Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Chuyên đề 3: TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM (1991 – 2011)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.13 KB, 25 trang )

Chuyên đề 3
TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
(1991 – 2011)
MỤC TIÊU
- Kiến thức:Trang bị cho học viên những kiến thức cơ bản về quá trình hình
thành và phát triển nhận thức của Đảng về CNXH và con đường lên CNXH ở Việt
Nam từ năm 1991 đến năm 2011; những thành tựu, hạn chế trong hoạt động lý luận
và thực tiễn của Đảng, giai đoạn 1991-2011..
- Kỹ năng:Chun đề góp phần hình thành cho học viên phương pháp tư duy
khoa học trong nhận thức, đánh giá về hoạt động lý luận và thực tiễn của Đảng,
giai đoạn 1991-2011; biết vận dụng kiến thức được trang bị để phân tích, đánh giá
hoạt động lãnh đạo của Đảng trong cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước hiện nay.
-Về tư tưởng: Giúp học viên củng cố niềm tin với những căn cứ khoa học về
vai trò của Đảng đối với cách mạng Việt Nam; tích cực đấu tranh chống lại các
quan điểm, nhận thức sai trái.
NỘI DUNG
1. Sự phát triển tư duy lý luận của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội từ năm 1991 đến năm 2011
1.1. Đại hội lần thứ VII của Đảng và Cươnglĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đại hội lần thứ VII của Đảng triệu tập vào tháng 6 năm 1991, trong bối cảnh
tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến đổi sâu sắc. Ý nghĩa trong đại của Đại
hội là ở chỗ, đây là lần đầu tiên Đảng ta thông qua Cươnglĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Cương lĩnh khẳng định những khó khăn và thuận lợi của tình hình trong
nước và quốc tế khi nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở đó, xác định
xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: “Do nhân dân lao
động làm chủ. Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà



bản sắc dân tộc. Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất cơng, làm
theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự đo, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển tồn diện cá nhân. Các dân tộc trong nước bình đẳng, đồn kết và
giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả
các nước trên thế giới”1.
Nêu lên mơ hình xã hội xã hội chủ nghĩa là bước phát triển quan trọng trong
tư duy và nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam. Bên cạnh đó, Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VII khẳng định tư
tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác-lênin là nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho hành động của Đảng và đề ra nhiệm vụ nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh
sâu sắc, có hệ thống. Đại hội nêu rõ chính sách đối ngoại rộng mở: Việt Nam muốn
là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hịa bình, độc lập và
phát triển. Xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh.
Cương lĩnh xác định phương hướng cơ bản trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc:
Thứ nhất, xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân
và vì dân, lấy liên minh cơng- nơng và đội ngũ trí thức làm nền tảng.
Thứ hai, phát triển lực lượng sản xuất, cơng nghiệp hóa đất nước theo
hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nơng nghiệp tồn diện là nhiệm
vụ trọng tâm.
Thứ ba, từng bước thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Phát triển nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Thứ tư, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng, văn
hóa. Kế thừa và phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp trong nước đi đôi với tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích
chân chính và phẩm giá con người.
Thứ năm, thực hiện chính sách đại đồn kết dân tộc, mở rộng Mặt trận dân
tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh.

1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia. H.2007, t.51, tr.134.


Thứ sáu, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến
lược của cách mạng Việt Nam.
Thứ bảy, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về tư tưởng, chính trị và tổ
chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
- Cương lĩnh xác định những định hướng lớn về chính sách kinh tế, văn hóa
– xã hội, quốc phịng – an ninh. Đồng thời, khẳng định vị trí, vai trị của hệ thống
chính trị và sự lãnh đạo của Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII đánh dấu bước trưởng thành mới
của Đảng. Đại hội đã hoạch định con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội phù
hợp với đặc điểm của Việt Nam và đề ra những giải pháp đưa nước ta thoát
khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội trên cơ sở tổng kết lý luận và thực tiễn.
Với việc thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội – Cương lĩnh trong thời kỳ đổi mới, nhận thức của Đảng về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã được phác thảo
trên những nét lớn.
1.2. Sự bổ sung phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội sau Đại hội VII
Đại hội lần thứ VIII của Đảng (6- 1996) tổng kết đánh giá 10 năm thực hiện
cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước, chỉ rõ: Công cuộc đổi mới trong 10 năm qua
đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Nhiệm vụ đề ra cho
chặng đường đầu tiên cơ bản hoàn thành, cho phép chuyển sang thời kỳ mới, thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn. Xét trên tổng thể, việc hoạch định và
thực hiện đường lối đổi mới trong những năm qua cơ bản là đúng đắn, đúng định

hướng xã hội chủ nghĩa “Tuy trong q trình thực hiện có một số khuyết điểm, lệch
lạc lớn và kéo dài dẫn đến chệnh hướng ở lĩnh vực này hay lĩnh vực khác, ở mức độ
này hay mức độ khác”2. Đại hội đề ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2000 đưa nước ta ra

2

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 6768.


khỏi tình trạng kém phát triển. Đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại.
Đại hội lần thứ IX của Đảng, bổ sung, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam trên các nội dung cơ bản:
Về mục tiêu cách mạng, lý tưởng của Đảng: “Quyết tâm xây dựng nước
Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh”. Đại hội bổ sung thêm cụm từ “dân chủ” vào mục tiêu
phấn đấu của nhân dân ta và diễn đạt mục tiêu chung là: “độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
So với các Đại hội trước, việc xác định như vậy phản ánh đầy đủ hơn, rõ ràng hơn
nhận thức về vấn đề dân chủ, một vấn đề lớn thuộc về bản chất của chủ nghĩa xã
hội.
Về nền tảng tư tưởng của Đảng, Đại hội nói rõ nội dung cơ bản của tư tưởng
Hồ Chí Minh. Việc khẳng định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động là bước phát triển quan trong
trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng.
Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta: là sự phát triển quá độ lên
chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí
thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng
tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ
nghĩa.

Về đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ: Trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội tất yếu phải đấu tranh giai cấp. Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp
trong giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại
hố đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo,
kém phát triển, thực hiện cơng bằng xã hội, chống áp bức, bất công, đấu tranh ngăn
chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái, đấu tranh làm thất
bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch.
Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ
sở liên minh cơng nơng và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng, kết hợp hài


hồ các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của
các thành phần kinh tế, của toàn xã hội.
Chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế: dưới chủ nghĩa xã hội cịn tồn tại
ba hình thức sở hữu (tồn dân, tập thể, cá thể) và còn tồn tại nhiều thành phần kinh
tế.
Về mơ hình kinh tế tổng qt trong thời kỳ quá độ ở nước ta: Đại hội chính thức
đưa ra khái niệm “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Mục đích
củanền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất
hiện đại gắn với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý
và phân phối. Đó là nền kinh tế có sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa bằng
pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách; thực hiện phân phối chủ yếu
theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế; thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn liền với
đảm bảo tiến bộ và cơng bằng xã hội. Đó cũng chính là sự khác nhau giữa kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam.
Đại hội X đã tổng kết 5 năm thực hiện nghị quyết của Đại hội IX và tổng kết
20 năm đổi mới. Đại hội khẳng định: Nhận thức về CNXH và con đường đi lên
CNXH ngày càng sáng tỏ; hệ thống luận điểm về công cuộc đổi mới, về xã hội
XHCN và con đường đi lên CNXH Ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ

bản: “Hai mươi năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của tồn Đảng, tồn dân, tồn
qn, cơng cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý
nghĩa lịch sử”3.
Đại hội X nêu rõ, trong khi khẳng định những thành tựu nói trên, cần thấy rõ,
cho đến nay nước ta vẫn trong tình trạng kém phát triển. Kinh tế còn lạc hậu so với
nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, xây dựng hệ
thống chính trị cịn nhiều yếu kém. Lý luận chưa giải đáp được một số vấn đề thực
tiễn đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đặc biệt là trong các mối quan
hệ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng xã hội; giữa đổi mới kinh tế với
đổi mới chính trị; giữa đổi mới với ổn định và phát triển; giữa độc lập tự chủ và tích
cực hội nhập kinh tế quốc tế.
3

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2006, tr. 67.


Đại hội lần thứ X của Đảng bổ sung, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội
và con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trên hai vấn đề lớn:
Về đặc trưng chủ yếu của xã hội mà chúng ta đang xây dựng là:Xã hội dân
giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Do nhân dân làm chủ. Có nền
kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Có nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc. Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất cơng, có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện. Các dân tộc trong cộng đồng
Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Có Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các
nước trên thế giới.
Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội xác định: Phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Xây

dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội.
Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc. Xây dựng
Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh. Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia. Chủ động và
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Đại hội XI (1-2011):Tổng kết 20 năm thực hiện Cươnglĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH và 10 năm thực hiện Chiến lược kinh tế- xã
hội 10 năm (2001- 2010), Đại hội khẳng định: “ Sau 20 năm thực hiện Cương lĩnh,
chúng ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước thực
hiện thành công bước đầu công cuộc đổi mới, ra khỏi tình trạng kém phát triển; đời
sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đồn kết tồn
dân tộc được củng cố, tăng cường. Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững, vị thế và uy tín của Việt Nam trên
trường quốc tế được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của đất nước đã tăng lên rất


nhiều, tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn theo con đường xã
hội chủ nghĩa”4.
Đề cập đến thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đại hội chỉ rõ:
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng thơng qua (năm 1991), có giá trị
định hướng và chỉ đạo to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta trong
suốt hai thập kỷ qua. Những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của đất nước
ta hơn 20 năm qua đã chứng tỏ sự đúng đắn và ý nghĩa quan trọng của Cương
lĩnh năm 1991.
Đại hội xác định mục tiêu tổng quát: Xây dựng được về cơ bản nền tảng
kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa
phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn
vinh, hạnh phúc. Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, phấn đấu xây dựng nước ta trở thành
một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Cùng với các kỳ Đại hội Đảng, Trung ương Đảng đã ra nghị quyết về các
vấn đề quan trọng của đất nước như: Định hướng chiến lược phát triển giáo dụcđào tạo và khoa học- công nghệ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước;
Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh; Chiến lược cán bộ trong thời kỳ
đẩy mạnh CNH, HĐH; Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
văn hóa dân tộc; Một số nhiệm vụ cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện
nay; Một số vấn đề về tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị; Tiếp tục sắp xếp,
đổi mới, phát triển, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước;Về phát triển kinh
tế tập thể, kinh tế tư nhân; Về đẩy nhanh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng
nghiệp, nông thôn; về công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới; Về xây dựng
hệ thống chính trị cơ sở;Về phương hướng phát triển giáo dục - tạo và khoa họccông nghệ đến năm 2005 và đến năm 2020; Về công tác dân tộc, công tác tôn
giáo; Về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa;Về phương hướng, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và đối
4

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2011, tr.2021.


ngoại trong tình hình mới; Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác
phịng, chống tham nhũng lãng phí; Về định hướng đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội; Về một số chủ trương, chính sách
lớn để nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức
Thương mại thế giới;Về công tác tư tưởng, lý luận, báo chí; Về tiếp tục đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị; Về công tác
kiểm tra, giám sát của Đảng; Về đẩy mạnh cải cách hành chính;Về tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH; Về xây dựng
đội ngũ trí thức thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; Về nông nghiệp, nông dân,
nông thôn..
Qua các kỳ Đại hội Đảng và Hội nghị Trung ương, đường lối đổi mới không
ngừng được bổ sung và phát triển để phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước.

Đồng thời, nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ, thể hiện ở những điểm sau:
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hộichủ nghĩa là
một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan
trọng qua 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và
tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức
sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật
đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật,
cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Trong đó kinh tế nhà
nước giữ vai trị chủ đạo; kinh tế tập thể khơng ngừng được củng cố và mở rộng;
kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế; kinh tế hỗn hợp, đa
sở hữu, nhất là các doanh nghiệp cổ phần ngày càng phát triển; kinh tế nhà nước
cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế
quốc dân.
Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ
nghĩa trong kinh tế thị trường ở nước ta là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất
chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến


bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt q
trình phát triển. Điều này vừa thể hiện đúng quy luật của sự phát triển lành mạnh,
bền vững trong thời đại ngày nay, vừa nói lên mục đích, bản chất của xã hội ta.
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển
Đảng xác định phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa
là động lực của công cuộc đổi mới; phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế - xã hội; đầu tư
cho giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ là đầu tư cho phát triển. Bảo vệ
môi trường là một trong những vấn đề sống còn của nhân loại, là một tiêu chí và

nội dung của sự phát triển bền vững, là nhân tố bảo đảm sức khỏe và chất lượng
cuộc sống của nhân dân.
Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng; phải làm cho văn hóa thấm sâu
vào tồn bộ đời sống xã hội.
Một luận điểm rất quan trọng thể hiện nhận thức mới của Đảng ta là đã xác
định sự gắn kết nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là
then chốt với phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội, coi đó là “ba
chân kiềng” bảo đảm cho sự phát triển bền vững của đất nước. Để văn hóa
thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội phải làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội,
kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc
trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội
văn minh, lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con ng ười,; phê phán
những cái lỗi thời, thấp kém; đấu tranh chống những tư tưởng và hành vi phi
văn hóa, phản văn hóa, những khuynh hướng sùng ngoại, lai căng, mất gốc;
bảo vệ nền văn hóa dân tộc trước sự xâm lăng của các nền văn hóa lớn.
Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển kinh tế, văn hóa,
xã hội. Đề cao quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân
tộc, đất nước. Tất cả phải vì con người, chăm lo cho hạnh phúc của con người; phát
huy nhân tố con người và phát triển nguồn nhân lực trong công cuộc xây dựng và


bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc, làm
cho gia đình thực sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng và tổ ấm
của mỗi người.
Giữ vững mơi trường hịa bình, độc lập tự chủ, tích cực và chủ động hội
nhập quốc tế
Sự chuyển biến quan trọng trong tư duy và đường lối đối ngoại của Đảng là
quan điểm “thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế”, lấy việc bảo

đảm lợi ích quốc gia là nguyên tắc tối cao của hội nhập. Trên cơ sở đó, từng bước
hồn thiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hợp tác và phát triển; thực
hiện chính sách đối ngoại rộng mở, tơn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; bình đẳng, cùng có lợi;
giải quyết các bất đồng và tranh chấp bằng thương lượng hịa bình, khơng dùng vũ lực
hoặc đe dọa dùng vũ lực.
Trước xu thế khách quan tồn cầu hóa kinh tế, chúng ta chủ trương “chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế”, “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế” theo tinh
thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự
chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững bản sắc văn hóa
dân tộc, bảo vệ môi trường. Đảng đổi mới nhận thức trên vấn đề “địch - ta”, “đối
tượng - đối tác” theo tinh thần “thêm bạn bớt thù”. Phương châm của hoạt động đối
ngoại là: “Việt Nam muốn là bạn”, “sẵn sàng là bạn”,“là bạn, là đối tác tin cậy” của
các nước trong cộng đồng quốc tế; “là thành viên tích cực và có trách nhiệm của các
tổ chức quốc tế”, tích cực tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu, phấn đấu vì hịa
bình, độc lập và phát triển.
Xây dựng đất nước đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, Đảng ta vẫn luôn
luôn xác định xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến
lược có quan hệ chặt chẽ với nhau. Khái niệm và nội hàm bảo vệ Tổ quốc được xác
định đầy đủ hơn: Bảo vệ Tổ quốc không chỉ là bảo vệ lãnh thổ, biên giới, hải đảo,
vùng trời, vùng biển mà còn là bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ thành quả cách
mạng, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân; bảo vệ kinh tế, văn hóa dân tộc, bảo vệ sự


nghiệp đổi mới… Chúng ta đã bước đầu xây dựng hệ quan điểm mới về chiến tranh
nhân dân, về hậu phương trong điều kiện chiến tranh công nghệ cao; làm sáng tỏ nội
dung mới của chiến lược bảo vệ Tổ quốc, chiến lược quốc phịng tồn dân; khẳng
định sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân
với nền tảng là “thế trận lòng dân”, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,

sức mạnh của lực lượng và thế trận quốc phịng tồn dân với sức mạnh của lực
lượng và thế trận an ninh nhân dân.
Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh; quốc phòng - an ninh với
kinh tế trong các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Phối
hợp chặt chẽ hoạt động quốc phòng và an ninh với hoạt động đối ngoại. Xây dựng quân
đội nhân dân và cơng an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Kiên quyết làm thất bại âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hịa bình”, bạo loạn lật đổ; coi
trọng nhiệm vụ bảo đảm an ninh chính trị nội bộ, nâng cao khả năng tự bảo vệ của mỗi
người, của từng tổ chức, cơ quan, đơn vị.
Phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
tăng cường sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta. Xây dựng nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân là một nhiệm vụ trọng
yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam. Quan điểm của Đảng là xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, trên
cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo. Xây dựng cơ chế để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trên các lĩnh vực của
đời sống xã hội, tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, khắc phục biểu hiện dân
chủ hình thức. Nhà nước chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà
Việt Nam đã ký kết.
Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp, hoạt động có hiệu lực, hiệu
quả, thông suốt, thống nhất. Đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Xây
dựng cơ chế giám sát quyền lực nhà nước.


“Đại đoàn kết toàn dân tộc” ngày càng được nhận thức sâu sắc hơn về ý
nghĩa, vai trò, là nguồn sức mạnh và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng

lợi bền vững của sự nghiệp cách mạng. Thực hiện nhất qn chính sách đại đồn kết
các dân tộc, các tôn giáo, giai cấp, tầng lớp, thành phần kinh tế, mọi giới, mọi lứa
tuổi, mọi thành viên trong đại gia đình Việt Nam; lấy mục tiêu giữ vững độc lập,
thống nhất, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm
tương đồng; tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích chung của dân
tộc, xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành phần,
xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau hướng tới tương lai.
Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc khơng theo một
tơn giáo nào; đồn kết đồng bào theo các tơn giáo khác nhau hoặc khơng theo tơn
giáo, tạo điều kiện làm trịn trách nhiệm công dân, sống “tốt đời đẹp đạo”, phát huy
những giá trị tốt đẹp về văn hóa, đạo đức của tơn giáo.
Đồng bào định cư ở nước ngồi là bộ phận không tách rời và là một nguồn
lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam; khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để
đồng bào nâng cao lòng yêu nước, ý thức cộng đồng, tinh thần tự trọng, tự hào dân
tộc, giữ gìn bản sắc văn hóa và truyền thống dân tộc, tôn trọng pháp luật nước sở tại,
hướng về quê hương đất nước và góp phần tăng cường đoàn kết hữu nghị với nhân
dân các nước.
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp
công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng là
nhiệm vụ thường xuyên quan trọng, bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm sự trường tồn và phát triển của dân tộc.
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân,
đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc
Đại hội X của Đảng đã quán triệt sâu sắc hơn tư tưởng Hồ Chí Minh, khẳng định:
“Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội
tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam”. Cùng với việc xác định


Đảng ta là đảng cầm quyền, luận điểm này là một bước phát triển mới rất quan trọng về
nhận thức của Đảng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Về công tác xây dựng Đảng, Đảng coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt,
nhiệm vụ sống còn trong tồn bộ sự nghiệp cách mạng. Từ đó, đặt ra yêu cầu Đảng
phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn; tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh cả
về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực
tiễn, nâng cao trình độ nhận thức, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; khơng ngừng hồn thiện đường lối đổi mới của Đảng;
tăng cường cơng tác tư tưởng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, đấu tranh chống sự suy
thoái, biến chất, tham nhũng, hư hỏng. Đổi mới, kiện toàn hệ thống tổ chức của Đảng
và hệ thống chính trị, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; đổi mới đồng bộ
công tác cán bộ; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát; đổi mới phương thức lãnh
đạo và lề lối công tác; gắn bó mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng
Đảng. Đặc biệt đề phòng nguy cơ sai lầm về đường lối và thối hóa, quan liêu, xa rời
quần chúng.
Tóm lại, trong những năm tiến hành cơng cuộc đổi mới, thực hiện Cương
lĩnh năm 1991, nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ngày càng được bổ sung, phát triển, góp phần từng bước làm sáng tỏ
và hồn thiện đường lối đổi mới, xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây cũng là cơ sở quan trọng để Đại hội XI xem xét,
quyết định việc bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 1991.
2. Sự phát triển tư duy lý luận của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con
đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua Cương lĩnh (bổ sung và phát triển
năm 2011)
3.1. Sự cần thiết phải bổ sung và phát triển Cương lĩnh
Đại hội VII thông qua Cương lĩnh trong hồn cảnh cơng cuộc đổi mới đã trải
qua 5 năm với những thành tựu bước đầu rất có ý nghĩa cả về kinh tế, chính trị và
xã hội. Tuy vậy, các nước xã hội chủ nghĩa lúc đó cũng tiến hành cơng cuộc cải
cách, cải tổ nhưng đã không thành công ở Liên Xô và các nước Đông Âu, dẫn đến


sự sụp đổ của một mơ hình chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng từ nhiều chục năm
trước đó. Đó là một tổn thất nặng nề của hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới

nhưng cũng để lại những bài học cho các Đảng Cộng sản cầm quyền và các nước
xã hội chủ nghĩa cịn lại trong đó có Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm
1989 đã đề ra các nguyên tắc và khẳng định quyết tâm, kiên định con đường xã hội
chủ nghĩa. Với bản lĩnh chính trị vững vàng, với kinh nghiệm và tinh thần độc lập tự
chủ, Đảng đã tập trung trí tuệ để xây dựng Cương lĩnh, vững tin vào con đường và lý
tưởng đúng đắn. Trong điều kiện khủng hoảng sâu sắc và thất bại của chế độ xã hội
chủ nghĩa ở một số nước, Đảng Cộng sản Việt Nam, trong Cương lĩnh đã phân tích
những nguyên nhân của sự thất bại tạm thời và khẳng định: “Chủ nghĩa xã hội hiện
đứng trước nhiều khó khăn, thử thách. Lịch sử thế giới đang trải qua những bước
quanh co; song, loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là
quy luật tiến hóa của lịch sử”.
Trải qua 20 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội theo Cương lĩnh 1991, công
cuộc đổi mới ở Việt Nam đã giành được những thành tựu to lớn khẳng định giá trị
khoa học và hiện thực của Cương lĩnh. Nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã được làm sáng tỏ, song cũng có nhiều vấn đề mới
nảy sinh. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội tiếp tục được giữ vững và phát triển
ở một số nước. Thời đại và thế giới đương đại có những biến chuyển có cả thuận lợi
và cả những khó khăn, thách thức. Trong điều kiện đó, Đại hội XI Đảng Cộng sản
Việt Nam họp từ ngày 12-1 đến ngày 19-1-2011, tại Thủ đô Hà Nội, bổ sung, phát
triển Cương lĩnh 1991 và thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011).
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ
sung, phát triển năm 2011) đã tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, làm rõ
nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với thực tiễn
của Việt Nam và những biến đổi của thế giới.
2.2. Nội dung Cương lĩnh
Cương lĩnh đã tổng kết những thắng lợi của cách mạng Việt Nam và những
bài học chủ yếu.
Những thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Việt Nam:



- Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của
thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đưa dân tộc ta
tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do.
- Thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược, mà đỉnh cao là chiến
thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, đại thắng mùa Xuân 1975, giải phóng dân
tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế.
- Thắng lợi của công cuộc đổi mới, tiến hành cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế, tiếp tục đưa đất nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội với
nhận thức và tư duy mới đúng đắn, phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Cương lĩnh khẳng định những bài học lớn:
Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - ngọn cờ
vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hơm nay và các thế hệ
mai sau. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa xã hội là cơ sở đảm bảo bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến
lược có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của
Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh
của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời
nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước,
của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng.
Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn
kết toàn dân, đồn kết dân tộc, đồn kết quốc tế. Đó là truyền thống quý báu và là
nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết:
Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công.
Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thài đại, sức mạnh trong
nước với sức mạnh quốc tế. Trong bất cứ hồn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí
độc lập, tự chủ và nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng

thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại.
Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định
thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng khơng có lọi ích nào khác ngoài việc


phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đảng phải năm vững, vận dụng sáng tạo, góp
phần phát triển chủ nghĩa Mác-lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, khơng ngừng làm
giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để
đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường lối, chủ
trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải
phòng và chống những nguy cơ lớn: Sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự
thối hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên.
Cương lĩnh nêu bật quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam diễn ra trong bối
cảnh quốc tế có những biến đổi to lớn và sâu sắc.
- Cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức và q trình tồn cầu
hóa diễn ra mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến sự phát triển của nhiều nước.
- Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới những hình hức và mức
độ khác nhau vẫn tồn tại và phát triển. Hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác
là xu thế lớn nhưng vẫn tiềm ẩn những nhân tố mất ổn định. Cơ hội và thách thức
đan xen nhau.
- Khẳng định thành tựu to lớn về nhiều mặt của chủ nghĩa xã hội được xây
dựng ở Liên Xô và các nước. Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô
và Đông Âu là tổn thất lớn, nhưng Việt Nam và một số nước vẫn kiên định con
đường xã hội chủ nghĩa, tiến hành cải cách, đổi mới và giành được những thành
tựu to lớn.
- Những mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư bản vẫn tồn tại và trở
nên sâu sắc, bản chất chủ nghĩa tư bản vẫn là chế độ áp bức, bóc lột, bất công.
Khẳng định đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại và xu thế
tất yếu đi tới chủ nghĩa xã hội.
Cương lĩnh khẳng định, đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta,

là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh,
phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử. Cương lĩnh 1991 nêu rõ 6 đặc trưng của
xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng. Từ thực tiễn của đổi mới và xây
dựng chủ nghĩa xã hội, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) nêu lên 8 đặc trưng:
“Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế


phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện;
các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp nhau
cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với
các nước trên thế giới”5.
Cương lĩnh nhấn mạnh, đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu
tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời ký quá độ lâu dài với
nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế xã hội đan xen.
Cương lĩnh xác định rõ: “Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở
nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến
trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở
thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”.
“Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu
xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã
hội chủ nghĩa”.
Phương hướng cơ bản, Cương lĩnh đề ra nhằm thực hiện thành công các
mục tiêu trên:
“Một là, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển

kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con
người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn
xã hội.
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hữu nghị,
hợp tác và phát triển; chủ động hội nhập quốc tế.
5

1 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2011, tr.70.


Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn
dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh”.
Cương lĩnh nêu bật những định hướng lớn về phát triển kinh tế, văn hóa, xã
hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
- Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và
hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế: kinh tế nhà n ước giữ vai trò chủ
đạo, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi. Các yếu
tố thị trường được tạo lập đồng bộ, các loại thị trường từng bước được xây
dựng, phát triển, vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa bảo đảm tính
định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát
triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn,
dân chủ, tiến bộ. Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ

thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với
quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân… Phát triển
giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng
đầu. Bảo vệ môi trường là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của tồn xã hội và
nghĩa vụ của mọi cơng dân. Chính sách xã hội đúng đắn, cơng bằng, vì con người
là động lực mạnh mẽ phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Mục tiêu, nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước,
nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững hịa bình, ổn định chính trị, bảo
đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại
mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp
cách mạng của nhân dân ta. Xây dựng quân đội nhân dân và công an nhân dân cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc,


với Đảng, Nhà nước và nhân dân, được nhân dân tin yêu. Tăng cường sự lãnh đạo
tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà
nước với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng, an ninh.
- Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hợp tác
và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt
Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách
nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hịa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Cương lĩnh làm rõ hơn những vấn đề về hệ thống chính trị và vai trị lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Nhấn mạnh quan điểm: Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ
ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp phát triển đất nước. Xây dựng và
từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực

hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với
kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm.
Chú trọng các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơng dân, quyền làm chủ của
nhân dân, các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện.
- Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng
là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức, do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân
cơng, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức quản lý xã hội bằng
pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nhà nước phục vụ
nhân dân, nghiêm trị những hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.
Nhà nước hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Chú trọng xây dựng và tăng cường vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các đoàn thể nhân dân. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị,
liên hợp tự nguyện của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội và
các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo và


người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là bộ phận của
hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Đảng Cộng sản Việt
Nam vừa là thành viên vừa là người lãnh đạo Mặt trận. Coi trọng vai trò giám sát và
phản biện xã hội của Mặt trận.
- Cương lĩnh khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng, trong quá trình tiến hành cách mạng xã hội
chủ nghĩa.
“Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng
thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu
trung thành lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và của dân tộc.
Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng,

kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ
bản”6.
Cương lĩnh nhấn mạnh nội dung và giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh. Khẳng
định Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội
và làm rõ phương thức lãnh đạo và nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh
đạo của Đảng. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị đồng thời là bộ phận của hệ thống
ấy. Xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thường xuyên tự
đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất
đạo đức và năng lực lãnh đạo. Đảng giữ vững và phát huy truyền thống đoàn kết
thống nhất trong Đảng, tăng cường dân chủ và kỷ luật trong hoạt động của Đảng,
nâng cao đạo đức cách mạng.
2.3. Giá trị lịch sử của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)
Sự tổng kết sâu sắc, tồn diện q trình tiến hành cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam và là bước phát triển mới cả về thực tiễn và nhận thức lý luận về
chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Cương lĩnh dẫn
dắt sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ mới và bảo đảm cho thắng
lợi của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
6

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2011, tr.88.


Từ đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa trên cả nước do Đại hội IV của
Đảng (12-1976) đề ra, đến đường lối đổi mới của Đại hội VI (12-1986) và phát
triển toàn diện trong Cương lĩnh 1991 và Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm
2011) là một quá trình phát triển nhận thức và chỉ đạo thực tiễn của Đảng Cộng sản
Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sự phát triển đó thể hiện tính
ngun tắc về sự kiên định con đường xây dựng chủ nghĩa đồng thời phản ánh sự
đổi mới tư duy lý luận, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư

tưởng Hồ Chí Minh trong lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Thành tựu thực tiễn của quá trình tiến hành cách mạng xã
hội chủ nghĩa, nhất là thành công của công cuộc đổi mới đã khẳng định tính khoa
học và hiện thực của đường lối, Cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
3. Một số vấn đề rút ra từ quá trình phát triển tư duy lý luận của Đảng
về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Một là, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nắm vững
hoàn cảnh lịch sử, đặc điểm riêng của Việt Nam để xác định mục tiêu, nội dung,
hình thức, bước đi thích hợp của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu xuyên suốt tiến trình cách
mạng, là bài học lớn của cách mạng Việt Nam. Cần nắm vững bài học đó để vận
dụng trong hoạch định, phát triển đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chú trọng
hoàn cảnh lịch sử, đặc điểm riêng của Việt Nam để hoạch định đường lối cách
mạng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tính đúng đắn, thực tế của đường lối, để tránh chủ
nghĩa giáo điều, chủ quan, duy ý chí. Đại hội IV của Đảng (12-1976) đã xác định
cách mạng xã hội chủ nghĩa trên cả nước có ba đặc điểm lớn, trong đó đặc điểm
hàng đầu là Việt Nam đang ở trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ
biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển
tư bản chủ nghĩa. Đây là đặc điểm lớn nhất nói lên thực chất của cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam và quy định nội dung chủ yếu của q trình đó. Tuy nhiên,
trên thực tế, đặc điểm đó đã khơng được nhận thức đúng đắn, sâu sắc nên đã dẫn
tới chủ trương nóng vội, làm trái quy luật. Đại hội VI của Đảng (12-1986) đã nhận
thức rõ hơn hoàn cảnh và đặc điểm để đề ra đường lối đổi mới thích hợp. Sự phát


triển, bổ sung đường lối đổi mới và Cương lĩnh luôn luôn xuất phát từ thực tiễn,
yêu cầu đặt ra của tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nội dung, hình thức, bước
đi của cách mạng xã hội chủ nghĩa ngày càng phù hợp với hoàn cảnh, đặc điểm của
đất nước và thúc đẩy đất nước phát triển.
Hai là, nhận thức rõ những đặc trưng và quy luật khách quan của thời kỳ

quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vận dụng sát hợp với thực tiễn Việt Nam.
C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I Lênin và Hồ Chí Minh đã đề cập rất rõ về những
đặc trưng của thời kỳ quá độ, đó là thời đại chuyển biến cách mạng sâu sắc, triệt
để. Kinh tế nhiều thành phần và quan hệ, cơ chế thị trường tồn tại và chi phối suốt
thời kỳ quá độ. Sự tồn tại nhiều giai cấp, lực lượng xã hội và những nội dung, hình
thức mới của đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ. Chế độ chính trị trong thời kỳ
quá độ với vai trò của Đảng Cộng sản cầm quyền, Nhà nước xã hội chủ nghĩa, mối
quan hệ giữa chế độ chính trị và chế độ kinh tế. Thời kỳ quá độ là thời kỳ lịch sử
rất dài và trải qua nhiều chặng đường, bước đi quá độ khác nhau. Cần nhận thức rõ
những quy luật chi phối quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là quy luật quan hệ sản
xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và nhiều quy luật
khác về kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị, về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại hội
VI của Đảng (12-1986) nhấn mạnh bài học về nhận thức và vận dụng đúng đắn quy
luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện bảo
đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng đối với cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, không ngừng nghiên cứu, tổng kết lý luận, tổng kết thực tiễn để nhận
thức ngày càng rõ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: Xây dựng chủ nghĩa xã hội là xây dựng một
xã hội hồn tồn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Vì vậy, phải
vừa làm vừa tổng kết thực tiễn kết hợp với nghiên cứu lý luận. Phải sử dụng quan
điểm, phương pháp của chủ nghĩa Mác-Lênin để tổng kết kinh nghiệm của Đảng.
Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm.
Khơng có kinh nghiệm thì khơng thể phát triển lý luận. Đảng đã sớm xác định:
“Tổng kết kinh nghiệm là một phương pháp hết sức quan trọng để nâng cao trình
độ lý luận và năng lực cơng tác của cán bộ, đảng viên”. Trong lãnh đạo cách mạng


xã hội chủ nghĩa, nhất là trong công cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đặc
biệt chú trọng nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, tổng kết các kinh nghiệm, bài

học trong từng nhiệm kỳ, có những nghị quyết chuyên sâu về công tác lý luận, nội
dung lý luận cần làm rõ. Cần thiết phải nâng cao trình độ lý luận, trí tuệ của Đảng, của
mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp. Tăng cường
nghiên cứu lý luận để có cơ sở khoa học cho sự bổ sung, phát triển đường lối, Cương
lĩnh. Chú trọng năng lực vận dụng lý luận, tổ chức thực tiễn để lý giải làm rõ những
vấn đề căn bản của chủ nghĩa xã hội và những vấn đề mới do thực tế của đất nước và
thời đại đặt ra.
Bốn là, nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo, kết hợp với nghiên cứu
kinh nghiệm của nước ngoài, kết hợp nội lực với ngoại lực.
Ngay từ năm 1956-1957, khi từng bước hình thành đường lối cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho rằng cần phải tìm ra con
đường riêng, xác định quy luật xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với Việt Nam,
khơng thể làm giống như nước ngồi mặc dù có thể chú ý kinh nghiệm của các
nước. Mỗi nước có hồn cảnh lịch sử, giá trị văn hóa, truyền thống riêng nên cách
làm, bước đi không thể giống nhau. Khi mơ hình của chủ nghĩa xã hội đổ vỡ ở các
nước Đơng Âu và Liên Xơ, càng địi hỏi Đảng nêu cao tinh thần độc lập tự chủ và
sáng tạo để xác định hình thức, bước đi và giải pháp thích hợp. Đổi mới khơng
phải là xa rời mà là thực hiện mục tiêu chủ nghĩa xã hội tốt và có hiệu quả hơn
bằng hình thức, bước đi, giải pháp thích hợp. Khi khơng cịn nước xã hội chủ nghĩa
đi trước giúp đỡ, Việt Nam vẫn có thể tự mình đi lên con đường xã hội chủ nghĩa với
mơ hình thích hợp. Với chính sách đối ngoại đúng đắn có thể hội nhập quốc tế có
hiệu quả, phát huy tối đa nội lực và tranh thủ được ngoại lực để đất nước phát triển
độc lập, nhanh và bền vững. Phát huy tính ưu việt của chế độ chính trị, sự ổn định về
chính trị ở trong nước với những cơ hội thuận lợi do tình hình thế giới nhất là về
tồn cầu hóa, đối thoại, hội nhập, thành tựu của cách mạng khoa học công nghệ để
đi tới mục tiêu chủ nghĩa xã hội.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1.Nhận thức về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trước năm 1975.



2. Nội dung đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa do Đại hội IV của Đảng đề ra
(12-1976) và quá trình lãnh đạo thực hiện đường lối, thành quả và hạn chế?
3. Nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn tới khủng hoảng kinh tế, xã hội
từ cuối những năm 70 của thế kỷ XX.
4. Nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam.
5. Những nội dung bổ sung, phát triển của Cương lĩnh (Bổ sung, phát triển
năm 2011) tại Đại hội XI của Đảng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Tài liệu tham khảo bắt buộc
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban chấp hành Trung ương, Báo cáo tổng kết
một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986 – 2016), Nxb Chính
trị Quốc gia, H. 2015.
2. Đinh Thế Huyng, Phùng Hữu Phú…. (Chủ biên), 30 năm đổi mới và phát
triển ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, H. 2015.
3. Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, H.
2008.
4. Giáo trình Lịch sử Đảng Đảng Cộng sản Việt Nam, tập 2, Nxb Quân đội
nhân dân, H. 2008.
5. Hỏi đáp Lịch sử Đảng CSVN, Nxb Quân đội nhân dân, H. 2004.
- Tài liệu tham khảo không bắt buộc
1. Nguyễn Đức Bình (Chủ biên), Về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, H. 2004.
2. Hồ Chí Minh, Về chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, NXB CTQG, H, 1998, trang 42-376.
3. Nguyễn Trọng Phúc (2001): Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.


4. Nguyễn Trọng Phúc (2007): Đổi mới ở Việt Nam thực tiễn và nhận thức lý

luận, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Nguyễn Văn Sự, Con đường đổi mới đưa đất nước thoát khỏi khủng
hoảng kinh tế xã hội 91986-1996), Nxb Quân đội nhân dân, H. 2014.


×