cải biến xã hội.
Thứ ba, nhân dân ủng hộ nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình,
nhất là thực hiện pháp luật và chính sách do nhà nước đặt ra:Nhà nước muốn điều

hành quản lý xã hội có hiệu lực, hiệu quả, nhất định phải dựa vào lực lượng của dân,
dựa vào sáng kiến và trí tuệ của dân. Nhà nước do dân là nhà nước dân tự làm chủ, tự
lo thông qua các mối quan hệ xã hội, qua các cơ quan đồn thể, chứ khơng phải do
nhà nước bao cấp, lo thay cho dân. Chức năng của nhà nước là điều hành vĩ mơ,
Chính phủ chỉ giúp kế hoạch, cổ động. Chính vì vậy mà nhà nước do dân là nhà
nước tin dân và dân tin nhà nước.

3.

Nhà nước vì nhân dân nghĩa là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyên vọng chính đáng
5


4.

của nhân dân, khơng có đặc quyền đặc lợi, thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính.
Trong nhà nước đó, cán bộ từ chủ tịch trở xuống đều là công bộc của dân. Điều đó
biểu hiện ở các điểm sau:
Thứ nhất, Nhà nước lấy lợi ích chính đáng của nhân dân làm mục tiêu hoạt động,
tất cả vì lợi ích của nhân dân: nhà nước vì dân là nhà nước mọi chủ trương chính
sách, mọi quy định của pháp luật tư trung ương xuống địa phương đều phải xuất phát
từ lợi ích của nhân dân, cả lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, cả lợi ích cá nhân và
tập thể và xã hội trong sự kết hợp hài hịa. Nhà nước vì dân là nhà nước sống trong
lịng dân, đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết.
Thứ hai, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoạt động hướng tới
mục tiêu là bảo vệ lợi ích của xã hội, của nhân dân không tạo ra sự đối kháng giữa
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh
đạo:
Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với nhà nước là tất yếu lịch sử

đồng thời còn có cơ sở đạo lý sâu sắc và có cơ sở pháp lý vững vàng.
Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản - Đảng duy nhất, cầm quyền là điều kiện có ý
nghĩa tiên quyết đối với q trình xây dựng nhà nước pháp quyền của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân ở Việt Nam.
Đối với Nhà nước, sự lãnh đạo của Đảng là lãnh đạo chính trị, quyết định
phương hướng chính trị của Nhà nước, bảo đảm cho Nhà nước ta thực sự là tổ chức
thực hiện quyền lực của nhân dân.
Đảng lãnh đạo Nhà nước: Thông qua ban hành Chủ trương, đường lối, chính
sách để định hướng tổ chức và hoạt động cho nhà nước; Thông qua công tác tổ chức
bộ máy nhà nước; Thông qua phát hiện, bồi dưỡng, phát triển nhân sự cho bộ máy
nhà nước; Thông qua giám sát hoạt động của nhà nước và công tác kiểm tra đối với
các đảng viên và tổ chức đảng trong cơ quan Nhà nước.
Tham khảo thêm
Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do dân và vì nhân dân.
* Nhà nước của nhân dân:
Trước hết ta thấy rằng Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, đây chính là điều
kiện đầu tiên phải có để đảm bảo cho việc thực hiện nhà nước “do nhân dân và vì
nhân dân”. Nhân dân đã và đang làm chủ vừa bằng hình thức trực tiếp, vừa bằng
hình thức gián tiếp thơng qua những đại diện do mình bầu ra.Về hình thức làm chủ
trực tiếp của nhân dân, Điều 53, Hiến pháp 1992 ghi rõ: “Cơng dân có quyền tham
gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và
địa phương, kiến nghị với các cơ quan nhà nước, biểu quyết khi nhà nước tổ chức
trưng cầu ý dân”
Về hình thức làm chủ gián tiếp, cơ quan đại biểu nhân dân được hình thành từ
sự tập họp các đại biểu nhân dân do nhân dân bầu ra, đại diện cho ý chí nguyện vọng
của nhân dân, được nhân dân ủy nhiệm quyền lực nhà nước của mình và chịu trách
nhiệm trước nhân dân. Đến lượt mình các cơ quan đại biểu nhân dân, thay mặt nhân
dân và vì lợi ích của nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước. Nói cách khác, cơ quan
nhà nước các cấp chỉ là người chấp hành mệnh lệnh của quốc dân, chấp hành ý chí
6



2-4

của nhân dân. Cán bộ công chức phải là công bộc của dân, chăm lo, bảo vệ quyền lợi
chính đáng của nhân dân.
Con đường, biện pháp mà nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước được ghi
nhận ở điều 6 của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) : “Nhân dân sử dụng quyền lực nhà
nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là cơ quan đại biểu cho ý chí và
nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân
dân”. Đồng thời chính nhân dân thực hiện quyền giám sát tối cao đối với các cơ quan
nhà nước trong việc sử dụng quyền lực mà nhân dân ủy nhiệm. Quyền giám sát đó
được thực hiện bằng cơ chế hợp lý và cơng cụ pháp lý có hiệu quả nhất
Từ những phân tích trên cho thấy, ở nhà nước ta quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân, nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng
nhân dân. Quyền lực nhà nước của nhân dân thống nhất và tập trung. Bằng con
đường đó, nhân dân mới thật sự quyết định cơng việc của đất nước mình vì lợi ích
của chính mình
* Nhà nước do nhân dân :
Nhà nước do nhân dân thể hiện ở việc khi đưa đường lối, chính sách, pháp
luật ... nhà nước phải đảm bảo phải do nhân dân quyết định, nhân dân thưc hiện và
dân kiểm tra, tức là phải thực hiện phương châm “dân biết, dân làm, dân kiểm tra” .
Tính nhân dân, tính dân chủ trong q trình hoạt động xây dựng pháp luật, được thể
hiện ở tính quyết định sáng tạo của nhân dân. Nhân dân là chủ thể sáng tạo pháp luật,
vừa ủy quyền cho quốc hội lập pháp, vừa tham gia góp ý kiến vào các dự án Luật,
đồng thời nhân dân là chủ thể lớn nhất thực hiện pháp luật, phát hiện những điểm yếu
của hệ thống pháp luật khi đưa vào cuộc sống
Đặc điểm này đòi hỏi khi xây dựng pháp luật phải phản ánh đúng đắn ý chí của
đại đại số nhân dân lao động, thể hiện chính xác các giá trị mà xã hội ủng hộ. Đồng
thời đặc điểm này được thể hiện pháp luật sau khi ban hành phải được cả xã hội chấp

hành triệt để, chính xác. Hơn nữa, hoạt động xây dựng pháp luật lấy mục tiêu ban
hành pháp luật vì con người, phục vụ con người. Muốn làm được điều đó, khi xây
dựng các văn bản pháp luật, nhà nước phải thu hút đơng đảo mọi người tham gia vào
q trình xây dựng pháp luật, càng nâng cao chất lượng của pháp luật, đồng thời
chuẩn bị cho nhân dân tuân thủ pháp luật.
* Nhà nước vì nhân dân :
Bản chất của nhà nước ta là nhà nước vì dân thể hiện trước hết mọi chính sách
và giải pháp kinh tế - xã hội ... của nhà nước đều phục vụ nhân dân, đảm bảo quyền
lợi cho nhân dân, thể hiện nguyên tắc :”dưới chế độ dân chủ, không phải con người
tồn tại vì pháp luật, mà pháp luật tồn tại vì con người” . Điều này ở nhiệm vụ của
nhà nước ta trong hoạt động lập pháp, lập quy phải không những đảm bảo dân chủ
mà còn phát huy dân chủ ngày càng cao đối với nhân dân lao động. Tính chất nhà
nước “do nhân dân và vì nhân dân” phải thể hiện rõ trong nội dung pháp luật phải
xuất phát từ lợi ích của giai cấp cơng nhân và đơng đảo quần chúng nhân dân lao
động chứ không chỉ bảo vệ cho quyền lợi, lợi ích của một giai cấp riêng lẻ như nhà
nước của giai cấp tư sản. Mặt khác, phải bảo đảm các quyền khiếu nại, tố cáo của
nhân dân. Các cơ quan nhà nước có trách nhiệm giải quyết những ý kiến của dân
khiếu nại, kiến nghị, tố cáo. Đây đang còn là vấn đề bức xúc ở xã hội ta hiện nay
“tình trạng khiếu nại, khiếu kiện của nhân dân ở nhiều nơi kéo dài và phức tạp, chưa
được các cấp, các ngành giải quyết kịp thời”. Vì thế, Đại hội IX nhấn mạnh phải “đổi
7


mới cơ chế, xác định trách nhiệm của các cấp, các cơ quan, cán bộ, công chức trong
việc giải quyết kịp thời khiếu nại, tố cáo của cơng dân”
Tóm lại, đối với đặc trưng của nhà nước ta, ba yếu tố “của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân” là một thể thống nhất trong đó yếu tố”của nhân dân”là là quyết
định. Ngược lại, có phát huy 2 yếu tố ”do nhân dân,vì nhân dân” thì Nhà nước ta
mới thực sự là ”của nhân dân”.
Trong những năm đổi mới vừa qua, nhà nước ta đã trưởng thành về nhiều mặt,

để thể hiện rõ bản chất của một nhà nước pháp quyền của dân do dân và vì dân. Nổi
bật nhất là những thành tựu về xây dựng hệ thống pháp luật để quản lý đất nước, về
xây dựng nền dân chủ XHCN, nhất là dân chủ ở cơ sở. Hoạt động của nhà nước thể
hiện được tư tưởng lấy dân làm gốc, biết dựa vào dân, thể hiện việc “dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Nhà nước cũng đã tích cực đấu tranh chống các tệ nạn
xã hội, xử lý nghiêm minh những vụ việc tiêu cực, tham nhũng. Tuy nhiên, chúng ta
vẫn phải thừa nhận rằng bộ máy Nhà nước ta chưa thực sự trong sạch, vững mạnh:
tệ tham nhũng, quan liêu, lãng phí của cơng, tình trạng mất dân chủ, phép nước, kỷ
cương xã hội rải rác ở nhiều nơi cịn bng lỏng… Mặt khác, quản lý Nhà nước chưa
ngang tầm với nhiệm vụ của thời kỳ đổi mới. Đó là: chưa phát huy được những mặt
tích cực, chưa khắc phục những hạn chế làm cho tình trạng bất cơng, bất bình đẳng
có xu hướng gia tăng… Do đó, vấn đề cơ bản để xây dựng một nhà nước pháp quyền
của dân, do dân và vì dân là phải ra sức xây dựng một đội ngũ cán bộ cơng chức
viên chức nhà nước có đầy đủ phẩm chất và năng lực, có một tầm cao về năng lực trí
tuệ, phẩm chất, tư duy và năng lực nghiệp vụ.
Trong môi trường kinh tế xã hội hiện nay, chủ nghĩa cá nhân trong hàng ngũ
cán bộ viên chức nhà nước đang có cơ hội phát triển. Tình trạng tham nhũng trong
bộ máy Đảng, nhà nước đang trở nên bức xúc. Tham nhũng đã được Đảng đánh giá
là quốc nạn. Nó lại gắn liền với quan liêu, cửa quyền, hách dịch, lãng phí ... Vấn đề
xây dựng đạo đức đang trở thành vấn đề hàng đâu của công cuộc xây dựng bộ máy
nhà nước. Phải hết sức coi trọng giáo dục đạo đức nhưng cũng khơng biến q trình
giáo dục thành một quá trình đạo đức đơn thuần mà đi đôi với với giáo dục phải xứ
lý nghiêm minh mọi dựa vi phạm luật pháp của bất cứ ai. Việc thực hiện nhiêm vụ
từng bước phát triển kinh tế tri thức như Đại hội IX của Đảng đã đề ra cùng việc
chống lại các nguy cơ đòi hỏi đội ngũ cán bộ công viên chức nhà nước

8


-


2.

Câu 3:Phân tích nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam là “Bảo đảm công khai, minh bạch trong tổ chức và hoạt động
của Nhà nước”
1. Khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc hoạt động của nhà nước pháp quyền
Nhà nước pháp quyền là nhà nước của nhân dân, do nhân dân bầu ra để duy trì
sự ổn định và phát triển xã hội theo pháp luật, là nhà nước thược tôn pháp luật và
đảm bảo dân chủ xã hội.
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam vừa mang các giá trị phổ biến của nhà
nước pháp quyền đã được xác lập trong lý luận và thực tiễn của một chế độ dân chủ
hiện đại, vừa có bản sắc đặc điểm của riêng mình:
Một là, Nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền
lực Nhà nước thuộc về dân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp cơng nhân với
giai cấp nơng dân và tầng lớp trí thức.
Hai là, Nhà nước được tổ chức và hoạt động dựa trên Hiến pháp, pháp luật và
bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và Luật trong đời sống xã hội
Ba là, Nhà nước tổ chức theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất; có
sự phân cơng, phối hợp và kiểm soát giữa cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp.
Bốn là, Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân; tôn trọng
và bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Năm là, Nhà nước tôn trọng và cam kết thực hiện các công ước, điều ước quốc
tế đã tham gia, ký kết, phê chuẩn; thực hiện đường lối đối ngoại hịa bình, hữu nghị
hợp tác, bình đẳng và phát triển với các nhà nước và dân tộc trên thế giới.
Sáu là, Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam:
- Nguyên tắc Đảm bảo mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân tham
gia xây dựng nhà nước, quản lý nhà nước và giám sát hoạt động của cơ quan, cán

bộ công chức nhà nước.
- Mọi hoạt động của nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, thực hiện và bảo vệ
quyền con người, tất cả vì hạnh phúc của con người.
- Đảm bảo tập trung thống nhất quyền lực, có phân cơng rành mạch, phối hợp chặt
chẽ và kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước về lập pháp, hành pháp, tư
pháp.
- Bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và pháp chế XHCN trong tổ chức, hoạt động
của nhà nước.
- Bảo đảm tập trung dân chủ trong tổ chức, hoạt động của nhà nước.
- Bảo đảm công khai, minh bạch trong tổ chức, hoạt động của nhà nước.
- Bảo đảm bình đẳng giữa các dân tộc trong tổ chức, hoạt động của nhà nước.
- Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Nguyên tắc “Bảo đảm công khai, minh bạch trong tổ chức và hoạt động của nhà
nước”
Từ bản chất của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân nên cơng khai, minh bạch trong tổ chức và hoạt
động là nguyên tắc tất yếu khách quan, cần phải đảm bảo nguyên tắc này là vì:
9


Công khai trong tổ chức, hoạt động của nhà nước là việc cơ quan, cán bộ, cơng
chức có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời và hệ thống những thơng tin
chính thức có trong văn bản quản lý và phương thức thực hiện chức năng, nhiệm vụ
của mình cho các đối tượng có liên quan biết theo quy định của pháp luật.
- Tính cơng khai trong ngun tắc:
Nội dung, phương pháp và hình thức cơng khai về tổ chức, hoạt động của nhà
nước cần thực hiện nghiêm theo quy định của pháp luật, theo quy chế làm việc của cơ
quan và điều kiện cụ thể của từng đối tượng tiếp nhận thông tin. Nguyên tắc công
khai bao gồm các nội dung:
Thứ nhất, Sự cơng khai hóa của các hoạt động công vụ nhà nước: sự công khai

ở đây phải bao hàm cả việc đã thực hiện trong quá khứ, hiện tại và những hoạt động
mà Nhà nước dự định sẽ thực hiện trong tương lai; trong tất cả các khâu lập pháp,
hành pháp, tư pháp; ở tất cả các cấp, ngành. Các thông tin liên quan đến hoạt động
công vụ nhà nước phải được công bố kịp thời (trừ những lĩnh vực bí mật nhà nước),
đảm bảo tính thời sự, phù hợp với nhu cầu thực tiễn, tránh tình trạng che giấu, bưng
bít thơng tin để phục vụ cho lợi ích của một số cá nhân. Cơng dân có quyền tiếp cận,
tìm hiểu, sử dụng các thơng tin liên quan đến hoạt động công vụ nhà nước một cách
dễ dàng, thuận lợi (trừ các lĩnh vực bí mật Nhà nước).
Thứ hai, cơng dân có quyền giám sát đối với các hoạt động cơng vụ nhà
nước:Cơng dân có quyền giám sát đối với các hoạt động công vụ nhà nước, bao gồm
cả sự tham gia của các phương tiện thơng tin đại chúng, đối với các q trình chuẩn
bị thực hiện, thực hiện và kết quả thực hiện hoạt động cơng vụ nhà nước; Cơng dân
có quyền khởi kiện ra Tịa án các hoạt động cơng vụ nhà nước trái pháp luật để bảo
vệ quyền và tự do của công dân đã được quy định trong Hiến pháp.
Thứ ba, Nhà nước phải có trách nhiệm giải trình khi có các u cầu, kiến nghị
của xã hội, cơng dân về một hoạt động cơng vụ nhà nước nào đó. Sự giải trình này
kèm theo là việc xử lý các sai phạm (nếu có) trong q trình thực hiện hoạt động
công vụ nhà nước, và kết quả xử lý này cũng phải được công khai.
Thực hiện tốt nguyên tắc công khai vừa đảm bảo tính hợp pháp về tổ chức hoạt
động của nhà nước, vừa là phương thức thực hiện quyền làm chủ của người dân trong
hoạt động kiểm soát các cơ quan nhà nước. Nguyên tắc này có tác dụng giáo dục,
thuyết phục, động viên nhân dân tích cực tham gia vào xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN.
- Tính minh bạch trong nguyên tắc:
Minh bạch trong tổ chức, hoạt động nhà nước là những thông tin phù hợp được
cung cấp kịp thời cho người dân dưới hình thức cụ thể, dễ hiểu, dễ thực hiện thơng
qua các hình thức phù hợp với từng điều kiện cụ thể.
Tính minh bạch trong hoạt động là điều kiện tiên quyết để cơ quan nhà nước có
trách nhiệm thực sự trước nhân dân, đồng thời giúp người dân và các tổ chức có thể
dự báo kết quả hành động một cách hiệu quả.

Các quyết định, quy trình, thủ tục giải quyết cơng việc liên quan tới tổ chức và
10


-

hoạt động của nhà nước phải rõ ràng và cần được phổ biến đầy đủ đảm bảo cho người
dân có thể thực hiện được.
Sự cần thiết kết hợp cả tính cơng khai, minh bạch thành ngun tắc cơng khai, minh
bạch:Tính cơng khai và tính minh bạch trong hoạt động cơng vụ nhà nước có mối liên
hệ gắn kết chặt chẽ với nhau. Tính cơng khai làm cơ sở chỉ tính minh bạch và ngược
lại, tính minh bạch tạo cơ sở vững chắc cho tính cơng khai.
Đánh giá:
Minh bạch thơng tin trong quản lý hành chính nhà nước là một vấn đề quan
trọng và đang được dư luận quan tâm. Hiện nay, Việt Nam chưa có luật quy định về
tiếp cận thông tin cũng như minh bạch thông tin; nhưng không phải vậy mà người
dân Việt Nam chưa từng được tiếp cận với thơng tin trong quản lý hành chính nhà
nước. Vấn đề công khai thông tin của các cơ quan nhà nước được quy định trong
nhiều văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành khác nhau. Tuy nhiên, phần lớn các
văn bản pháp luật đó mới chỉ dừng ở việc quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức
có trách nhiệm cơng khai một số loại thơng tin; cịn thiếu quy trình, thủ tục, cách thức
cho tổ chức, cá nhân yêu cầu cung cấp thông tin. Pháp luật hiện hành cũng chưa xác
định và phân loại các thông tin mà Nhà nước cần chủ động công khai hoặc thông tin
mà người dân có thể tiếp cận theo yêu cầu. Hoạt động minh bạch thơng tin của Việt
Nam cịn rất nhiều thiếu sót, những bài học mà châu Mỹ đã trải qua là kinh nghiệm
quý giá cho Việt Nam trong tiến trình xây dựng Luật về quyền tiếp cận thơng tin

11



Câu 4: Từ địa vị, vai trò của ĐCSVN trong hệ thống chính trị, phân tích nguyên
tắc tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
“Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước”. Liên hệ thực tiễn để cho ví
dụ minh họa về việc thực hiện nguyên tắc này?
Gợi ý mở bài: Nêu Khái niệm hệ thống chính trị; từ khái niệm cho thấy hệ
thống chính trị bao gồm ĐCSVN, Nhà nước CHXHCNVN và các tổ chức chính trị
XH. Cơ chế vận hành của hệ thống chính trị là Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý và
nhân dân làm chủ. Với cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành nêu trên cho thấy Đảng
lãnh đạo hệ thống chính trị nói chung và nhà nước CHXHCN nói riêng.
Theo nghĩa rộng, khái niệm “hệ thống chính trị” được sử dụng để chỉ tồn bộ
lĩnh vực chính trị của đời sống xã hội với tư cách là một hệ thống hoàn chỉnh bao
gồm các tổ chức, các chủ thể chính trị, các quan điểm, quan hệ chính trị, hệ tư tưởng
và các chuẩn mực chính trị.
Theo nghĩa hẹp, khái niệm “hệ thống chính trị” được sử dụng để chỉ hệ thống
các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện các hoạt động mang tính chính trị trong xã
hội gồm nhân dân, các tổ chức chính trị, các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội có mối liên hệ trực tiếp hay gián tiếp với quyền lực chính trị. Trong đó, nhân
dân là chủ thể của quyền lực chính trị và là nền tảng của hệ thống chính trị.
Hệ thống chính trị Việt Nam ra đời từ Cách mạng tháng Tám năm 1945, sau
khi lật đổ nền thống trị của thực dân, phong kiến, thiết lập Nhà nước Cộng hòa dân
chủ nhân dân đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á. Các tổ chức hợp thành hệ thống chính
trị hiện nay ở nước ta bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đồn thể nhân dân. Mỗi một
tổ chức đều có vị trí, vai trị và phương thức hoạt động khác nhau với những chức
năng, nhiệm vụ khác nhau dưới sự lãnh đạo của một Đảng duy nhất cầm quyền, sự
quản lý của Nhà nước nhằm thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân vì mục tiêu:
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Điều 4 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên
phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và
của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm

nền tảng tư tưởng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội
Từ những nội dung nêu trên cho thấy địa vị, vai trò của Đảng cộng sản Việt
Nam là lãnh đạo Hệ thống chính trị. Trong đó Nhà nước là một bộ phận của hệ thống
chính trị do vậy Nhà nước cũng chịu sự lãnh đạo của Đảng.
Nguyên tắc bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước (25 điểm):
Thực tế lịch sử đã chỉ rõ, sự lãnh đạo của Ðảng là hạt nhân của mọi thắng lợi
của cách mạng Việt Nam. Bằng những hình thức và phương pháp lãnh đạo của mình,
Ðảng cộng sản VN giữ vai trò quyết định đối với việc xác định phương hướng hoạt
-

12


1.

2.

3.

4.

động của nhà nước trên mọi lĩnh vực; sự lãnh đạo của Ðảng đối với nhà nước mang
tính tồn diện về chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội...Sự lãnh đạo đó chính là việc định
hướng về mặt tư tưởng, xác định đường lối, quan điểm giai cấp, phương châm, chính
sách, cơng tác tổ chức trên lĩnh vực chun mơn.
Ngun tắc Đảm bảo sự lãnh đạo của Ðảng lãnh đối với Nhà nước biểu hiện cụ
thể ở các hình thức hoạt động của các tổ chức Đảng, cụ thể:
Trước hết Đảng Lãnh đạo Nhà nước thông qua hệ thống thể chế:
Như chúng ta biết, thể chế là cụ thể hóa của định hướng chính trị, đường lối
chủ trương, quan điểm, thái độ chính trị của Đảng đối với hoạt động kinh tế xã hội

nói chung và tổ chức, hoạt động nhà nước nói riêng. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động
của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước thực hiện quản lý xã
hội bằng pháp luật, các cơ quan nhà nước đều tổ chức hoạt động theo thể chế. Điều
này có nghĩa là Nhà nước tổ chức và hoạt động theo pháp luật, trong khi đó những
định hướng chính trị là đường lối chủ trương quan điểm, thái độ chính trị của Đảng
được cụ thể hóa trong hệ thống pháp luật. Vì thế các cơ quan Nhà nước tổ chức và
hoạt động theo pháp luật nghĩa là đã gián tiếp chịu sự lãnh đạo của Đảng thông qua
hệ thống thể chế. Như vậy từ tổ chức hoạt động của các cơ quan nhà nước cho thấy
Nhà nước đã gián tiếp chấp nhận sự lãnh đạo của Đảng. Đảng lãnh đạo nhà nước
thông qua việc xây dựng các thể chế, xây dựng chính sách để tổ chức, triển khai thực
hiện các quy định của pháp luật.
Đảng lãnh đạo nhà nước thông qua đội ngũ nhân sự, Cụ thể:
 Đối với các nhân sự là Đảng viên: trong các cơ quan nhà nước chắc chắn có đảng
viên, đây là những hạt nhân ưu tú được đảng bồi dưỡng. Các đảng viên thực hiện
các quy định pháp luật, thực hiện đường lối chủ trương chính sách của Đảng.
Trong số các đảng viên có những người lãnh đạo, quản lý trong cơ quan nhà nước
được Đảng bồi dưỡng, giới thiệu, bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo trong cơ quan
nhà nước nên họ càng cần phải có trách nhiệm để duy trì hoạt động của nhà nước
theo quy định của pháp luật, theo định hướng chính trị của đảng cầm quyền và có
các đảng viên thực thi các quy định của pháp luật.
 Đối với nhân sự khơng phải là Đảng viên (nhóm quần chúng): Ln được Đảng
thường xuyên rèn luyện, chăm lo, bồi dưỡng giáo dục để thấu hiểu đường lối
chính trị, chủ trương, quan điểm từ đó tham gia vào hoạt động của nhà nước một
cách tích cực, thực hiện đúng quy định của pháp luật, đúng đường lối chính trị,
mục tiêu của Đảng cầm quyền. Những người này cũng có trách nhiệm thực hiện
quy định của pháp luật và hệ thống chính trị, chủ trương đường lối của Đảng.
Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua các tổ chức chính trị xã hội. Các tổ chức chính trị
xã hội đại diện cho các tầng lớp nhân dân trong xã hội đều được tổ chức tại mỗi cơ
quan nhà nước các cấp. Các tổ chức này sẽ tích cực tham gia vào quản lý nhà nước để
đảm bảo hoạt động của các cơ quan nhà nước thực hiện đúng quy định của pháp luật

và đường lối chủ trương của Đảng.
Đảng lãnh đạo các cơ quan nhà nước thơng qua các hoạt động kiểm sốt của Đảng
13


5.

đối với nhà nước, xem xét việc thực hiện các chức năng của nhà nước xem họ có thực
hiện đúng quy định của pháp luật và đường lối chủ trương của Đảng không:
 Là một tổ chức trong xã hội đặc biệt lại là tổ chức lãnh đạo nên Đảng thực hiện
việc kiểm soát đối với nhà nước bằng cả hình thức trực tiếp và gián tiếp. Trực tiếp
là kiểm sốt thơng qua đội ngũ đảng viên của Đảng. Các đảng viên trong các cơ
quan nhà nước khi thực hiện chức năng nhiệm vụ của các cơ quan này phải có
trách nhiệm báo cáo với Đảng một cách đầy đủ, phản ánh với đảng một cách trung
thành về hoạt động của các cơ quan nhà nước.
 Đảng kiểm soát gián tiếp các cơ quan nhà nước thông qua các bản báo cáo mà các
cơ quan này có trách nhiệm gửi cho Đảng, các cơ quan nhà nước phải có trách
nhiệm báo cáo cơ quan cấp trên trong đó có Đảng; kiểm sốt thơng qua sự phản
ánh của các tổ chức chính trị, sự phản ánh của tổ chức, cá nhân trong xã hội, của
quần chúng nhân dân khi tham gia vào quản lý nhà nước để đảng vừa nắm bắt
được tình hình hoạt động của cơ quan nhà nước vừa đảm bảo các cơ quan nhà
nước vừa thực hiện đúng các quy định của pháp luật, vừa thực hiện đúng chủ
trương đường lối của đảng cầm quyền.
 Để thực hiện được vai trị kiểm sốt thì đảng có những thẩm quyền để đảm bảo
cho việc thực hiện này: Thứ nhất là quyền lực của tổ chức để giới thiệu những
đảng viên vào những vị trí lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan nhà nước. Đảng kỷ
luật đảng viên, cán bộ lãnh đạo là đảng viên nếu thực hiện sai với định hướng
chính trị, nếu cơng việc khơng phù hợp thì ln chuyển đơn vị cơng tác đồng thời
đề nghị cơ quan thẩm quyền xem xét xử lý theo quy định của pháp luật. Đối với
những người không phải là đảng viên thì đảng đề nghị cơ quan có thẩm quyền,

lãnh đạo các cơ quan này xem xét xử lý các hành vi vi phạm của cán bộ công chức
không phải là đảng viên.
Đảng lãnh đạo cơ quan nhà nước thông qua việc làm gương trong tổ chức và hoạt
động:
 Đảng là lực lượng lãnh đạo tiên phong, đảng luôn làm gương cho các tổ chức
trong đó có nhà nước về việc thực hiện chức năng nhiệm vụ, về rèn luyện tu
dưỡng phẩm chất chính trị, học tập nâng cao năng lực trình độ để làm cho các cơ
quan nhà nước sẽ noi gương thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình. Để củng
cổ lịng tin của người dân vào nhà nước, vào đảng
 Đảng phải tích cực đổi mới về tổ chức nội dung, hình thức, phương thức hoạt
động, phương pháp lãnh đạo của mình để làm cho vai trị lãnh đạo của mình được
củng cố, làm cho hình ảnh của đảng trong xã hội sẽ được đề cao và từ đó làm
gương cho các cơ quan tổ chức trong việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của
mình. Bản thân các đảng viên của đảng cũng tự rèn luyện, học tập để trở thành
tấm gương là người tiên phong trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ
quan nhà nước, làm gương trong lãnh đạo, quản lý và thực thi để cho các cán bộ
công chức khác noi gương học tập. Việc này đảm bảo cho các cơ quan nhà nước
thực hiện đúng quy định của pháp luật và đường lối chủ trương, quan điểm chính
14


-

1.

2.

3.

trị, thái độ của Đảng cầm quyền.

Bằng các cách như trên, chúng ta có thể đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với
nhà nước một cách toàn diện.
Minh họa thực tế (10 điểm): không nên minh họa quá nhiều, mất thời gian, trùng
lặp, chỉ chọn minh họa mang tính tiêu biểu.Từ 5 ý phân tích trên, cần liên hệ tối thiểu
3 ý. Đưa ra ví dụ mang tính phổ biến, tránh gây ra những tranh cãi
Sau mỗi đợt sinh hoạt chính trị của đảng, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền từ TW
đến địa phương thường tiến hành sửa chữa, bổ sung, hoàn thiện hay xây dựng mới hệ
thống thể chế cho phù hợp với định hướng chính trị sau mỗi một giai đoạn. Nghĩa là
sau mỗi kỳ đại hội Đảng, sau mỗi kỳ họp TW, ĐH Đảng bộ, kỳ họp BCH Đảng bộ…
thường có những định hướng, quan điểm, chủ trương đòi hỏi các cơ quan nhà nước
chính quyền địa phương phải thay đổi, hiệu chỉnh bổ sung hồn thiện thể chế cho phù
hợp.
Đảng khẳng định cơng tác cán bộ trong hệ thống chính trị là đảng trọn quyền. Đảng
làm công tác cán bộ, đảng bồi dưỡng rèn luyện để xây dựng những người làm lãnh
đạo cho những người trong hệ thống chính trị trong đó có nhà nước. Từ quy hoạch
đến làm quy trình bổ nhiệm, các hoạt động này đều có sự chỉ đạo sát sao của Đảng.
Chúng ta chắc chắn sẽ bổ nhiệm những người xứng đáng, những người được đảng tin
cậy, những người là đảng viên đứng vào vị trí mũi chịu xào của cơ quan nhà nước, là
những người cầm lái để cơ quan nhà nước thực hiện đúng đường lối chính trị. Các
cán bộ lãnh đạo trong cơ quan nhà nước đều là các đảng viên được đảng bồi dưỡng
rèn luyện để bầu, bổ nhiệm vào vị trí lãnh đạo của đảng. Khi bổ nhiệm lãnh đạo từ
cấp phòng trở lên, đều có sự tham gia của đảng trong sự lựa chọn nhân sự. Hàng năm
đảng đều có các đợt sinh hoạt chính trị (1 năm hai lần) để đảng viên, quần chúng
thấm nhuần tư tưởng lãnh đạo của Đảng, thấu hiểu định hướng quan điểm, chủ
trương giúp cho chúng ta thực hiện đảm bảo sự lãnh đạo của đảng đối với cơ quan
nhà nước.
Ở địa phương, mỗi cơ quan nhà nước từ TW đến địa phương đều có các tổ chức chính
trị xã hội, các tổ chức này đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng tham gia một cách tích cực
vào hoạt động quản lý nhà nước. Vì vậy ln đảm bảo hoạt động của nhà nước đúng
quy định của pháp luật, đúng chủ trương đường lối của Đảng.

Kết luận: Muốn xây dựng hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCNVN trong
giai đoạn hiện nay thì ngồi việc đổi mới tổ chức hoạt động của nhà nước pháp quyền
chúng ta phải luôn đặt hoạt động này dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tồn diện, tuyệt đối
của Đảng, có như thế chúng ta mới xây dựng thành công nhà nước pháp quyền chủ
nghĩa XH ở VN.

15


Câu 5: Phân tích nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam là “Đảm bảo mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”?
Mở bài:
Nhà nước pháp quyền là nhà nước của nhân dân, do nhân dân bầu ra để duy trì sự
ổn định và phát triển xã hội theo pháp luật, là nhà nước thượng tôn pháp luật và đảm
bảo dân chủ xã hội. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam vừa mang các giá trị phổ
biến của nhà nước pháp quyền đã được xác lập trong lý luận và thực tiễn của một chế
độ dân chủ hiện đại, vừa có bản sắc, đặc điểm riêng của mình.
Nhà nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Namlà tổ chức quyền lực thể hiện và
thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm trước
nhân dân quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội. Mặt khác, Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chịu sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, thực hiện
đường lối chính trị của giai cấp cơng nhân, thơng qua đội tiên phong là Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị ở nước ta, là cơng cụ tổ chức thực hiện
ý chí và quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân
để quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội. Đó chính là Nhà nước của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân. Nhà nước quản lý, điều hành nền kinh tế bằng pháp luật,
quy hoạch, kế hoạch và các công cụ điều tiết trên cơ sở tôn trọng quy luật khách quan
của thị trường.Đảng lãnh đạo Nhà nước thực hiện và bảo đảm đầy đủ quyền làm chủ
của nhân dân. Như vậy, Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam vừa là cơ quan quyền

lực, vừa là bộ máy chính trị, hành chính, vừa là tổ chức quản lý kinh tế, văn hoá, xã hội
của nhân dân. Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp và kiểm
sốt giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Kế thừa và phát triển các Hiến pháp trước, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục thể hiện rõ
bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ, pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân
làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức. Ðây là sự tiếp tục quan
điểm nhất quán của Ðảng và Nhà nước ta về việc đề cao chủ quyền nhân dân, khẳng
định ở "Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ".
Từ những nội dung nêu trên cho thấy nhà nước ta là nhà nước pháp quyền
XHCN trong đó mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
1.

2.
-

-

Nêu được nguyên tắc tổ chức hoạt động của nhà nước pháp quyền
Nhà nước pháp quyềntổ chức và hoạt động theo nguyên tắc đảm bảo mọi quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân tham gia xây dựng nhà nước, quản lý nhà
nước và giám sát hoạt động của cơ quan, cán bộ công chức nhà nước.
Mọi hoạt động của nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, thực hiện và bảo vệ quyền
con người, tất cả vì hạnh phúc của con người.
16


3.
+

+
+
-

+

Đảm bảo tập trung thống nhất quyền lực, có phân cơng rành mạch, phối hợp chặt chẽ
và kiểm sốt việc thực hiện quyền lực nhà nước về lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và pháp chế XHCN trong tổ chức, hoạt động của
nhà nước.
Bảo đảm tập trung dân chủ trong tổ chức, hoạt động của nhà nước.
Bảo đảm công khai, minh bạch trong tổ chức, hoạt động của nhà nước.
Bảo đảm bình đẳng giữa các dân tộc trong tổ chức, hoạt động của nhà nước.
Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Phân tích nguyên tắc đảm bảo mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân:
Nêu khái niệm về quyền lực nhà nước:
Quyền lực nhà nước là một bộ phận quan trọng của quyền lực chính trị mà thực chất
là nhân dân trao cho nhà nước thực hiện
Mọi quyền lực nhà nước đều tập trung trong tay nhân dân và các cơ quan đại diện của
người dân (Hội đồng nhân dân các cấp, Quốc hội).
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam cần đảm bảo quyền để mọi quyền lực nhà
nước tập trung trong tay nhân dân và đảm bảo thực hiện trên thực tế.
Ở nước ta, nguyên tắc “Bảo đảm mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” được
thể hiện rõ nét trong Hiến pháp năm 2013. Hiến phápkhẳng định Nhà nước ta là Nhà
nước dân chủ, pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức;Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ
trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua
các cơ quan khác của Nhà nước. Nguyên tắc “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về

Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và
đội ngũ trí thức” gắn liền với việc khẳng định “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam do Nhân dân làm chủ” khẳng định chủ thể thật sự, chủ thể đích thực và chủ thể
tối cao của nhà nước, của tất cả quyền lực nhà nước là Nhân dân. Điều này có nghĩa
rằng, ở Việt Nam, quyền lực nhà nước có nguồn gốc từ Nhân dân. Quyền lực nhà
nước, dù do bất cứ cơ quan, cá nhân nào nắm giữ cũng có nguồn gốc từ sự ủy quyền
của Nhân dân. Khơng có thứ quyền lực nhà nước nào có nguồn gốc tự thân, nằm ngoài
sự trao quyền, ủy quyền (trực tiếp hoặc gián tiếp) của Nhân dân. Khẳng định Nhân dân
thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng
nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước cũng hàm ý yêu cầu các cơ
quan nhà nước, khi ra quyết sách hoặc thực thi quyền lực, đều phải lưu ý rằng, các
cơng việc mình đang thực hiện đều là các công việc do Nhân dân ủy thác. Chính vì thế,
khi ban hành các quyết sách, thực thi công vụ, các cơ quan nhà nước đều khơng được
làm trái lợi ích của Nhân dân mà phải thực hiện một cách tận tụy nhất, trung thành nhất
với lợi ích của Nhân dân.
Hình thức dân chủ đại diện:Là hình thức Nhân dân thơng qua các cơ quan nhà nước,
17






các cá nhân được Nhân dân ủy quyền để thực hiện ý chí của Nhân dân. Dân chủ đại
diện là phương thức chủ yếu để thực hiện quyền lực nhân dân. Điều này có thể thấy
qua các biểu hiện trong tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam, cụ thể:
Thứ nhất là nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thông qua tổ chức hoạt động của
Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.
 Trong tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Quốc

hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao
nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Là cơ quan đại biểu cao
nhất của nhân dân, Quốc hội do cử tri cả nước trực tiếp bầu ra theo ngun tắc
phổ thơng bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Quốc hội thực hiện quyền lập
hiến, quyền lập pháp và quyết định những chính sách cơ bản về đối nội, đối
ngoại, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, những nguyên tắc chủ yếu về tổ
chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về các quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao với toàn bộ hoạt động của
Nhà nước. Đây chính là các quyền mà Nhân dân ủy thác cho Quốc hội để thực
hiện. Quốc hội có trách nhiệm quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội,
Chủ tịch nước, Chính phủ, Tịa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Hội đồng
bầu cử quốc gia, Kiểm tốn nhà nước, chính quyền địa phương và cơ quan khác
do Quốc hội thành lập và bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm các chức danh đứng đầu
các cơ quan này nhằm đảm bảo sự vận hành và thực thi hoạt động quản lý nhà
nước và quản lý xã hội theo theo sự ủy quyền của Nhân dân cho Quốc hội. Vì
Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, là cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất của nước ta nên có thể nói nhân dân là chủ thể tối cao của quyền
lực nhà nước, là chủ thể phân công quyền lực nhà nước. Thông qua tổ chức và
hoạt động của Quốc hội, nhân dân thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, quyết
định các vấn đề quan trọng của đất nước, giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của
nhà nước.
 Hội đồng nhân dân các cấp là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại
diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân địa phương, do
Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và
cơ quan nhà nước cấp trên. Hội đồng nhân dân quyết định các vấn đề của địa
phương do luật định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa
phương và việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân. Do vậy, thông qua
đại biểu HĐND, nhân dân thể hiện được ý chí nguyện vọng của mình trong các
quyết định của HĐND, thể hiện được quyền làm chủ của mình trong các hoạt
động của nhà nước đồng thời nhân dân cũng giám sát việc thực hiện của các cơ

quan nhà nước địa phương.
Thứ hai là nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thông qua tổ chức hoạt động của
Chính phủ. Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hịa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của
18




+

Quốc hội. Chính phủ được lập ra trong kỳ họp thứ nhất của mỗi khoá Quốc hội.
Trong kỳ họp này, Quốc hội bầu Thủ tướng Chính phủ từ số đại biểu Quốc hội. Thủ
tướng Chính phủ lãnh đạo cơng tác của Chính phủ, lãnh đạo việc xây dựng chính
sách và tổ chức thi hành pháp luật. Điều này có nghĩa là nhân dân thực hiện quyền
lực quản lý nhà nước thơng qua Chính phủ. Cơ cấu tổ chức của Chính phủ gồm các
bộ, cơ quan ngang bộ. Việc thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ do Chính phủ
trình Quốc hội quyết định. Như vậy, việc Quốc hội quyết định thành lập bãi bỏ bộ, cơ
quan ngang bộ cũng chính là thể hiện quyền lực nhà nước của nhân dân thông qua
Quốc hội quyết định cơ cấu tổ chức Chính phủ. Chính phủ tổ chức và hoạt động trên
nguyên tắc phục vụ Nhân dân, chịu sự kiểm tra, giám sát của Nhân dân nên các cơ
quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng nhân dân, lắng nghe ý
kiến và chịu sự giám sát của nhân dân.
Thứ ba là nhân dân thể hiện quyền lực nhà nước thông qua tổ chức hoạt động của các
cơ quan tư pháp (Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân). Xuất phát từ bản chất
của nhà nước ta là nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân
dân, nguyên tắc về tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta là quyền lực nhà nước là
thống nhất, không chỉ được phân công, phối hợp mà cịn có sự kiểm sốt trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Ðây là một trong những nguyên
tắc nền tảng về tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta. Bởi nhân dân là chủ thể tối cao

của quyền lực nhà nước nên nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước là một tất yếu,
một địi hỏi chính đáng. Ðể kiểm sốt được quyền lực nhà nước địi hỏi phải hình
thành cơ chế bao gồm kiểm soát quyền lực nhà nước ở bên trong bộ máy nhà nước,
giữa 3 cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp và trong nội bộ mỗi cơ quan đồng thời
kiểm sốt quyền lực nhà nước ở bên ngồi bao gồm kiểm sốt của nhân dân thơng
qua các tổ chức chính trị - xã hội, thơng qua các phương tiện thơng tin đại chúng. Với
nhận thức đó, tịa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp và Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền cơng
tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Tịa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân đều có
nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân, chính là bảo vệ những gì thuộc về nhân dângóp phần bảo đảm pháp luật được
chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Ðó là cơ sở để hình thành cơ chế nhân dân
đánh giá, kiểm sốt quyền lực nhà nước mà mình đã trao cho mỗi cơ quan nhà nước.
Để quản lý xã hội bằng pháp luật, nhà nước phải duy trì mối liên hệ thường xuyên và
chặt chẽ giữa Nhà nước và nhân dân, lắng nghe và tôn trọng ý kiến của nhân dân,
chịu sự giám sát của nhân dân, quản lý đất nước vì lợi ích của quảng đại nhân dân, vì
lợi ích của quốc gia, dân tộc chứ khơng phải vì quyền lợi hoặc lợi ích của thiểu số.
Hình thức dân chủ trực tiếp: Các hình thức nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước,
không chỉ bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân, các cơ
quan khác của nhà nước mà cịn bằng các hình thức dân chủ trực tiếp, bằng biểu
quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân. Quốc hội quyết định trưng cầu ý dân về
19


4.

Hiến pháp hoặc về những vấn đề quan trọng khác theo đề nghị của Ủy ban thường vụ
Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc
hội. Qua đó, nhân dân được phát biểu ý kiến, đưa được ý chí, nguyện vọng của mình

vào Hiến pháp, điều đó thể hiện quyền làm chủ của nhân dân trong các hoạt động của
nhà nước.
Kết luận: Như vậy, quyền lực tối cao của nhân dân không chỉ thể hiện ở việc bầu cử
Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp mà còn ở quyền bãi miễn, kiểm soát, giám sát
hoạt động của các đại biểu cũng như các cơ quan công quyền của Nhà nước. Nhân
dân lập ra và trao quyền cho các cơ quan nhà nước để thay mặt nhân dân thực hiện
quyền lực của mình. Các cơ quan này phải chịu sự giám sát của nhân dân và chỉ được
thực hiện quyền lực trong giới hạn cho phép. Như vậy, cơ quan được nhân dân ủy
quyền không chỉ là cơ quan dân cử mà bao gồm cả cơ quan hành pháp và tư pháp, khi
hoạt động, các cơ quan này với tư cách là nhân dân, đại diện nhân dân để thực thi
nhiệm vụ. Quyền mà các cơ quan nhà nước có được là do nhân dân trao, phải chịu
trách nhiệm trước nhân dân. Khơng chỉ có Quốc hội, HĐND các cấp lắng nghe ý kiến
nhân dân khi ban hành luật, nghị quyết, mà các cơ quan hành pháp, tư pháp cũng phải
thu thập, lắng nghe ý kiến nhân dân trong quá trình thực thi nhiệm vụ của mình. Vì
vậy, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền XHCN luôn là đảm
bảo mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.

20


Câu 6: Phân tích đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
là “Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, tơn trọng và
bảo vệ quyền con người, quyền công dân”
Mở bài:
Nhà nước pháp quyền là nhà nước của nhân dân, do nhân dân bầu ra để duy trì sự
ổn định và phát triển xã hội theo pháp luật, là nhà nước thượng tôn pháp luật và đảm
bảo dân chủ xã hội. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam vừa mang các giá trị phổ
biến của nhà nước pháp quyền đã được xác lập trong lý luận và thực tiễn của một chế
độ dân chủ hiện đại, vừa có bản sắc, đặc điểm riêng của mình.
Một là, Nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực

Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức.
Hai là, Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và bảo
đảm tính tối cao của Hiến pháp và luật trong đời sống xã hội.
Ba là, Nhà nước tổ chức theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự
phân cơng, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Bốn là, Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân; tôn trọng và bảo
vệ quyền con người, quyền công dân.
Năm là, Nhà nước tôn trọng và cam kết thực hiện các công ước, điều ước quốc tế đã
tham gia, ký kết, phê chuẩn; thực hiện đường lối đối ngoại hòa bình, hữu nghị hợp
tác, bình đẳng và phát triển với các nước và dân tộc trên thế giới.
Sáu là, Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Từ thực tiễn xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam, có thể thấy rằng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam vừa mang các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền đã được xác lập
trong lý luận và thực tiễn của một chế độ dân chủ hiện đại, vừa có những đặc trưng
riêng. Trong đó đặc trưng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà
nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và bảo vệ quyền con
người, quyền công dân được xem là đặc trưng cơ bản nhất.
Phân tích làm rõ đặc trưng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam: “Nhà nước
phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và bảo vệ quyền
con người, quyền công dân”:
Thứ nhất là Nhà nước tôn trọng con người, phục vụ con người, lấy mục tiêu vì con
người làm mục tiêu phát triển bền vững.
Quyền con người là quyền tự nhiên, vốn có của con người từ lúc sinh ra; quyền công
dân trước hết cũng là quyền con người nhưng việc thực hiện nó gắn liền với quốc
tịch, tức là vị thế pháp lý của công dân trong quan hệ với Nhà nước, được Nhà nước
bảo đảm đối với cơng dân của nước mình. Chỉ những người có quốc tịch mới được
hưởng quyền cơng dân của quốc gia đó như quyền bầu cử, ứng cử, tham gia quản lý

1.

-

-

-

-

2.

+

21


+

+

-

-

-

-

nhà nước… Quyền con người và quyền cơng dân có mối quan hệ hữu cơ, gắn bó với

nhau.
Hiến pháp năm 2013 đã nhấn mạnh các quyền con người, quyền công dân về chính
trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo
Hiến pháp và pháp luật. Sự tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm được thể hiện ở chỗ, quyền
con người, quyền cơng dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật và trong
trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội,
đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng.
Bản chất dân chủ của Nhà nước xét đến cùng thể hiện ở chỗ Nhà nước đó đem lại lợi
ích gì cho nhân dân. Từ đó, tiêu chí của việc đánh giá hiệu quả hoạt động của Nhà
nước là khả năng phục vụ nhân dân, là công cụ để nhân dân làm chủ về kinh tế, chính
trị, xã hội, sử dụng tốt và hiệu quả các quyền lực, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của
mình.
Thứ hai là Nhà nước phải gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đúng phương
châm “Lấy dân làm gốc” trong các hoạt động của cơ quan nhà nước.Nhân dân tham
gia xây dựng nhà nước, quản lý nhà nước và giám sát hoạt động của cơ quan, cán bộ
công chức nhà nước. Mọi quyền lực nhà nước đều tập trung trong tay nhân dân và
các cơ quan đại diện của nhân dân (Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, Chính phủ,
Tịa án nhân dân, Viện Kiệm sát nhân dân…). Do vậy, nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam muốn thực hiện tốt các hoạt động của mình thì phải được sự ủng hộ của
nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, đi sâu tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng, thắc
mắc của dân từ đó, đề ra hoặc sửa đổi, bổ sung chủ trương, chính sách. Mục đích của
các hoạt động này là nhằm xây dựng, củng cố mối quan hệ đồn kết, gắn bó giữa nhà
nước và nhân dân, khi đã được nhân dân đồng tình, ủng hộ thì mọi việc sẽ thành
cơng.
Thứ ba là Nhà nước đảm bảo cho mọi thành viên trong xã hội, đặc biệt là những yếu
thế được đối xử bình đẳng. Nhà nước có chính sách ưu đãi mua nhà ở cho người thu
nhập thấp để đảm bảo cho người dân thực hiện được quyền được có nhà ở, có chính
sách thuế ưu đãi đối với vùng sâu, vùng xa, dân tộc để tạo điều kiện phát triển kinh tế
xã hội ở địa phương, từ đó giúp nâng cao trình độ dân trí, đời sống xã hội của nhân
dân, đặc biệt là các đồng bào dân tộc.

Thứ tư là Nhà nước thừa nhận và có nghĩa vụ đảm bảo quyền tự do và bình đẳng của
con người, tơn trọng và không can thiệp trực tiếp vào đời sống của cá nhân con
người.Bảo đảm quyền con người, quyền công dân, thực hành dân chủ, nâng cao trách
nhiệm pháp lý giữa nhà nước và công dân, giữa công dân với nhà nước luôn được
Đảng và Nhà nước ta quan tâm đặc biệt. Phát huy dân chủ nhằm bảo đảm trên thực tế
nguyên tắc “cơng dân có thể làm tất cả những gì pháp luật khơng cấm”, cịn cán bộ,
cơng chức nhà nước và các cơ quan nhà nước “chỉ được làm những gì luật pháp quy
định”.
Thứ năm là Nhà nước pháp quyền phải nêu cao vị trí, vai trị của tịa án nhằm thực
hiện tốt chức năng phán xét các tranh chấp, các mâu thuẫn nảy sinh trong xã hội.Ở
22


-

3.

-

+

nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bộ máy nhà nước được tổ chức theo
nguyên tắc tập trung quyền lực có sự phân cơng và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Thực
hiện quyền tư pháp mà chủ yếu là quyền xét xử là một trong những chức năng rất
quan trọng của Nhà nước Việt Nam và được giao cho Toà án nhân dân. Do vậy, Tồ
án nhân dân có vị trí rất quan trọng trong bộ máy nhà nước và có vị trí trung tâm
trong các cơ quan tư pháp. Tòa án nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại,
lao động, hành chính và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật.Với vị

trí đặc biệt trong bộ máy nhà nước, tòa án thực hiện vai trò bảo vệ pháp chế XHCN,
bảo vệ chế độ XHCN và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của nhà nước,
của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của cơng dân.
Hay nói cách khác, tịa án bảo vệ quyền con người, quyền cơng dân, bảo vệ quyền
làm chủ của nhân dân tức là bảo vệ quyền lực tối cao của nhà nước. Vì thế, nhà nước
pháp quyền ln đánh giá cao vai trị của toà án để đảm bảo việc thực thi pháp luật
của tổ chức cá nhân, bảo đảm cơng bằng, bình đẳng đối với mọi người dân trong xã
hội.
Thứ sáu là mọi nguồn lực mà Nhà nước sử dụng đều mang tính xã hội do vậy Nhà
nước phải có trách nhiệm đảm bảo cho xã hội phát triển vì hạnh phúc con người,
hướng tới mục tiêu bảo vệ các quyền và tự do căn bản và đem lại cuộc sống hạnh
phúc cho người dân.Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước tôn
trọng và bảo vệ quyền của con người, tất cả vì hạnh phúc con người, hạnh phúc Nhân
dân. Bảo đảm quyền con người, quyền công dân vừa là yêu cầu, vừa là mục tiêu của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Để bảo đảm quyền con người,
quyền công dân theo yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đòi hỏi
Hiến pháp, pháp luật phải trực tiếp ghi nhận các quyền con người, quy định rõ ràng
các quyền và tự do của cơng dân. Nhà nước phải có cơ chế bảo vệ quyền con người,
quyền công dân. Khi các quyền tự do của cơng dân bị vi phạm, thì phải có những
biện pháp trừng trị những chủ thể vi phạm và khơi phục lại những quyền và tự do đó.
Luận giải ngun tắc “Cơng dân có thể làm tất cả những gì pháp luật khơng
cấm cịn cán bộ, cơng chức nhà nước và các cơ quan nhà nước chỉ được làm
những gì luật pháp quy định”:
“Cơng dân có thể làm tất cả những gì mà pháp luật khơng cấm” là một trong những
nguyên tắc cơ bản của nhà nước pháp quyền mà theo đó, mọi cơng dân có thể làm tất
cả những gì một khi điều đó khơng bị pháp luật cấm. Như vậy, pháp luật chỉ quy định
những điều cấm mà không quy định danh mục những hành vi cho phép. Nguyên tắc
này giúp phát huy mọi sáng tạo của các chủ thể phục vụ lợi ích của xã hội, của Nhà
nước và của công dân.
“Cán bộ, công chức nhà nước và các cơ quan nhà nước chỉ được làm những gì luật

pháp quy định”
Thứ nhất, cán bộ, cơng chức chỉ được làm những việc mà pháp luật cho phép: Công
23


+

chức nhà nước thực thi công vụ là nhân danh nhà nước. Để đảm bảo cho công chức
thực thi công vụ đạt hiệu quả, pháp luật đảm bảo cho công chức được nhân danh nhà
nước để thực thi công vụ. Việc đảm bảo đó được pháp luật quy định thơng qua việc
quy định cụ thể những việc cán bộ, công chức được làm. Mỗi cán bộ cơng chức ở vị
trí khác nhau thì có những việc được làm khác nhau (nhiệm vụ, quyền hạn khác
nhau). Do vậy nếu cán bộ, công chức thực hiện những việc vượt ra khỏi những việc
mà pháp luật cho phép có nghĩa là thực hiện lấn sang quyền của các vị trí cơng việc
khác, thì đó là biểu hiện của sự lạm quyền. Như vậy việc chỉ làm những việc mà pháp
luật cho phép đảm bảo cho cán bộ, cơng chức vừa hồn thành tốt nhiệm vụ trong
phạm vi chức năng quyền hạn của mình vừa giúp cán bộ, công chức không làm quá
(lạm quyền) quyền hạn do pháp luật quy định cũng như nhằm tránh những hành vi
tuỳ tiện, xâm phạm quyền và lợi ích chính đáng của cơng dân(ví dụ như vì thấy dân
sống khổ, chủ tịch xã ký quyết định cấp đất cho người dân làm nhà, về đạo lý thì
quyết định này rất nhân văn nhưng về pháp lý thì ơng này khơng có thẩm quyền cấp
đất cho người dân). Bên cạnh việc giúp cho cán bộ công chức, công chức khơng làm
q quyền của mình thì việc pháp luật quy định rõ nhiệm vụ và quyền hạn của cán bộ
công chức cũng giúp cho cán bộ công chức hiểu và thực hiện đầy đủ quyền và trách
nhiệm của mình, tránh tình trang thực hiện khơng hết quyền, trách nhiệm của mình.
Ví dụ như phường A khơng ngăn chặn được nhà dân xây dựng trái phép ngay từ đầu
mà giờ mới phá dỡ vì theo họ là người dân xây dựng vào ngày nghỉ thứ 7, CN nên
phường không biết. Công chức có nhận thức được đầy đủ quyền của mình thì họ mới
thực hiện được một cách tốt nhất quyền, trách nhiệm của mình.
Thứ hai, cán bộ, cơng chức khơng được làm những việc mà pháp luật cấm: Bên cạnh

việc trao quyền cho cán bộ, công chức để thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình,
luật cịn quy định những việc cán bộ, công chức không được làm. Việc quy những
việc cán bộ, công chức không được làm vừa đảm bảo cho công chức thực hiện đúng
các quy định của pháp luật vừa hạn chế các rủi ro đối với cán bộ, công chức.

24


2.

Câu 7: Phân tích đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam: “Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp
luật và bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và Luật trong đời sống xã hội”
1. Quan niệm về Nhà nước pháp quyềnxã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nhà nước pháp quyền là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân bầu ra để duy trì
sự ổn định và phát triển xã hội theo pháp luật, là nhà nước thượng tôn pháp luật và
đảm bảo dân chủ xã hội.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vừa mang các giá trị phổ
biến của nhà nước pháp quyền đã được xác lập trong lý luận và thực tiến của một chế
độ dân chủ hiện đại, vừa có bản sắc, đặc điểm của riêng mình:
Một là, Nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền
lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân
với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức.
Hai là, Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và
bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và Luật trong đời sống xã hội
Ba là, Nhà nước tổ chức theo nguyên tắc quyền lực thống nhất; có sự phân
cơng, phối hợp và kiểm sốt giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp.
Bốn là, Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân; tôn trọng và
bảo vệ quyền con người, quyền công dân.

Năm là, Nhà nước tôn trọng và cam kết thực hiện các công ước, điều ước quốc
tế đã tha gia, ký kết, phê chuẩn; thực hiện đường lối đối ngoại hòa bình, hữu nghị hợp
tác, bình đẳng và phát triển với các nước và dân tộc trên thế giới.
Sáu là, Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Như vậy “Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật
và bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và Luật trong đời sống xã hội” là đặc trưng cơ
bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Phân tích Đặc trưng “Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến
pháp, pháp luật và bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và Luật trong đời sống
xã hội”
Thứ nhất, bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở của Hiến
pháp, pháp luật: Để tồn tại và phát triển, con người buộc phải liên kết lại với nhau
thành những cộng đồng, thành xã hội. Và cùng với những sự liên kết đó, trong mỗi
cộng đồng đã sinh ra quyền lực công cộng - một phương tiện để duy trì trật tự trong
mỗi cộng đồng, cũng như trong tồn xã hội và để phối hợp hoạt động của cả cộng
đồng, của xã hội theo những định hướng nhất định vì những mục tiêu chung nhằm đạt
tới tự do, hạnh phúc cho mỗi người và cho cả cộng đồng. Khi trong xã hội xuất hiện
nhà nước, cũng có nghĩa là xuất hiện quyền lực nhà nước - một loại quyền lực công
cộng đặc biệt bắt nguồn từ nhân dân, thuộc về nhân dân nhưng khơng do tồn thể
nhân dân tự thực hiện mà do một bộ máy chuyên môn thay mặt nhân dân thực hiện.
Song trên thực tế, sự kiểm soát của nhân dân đối với quyền lực nhà nước từ xưa đến
nay ln là vấn đề rất khó khăn; trong nhiều trường hợp có thể nói là nhân dân hầu
như khơng thể kiểm sốt được quyền lực nhà nước. Để nhân dân có thể kiểm sốt
được quyền lực nhà nước, làm cho nhà nước thực sự là “của dân, do dân và vì dân”
25


×