Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Chuyên đề 1: XÂY DỰNG ĐẢNG THỜI KỲ ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN (19301945)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.88 KB, 21 trang )

Chuyên đề 1
XÂY DỰNG ĐẢNG THỜI KỲ ĐẤU TRANH
GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1930-1945)
MỤC TIÊU
- Về kiến thức: chuyên đề nhằm cung cấp cho học viên những kiến thức về
công tác xây dựng Đảng trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền
- Về kỹ năng: Trên cơ sở kiến thức được trang bị, học viên rút ra được
những vấn đề cần thiết để giải quyết những vấn đề đặt ra trong công tác xây dựng
Đảng hiện nay.
- Về tư tưởng: Củng cố niềm tin đối với Đảng, khơi dậy niềm say mê nghiên
cứu khoa học, quán triệt sâu sắc các vấn đề cơ bản lịch sử xây dựng Đảng trong
nghiên cứu và giảng dạy Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
NỘI DUNG
1. Đặc điểm tình hình, mục tiêu và nhiệm vụ cách
mạng thời kỳ 1930-1945
Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 chấm dứt thời kỳ ổn định tạm thời của
CNTB. Để cứu vãn tình hình, giai cấp tư sản trút gánh nặng này lên vai nhân dân
các nước thuộc địa, làm cho mâu thuẫn giữa: Công nhân- tư bản; nông dân- địa
chủ, phong kiến; các nước thuộc địa, nửa thuộc địa - các nước đế quốc ngày càng gay gắt.
Đối nghịch với bức tranh ảm đạm của các nước TB là sự lớn mạnh của Liên Xô
với công cuộc xây dựng CNXH. Bên cạnh đó, phong trào cách mạng trên thế giới
phát triển mạnh, nhất là ở Trung Quốc, Ấn Độ… đã có tác động tích cực đến phong
trào cách mạng Việt Nam những năm 1930-1935 và với sự kiện lịch sử ĐCSVN ra
đời đầu năm 1930 đã sẵn sàng lãnh đạo cách mạng, ngay sau khi ra đời đã có ngay
Cương lĩnh hành động, bí mật đưa Cương lĩnh đến với quần chúng là điều kiện
quan trọng thúc đẩy phong trào cách mạng của quần chúng phát triển mạnh mẽ.
Như vậy, yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra đối với cách mạng Việt Nam thời kỳ này là phải
nhanh chóng tập hợp quần chúng, làm cho lực lượng trở nên đông đảo, vận động
quần chúng đấu tranh từng bước, vì các mục tiêu trước mắt để đi tới mục tiêu cuối
cùng. Đồng thời, trong điều kiện đấu tranh bị địch khủng bố, đàn áp, tổn thất về lực
lượng, nhất định phải nhanh chóng khôi phục lực lượng và các cơ sở cách mạng,




không ngừng củng cố, tăng cường vững chắc lực lượng của mình. Hậu quả của
cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 và nguy cơ một cuộc khủng hoảng kinh tế mới
làm cho mâu thuẫn xã hội ở các nước TBCN thêm sâu sắc. Những mâu thuẫn khơng
thể điều hồ được trong nội bộ của chủ nghĩa đế quốc dẫn đến sự ra đời của chủ
nghĩa phát-xít. Sự ra đời của chủ nghĩa phát-xít đặt lồi người trước nguy cơ
nghiêm trọng: nhân loại đứng bên bờ vực thẳm của thảm hoạ chiến tranh. Do vậy,
phong trào đấu tranh chống phát -xít, chống chiến tranh nổi lên ở nhiều nước.
Phong trào được sự chỉ đạo chặt chẽ của Quốc tế cộng sản III. Gắn cách mạng Việt
Nam vào quỹ đạo cách mạng thế giới, thực hiện chủ trương của Quốc tế cộng sản
III, trong những năm 1936-1939, Đảng nhấn mạnh: Mục tiêu chiến lược vẫn là
chống đế quốc và phong kiến, giành độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho dân cày;
song mục tiêu trước mắt là đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống
phátxít và chiến tranh, địi tự do, dân chủ, cơm áo và hồ bình, vì thế, kẻ thù chủ yếu
được xác định là bọn phản động thuộc địa và tay sai của chúng. Trong thời kỳ này, yêu
cầu, nhiệm vụ quan trọng đặt ra đối với cách mạng Việt Nam là tiến hành xây dựng
mặt trận thống nhất rộng rãi chống phát-xít và chiến tranh phát-xít, sử dụng các
hình thức đấu tranh phong phú, linh hoạt trong cuộc đấu tranh vì hịa bình, dân
chủ, dân sinh; qua đó, tập dượt lực lượng, phát triển lực lượng, chuẩn bị tiến lên
đấu tranh giành chính quyền khi có thời cơ.
Tuy nhiên, bất chấp nỗ lực đấu tranh của các lực lượng tiến bộ trên thế giới,
cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, bắt đầu bằng sự kiện ngày 1-9-1939,
phát-xít Đức tấn cơng Ba Lan. Lợi dụng tình hình chiến tranh, Chính phủ Pháp thi
hành hàng loạt các biện pháp thẳng tay đàn áp các lực lượng dân chủ trong nước và
phong trào cách mạng ở thuộc địa. Mặt trận nhân dân Pháp bị tan vỡ, ĐCS Pháp bị
đặt ra ngồi vịng pháp luật.
Ở Việt Nam, bộ máy đàn áp được tăng cường. Chúng thủ tiêu những gì mà
nhân dân ta giành được trong thời gian trước. Thực dân Pháp tiến hành cải tổ bộ
máy cai trị, tăng cường lực lượng cảnh sát, mật thám, phát-xít hố bộ máy, đàn áp

phong trào cách mạng.


Lợi dụng sự thất thủ và đầu hàng của các đế quốc có thuộc địa ở châu Á,
phát-xít Nhật nhanh chóng cướp lấy thuộc địa. Ngày 22-9-1940, Nhật Bản cho
quân vượt biên giới Việt-Trung đánh vào Lạng Sơn chính thức xâm lược Đơng
Dương. Thực dân Pháp nhanh chóng đầu hàng và dâng Đơng Dương cho Nhật. Từ
đó, nhân dân Việt Nam sống rên xiết dưới ách áp bức Nhật-Pháp. Sau khi chiếm
Đông Dương, quân phiệt Nhật không lật đổ bộ máy thực dân Pháp, mà sử dụng nó
như một cơng cụ thực hiện ý đồ của chúng, dựng nên Chính phủ bù nhìn Trần
Trọng Kim. Quân Nhật cướp ruộng đất của nông dân, nhổ lúa để trồng đay và thầu
dầu phục vụ nhu cầu chiến tranh, cùng với thực dân Pháp thực thi ở Đông Dương
một nền kinh tế độc quyền phục vụ chiến tranh. Trên lĩnh vực văn hóa - tư tưởng,
thực dân Pháp thực hiện nhiều biện pháp tuyên truyền lừa bịp, phản động, một mặt,
chống lại ảnh hưởng của Nhật, mặt khác, ngăn chặn phong trào yêu nước của nhân
dân ta. Cịn phát xít Nhật ra sức tuyên truyền cho thuyết “Đại Đông Á”, mở trường
dạy tiếng Nhật, lập viện văn hố, đặt các cơ quan thơng tin, du lịch, tổ chức trao
đổi các đồn văn hóa, giáo dục, y tế, tôn giáo giữa Nhật và Việt Nam, nắm một số
tờ báo tay sai, làm công cụ tuyên truyền, đề cao chúng.
Đầu năm 1945, sau khi trải qua 4 năm chiến tranh quyết liệt, Chiến tranh thế
giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Hồng quân Liên Xơ tiến như vũ bão về
phía sào huyệt của phát- xít Đức và chúng sắp bị tiêu diệt. Ở Thái Bình Dương,
quân Nhật bị đẩy lùi khỏi Miama và Philipin. Phát -xít Nhật ở vào tình thế khốn quẫn,
chuyển sang phòng ngự và bị thất bại liên tiếp. Ở Đông Dương, lực lượng Pháp theo
phái Đơgôn đang chờ quân Đồng minh vào để nổi dậy đánh Nhật. Mâu thuẫn giữa
Nhật- Pháp trở nên gay gắt. Để phòng hậu họa, 8 giờ tối 9-3-1945, Nhật làm cuộc
đảo chính lật đổ Pháp. Trong thời gian ngắn, quân Pháp tan rã và đầu hàng. Sự câu
kết Nhật- Pháp chấm dứt. Sau đảo chính, chính sách cai trị Đơng Dương của Nhật
vẫn khơng có gì thay đổi. Nhật giữ ngun bộ máy cai trị của Pháp ở Đông Dương để
phục vụ chúng. Lúc này, yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là phải xây

dựng lực lượng mọi mặt, có đường lối cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn,
sáng tạo, đáp ứng yêu cầu khách quan của thực tiễn và tiếp tục bổ sung, hoàn thiện
đường lối, chớp lấy thời cơ, giành chính quyền về tay nhân dân.


Một cách tổng quát, với những nhiệm vụ cách mạng to lớn đặt ra trong thời
kỳ 1930-1945, vấn đề xây dựng Đảng vững mạnh trên các phương diện nội bộ
Đảng, phương thức lãnh đạo của Đảng trở nên vô cùng quan trọng và được coi là
một trong những nhiệm vụ trọng tâm. Xây dựng Đảng thời kỳ này trên các phương
diện chủ yếu cần thích ứng với nhiệm vụ cách mạng, tình hình thực tiễn của từng
giai đoạn cách mạng, để đi tới mục tiêu cuối cùng: Giành chính quyền thắng lợi,
giành độc lập, tự do cho nhân dân.
2. Chủ trương, biện pháp xây dựng Đảng thời kỳ 1930-1945
a. Về tư tưởng
Trong các chỉ thị, nghị quyết của Đại hội và các kỳ Hội nghị Trung ương của
Đảng những năm 1930-1945, đều nhấn mạnh những nguyên tắc và nội dung cơ bản
xây dựng Đảng về tư tưởng chủ yếu sau:
Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm
gốc, đại biểu cho quyền lợi chính, lâu dài và chung cho giai cấp vơ sản ở Đông
Dương, lãnh đạo giai cấp vô sản Đông Dương ra tranh đấu để đạt được mục đích
cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản
Phải ln nâng cao trình độ lý luận cho Đảng trên cơ sở trên nền tảng tư
tưởng là chủ nghĩa Mác – Lênin. Đảng đấu tranh khắc phục mọi tư tưởng “tả”
khuynh, cơ độc, hẹp hịi và những tư tưởng hữu khuynh trong Đảng về việc nhận
thức và chấp hành đường lối, phương pháp tổ chức và đấu tranh. Kiên quyết, triệt
để chống bọn tơrôtkit ở Đơng Dương. Cần chống lại những di tích tiểu tư sản, đầu
cơ, biệt phái, xây dựng nền tảng tư tưởng bônsevich vững chắc. Đảng chỉ rõ: Xây
dựng một nền tư tưởng bônsevich không phải là chỉ tuyên truyền suông về chủ
nghĩa cộng sản, về lý luận Mác – Lênin, mà phải luôn luôn nhận thức rằng, lý luận
Mác – Lênin là vũ khí đấu tranh, là lý luận hành động cách mạng của giai cấp vô sản.

Đảng cũng chủ trương mở rộng các cuộc học tập chủ nghĩa Mác-Lênin trong
các cấp đảng bộ, qua đó bám sát thực tiễn, tổng kết hoạt động thực tiễn để học tập
ưu điểm, tránh và sửa khuyết điểm (được gọi là cuộc vận động tự chỉ trích
bơnsơvích). Cuộc vận động tự chỉ trích bơnsơvích phải được coi là một công tác
thường trực. Mỗi đảng bộ cấp trên phải chỉ đạo các đảng bộ cấp dưới trực thuộc
thực hiện vận động tự chỉ trích, đồng thời, kéo đông đảo quần chúng tham gia vận


động tự chỉ trích. Một cơng tác quan trọng nữa là phải chống lại những nhận thức
sai lầm về tính chất giai cấp của Đảng 1. Bên cạnh đó, Trung ương và các đảng bộ
phải tìm mọi phương pháp để mở rộng việc tuyên truyền sách lược của Đảng trong
quần chúng lao động (đặc biệt là thông qua sách, báo). Nhiệm vụ này phải thi hành
đồng thời với nhiệm vụ kiểm tra sách báo rất nghiêm ngặt, làm cho nền tư tưởng
và hành động được thống nhất, tiêu diệt ngay những xu hướng chia rẽ, cơ hội từ
lúc mới nảy nở.
b. Về chính trị
Ngay từ khi mới ra đời, nhiệm vụ chính trị quan trọng hàng đầu của Đảng
(con đường phát triển của CMVN, cách thức, phương pháp tiến hành…) đã được
Đảng xác định trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên. Phân tích chính xác mâu thuẫn
của xã hội thuộc địa Việt Nam, Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã đặt
nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Điều cốt yếu đảm bảo cho thắng lợi của
cách mạng là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng; Đảng phải tập trung được lực lượng
tối đa, đông đảo và rộng rãi; phải giành chính quyền bằng phương pháp bạo lực
cách mạng và có mối liên hệ mật thiết liên hệ với giai cấp vô sản trên thế giới.
Nhiệm vụ này được Đảng tiếp tục xác định trong Luận cương tháng 10-1930. Luận
cương chính trị khẳng định lại nhiều vấn đề căn bản thuộc về chiến lược cách
mạng mà Cương lĩnh cách mạng đầu tiên đã nêu lên (vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản; hai giai đoạn của cách mạng tư sản dân quyền; lực lượng chính của cách
mạng; phương pháp cách mạng), đồng thời, làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận
của cách mạng Việt Nam (đề cập đến vấn đề thời cơ cách mạng, chỉ ra điều kiện để

bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN tiến thẳng lên CNXH, chỉ rõ nội dung xây dựng
Đảng). Tuy nhiên, Luận cương còn nặng về đấu tranh giai cấp, không đặt nhiệm vụ
chống đế quốc lên hàng đầu. Nhược điểm này của Luận cương đã kịp thời được Chỉ thị
về vấn đề thành lập Hội phản đế đồng minh khắc phục. Chỉ thị đã nhấn mạnh lại tư
tưởng chiến lược cách mạng đúng đắn của Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt;
phê phán những nhận thức sai lầm trong của Đảng khi tách rời vấn đề dân tộc với
vấn đề giai cấp, phê phán nhận thức không đúng về vấn đề đoàn kết dân tộc. Đặc
biệt, văn kiện Chung quanh vấn đề chiến sách mới công bố tháng 10-1936 đã tiếp
1

Nhận thức phổ biến lúc bấy giờ trong Đảng là cho rằng Đảng chỉ là Đảng của quần chúng lao khổ.


tục giải quyết một cách thấu đáo, sáng tạo mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc
và dân chủ với tư tưởng chủ đạo: Chọn địch nhân chính, nguy hiểm nhất, để tập
trung lực lượng của một dân tộc mà đánh cho được toàn thắng.
Trong những năm 1936-1939, các hội nghị của BCH Trung ương Đảng (Hội
nghị lần thứ 3 (3-1937); lần thứ 4 (9-1937); Hội nghị toàn thể (3-1938)…) đã tiếp tục
giải quyết mối quan hệ giữa mục tiêu chiến lược và mục tiêu cụ thể; giữa mục tiêu
trước mắt và mục tiêu lâu dài của cách mạng; bổ sung, hoàn chỉnh từng bước các chủ
trương và biện pháp đấu tranh. Tuy mục tiêu chiến lược vẫn là chống đế quốc, chống
phong kiến, giành độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho dân cày, song nhiệm vụ quan
trọng nhất trong giai đoạn này là tập hợp rộng rãi mọi lực lượng chính trị, dù là bé nhỏ,
bấp bênh hoặc tạm thời; sử dụng các hình thức tổ chức và đấu tranh linh hoạt, phù hợp
với mục tiêu cụ thể của cách mạng, nhằm động viên quần chúng đấu tranh chống phát –
xít, chống chiến tranh, vì hịa bình và dân sinh, dân chủ.
Như vậy, từ năm 1930 đến năm 1939, nhận thức, quan điểm của Đảng về
chiến lược, phương pháp cách mạng, về đấu tranh giành chính quyền đã có những
bước phát triển đáng kể, mặc dù nhiệm vụ đấu tranh giành chính quyền lúc này
chưa được đặt ra trực tiếp.

Trong những năm 1939 -1941, khi tình hình quốc tế và trong nước có những
biến chuyển, Đảng đã nhanh chóng nắm bắt, phân tích tình hình, đưa ra và hồn
thiện đường lối đấu tranh giành chính quyến qua các Hội nghị Trung ương (111939), (11-1940), (5-1941). Các Hội nghị đã xác định:
(1)- Nêu cao nhiệm vụ GPDT, giành độc lập hoàn toàn cho đất nước:
Chống đế quốc là nhiệm vụ hàng đầu vì đế quốc Pháp, Nhật là kẻ thù chủ
yếu. Nhiệm vụ chống phong kiến đặt ra thực hiện từng bước và phải đặt dưới
nhiệm vụ GPDT. Điều đó là đúng đắn, phù hợp với diễn biến chung của tình thế,
phù hợp với nguyện vọng chung của toàn thể dân tộc. Lúc này, tạm thời chưa giải
quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân, song nông dân vẫn không giảm bớt sự hăng
hái tranh đấu mà vẫn nỗ lực tranh đấu mạnh hơn vì trong cuộc tranh đấu GPDT họ
cũng được hưởng nhiều quyền lợi to tát.
(2)- Về vấn đề lực lượng:


+ Để đoàn kết và huy động được sức mạnh của toàn dân thực hiện mục tiêu
GPDT, Hội nghị Trung ương 6 chủ trương xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất
rộng rãi và vững chắc. Đó là Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương
(11- 1939) thay cho Mặt trận dân chủ trước đó. Hội nghị Trung ương 7 thành lập
Mặt trận dân tộc chống phát – xít; tháng 5-1941, Hội nghị Trung ương quyết định
thành lập Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh).
(3)- Về phương pháp cách mạng:
+ Từ kinh nghiệm của các cuộc khởi nghĩa, của hoạt động của Cứu quốc
quân, của đội du kích ở Bắc Sơn - Vũ Nhai, các Hội nghị đã khẳng định vấn đề
khởi nghĩa vũ trang: Cuộc cách mạng Đông Dương phải tiến hành bằng một cuộc
khởi nghĩa võ trang. Các Hội nghị cũng chỉ ra những điều kiện khách quan, chủ
quan để khởi nghĩa bằng vũ trang và dự liệu những bước đi để thúc đẩy những điều
kiện đó phát triển chín muồi; đồng thời khẳng định: Ta có thể lãnh đạo một cuộc
khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở
đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa.
(4)- Đảng hết sức chú trọng phân tích tình thế cách mạng cả trong nước và

quốc tế để chủ động chuẩn bị về mọi mặt thúc đẩy thời cơ cách mạng:
+ Hội nghị Trung ương tháng 11-1939 và tháng 11- 1940 đã đề cập tới tình
thế và thời cơ để cách mạng tiến lên giành thắng lợi.
+ Đặc biệt Hội nghị Trung ương tháng 5-1941 đã dự báo Liên Xô thắng trận,
quân Trung Quốc phản công, quân Nhật đang mắc sự phản công của Anh - Mỹ và
đặt ra yêu cầu cần thiết và cấp bách cho sự chuẩn bị điều kiện chuyển biến cuộc
cách mạng phải chuẩn bị ngay từ bây giờ. Tình hình thế giới sẽ biến chuyển ghê
gớm làm cho tình hình Đơng Dương thay đổi có lợi cho cách mạng. Ta phải luôn
luôn chuẩn bị một lực lượng sẵn sàng, nhằm vào cơ hội thuận tiện hơn cả mà đánh
lại quân thù.
+ Sau Hội nghị Trung ương 8, Đảng và Hồ Chí Minh tiếp tục theo sát sự phát
triển của tình hình thế giới và trong nước để dự liệu thời cơ cách mạng.
(5)- Vấn đề chính quyền và hình thức tổ chức nhà nước


+ Khi xác định cuộc cách mạng là CMGPDT nghĩa là phải giành lấy độc lập,
tự do cho dân tộc thì một vấn đề rất cơ bản và chủ yếu đặt ra là vấn đề hình thức tổ
chức nhà nước phải xây dựng khi giành được độc lập.
+ Hội nghị Trung ương tháng 11-1939 chủ trương chưa đưa khẩu hiệu lập
“Chính phủ Xơ- viết cơng nơng binh'' là hình thức chính phủ riêng của dân chúng
lao động, mà lựa chọn hình thức “Chính phủ cộng hồ dân chủ”, là hình thức chính
phủ chung cho tất cả các tầng lớp dân chúng trong xứ và trong phong trào GPDT.
Đó là sự lựa chọn đúng đắn phù hợp với điều kiện cụ thể của xã hội Việt Nam.
Chương trình Việt Minh tiếp tục xác định rõ hơn về hình thức nhà nước. Đó là Nhà
nước “cộng hồ dân chủ” - Nhà nước cách mạng của dân, do dân, vì dân và do
ĐCS lãnh đạo.
• Như vậy, bước vào cao trào GPDT những năm 1939 - 1945, Đảng và Hồ
Chí Minh xác định cách mạng Việt Nam chưa phảilà cách mạng tư sản dân
quyền với nhiệm vụ giành độc lập dân tộc và ruộng đất cho dân cày, cũng chưa
phải là cách mạng XHCN mà là cách mạng giải phóng dân tộc giành cho được

độc lập hoàn toàn, rồi từng bước thực hiện mục tiêu ruộng đất, mở đường tiến dần
lên CNXH. Đó là quy luật vận động, phát triển của cách mạng nước ta và khẳng
định sự đúng đắn, tính triệt để của CMGPDT do ĐCS lãnh đạo.
- Những nội dung đường lối CMGPDT mà các Hội nghị Trung ương 6, 7, 8
xác định là một hệ thống toàn diện, đồng bộ những vấn đề chiến lược, sách lược và
phương pháp cách mạng, chủ động về nắm bắt tình thế và thời cơ cách mạng. Điều
cần đặc biệt nhấn mạnh là Đảng và Hồ Chí Minh đã làm rõ sự thống nhất trong
mục tiêu giành độc lập cho dân tộc và giành chính quyền về tay nhân dân để đi đến
sự lựa chọn hình thức chính quyền nhà nước thích hợp.
Tháng 3-1945, khi Nhật đảo chính Pháp, Đảng kịp thời ra Chỉ thị “Nhật
Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” (12-3-1945), bổ sung đường lối đấu
tranh giành chính quyền. Chỉ thị xác định kẻ thù chính, cụ thể, trước mắt và duy
nhất của cách mạng Đông Dương lúc này là phát-xít Nhật, kịp thời phát động cao
trào kháng Nhật cứu nước rộng khắp trên cả nước, làm rõ hơn về tình thế và thời
cơ cách mạng, phân tích những điều kiện cụ thể để khởi nghĩa có thể nổ ra và


giành thắng lợi. Chỉ thị thể hiện sự nhận định sáng suốt của Đảng, từ đó có những
chủ trương kiên quyết, kịp thời, nhờ đó dấy lên một cao trào cách mạng, thúc đẩy
tình thế cách mạng mau chóng chín muồi.
Hội nghị Tân Trào (14-8-1945) xác định đúng đắn thời cơ cách mạng (trong
một khoảng thời gian ngắn, sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh đến trước khi quân
Đồng minh vào Đơng Dương, đó là lúc so sánh lực lượng có lợi nhất cho cách mạng Việt
Nam). Hội nghị cũng chỉ rõ nguyên tắc chỉ đạo Tổng khởi nghĩa: Thống nhất, tập
trung, kịp thời; phải đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng, không kể thành phố
hay nông thôn; phối hợp giữa quân sự và chính trị; phải làm tan rã tinh thần quân
địch trước khi đánh… Đại hội quốc dân Tân Trào (15-8-1945) nhiệt liệt ủng hộ chủ
trương tổng khởi nghĩa của Đảng, quyết định lập Uỷ ban giải phóng dân tộc Việt
Nam tức Chính phủ lâm thời do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, sẵn sàng tiếp
quản, lãnh đạo đất nước khi cách mạng thắng lợi, tránh không để xuất hiện một

“khoảng trống quyền lực”. Như vậy, Đảng đưa ra đường lối cách mạng giải phóng
dân tộc đúng đắn, được hoạch định trên tư duy chính trị, lý luận cách mạng khoa
học và thực tiễn sinh động đất nước. Đường lối thể hiện sự sáng suốt, tư duy biện
chứng của Đảng trong việc nhận định tình hình, sự nhạy bén trong điều chỉnh chủ
trương, trong dự báo, xác định và nắm bắt thời cơ, huy động được sức mạnh toàn
dân tộc, tạo điều kiện cho Cách mạng tháng Tám thắng lợi một cách nhanh chóng,
ít đổ máu.
c. Về tổ chức
Xây dựng cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của hệ thống tổ chức
Ở Trung ương, Bộ máy lãnh đạo với ba bộ được hình thành: Bộ Tuyên
truyền, Bộ Tổ chức kiêm Giao thông, Bộ Tài chính. Trung ương cịn lập Ban Đảng
vụ làm cơng tác văn phòng. Bộ máy lãnh đạo của Đảng những năm 1934-1935 đã
thêm một cấp lãnh đạo mới - Chấp uỷ 2. Đảng chú trọng kiện toàn một bước bộ máy
lãnh đạo cao cấp của Đảng.
Bộ máy của Đảng có 7 cấp: BCHTW lâm thời; Ban Chấp uỷ miền; Xứ uỷ; Tỉnh uỷ (thành uỷ); Huyện uỷ (khu
uỷ); Tổng uỷ (xã uỷ); Chi uỷ (chi bộ).
2


Bộ máy tổ chức của Đảng hoạt động theo nguyên tắc dân chủ tập trung, kết
hợp giữa bí mật và cơng khai, có một đường dây thơng tin liên lạc kịp thời, bí mật,
được tổ chức chặt chẽ, thống nhất từ Trung ương đến địa phương. Cách làm việc
của các cấp bộ Đảng tuân thủ nguyên tắc “tập đoàn chỉ huy, cá nhân phụ trách”,
nhằm tránh nạn bao biện, đánh trống bỏ dùi, cá nhân manh động, hay mệnh lệnh
chủ nghĩa. Cách thức tổ chức các cơ quan lãnh đạo thích hợp với điều kiện bí mật,
do vậy, việc phân quyền và phân công trách nhiệm khá rõ rệt; mỗi đảng bộ phải có
hai, ba mối giao thơng khác nhau với đảng bộ khác (đồng cấp hay khác cấp), để đề
phịng khi mất mối này thì cịn mối khác. Việc chấn chỉnh, củng cố các cơ quan
lãnh đạo của Đảng từ Trung ương đến cơ sở cũng được đặt ra.
Công tác cán bộ và xây dựng cấp ủy

Thời kỳ này, Đảng chú trọng tìm tịi, bồi dưỡng, coi trọng cơng tác đào tạo
cán bộ. Đây được coi như vấn đề then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Việc sắp
xếp cán bộ dựa trên phẩm chất, năng lực. Đó là nguyên tắc cất nhắc cán bộ quan
trọng nhất.
Để cung cấp cán bộ cho phong trào yêu nước đang phát triển, bên cạnh việc
mở một số lớp bồi dưỡng, đào tạo cán bộ cấp tốc, ngắn ngày, có chương trình phù
hợp, kết hợp giữa lý luận và thực tế, để đào tạo cán bộ về chính trị, quân sự, binh
vận, Đảng đồng thời tổ chức cho một số cán bộ đảng viên của Đảng vượt ngục, trở
về địa phương hoạt động.
Xây dựng đội ngũ đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng
Các đảng bộ các cấp gấp rút củng cố, mở rộng và phát triển chi bộ Đảng,
đồng thời thống nhất tổ chức của toàn Đảng, xây dựng hệ thống chi bộ cơ sở
rộng khắp trong các nhà máy, xí nghiệp, nông thôn, rừng núi… Đảng chủ
trương phát triển đảng viên, thành lập các chi bộ trong tù và củng cố công tác
của các chi bộ này. Mở rộng mạng lưới tổ chức cơ sở Đảng, không thể thiếu
các đảng viên nịng cốt cán. Do vậy, cơng tác tổ chức cho đảng viên vượt ngục,
trở lại hoạt động được coi trọng. Đây là bước đi sáng tạo, là con đường ngắn
nhất củng cố Đảng, bởi những đảng viên bị bắt và được tổ chức cho vượt ngục
đều là những đồng chí hạt nhân trung kiên của Đảng, có kinh nghiệm hoạt
động.


Công tác phát triển Đảng được gắn với phong trào đấu tranh của quần
chúng. Không ngừng xây dựng, phát triển lực lượng, đặc biệt trong các thời kỳ
1936-1939; 1939-1945 – thời kỳ chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa.
Bảo vệ chính trị nội bộ Đảng
Công tác bảo vệ nội bộ cũng được lưu ý. Các đảng bộ địa phương đã
chủ trương “thanh đảng”, “thanh hội”, để thanh trừ những phần tử đã đầu
hàng, phản bội, những người không phải thành phần công nông ra khỏi Đảng.
Xiết chặt kỷ luật, kiên quyết khai trừ khỏi Đảng những phần tử đi trái đường

lối chính trị chung của Đảng, của Quốc tế cộng sản, những người không phục
tùng nghị quyết, điều lệ, phá hoại kỷ luật của Đảng. Yêu cầu đối với đảng
viên là phải luôn tôn trọng kỷ .luật của Đảng, phải luôn phê và tự phê bình.
d. Về phương thức lãnh đạo của Đảng
* Điều kiện, yếu tố chi phối phương thức lãnh đạo của Đảng những năm
1930-1945
Đảng phải hoạt động trong điều kiện bị bộ máy thống trị của thực dân Pháp
và triều đình phong kiến thực hiện chính sách đàn áp và khủng bố cực kỳ gắt gao
với những thủ đoạn dã man, tàn bạo. Để bảo tồn lực lượng, nhằm thực hiện nhiệm
vụ vận động, giác ngộ, tổ chức quần chúng đấu tranh giành chính quyền, Đảng
phải hoạt động bí mật trong sự giúp đỡ, bảo vệ, che chở của nhân dân cả nước. Đặc
điểm bao trùm là hoạt động theo nguyên tắc bí mật đã chi phối phương thức lãnh
đạo của Đảng.
* Những đặc điểm cơ bản trong phương thức lãnh đạo của Đảng
Chủ trương tập hợp lực lượng đông đảo
Ngay từ khi mới thành lập, để thực hiện mục đích lãnh đạo nhân dân giành
độc lập dân tộc, Đảng đã đề ra sách lược tập hợp, đoàn kết hết thảy những tầng lớp
nhân dân có thể tập hợp được, bao gồm trước tiên là dân cày nghèo, tranh thủ các
tầng lớp tiểu tư sản, trí thức, trung nơng; Đảng cịn phải tranh thủ cả phú nơng,
trung, tiểu địa chủ và tư sản dân tộc chưa bộc lộ mặt phản cách mạng, hoặc chí ít
thì cũng trung lập họ. Sách lược tập hợp nhân dân lúc đó cịn bao gồm cả việc đoàn
kết với các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân quốc tế, nhất là giai cấp công
nhân Pháp, làm tăng thêm lực lượng cách mạng trong nước. Đây là sách lược nhằm
phân hoá hàng ngũ kẻ thù, tập hợp tối đa những lực lượng yêu nước trong nước, sự


ủng hộ của cách mạng quốc tế, thực hiện thêm bạn, bớt thù, làm cho lực lượng yêu
nước và cách mạng ngày càng đơng đảo, mạnh mẽ hơn. Tuy có lúc (trong Luận
cương tháng 10-1930), Đảng còn bị chi phối bởi nhận thức “tả’ của Quốc tế cộng
sản III, khộg đánh giá đúng vai trò cách mạng của giai cấp tiểu tư sản, mặt yêu

nước của tư sản dân tộc và một bộ phận giai cấp địa chủ, từ đó không đề ra liên
minh giai cấp rộng rãi trong cuộc đấu tranh chống đế quốc, tay sai, song nhược điểm
này đã nhanh chóng được khắc phục.
Đề ra những khẩu hiệu cách mạng sáng tạo và linh hoạt
Để tập hợp quần chúng nhân dân vào các phong trào yêu nước và phong trào
cách mạng do Đảng lãnh đạo, hoặc những phong trào đấu tranh dưới ảnh hưởng của
Đảng, Đảng đã đề ra những khẩu hiệu cách mạng sáng tạo và linh hoạt, vừa đáp ứng
yêu cầu của quy luật khách quan và yêu cầu của chiến lược cách mạng của Đảng, vừa
phù hợp với yêu cầu, tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân khác nhau, đồng
thời phù hợp với trình độ giác ngộ chính trị của nhân dân.
Khẩu hiệu cách mạng là ngọn cờ tập hợp quần chúng bị áp bức bóc lột, nếu
đáp ứng được những địi hỏi nói trên, nó sẽ có sức mạnh to lớn, lôi cuốn hàng triệu
quần chúng vào các phong trào rộng lớn. Theo tinh thần ấy, Đảng ta đã đặt vấn đề
giải phóng dân tộc lên hàng đầu, coi đó là khẩu hiệu hành động cao nhất của cách
mạng. Đặt khẩu hiệu giải phóng dân tộc lên hàng đầu là một chủ trương sáng suốt
của Đảng, trên cơ sở nhận thức đúng mâu thuẫn gay gắt nhất của xã hội Việt Nam
lúc đó (mâu thuẫn dân tộc chứ khơng phải mâu thuẫn giai cấp). Bên cạnh đó, khi
thực hiện những mục tiêu trước mắt của cách mạng, Đảng cũng có những khẩu hiệu
phù hợp, động viên quần chúng đấu tranh (ví dụ: cơng nhân địi làm việc ngày 8 giờ,
chống cúp phạt, ngược đãi, địi chữa bệnh; nơng dân địi giảm sưu cao, thuế nặng, giảm
tô, giảm tức; người buôn bán nhỏ địi giảm thuế khố, chống phạt vạ; trí thức địi giải
quyết việc làm, đối xử bình đẳng v.v…).
Cơng tác tuyên truyền, vận động quần chúng của Đảng mềm dẻo, linh hoạt
Trong những năm 1930-1939, công tác tuyên truyền, vận động quần chúng
của Đảng nhằm mục tiêu tập hợp đông đảo, lực lượng cho cách mạng, tổ chức
quần chúng thành một khối thống nhất, đấu tranh vì những mục tiêu trước mắt,
giành thắng lợi từng bước, để đi đến giành thắng lợi tồn phần. Cơng tác tun truyền,


vận động của Đảng đã được đưa vào các nhà máy, xí nghiệp, các vùng nơng thơn,

giác ngộ lý tưởng cách mạng cho quần chúng lao khổ với nhiều hình thức phong phú:
Truyền đơn, sách báo, diễn thuyết… và vì thế, có tác dụng tích cực. Đường lối, chủ
trương của Đảng đã đến được và thấm sâu vào quần chúng.
Vào những năm sau 1939, khi họa phát xít trực tiếp đe doạ Đông Dương,
Đảng đã kịp thời chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, đặt ra mục tiêu cao nhất là
chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa phát xít, giành độc lập dân tộc; việc chống
phong kiến, địa chủ, tư sản được thực hiện phù hợp với yêu cầu của cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc.
Việc phát động các phong trào hành động cách mạng của Đảng đã được
nhằm đúng vào những vấn đề bức xúc, nóng bỏng của xã hội, ví dụ phong trào
“phá kho thóc giải quyết nạn đói” trước Tổng khởi nghĩa tháng Tám đã thổi bùng
lên khí thế đấu tranh của quần chúng. Điều đó chứng tỏ rằng, Đảng nắm bắt đúng
yêu cầu cách mạng, nêu được khẩu hiệu hành động đi vào lòng người, đáp ứng yêu
cầu phát triển của quy luật vận động khách quan.
Tập hợp nhân dân vào các tổ chức thích hợp, phù hợp với tính chất, đặc
điểm và trình độ giác ngộ, khả năng đấu tranh của mỗi giai tầng
Ngoài việc đề ra khẩu hiệu cách mạng đúng đắn, Đảng còn lãnh đạo phong
trào của các tầng lớp nhân dân thông qua việc giải quyết thành cơng các hình thức
tổ chức lực lượng, tập hợp quần chúng đa dạng, phong phú linh hoạt. Trong
những năm 1936 – 1939, do yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng, các tổ chức yêu
nước cần được mở rộng cho nhiều người Việt Nam tham gia để chống đế quốc,
chống phát xít, do đó phải giảm bớt tính đấu tranh giai cấp của các tổ chức. Theo
nhận thức trên, Thanh niên cộng sản đoàn được đổi tên thành Thanh niên dân chủ,
Hội cứu tế đổi tên thành Hội cứu tế bình dân; Cơng hội đỏ thành Cơng hội, Nơng
hội đỏ thành Nông hội,… Các Hội quần chúng khác cũng phát triển rầm rộ, như
hội cấy, hội gặt, hội lợp nhà, hội hiếu hỷ …
Sau năm 1939, khi sự tồn vong của dân tộc được đặt lên hàng đầu, Đảng
phải động viên nhân dân đấu tranh dưới khẩu hiệu cứu nước trong mặt trận Việt
Minh, trong những tổ chức Cứu quốc. Trong bối cảnh ấy, các tổ chức quần chúng



đều mang tên “Cứu quốc”: Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Nhi đồng cứu
quốc, Phụ lão cứu quốc… Đây là những hình thức tập hợp quần chúng hiệu quả,
tập hợp tối đa mọi giai tầng, mọi lứa tuổi, mọi thành phần… tạo nên một lực lượng
đông đảo; là một trong những điều kiện quan trọng cho thắng lợi của cách mạng.
Hình thức lãnh đạo phong phú, linh hoạt
Nhờ tuyên truyền, vận động giác ngộ quần chúng, qua việc đa dạng hố các
hình thức tập hợp nhân dân trong các phong trào, các tổ chức thích hợp, Đảng đã
chuẩn bị những điều kiện tổ chức nhân dân vào các cao trào đấu tranh, khởi nghĩa
giành chính quyền. Q trình đó là q trình Đảng khơng ngừng vận dụng các hình
thức lãnh đạo linh hoạt, tạo nên các cao trào đấu tranh yêu nước và cách mạng hết
sức phong phú. Đó là q trình gắn bó giữa vận động tun truyền từng con người
với công tác vận động của tổ chức; gắn bó giữa giác ngộ tư tưởng với đấu tranh,
qua đấu tranh lại làm cho quần chúng giác ngộ thêm lên. Đó cũng chính là q
trình kết hợp giữa đấu tranh bí mật với đấu tranh cơng khai và bán công khai, giữa
tuyên truyền với tuyên truyền võ trang, với hình thức sơ khai của lực lượng võ
trang, trên khắp các địa bàn từ nông thôn đến thành thị, từ miền núi đến miền xuôi.
3. Thành tựu, hạn chế và nguyên nhân
3.1. Thành tựu, hạn chế trong xây dựng nội bộ Đảng
a. Trong xây dựng Đảng về tư tưởng
Chủ nghĩa Mác – Lênin được tuyên truyền, học tập sâu rộng trong đảng
viên, quần chúng. Chủ trương, đường lối của Đảng được đưa vào quần chúng.
Trong những năm 1930-1931, các đảng viên bị địch bắt bớ, tù đầy đã thành lập nên
những chi bộ ở nhà tù đế quốc, đồng thời tổ chức cho các đảng viên của mình trau
dồi, nghiên cứu lý luận (học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, đường lối của Đảng…),
nâng cao trình độ (học ngoại ngữ, học văn hóa…) và trao đổi kinh nghiệm hoạt
động cách mạng. Các đảng viên của Đảng đã giữ vững ý chí, chí khí cách mạng
khi bị địch khủng bố ác liệt. Các chi bộ Đảng trong sinh hoạt đã kịp thời nhắc nhở
đảng viên chống lại những “bệnh” nguy hại cho đảng như chủ nghĩa cơ hội, vụ lợi.
Các đảng bộ đã mở rộng tự chỉ trích bơnsơvích trong các cấp, để nâng cao

trình độ chính trị tồn Đảng và để bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin được trong sạch,


giữ thái độ không thoả hiệp với các xu hướng đầu cơ, chống mọi sự cải biến chủ
nghĩa Mác - Lênin. Nhờ đó, nền tảng tư tưởng của Đảng được củng cố. Như vậy,
nhờ chú trọng kịp thời công tác xây dựng Đảng về tư tưởng, Đảng trưởng thành
hơn về cả tư tưởng –lý luận và tư tưởng – chính trị. Khối đoàn kết trong Đảng
được củng cố; một số nhận thức sai lầm trong Đảng được uốn nắn kịp thời; những
rạn nứt trong tư tưởng và hành động của Đảng dần được hàn gắn, tạo sự đồn kết,
nhất trí trong Đảng.
Tuy vậy, một số ảnh hưởng của tư tưởng phi mác-xít vẫn cịn chưa được
chống triệt để; trình độ tư tưởng – lý luận của đảng viên chưa được nâng cao tồn
diện; cơng tác tun truyền cịn chưa rộng khắp.
b. Trong xây dựng Đảng về chính trị
Đảng đã đề ra đường lối, chủ trương cách mạng đúng đắn. Đó là đặt nhiệm
vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu; các nhiệm vụ khác (dân chủ) phải được thực
hiện rải ra, phục tùng nhiệm vụ dân tộc. Bởi, nếu nhiệm vụ dân tộc mà khơng được
giải quyết, thì các quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến ngàn năm cũng khơng địi
lại được. Thành cơng lớn của Đảng thời kỳ này là Đảng đã linh hoạt tùy tình hình
cụ thể, nhạy bén trong phân tích thực tiễn, kết hợp mục tiêu trước mắt với mục tiêu
lâu dài, đưa ra chủ trương tổ chức tập hợp, xây dựng, tập dượt và phát triển lực
lượng chính trị của quần chúng, kết hợp các hình thức, loại hình đấu tranh phong
phú, đa dạng khác nhau, đưa cách mạng tiến kịp với những chuyển biến khách
quan, tạo nên thế và lực của cách mạng, thực hiện thắng lợi giành chính quyền về tay nhân
dân.
Bên cạnh đó, có những lúc khơng nhấn mạnh nhiệm vụ giải phóng dân tộc là
hàng đầu; khơng thấy hết mặt tích cực cách mạng của tiểu tư sản, tư sản dân
tộc, địa chủ vừa và nhỏ ở một nước thuộc địa. Cũng phải nhấn mạnh rằng, tuy
có lúc nhận thức của Đảng vẫn rơi vào tình trạng “tả khuynh” do ảnh hưởng
của Quốc tế cộng sản III, song Đảng đã nhanh chóng vượt qua sai lầm, nhận

thức đúng tình hình thực tế, đưa ra chủ trương, biện pháp đúng trong lãnh đạo
cách mạng
c. Trong xây dựng Đảng về tổ chức


Hệ thống tổ chức của Đảng được thực hiện theo đúng Điều lệ mới đã được
thông qua tại Hội nghị Trung ương tháng 10-1930. Trước sự khủng bố tàn bạo của
kẻ thù, Đảng vẫn đứng vững, phát triển, số lượng đảng viên chẳng những khơng
giảm, mà cịn tiếp tục tăng lên. Đảng đã thiết lập lại các tổ chức của mình bị địch
phá. Các tổ chức cơ sở Đảng thậm chí đã phát triển đến tận Lào, thượng du Bắc Kỳ
và ở Cao Miên. Phong trào đấu tranh của quần chúng tiếp tục vươn lên.
Công tác phát triển Đảng được tổ chức liên tục, thường xuyên đến ngày
Cách mạng tháng Tám thành công. Trong thời gian ngắn, số lượng đảng viên tăng
lên rõ rệt. Khi mới thành lập, Đảng có khoảng hơn 300 đảng viên (chưa tính số
đảng viên nước ngoài, chủ yếu là người Trung Quốc – khoảng 419 người) với hơn
50 chi bộ. Đến tháng 12-1930, tổng số đảng viên trong cả nước có 2.995 đồng chí,
sinh hoạt trong 255 chi bộ khắp cả nước. Còn đến tháng 4-1931, tồn Đảng đã có
2.400 đảng viên với hơn 250 chi bộ. Đầu năm 1932, tồn Đảng có 2.100 đảng viên,
do bị địch giết nên khơng cịn bao nhiêu, nhưng đến năm 1933, tồn Đảng đã có
1.850 đảng viên và đến năm 1934, tổng số đảng viên là 1.300. Đến cuối năm 1939,
Đảng có 2.300 người với gần 300 chi bộ được phân bố trong khắp cả nước. Từ
2.850 đảng viên năm 1943, đến năm 1944 đã tăng lên 3.150, cịn đến khi Cách
mạng tháng Tám thành cơng, Đảng đã có 5000 đảng viên; số chi bộ tăng từ 300
năm 1943 tới gần 400 vào năm 1944.
Tổ chức cơ sở Đảng được tăng cường, nội bộ Đảng được bảo vệ, nhiều đảng
bộ mới được thành lập. Công tác tổ chức nội bộ Đảng có nhiều bước tiến: Kiện
tồn tổ chức cấp Xứ uỷ; cơng tác cán bộ có bước chuyển; trong đó, cơng tác bảo vệ
nội bộ Đảng được làm tương đối tốt, thanh trừ những phần tử xấu chui vào Đảng,
các phần tử đảng viên đã thoái hoá, biến chất, đầu hàng, phản bội. Thanh trừ về cơ
bản đúng đối tượng, khơng võ đốn, mơ hồ.

Bên cạnh đó, nhiều đảng bộ không chú trọng phát triển đảng viên trong quần
chúng công nhân, không chú ý đưa các đảng viên tiên tiến thuộc thành phần công
nhân vào các cấp lãnh đạo, ngay cả tành phần công nhân trong Đảng cũng không
đáng kể. Đến năm 1941, thành phần trong Đảng là: 25% là vô sản; 5% là phụ nữ;
70% là nông dân và tiểu tư sản. Cơ cấu chưa cân đối đó chưa phản ánh được tính


chất vơ sản của Đảng. Nhiều chi bộ cịn hoạt động chưa tốt. Nhiều nơi chưa có chi
bộ, hoặc có nhưng tan rã, mà không gây dựng lại. Vẫn chưa xây dựng được nhiều tổ
chức cơ sở Đảng trong nhà máy, xí nghiệp, hầm mỏ, thành thị. Tổ chức Đảng còn
lẫn lộn với tổ chức quần chúng, nên kẻ địch dễ chui vào. Cơng tác cán bộ cũng có
vấn đề, thiếu cán bộ chuyên môn.
Lề lối làm việc của nhiều đảng bộ cịn phân tán, thiếu tính tập thể, bng lỏng
kỷ luật, cách thức làm việc cịn thủ cơng, chưa biết nắm trọng tâm, trọng điểm trong
công tác. Một số đảng bộ địa phương tách rời công tác tổ chức với công tác đấu
tranh. Chủ trương “thanh Đảng” của Xứ uỷ Trung Kỳ – “thanh trừ trí phú địa hào,
đào tận gốc, trốc tận rễ” là một chủ trương sai lầm.
Công tác phát triển đảng viên mới chưa đúng điều lệ; hệ thống tổ chức bị chia
cắt, ít liên hệ được với nhau, còn nhiều khe hở; lực lượng chi bộ và đảng viên phân bổ
không đều, chưa vươn tới được những điểm trọng yếu của phong trào; nội bộ một số tổ
chức Đảng chia rẽ. Những khuyết điểm này cũng là một trong những nguyên nhân dẫn
đến những tổn thất cho Đảng và cho phong trào cách mạng Việt Nam.
d. Thành tựu, hạn chế trong phương thức lãnh đạo của Đảng
Đảng đã Đưa cán bộ vào xí nghiệp, về nông thôn xây dựng cơ sở, phát triển
tổ chức đảng và tổ chức quần chúng, tuyên truyền, phổ biến đường lối, chính sách
của Đảng, uốn nắn những khuynh hướng lệch lạc và cổ vũ quần chúng đấu tranh.
Nhờ đề ra các khẩu hiệu cách mạng đúng đắn, mà Đảng đã làm dấy lên một khí thế
cách mạng sơi sục của hàng chục triệu quần chúng, thu hút quần chúng vào các
phong trào đấu tranh với những yêu cầu, mục đích cao, thấp khác nhau, từ đòi
quyền dân sinh, dân chủ tiến tới giác ngộ chính trị và đấu tranh lật đổ chế độ thực

dân, phong kiến, giành tự do, độc lập cho Tổ quốc.
Việc lựa chọn và đưa ra khẩu hiệu đấu tranh là một quá trình vận dụng, phân tích
tình hình thực tế, tương quan lực lượng chính xác, thể hiện việc vận dụng chiến lược,
sách lược linh hoạt. Trong những giai đoạn, những thời kỳ khác nhau, đối với các giai
tầng khác nhau, Đảng đã đưa ra những khẩu hiệu đấu tranh phù hợp.
Tóm lại, cơng tác xây dựng Đảng được hoạch định một cách quy củ, khoa
học, dựa trên việc phân tích khá tồn diện tình hình thực tế trên các mặt kinh tế,


chính trị, xã hội; phân tích những thành cơng, sai lầm của Đảng trong thời gian đó.
Từ đó, Đảng đưa ra đường lối cách mạng đúng đắn, lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ
cách mạng đạt hiệu quả, xây dựng nền tảng tư tưởng vững chắc, chống lại những
khuynh hướng “tả” trong Đảng; tổ chức đại hội, xây dựng bộ máy Trung ương tuyên
truyền, học tập các nghị quyết của Đảng, phát triển đảng viên, đào tạo cán bộ. Trong
quá trình lãnh đạo các phong trào, các tổ chức yêu nước và cách mạng, bằng những
phương pháp linh hoạt, sáng tạo, Đảng đã cắm rễ, bám sâu, bám chắc trong quần
chúng, do đó Đảng đã có thể tồn tại trong lịng quần chúng, thực hiện phương thức
lãnh đạo từ quần chúng mà ra và trở về với quần chúng.
Bên cạnh đó, ở nhiều lúc, công tác vận động, tuyên truyền chưa được chú
trọng đối với một số tầng lớp; cách thức vận động cũng còn cứng nhắc, chưa thực
sự phù hợp với trình độ nhận thức của tầng lớp được vận động.
Công tác vận động quần chúng, tập hợp lực lượng cách mạng cũng còn chưa
thực sự ăn sâu vào thực tiễn ở một số địa bàn, nhất là những địa bản có đồng bào
dân tộc thiểu số.
Có những thời điểm, khẩu hiệu cách mạng chậm được thay đổi cho phù hợp
với mục tiêu cách mạng.
Trong hoạt động của các hình thức tập hợp lực lượng cũng cịn chưa sâu sát,
vì vậy, đôi khi làm giảm hiệu quả tập hợp quần chúng.
3.3. Nguyên nhân hạn chế trong công tác xây dựng Đảng những năm
1930-1945

Thứ nhất, Đảng CSVN ra đời ở nước nơng nghiệp lạc hậu; cán bộ Đảng
nhận thức cịn thấp, thành phần nông dân đông, Đảng lại hoạt động trong điều kiện,
hồn cảnh khó khăn, nguy hiểm.
Thứ hai, cịn nhiều khi không quán triệt đầy đủ những nguyên lý phổ biến
của chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng Đảng, không giữ vững nguyên tắc, thiếu lập
trường, quan điểm giai cấp vững vàng, không thấy được ảnh hưởng của thành phần
giai cấp xuất thân đối với tư tưởng, ý thức con người.


Thứ ba, chủ trương, công tác xây dựng Đảng nhiều khi không xuất phát
đầy đủ từ thực tiễn cách mạng nước ta và thực tiễn xây dựng Đảng ta, không
nắm vững những đặc điểm của quá trình ra đời và trưởng thành của Đảng ta
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Nội dung công tác xây dựng Đảng trong thời kỳ đấu tranh giành chính
quyền?
2. Thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong công tác xây
dựng Đảng trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền?


TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Tài liệu tham khảo bắt buộc:
1. Lê Mậu Hãn, Đảng Cộng sản Việt Nam, các Đại hội và Hội nghị Trung
ương, Nxb Chính trị Quốc gia, H. 2000.
2. Nguyễn Trọng Phúc, Lịch sử công tác xây dựng Đảng (1930-2011), Nxb,
Chính trị quốc gia, H.2012.
3.Mạch Quang Thắng, Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nxb Chính trị Quốc gia, H. 1995.
- Tài liệu tham khảo không bắt buộc:
1. Các tổ chức tiền thân của Đảng, Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung
ương xuất bản, Hà Nội, 1977.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc và Nghị
quyết Hội nghị các khóaVI, VII, VIII, IX, X và XI (Phần viết về công tác xây dựng
Đảng).
3. Tiểu ban tổng kết công tác xây dựng Đảng; Tổng kết công tác xây dựng Đảng
thời kỳ 1975- 1995, Lưu hành nội bộ, Nxb. Chính trị Quốc gia . H. 1995.
4. Mạch Quang Thắng, Đảng Cộng sản Việt Nam-Những vấn đề cơ bản về
xây dựng Đảng, Nxb Lao Động, H, 2007.
5. Viện Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh – Viện
Lịch sử Đảng: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, tập I,1920-1945, Nxb. Sự thật, H.
1982.




×