Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

bài thu hoạch diễn án hồ sơ dân sự 07 luật sư nguyên đơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (49.29 KB, 12 trang )

Bài thu hoạch diễn án dân sự Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn giữa nguyên đơn là
bà Hoàng Thị Hảo với bị đơn là ông Nguyễn Văn Nguyệt.
HỒ SƠ DÂN SỰ SỐ: 07/B3.TH2-DA1/HNGĐ
Nguyên đơn
1. Hồng Thị Hảo

Sinh năm: 1978

Địa chỉ: Thơn Nam Giàng, xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương
Bị đơn: Nguyễn Văn Nguyệt

Sinh năm: 1976

Địa chỉ: Thôn Thượng Triệt I, xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ủy ban nhân dân thành phố Hải Dương, đại diện.
2. Nguyễn Thị Thoa

Sinh năm: 1944

3. Nguyễn Văn Cang

Sinh năm: 1944

Cùng địa chỉ: Khu dân cư số 2, thôn Thượng Triệt, xã Thượng Đạt, thành phố Hải
Dương.
Quan hệ pháp luật tranh chấp: Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly


hơn giữa ngun đơn là bà Hồng Thị Hảo với bị đơn là ơng Nguyễn Văn Nguyệt.


I. TĨM TẮT NỘI DUNG VỤ ÁN
Ngày 26/03/1999 bà Hồng Thị Hảo và ơng Nguyễn Văn Nguyệt tự nguyện đăng ký
kết hôn tại UBND xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương. Sau khi kết hơn và chung sống
hạnh phúc được hai năm thì phát sinh mâu thuẫn và hai người sống ly thân.
Ngày 02/01/2016 bà Hồng Thị Hảo nộp đơn khởi kiện tại Tịa án nhân dân thành
phố Hải Dương yêu cầu Tòa án giải quyết:
+ Yêu cầu ly hôn với anh Nguyệt;
+ Yêu cầu được nuôi 02 con chung là Nguyễn Thị Nhi sinh năm 2001 và Nguyễn
Đức Anh sinh năm 2007 và không yêu cầu ông Nguyễn Văn Nguyệt cấp dưỡng.
+ Yêu cầu chia tài sản chung là nhà đất có số thửa 496, tờ bản đồ 01, diện tích 216m 2 đất
tại xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương. Bà Hoàng Thị Hảo yêu cầu chia đôi nhà và đất.

Ngày 10/01/2016 Tịa án nhân dân thành phố Hải Dương ra thơng báo thụ lý vụ án
dân sự số 20/2016/TLST-HNGĐ về việc: ly hôn, nuôi con, chia tài sản theo đơn khởi kiện
của bà Hồng Thị Hảo địa chỉ tại Thơn Nam Giàng, xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương.
Theo biên bản lấy lời khai của bà Hoàng Thị Hảo vào ngày 18/01/2016, bà Hảo xác định:
+ Về quan hệ hôn nhân: ông Nguyệt xác định đã kết hôn với bà Hoàng Thị Hảo vào
ngày 26/3/1999.
+ Về con chung: có 02 con chung là Nguyễn Thị Nhi sinh năm 2001 và Nguyễn Đức Anh
sinh năm 2007. Khi ly hôn bà Hảo xin nuôi cả hai con và không yêu cầu ông Nguyệt cấp dưỡng.
+ Về tài sản chung: có số thửa 496, tờ bản đồ 01, diện tích 216m 2 đất tại xã Thượng
Đạt, thành phố Hải Dương; 1965m2 đất ruộng, ao khốn có địa chỉ tại: Bãi Nam, khu dân

cư số 02 Thượng Triệt, xã Thượng Đạt, TP Hải Dương sử dụng vào mục đích chuyển đổi
cơ cấu cây trồng. Bà Hảo yêu cầu được thuê khoán lại một nửa diện tích đất trên.
+ Về nợ chung: bà Hảo xác định có một khoản nợ với Ngân hàng, nhưng khơng nhớ cụ thể.


Theo biên bản lấy lời khai của ông Nguyễn Văn Nguyệt vào ngày 18/01/2016, ông
Nguyệt xác định:

+ Về quan hệ hôn nhân: ông Nguyệt xác định đã kết hơn với bà Hồng Thị Hảo vào
ngày 26/3/1999.
+ Về con chung: có 02 con chung là Nguyễn Thị Nhi sinh năm 2001 và Nguyễn Đức Anh
sinh năm 2007. Khi ly hôn ông Nguyệt xin nuôi cả hai con và không yêu cầu bà Hảo cấp dưỡng.
+ Về tài sản chung: Khơng có tài sản chung là nhà đất có số thửa 496, tờ bản đồ 01,
diện tích 216m2 đất tại xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương. Tài sản chung chỉ bao gồm
01 ngơi nhà 18m2 lợp ngói, 01 gian bếp và nhà vệ sinh khoảng 10m2, 01 giếng khơi, 01 bể

xây gạch xi măng khoảng 1,6m3.
+ Về nợ chung: Khoản nợ đối với Ngân hàng Agribank, nợ gốc: 20.000.000 đồng và
số tiền lãi phát sinh cho đến khi tất tốn hợp đồng.
Ngày 19/05/2016 bà Hảo và ơng Nguyệt hòa giải tại Tòa án nhân dân thành phố
Hải Dương. Tại phiên hòa giải các bên chỉ thỏa thuận được về quan hệ vợ chồng là
bà Hảo và ơng Nguyệt thuận tình ly hơn, về con chung, tài sản chung và nợ chung thì
hai bên chưa hịa giải được.
Ngày 17/6/2016 Tịa án nhân dân thành phố Hải Dương mở phiên hòa giải thứ hai,
các bên thỏa thuận được với nhau về quan hệ hôn nhân và nợ chung là ông Nguyệt và bà
Hảo mỗi người trả cho Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam là
5.000.000 đồng và tiền lãi phát sinh. Khơng hịa giải được về con chung, tài sản chung và
yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ơng Nguyệt.

Ngày 12/07/2016 Tịa án nhân dân thành phố Hải Dương mở phiên hòa giải lần thứ
ba, tại phiên hịa giải các bên khơng thống nhất được nội dung gì.
Ngày 03/08/2017 Tịa án nhân dân thành phố Hải Dương quyết định đưa vụ án ra xét
xử vụ án sơ thẩm về việc tranh chấp ly hơn, ni con, chia tài sản giữa bà Hồng Thị Hảo
và ơng Nguyễn Văn Nguyệt.
II. PHẦN TRÌNH BÀY U CẦU KHỞI KIỆN NGUYÊN ĐƠN VÀ CHỨNG CỨ


CHỨNG MINH

Kính thưa Hội đồng xét xử,
Tơi xin đại diện cho thân chủ tơi là bà Hồng Thị Hảo xin được trình bày u cầu
khởi kiện như sau:
Bà Hồng Thị Hảo và ơng Nguyễn Văn Nguyệt tự nguyện đăng ký kết hôn vào ngày
26/03/1999 tại UBND xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương. Sau khi kết hôn và chung

sống hạnh phúc được hai năm thì phát sinh mâu thuẫn và hai người sống ly thân. Ngày
02/01/2016 bà Hoàng Thị Hảo nộp đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân thành phố Hải
Dương yêu cầu Tòa án giải quyết.

Từ những chứng cứ mà thân chủ tôi đã cung cấp trong hồ sơ khởi kiện, nay tôi xin
đề nghị Q Tịa u cầu bà Hồng Thị Hảo như sau:
+ Yêu cầu ly hôn với anh Nguyệt;
+ Yêu cầu được nuôi 02 con chung là Nguyễn Thị Nhi sinh năm 2001 và Nguyễn
Đức Anh sinh năm 2007 và không yêu cầu ông Nguyễn Văn Nguyệt cấp dưỡng.
+ Yêu cầu chia tài sản chung là nhà đất có số thửa 496, tờ bản đồ 01, diện tích
216m2 đất tại xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương. Bà Hảo yêu cầu được chia 108m 2

quyền sử dụng đất, cụ thể: chiều dài 4m, rộng 27,1m. Phía bắc giáp đường đi, phía đơng
giáp đất của bà Nguyễn Thị Vi, phía nam giáp rãnh tiêu nước, phía tây giáp phần đất của
ơng Nguyệt.
Xin cám ơn Hội đồng xét xử.
Chứng cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện:
1. Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn ngày 26/3/1999 giữa bà Hồng Thị Hảo và
ơng Nguyễn Văn Nguyệt (Bản sao);
2. Hộ khẩu gia đình số 270056469 (Bản sao);
3. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 496 đứng tên Nguyễn


Văn Nguyệt và chị Hoàng Thị Hảo (Bản sao);

4. Giấy khai sinh cháu Nguyễn Thị Nhi số 73 quyển số 2014 (Bản sao);
5. Giấy khai sinh cháu Nguyễn Đức Anh số 38 quyển số 2007 (Bản sao).

III. DỰ KIẾN KẾ HOẠCH HỎI TẠI PHIÊN TỊA
3.1 Hỏi bị đơn: ơng Nguyễn Văn Nguyệt
1. Việc ơng bà được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa số 496, tờ
bản đồ 01, diện tích 216m 2 đất tại xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương có ai
có ý kiến gì hay tranh chấp gì khơng?
2. Ơng cho biết, ơng bà đã thế chấp quyền sử dụng đất nêu trên ở những Ngân hàng nào?
3. Việc thế chấp quyền sử dụng đất nêu trên của ơng và bà Hảo thì bà Nguyễn
Thị Thoa có biết khơng?
4. Cơng việc chính của ơng là gì? Lương mỗi tháng là bao nhiêu? Có ổn định khơng?
5. Ơng có đánh đánh đập bà Hảo khơng?
6. Ơng có thường xun chơi bài, uống rượu bia không?
7. Từ khi ly thân, cháu Đức Anh có được gặp mẹ khơng? Cháu được gặp mẹ mấy lần?

3.2 Hỏi nguyên đơn: bà Hoàng Thị Hảo
1. Bà cho biết, hiện tại bà đang làm cơng việc gì? Ở đâu? Mức thu nhập là bao nhiêu?
2. Bà có thường xun bị ơng Nguyệt đánh đập khơng?
3. Khi bị ơng Nguyệt đánh đập, bà có báo với chính quyền địa phương khơng?

4. Có ai chứng kiến việc ơng Hảo đánh đập bà khơng?
5. Kể từ khi ly thân, bà có thường xuyên gặp cháu Đức Anh không?
6. Ai là người kê khai để cấp GCNQSDĐ đối với thửa số 496, tờ bản đồ 01, diện
tích 216m2 đất tại xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương?
7. Kể từ khi biết ơng, bà được cấp GCNQSDĐ có ai có ý kiến gì khơng? Có tranh
chấp gì khơng?


8. Trong q trình ở trên diện tích đất, anh chị đã tơn tạo và xây dựng những gì? Có

ai có ý kiến gì khơng?
3.3. Hỏi người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
Hỏi bà Nguyễn Thị Thoa:
1. Việc vợ chồng ông Nguyệt, bà Hảo xây dựng nhà trên thửa đất số 496, tờ
bản đồ 01, diện tích 216m2 đất tại xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương, bà có ý
kiến gì khơng?
2. Bà có biết việc ơng Nguyệt, bà Hảo được cấp GCNQSDĐ đối với thửa đất
số 496, tờ bản đồ 01, diện tích 216m 2 đất tại xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương
không?
3. Từ năm 1999 đến nay, bà có thực hiện nghĩa vụ nộp thuế đất đối với thửa đất này
không?

Hỏi đại diện UBND thành phố Hải Dương:
1. Việc cấp GCNQSDĐ đối với thửa số 496, tờ bản đồ 01, diện tích 216m 2 đất tại xã
Thượng Đạt, thành phố Hải Dương đã đúng trình tự thủ tục chưa?
2. UBND thành phố Hải Dương có nhận được đơn khiếu nại hay bất kỳ đơn thư nào
về việc tranh chấp đối với thửa đất nêu trên khơng?
IV. LUẬN CỨ BẢO VỆ NGUN ĐƠN: HỒNG THỊ HẢO
Kính thưa Hội đồng xét xử!
Tơi là Lê Văn X, thuộc Văn phịng Y - Đồn Luật sư tỉnh Thừa Thiên Huế, là luật sư
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ngun đơn là bà Hồng Thị Hảo tranh chấp với bị
đơn là ông Nguyễn Văn Nguyệt về ly hôn, tranh chấp về nuôi con và chia tài sản khi ly
hơn tại phiên tịa sơ thẩm hôm nay.
Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, dựa trên những tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ

cũng như nội dung xét hỏi tại phiên tịa hơm nay, tơi xin trình bày quan điểm bảo vệ cho
ngun đơn như sau:


4.1. Về yêu cầu ly hôn

Bà Nguyễn Thị Hảo và anh Nguyễn Văn Nguyệt đăng ký kết hôn hợp pháp với nhau
trên cơ sở tự nguyện theo Giấy chứng nhận kết hôn ngày 26/3/1999. Tuy nhiên sau một
thời gian chung sống, đời sống hôn nhân của bà Hảo và ông Nguyệt nảy sinh nhiều mâu
thuẩn đến mức không thể hịa giải được, do ơng Nguyệt thường xun cờ bạc, rượu chè
và đánh đập bà Hảo nên ông bà đã ly thân từ ngày 14/12/2014, ngày 02/01/2016 chị Hảo

đã nộp đơn u cầu ly hơn tại Tịa án nhân dân thành phố Hải Dương, ơng Nguyệt cũng
xác nhận khơng cịn tình cảm vợ chồng và đồng ý u cầu ly hơn của bà Hảo.

Do vậy, có thể khẳng định rằng cả hai bên không thể tiếp tục sống chung, hơn nhân
lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích của hơn nhân khơng đạt được. Do vậy, tơi kính đề
nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật hơn nhân và gia đình 2014:
“Khi vợ hoặc chồng u cầu ly hơn mà hịa giải tại Tịa án khơng thành thì Tịa án
giải quyết cho ly hơn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi
phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hơn nhân lâm vào tình trạng
trầm trọng, đời sống chung khơng thể kéo dài, mục đích của hơn nhân khơng đạt được.”
Và căn cứ vào các chứng cứ tại hồ sơ cũng như phiên tịa ngày hơm nay, nhận u cầu ly
hơn của bà Hảo và ông Nguyệt.
4.2. Về yêu cầu nuôi con chung
Thứ nhất, về yêu cầu nuôi dưỡng cháu Nguyễn Thị Nhi
Cháu Nguyễn Thị Nhi sinh ngày 04/01/2000 là con chung của ông Nguyệt và ba

Hảo trong thời ky hôn nhân. Trong q trình giải quyết vụ án, ơng Nguyệt và bà Hảo đã
đạt được thỏa thuận về việc bà Hảo sẽ tiếp tục ni dưỡng cháu Nhi, thể hiện tại biên bản
hịa giải ngày 19/05/2016.
Cháu Nguyễn Thị Nhi cũng có đơn đề nghị được ở với mẹ thơng qua Đơn đề nghị
(BL 30) và khả năng kinh tế cũng như các yếu tố khác của chị Hảo để có thể đáp ứng tốt


việc nuôi dạy cháu Nhi.

Thứ hai, về yêu cầu nuôi dưỡng cháu Nguyễn Đức Anh
Cháu Nguyễn Đức Anh sinh ngày 13/06/2007 la con chung của anh Nguyệt và chị
Hảo trong thời kỳ hơn nhân, tính đến thời điểm hiện tại cháu Đức Anh đã trên 07 tuổi.
Theo đơn đề nghị (BL 31) và Biên bản lấy lời khai (BL 167-168) có thể thấy được
nguyện vọng của cháu Đức Anh, nếu bố mẹ ly hôn, cháu muốn được ở với mẹ. Hiện nay
cháu Đức Anh đã được 10 tuổi. Đây là độ tuổi khá nhạy cảm dễ bị ảnh hưởng đến tâm lý

và tính cách. Trong bối cảnh cha mẹ ly hôn, việc cháu ở cung với mẹ và chị gái 16 tuổi sẽ
tốt hơn cho cháu va bản thân cháu cũng đã thể hiện nguyện vọng được ở với mẹ tại biên
bản lấy lời khai của Tòa án ngày 05/07/2016 có sự chứng kiến của bà Nguyễn Thị Thoa là
bà nội của cháu.
Về vấn đề kinh tế và khả năng nuôi dưỡng, bà Hảo đang sống tại nhà mẹ đẻ và có
cơng việc với mức lương khá cùng với sự giúp đỡ với mẹ ruột của bà Hảo trong việc ni
dạy các cháu. Như vậy, có thể thấy bà Hảo hồn tồn có đủ điều kiện để ni dưỡng cháu
Nguyễn Đức Anh.
Theo quy định tại khoản 3, Điều 82 Luật hơn nhân và gia đình 2014:
“3. Sau khi ly hơn, người khơng trực tiếp ni con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà
không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở
hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trơng nom, chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục con thì người

trực tiếp ni con có quyền u cầu Tịa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.”

Đối chiếu với quy định trên thì việc giao cháu Đức Anh cho ông Nguyệt nuôi dưỡng
sẽ không đảm bảo cho bà Hảo về quyền thăm non, chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục cháu
Đức Anh, bởi lẽ: trong thời gian cháu Nguyễn Đức Anh ở với bố, ông Nguyệt đã khơng
cho bà Hảo gặp cháu, nếu bà Hảo gặp thì ơng Nguyệt sẽ đánh cháu. Điều này chính quyền
và hàng xóm láng giềng đều biết và ơng Đỗ Văn Tư – cán bộ tư pháp xã Thượng Đạt cũng


đã xác nhận thực tế này thông qua biên bản xác minh ngày 09/03/2016.

4.3. Về yêu cầu chia tài sản chung
Thứ nhất, thửa đất số 496, tờ bản đồ 01, diện tích 216m2 đất tại xã Thượng Đạt,
thành phố Hải Dương là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của bà Hảo và ông Nguyệt

Ngày 31/12/2005 UBND huyện Nam Sách tỉnh Hải Dương đã cấp cho ông Nguyễn
Văn Nguyệt và bà Hoàng Thị Hảo giấy Chứng nhận quyền sử dụng đối với thửa đất số
496, tờ bản đồ số 01, diện tích 216m2 tại xã Thượng Đạt thành phố Hải Dương.
Về quy trình, thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: Theo cơng văn
ngày 10/06/2016 của Phịng tài ngun và Môi trường TP Hải Dương đã xác nhận với
Quý Tòa về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất số 496, tờ bản đồ số
01, diện tích 216m2 tại xã Thượng Đạt thành phố Hải Dương cho ông Nguyệt và bà Hảo
trong khuôn khổ cấp đồng loạt cho cả 30 hộ dân trong xã Thượng Đạt là đảm bảo đúng
quy định pháp luật.
Tại buổi hòa giải ngày 19/5/2016, bà Thoa nêu rằng đã biết rõ việc ông Nguyệt và
bà Hảo được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và bà Thoa và các thành viên khác
trong gia đình đều khơng ai có ý kiến về phản đối, khơng ai tranh chấp gì. Và tại biên bản

xác minh ngày 23/6/2016 ơng Bích – cán bộ địa chính xã Thượng Đạt xác nhận kể từ khi
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đến nay ông Nguyệt và bà Hảo sử dụng ổn định
và khơng có tranh chấp với các hộ giáp ranh cũng như đối với ông Cang, bà Thoa và các
thành viên khác trong gia đình của ơng Nguyệt. Hơn nữa, tại cơng văn ngày 10/6/2016
của Phịng Tài ngun và Mơi trường cũng nêu rõ ông Cang, bà Thoa đã biết việc ông
Cang và bà Thoa đã biết rõ việc ông Nguyệt và bà Hảo được cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất nhưng tất cả đều khơng có ý kiến về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất nêu trên và các thành viên trong gia đình ơng Cang và bà Thoa khơng ai có tranh
chấp hay ý kiến phản đối gì.
Từ các tài liệu chứng cứ nêu trên cho thấy bà Thoa và ơng Cang đã giao lại tồn bộ
thửa đất số thửa đất số 496, tờ bản đồ số 01, diện tích 216m2 tại xã Thượng Đạt thành phố



Hải Dương cho vợ chồng ông Hảo bà Nguyệt sau khi hai người kết hôn vào năm 1999. Hai

vợ chồng đã xây dựng 01 nhà 18m2 lợp ngói kiên cố, 01 gian bếp, 01 nhà vệ sinh, 01 giếng
khơi và 01 bể gạch xây xi măng trên thửa đất này. Bà Thoa, ông Cang và các thành viên
khác trong gia đình ơng Nguyệt việc xây dựng này và khơng ai có ý kiến gì.
Mặc khác, trong thời gian chung sống trên thửa đất số 496 bà Hảo đã có cơng tơn
tạo thửa đất cùng ơng Nguyệt, bỡi vì trước đây thửa đất này là đất trũng sâu mới được san
lấp được một phần để xây dựng nhà và cơng trình phụ. Hai vợ chồng ông Nguyệt và bà
Hảo hằng năm đã bỏ công sức và tiền ra tôn tạo mảnh đất được như hiện nay.

Trường hợp này, việc phân định thửa đất số 496, tờ bản đồ số 01, diện tích 216m 2 tại
xã Thượng Đạt thành phố Hải Dương có thể dẫn chiếu theo án lệ số 03/2016/AL. Tơi xin
được tóm lược nội dung án lệ số 03/2016/AL như sau:

“Trường hợp cha mẹ đã cho vợ chồng người con một diện tích đất và vợ chồng
người con đã xây dựng, nhà kiên cố trên diện tích đất đó để làm nơi ở, khi vợ chồng
người con xây dựng nhà thì cha mẹ và những người khác trong gia đình khơng có ý kiến
phản đối gì; vợ chồng người con đã sử dụng nhà, đất liên tục, công khai, ổn định và đã
tiến hành việc kê khai đất, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì phải xác định
vợ chồng người con đã được tặng cho quyền sử dụng đất.”
Trên cơ sở các tài liệu nêu trên thấy rằng: từ năm 1999 ông Nguyệt và bà Hảo đã
được bố mẹ là ông Cang và bà Thoa cho thửa đất số 496, tờ bản đồ số 01, diện tích 216m 2
tại xã Thượng Đạt thành phố Hải Dương để cho hai vợ chồng xây dựng và sinh sống trên
thửa đất này. Trong thời điểm sinh sống cũng như thời điểm ông Nguyệt và bà Hảo được
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất này thì khơng có bất kỳ ai có ý
kiến hay tranh chấp gì, đồng thời UBND xã Thượng Đạt cũng khơng nhận được bất kỳ

khiếu nại nào về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Hảo và bà Nguyệt.



Trong thời gian sinh sống, ông Nguyệt và bà Hảo là người đứng ra thực hiện các nghĩa vụ
thuế đối với thửa đất này và cả hai ông bà đã cùng thực hiện việc tôn tạo thửa đất.
Như vậy, theo án lệ số 03/2016/AL, vợ chồng ông Nguyệt và bà Hảo được coi là
được tặng cho quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 496, tờ bản đồ số 01, diện tích 216m 2
tại xã Thượng Đạt thành phố Hải Dương.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 33 Luật Hơn nhân và Gia đình 2014:
“1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao
động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu
nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1
Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho
chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hơn là tài sản chung của vợ
chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có
được thơng qua giao dịch bằng tài sản riêng.”
Như vậy thửa đất số 496 là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của ông Nguyệt và bà Hảo.
Thứ hai, về yêu cầu chia 1/2 diện tích thửa đất số 496 tờ bản đồ số 01 tại xã
Thượng Đạt thành phố Hải Dương của bà Hoàng Thị Hảo là hợp pháp
Theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 59 Luật Hơn nhân và Gia đình 2014:
“2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đơi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:
a) Hồn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
b) Cơng sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài
sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp

để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;

d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.



3. Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu khơng chia được bằng
hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn
phần mình được hưởng thì phải thanh tốn cho bên kia phần chênh lệch”
Đối chiếu với quy định thì vợ chồng bà Hảo và ơng Nguyệt khi kết hơn khơng có
thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng trong hơn nhân, cũng như khơng hịa giải được
việc phân chia tài thơng qua hịa giải. Vì vậy, tài sản chung là thửa đất số 496 và yêu cầu
chia đôi thửa đất bằng hiện vật của bà Hảo là hoàn toàn hợp pháp và hợp lý.
Từ những phân tích, đánh giá tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án, trên cơ sở tranh

luận cơng khai tại phiên tịa hơm nay, kính đề nghị Hội đồng xét xử tuyên: Chấp nhận toàn
bộ yêu cầu khởi của ngun đơn bà Hồng Thị Hảo.
Tơi xin chân thành cám ơn Hội đồng xét xử.
Luật sư



×