Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

Chuyên đề 2: XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP VÀ ĐẾ QUỐC MỸ (19451975)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.55 KB, 46 trang )

Chuyên đề 2
XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG HAI CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG
THỰC DÂN PHÁP VÀ ĐẾ QUỐC MỸ (1945-1975)
MỤC TIÊU
- Về kiến thức: chuyên đề nhằm cung cấp cho học viên những kiến thức về
công tác xây dựng Đảng trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế
quốc Mỹ
- Về kỹ năng: Trên cơ sở kiến thức được trang bị, học viên rút ra được
những vấn đề cần thiết để giải quyết những vấn đề đặt ra trong công tác xây dựng
Đảng hiện nay.
- Về tư tưởng: Củng cố niềm tin đối với Đảng, khơi dậy niềm say mê nghiên
cứu khoa học, quán triệt sâu sắc các vấn đề cơ bản lịch sử xây dựng Đảng trong
nghiên cứu và giảng dạy Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
NỘI DUNG
1. Xây dựng Đảng trong kháng chiến chống thực dân pháp xâm lược
(1945-1954)
1.1. Đặc điểm tình hình và nhiệm vụ, mục tiêu cách mạng
Sau Cách mạng Tháng Tám, chính quyền nhân dân vừa mới được thành lập
đã phải đương đầu với những khó khăn, thử thách rất nghiêm trọng. Đất nước bị
các thế lực đế quốc, phản động bao vây và chống phá quyết liệt. Phía Bắc vĩ tuyến
16, có gần 20 vạn quân Tưởng và lực lượng Việt quốc, Việt cách. Phía Nam vĩ tuyến
16, có gần 2 vạn qn Anh – lực lượng hậu thuẫn cho thực dân Pháp nổ súng đánh
chiếm Sài Gòn (23-9-1945), mở đầu cuộc xâm lược nước ta lần thứ hai. Trên tồn
đất nước cịn có khoảng 6 vạn quân Nhật đang chờ giải giáp. Một số quân Nhật đã
thực hiện lệnh của quân Anh, cầm súng cùng với quân Anh dọn đường cho quân
Pháp mở rộng vùng chiếm đóng ở miền Nam. Lúc này, các tổ chức phản động
"Việt quốc", "Việt cách", Đại Việt ráo riết hoạt động. Chúng dựa vào thế lực bên
ngoài để chống lại cách mạng.
Trong lúc đó, Việt Nam phải đối mặt với những thách thức nghiêm trọng về
kinh tế, xã hội. Nạn đói ở miền Bắc do Nhật, Pháp gây ra chưa được khắc phục.



Ruộng đất bị bỏ hoang. Cơng nghiệp đình đốn. Hàng hóa khan hiếm, giá cả tăng
vọt, ngoại thương đình trệ. Tình hình tài chính rất khó khăn, kho bạc chỉ có 1,2
triệu đồng, trong đó quá nửa là tiền rách. Ngân hàng Đơng Dương cịn nằm trong
tay tư bản Pháp. Quân Tưởng tung tiền quốc tệ và quan kim gây rối loạn thị
trường. Hơn 95% số dân không biết chữ, các tệ nạn xã hội do chế độ cũ để lại hết
sức nặng nề. Trong những năm đầu sau Cách mạng Tháng Tám, nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà chưa có nước nào cơng nhận và đặt quan hệ ngoại giao với
Chính phủ ta. Đất nước bị bao vây bốn phía, vận mệnh dân tộc như "ngàn cân treo
sợi tóc". Tổ quốc lâm nguy!
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng có một số thuận lợi cơ bản:
Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước.
Toàn dân tin tưởng sâu sắc vào sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh,
đồn kết xung quanh Đảng, quyết tâm xây dựng, bảo vệ chính quyền và chế độ
mới, quyết tâm chống xâm lược, bảo vệ nền độc lập, thống nhất của Tổ quốc.
Chính quyền nhân dân do Đảng lãnh đạo dù còn non trẻ nhưng đã trở thành hệ
thống từ Trung ương đến cơ sở và được toàn dân ủng hộ. Lực lượng vũ trang mặc
dù còn non trẻ, nhưng xuất thân từ nhân dân, vì nhân dân mà chiến đấu, được
Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh chăm lo xây dựng và lãnh đạo trực tiếp, có tinh thần
yêu nước, tinh thần chiến đấu cao. Đảng từ hoạt động bí mật trở thành Đảng cầm
quyền, Đảng có uy tín, có lãnh tụ sáng suốt, được tồn dân tin tưởng, có hệ thống
tổ chức trong tồn quốc, có đường lối và phương pháp đúng, vững tay chèo lái con
thuyền cách mạng Việt Nam.
Đặc điểm tình hình trên đã đặt ra cho cách mạng Việt Nam trong năm đầu
sau khi giành chính quyền nhiệm vụ nhanh chóng ổn định tình hình chính trị- xã
hội, xây dựng, củng cố thực lực đất nước về mọi mặt, trong đó chú trọng nhiệm vụ
xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng còn non trẻ, bài trừ những lực lượng
phản cách mạng, cải thiện đời sống nhân dân, làm cho mình trong cùng một lúc
khơng phải đương đầu với nhiều kẻ thù, tranh thủ thời gian chuẩn bị mọi điều kiện



trong khả năng có thể cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược mà
Đảng ta lường định là khó tránh khỏi.
Sau hơn một năm xây dựng đất nước về mọi mặt, đã củng cố được một hệ
thống chính quyền từ Trung ương đến địa phương, tăng cường khối đồn kết dân
tộc. Trong một thời gian rất ngắn, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã hoàn
toàn hợp hiến, là đại diện hợp pháp của nhân dân Việt Nam để thực hiện chức năng
đối nội và đối ngoại. Đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể. Bằng sự đóng góp
của nhân dân, Ngân khố quốc gia được tăng cường, bước đầu xây dựng nền tài
chính độc lập của nước Việt Nam. Về mọi mặt, nhân dân ta được hưởng những
quyền dân sinh, dân chủ. Cuộc kháng chiến của nhân dân Nam Bộ được đẩy mạnh. Như
vậy, mặc dù cịn nhiều khó khăn, nhưng về cơ bản, chúng ta đã chuẩn bị những cơ sở để
bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Với dã tâm xâm lược đất nước ta một lần nữa, tháng 11-1946, thực dân Pháp
bội ước, trở mặt tiến hành cuộc tấn cơng đánh chiếm Hải Phịng, Lạng Sơn và Đà
Nẵng, mở đầu cuộc chiến tranh quy mơ xâm lược tồn bộ nước ta và tồn bộ Đơng
Dương. Suốt trong tháng 11-12/1946, thực dân Pháp liên tục gây hấn và sự kiện
thực dân Pháp gửi tối hậu thư địi Chính phủ ta phải phá bỏ công sự trong thành
phố, giải giáp lực lượng vũ trang và giao cho chúng quyền kiểm soát, giữ gìn trật
tự Hà Nội đã như giọt nước làm tràn ly, khả năng hồ hỗn đã hết. Tình hình vô
cùng khẩn cấp buộc ta phải đứng lên kháng chiến. 20 giờ ngày 19-12-1946, mệnh
lệnh chiến đấu bắt đầu. Quân dân Thủ đô đã nổ súng mở đầu cuộc kháng chiến
trong toàn quốc.
Lúc này, nhiệm vụ đặt ra cho toàn Đảng, toàn dân là “vừa kháng chiến, vừa
kiến quốc”, đưa ra đường lối kháng chiến chống Pháp đúng đắn, phù hợp với điều
kiện thực tiễn của đất nước; lãnh đạo đưa cuộc kháng chiến đi tới thắng lợi. Đây là
nhiệm vụ quan trọng và rất khó khăn, địi hỏi sự nỗ lực cao độ của Đảng, của nhân
dân, đặc biệt sự nỗ lực cao độ trong chủ trương, công tác xây dựng Đảng vững
mạnh về mọi phương diện, đủ sức, đủ tầm lãnh đạo cuộc kháng chiến đi tới thắng
lợi.



1.2. Chủ trương, biện pháp xây dựng Đảng
a. Về tư tưởng
Học tập nâng cao trình độ lý luận, kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin được coi
là nguyên tắc quan trọng trong xây dựng Đảng về tư tưởng – lý luận. Đảng chủ
trương tổ chức cho đảng viên nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin. Lý luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin được các đảng viên học tập, nhằm nâng cao trình độ chính trị
và lý luận của tồn Đảng; nâng cao nhận thức, nâng cao phẩm chất đạo đức cách
mạng của người đảng viên.
Về tư tưởng –chính trị, học tập, tuyên truyền đường lối của Đảng được đặt
thành chủ trương lớn với yêu cầu: Đảng viên của Đảng phải tinh thông đường lối,
chính sách và chủ trương hàng ngày của Đảng. Giáo dục ý thức kháng chiến trường
kỳ và gian khổ, nhưng nhất định thắng lợi; giáo dục tư tưởng phục vụ nhân dân cho cán
bộ, đảng viên. Công tác tuyên truyền về đường lối đấu tranh giải phóng dân tộc,
đường lối kháng chiến của Đảng cũng được đẩy mạnh trong quần chúng nhân dân,
động viên nhân dân hăng hái tham gia cách mạng. Tháng 7-1952, Trung ương Đảng
quyết định tiếp tục đào tạo một số cán bộ lý luận để sau này tăng cường cho công tác
huấn luyện, tuyên truyền. Cuộc vận động chỉnh Đảng trong hai năm 1952-1953 đã giúp
cho cán bộ đảng viên quán triệt thêm đường lối cách mạng và quan điểm kháng chiến lâu
dài, dựa vào sức mình là chính; khắc phục một bước những lệch lạc “tả” khuynh, “hữu”
khuynh. Trong hai năm 1952-1953, công tác tuyên truyền đường lối cải cách ruộng đất
được đẩy mạnh. Trung ương Đảng cũng tập trung bồi dưỡng nâng cao trình độ nhận
thức, trình độ hiểu biết cho cán bộ đảng viên trong tình hình mới, nhằm làm tốt cơng tác
cải cách ruộng đất. Vào cuối cuộc kháng chiến, công tác tuyên truyền, động viên cán bộ,
đảng viên, nhân dân nỗ lực, cố gắng phát huy mọi điều kiện, sức mạnh, động viên mọi
lực lượng cho thắng lợi của cuộc kháng chiến được tăng cường một bước và mang lại
hiệu quả cao.
b. Về chính trị
Trước yêu cầu đặt ra đối với cách mạng Việt Nam, trong tình thế đất nước

lâm nguy, ngày 25-11-1945, BCH Trung ương Đảng ra Chỉ thị Kháng chiến kiến
quốc chủ trương nêu cao khẩu hiệu “Tổ quốc trên hết, dân tộc trên hết”, vạch rõ


những nhiệm vụ chiến lược và cần kíp, xác định cách mạng Đông Dương lúc này vẫn
là cuộc cách mạng dân tộc giải phóng với kẻ thù chính là thực dân Pháp xâm lược.
Cách mạng Việt Nam có nhiệm vụ cơ bản, trước mắt là củng cố chính quyền cách
mạng, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân.
Nhiệm vụ bao trùm là bảo vệ, củng cố chính quyền cách mạng. Chỉ thị vạch ra những
biện pháp cụ thể để thực hiện các nhiệm vụ trên. Một cách tổng quát, Chỉ thị “Kháng
chiến, kiến quốc” của Ban thường vụ trung ương Đảng thể hiện tư tưởng chiến lược
mới của Đảng, đã giải quyết kịp thời những vấn đề quan trọng về chuyển hướng chiến
lược và sách lược cách mạng trong thời kỳ vừa mới giành được chính quyền, đưa đất
nước vượt qua tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”.
Tháng 12-1946, trước hành động cướp nước ta một lần nữa của thực dân
Pháp, Đảng đã ra Chỉ thị Toàn dân kháng chiến (12-12-1946). Văn kiện này cùng
với Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến củaChủ tịch Hồ Chí Minh (19-12-1946) và
tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của đồng chí Trường Chinh (1947) đã
đề ra đường lối kháng chiến với những nét lớn:
- Cuộc kháng chiến nhằm vào kẻ thù chính là bọn thực dân phản động Pháp
đang dùng vũ lực cướp lại nước ta, giành độc lập tự do và thống nhất thực sự, hồn
thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc, phát triển chế độ dân chủ nhân dân.
- Cuộc kháng chiến chống Pháp là tiếp tục sự nghiệp của cuộc Cách mạng
Tháng Tám, nên nó có tính chất dân tộc giải phóng. Lúc này, nhiệm vụ giải phóng
dân tộc là yêu cầu nóng bỏng và cấp bách nhất.
- Cuộc kháng chiến chống Pháp cịn mang tính chất dân chủ mới. Trong quá
trình kháng chiến, phải từng bước thực hiện cải cách dân chủ và thực chất của vấn
đề dân chủ lúc này là từng bước thực hiện “người cày có ruộng”.
- Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là cuộc kháng chiến tồn dân, tồn
diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính:

+Tồn dân: Là chiến lược quan trọng, cơ bản, cốt lõi nhất, xuyên suốt toàn
bộ cuộc kháng chiến, nhằm tạo ra sức mạnh to lớn đối trọng với bọn xâm lược
Pháp. Dùng sức mạnh toàn dân để tiến hành kháng chiến ở khắp mọi nơi, mọi lúc.
Chủ trương được đề ra dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin “cách mạng là
sự nghiệp của toàn dân” và so sánh lực lượng giữa ta-địch.


+ Toàn diện là phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân để đánh
giặc trên mọi phương diện:
Về chính trị, đồn kết tồn dân, thực hiện qn, dân nhất trí, động viên nhân
lực, vật lực, tài lực của cả nước; đoàn kết với hai dân tộc Lào, Campuchia anh em,
với nhân dân Pháp, với các nước châu Á và các dân tộc bị áp bức, các dân tộc u
chuộng hồ bình, dân chủ trên thế giới, cơ lập kẻ thù, tranh thủ thêm nhiều bầu bạn,
củng cố chế độ cộng hoà dân chủ, lập ra Uỷ ban kháng chiến các cấp.
Về quân sự, cuộc kháng chiến sẽ trải qua ba giai đoạn: phòng ngự, cầm cự,
phản cộng; triệt để dùng “du kích vận động chiến”, tiến cơng địch khắp nơi, vừa
đánh địch vừa xây dựng lực lượng; tản cư nhân dân ra xa vùng chiến sự.
Về kinh tế, toàn dân tăng gia sản xuất, tự túc, tự cấp, xây dựng kinh tế theo
hướng “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”; ra sức phá kinh tế địch, không cho
chúng lấy chiến tranh ni chiến tranh.
Về văn hố, đánh đổ văn hố nơ dịch, ngu dân xâm lược của thực dân Pháp,
xây dựng nền văn hoá mới, xoá nạn mù chữ; thực hiện cần, kiệm, liêm, chính;
động viên các nhà văn hoá tham gia kháng chiến.
+ Đánh lâu dài: Ta thực hiện chủ trương này để làm cho những chỗ yếu cơ
bản của địch ngày càng bộc lộ, chỗ mạnh của địch ngày một hạn chế; chỗ yếu của
ta từng bước được khắc phục, chỗ mạnh của ta ngày một phát huy. Chủ trương này
được đề ra dựa trên âm mưu của địch: đánh nhanh, thắng nhanh và so sánh lực
lượng giữa ta - địch.
+ Tự lực cánh sinh: Dựa vào sức lực của toàn dân, vào đường lối của Đảng,
vào các điều kiện nhân hoà, địa lợi, thiên thời của đất nước ta, đồng thời ra sức

tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế để chiến thắng kẻ thù.
- Triển vọng của cuộc kháng chiến: Cuộc kháng chiến sẽ lâu dài, gian khổ,
song nhất định thắng lợi.
Trong suốt năm 1947 đến đầu năm 1951, các HNTƯ của Đảng liên tục được
nhóm họp, đánh giá tình hình sau ngày kháng chiến bùng nổ, bàn những nhiệm vụ:
Đẩy mạnh mặt trận qn sự, cơng tác chính trị, kinh tế, văn hoá, nhằm thúc đẩy kháng
chiến tiến lên giai đoạn mới; phát triển, củng cố các đoàn thể; tổ chức các Hội, đồn,
các cơ quan chun mơn của Hội, đồn; xây dựng lực lượng, xây dựng kinh tế, xây


dựng và chuẩn bị cho Đại hội lần thứ II của Đảng; chuẩn bị chuyển sang tổng phản
công. Như vậy, Nghị quyết các Hội nghị Trung ương từ năm 1945-1951 đã đề ra chủ
trương “kháng chiến, kiến quốc”, xây dựng đất nước về mọi mặt, đưa ra đường lối
kháng chiến chống Pháp đúng đắn, chỉ đạo thực hiện, đưa cuộc kháng chiến vào thế
ổn định và chuyển sang thế phản công.
Tháng 2-1951, Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng được tổ chức, tiếp tục
làm rõ hơn nhiệm vụ cách mạng Việt Nam:
- "Xã hội Việt Nam hiện nay gồm có ba tính chất: Dân chủ nhân dân, một
phần thuộc địa và nửa phong kiến".
- Đối tượng của cách mạng Việt Nam: Có hai đối tượng, đối tượng chính
hiện nay là chủ nghĩa đế quốc xâm lược, cụ thể lúc này là đế quốc Pháp và bọn can
thiệp Mỹ. Đối tượng phụ hiện nay là phong kiến, cụ thể lúc này là phong kiến phản
động.
- Nhiệm vụ cơ bản hiện nay của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi bọn đế
quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc, xóa bỏ những di
tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ
dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho CNXH".
Ba nhiệm vụ đó khăng khít với nhau. Nhiệm vụ chính lúc này là hồn thành
giải phóng dân tộc, phải tập trung lực lượng vào cuộc kháng chiến để quyết thắng
quân xâm lược...

- Lực lượng của cách mạng Việt Nam gồm có: Giai cấp cơng nhân, giai cấp
nơng dân, giai cấp tiểu tư sản và tư sản dân tộc. Ngồi ra, cịn có những thân sĩ (địa
chủ) u nước và tiến bộ. Những giai cấp, tầng lớp và phần tử đó họp lại thành
nhân dân mà nền tảng là cơng, nơng và lao động trí thức. Giai cấp cơng nhân là
giai cấp lãnh đạo cách mạng.
- Tính chất của cách mạng Việt Nam là CMDTDCND. Cách mạng Việt Nam
do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, nhất định sẽ tiến lên CNXH. Đây là một
quá trình lâu dài, và đại thể trải qua ba giai đoạn:
+ Giai đoạn thứ nhất, nhiệm vụ chủ yếu là hoàn thành giải phóng dân tộc.


+ Giai đoạn thứ hai, nhiệm vụ chủ yếu là xóa bỏ những di tích phong kiến và
nửa phong kiến, thực hiện triệt để người cày có ruộng, phát triển kỹ nghệ, hoàn
chỉnh chế độ dân chủ nhân dân.
+ Giai đoạn thứ ba, nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng cơ sở cho CNXH, tiến lên
thực hiện CNXH.
Ba giai đoạn ấy không tách rời nhau mà mật thiết liên hệ xen lẫn với nhau.
Nhưng mỗi giai đoạn có nhiệm vụ trung tâm.
- Chính cương cũng nêu rõ 15 chính sách lớn của Đảng để đẩy mạnh kháng
chiến đến thắng lợi và đặt cơ sở kiến thiết quốc gia.
- Quan hệ quốc tế: Việt Nam đứng về phe hồ bình và dân chủ, phải tranh
thủ sự giúp đỡ của các nước XHCN và nhân dân thế giới, của Trung Quốc, Liên
Xô; thực hiện đồn kết Việt –Trung -Xơ và đồn kết Việt- Miên -Lào.
Sau Đại hội lần thứ II, Đảng tập trung vào việc đẩy mạnh cuộc kháng chiến đi đến
thắng lợi, giải quyết những vấn đề do yêu cầu thực tiễn cuộc kháng chiến đặt ra trên tất cả
mọi mặt. Từ tháng 3-1951 đến tháng 7-1954, có 6 HNTƯ được tổ chức, đưa ra chủ
trương, biện pháp để thực hiện những nhiệm vụ sau: Giải quyết những nhiệm vụ kinh tế,
tài chính để bồi dưỡng sức dân, bảo đảm cung cấp cho quân đội; chủ trương tiêu diệt
địch, đánh mạnh hơn nữa để giải phóng Tổ quốc và bảo vệ hồ bình thế giới. phát triển
lực lượng ba thứ qn, tăng cường công tác địch vận; củng cố nội bộ, đẩy mạnh cơng tác

trong vùng địch chiếm đóng; chỉnh đảng, chỉnh quân; thực hiện chính sách ruộng đất và
tiến hành cải cách ruộng đất ngay trong kháng chiến. Chủ trương cải cách ruộng đất thể
hiện rõ nét tại Hội nghị lần thứ 4 BCHTƯ (1-1953). Tháng 11-1953, Hội nghị cán bộ
tồn quốc lần thứ 1 của Đảng chính thức tun bố thi hành chính sách ruộng đất. Tháng
12-1953, Quốc hội thông qua Luật cải cách ruộng đất, tiến hành cải cách ruộng đất ở
vùng tự do.
Như vậy, suốt những năm 1945-1954, Đảng đã đề ra đường lối chính trị đúng đắn
với nội dung cốt lõi “kháng chiến kiến quốc”, hướng tới mục tiêu thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ bảo vệ và giải phóng Tổ quốc. Đường lối chính trị đã trở thành một trong
những nhân tố quan trọng đưa kháng chiến đến thắng lợi.
c. Về tổ chức


- Xây dựng cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của hệ thống tổ chức
Đảng
Năm 1945, khi phát hiện về tình hình mất đồn kết nảy sinh ở Xứ uỷ Nam
Kỳ, Đảng tiến hành cải tổ Đảng bộ Nam bộ. Đây là một thành công lớn của Đảng,
bảo đảm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược. Bộ máy Đảng ở Bắc và Trung bộ tổ chức theo năm cấp (bỏ Xứ
uỷ); ở Nam Bộ theo sáu cấp; ở Miên và Lào vẫn tổ chức như cũ. Cách tổ chức cũng
rất cơ động, nên tính độc lập, sáng tạo trong lãnh đạo được phát huy.
Từ năm 1946, khi kháng chiến chống Pháp bắt đầu, Trung ương quyết định giải
tán các Xứ uỷ (trừ Xứ uỷ Nam Bộ), thành lập các chiến khu và khu cho phù hợp tình
hình mới. Như vậy, hệ thống tổ chức bộ máy dọc của Đảng vẫn là 6 cấp, nhưng cấp
Xứ uỷ được thay bằng cấp Khu uỷ. Tồn quốc có 12 khu. Đồng thời, việc thành lập
các bộ, ban, tiểu ban chuyên môn của Đảng cũng được chú trọng (Bộ Tổ chức, Bộ Tài
chính…; Ban Cơng vận, Ban Thanh vận…) song song với việc thành lập các chi bộ
đặc biệt (chi bộ chỉ đạo trực tiếp những cơng việc cần kíp của kháng chiến như chi bộ
Văn phòng Trung ương, báo Sự thật…).
Từ giữa năm 1948, cơng tác kiện tồn cấp uỷ được đẩy mạnh. Bộ máy Đảng

có bảy cấp (Trung ương – Liên khu uỷ (Xứ uỷ) – Khu uỷ (Liên Tỉnh uỷ ở miền
Nam) - Tỉnh uỷ – Huyện uỷ – Xã uỷ – Chi uỷ. Ngồi ra, cịn lập các đặc biệt khu
do Trung ương trực tiếp điều hành và lập tiểu ban nghiên cứu của Đảng trong các
tổ chức chính quyền. Thời kỳ này, bộ máy tổ chức của Đảng khá gọn nhẹ; duy trì
hai hệ thống tổ chức bí mật và bán cơng khai của Đảng, phối hợp hoạt động bí mật
với sự hoạt động cơng khai, điều hồ hai hoạt động ấy, coi cơng tác hoạt động bí
mật vẫn là gốc.
- Xây dựng bộ máy lãnh đạo và đội ngũ cán bộ
Công tác củng cố bộ máy Đảng tiếp tục là vấn đề trọng yếu (đặc biệt là từ
năm 1948 trở đi). Đảng chú trọng củng cố bộ máy Đảng trong quân đội, làm cho
Đảng lãnh đạo quân đội được sát sao, nhờ thế, việc xây dựng Đảng trong quân đội
trở thành nề nếp. Các quân khu uỷ lần lượt được tổ chức. Hệ thống tổ chức Đảng
trong quân đội được hoàn chỉnh từ Trung ương quân uỷ đến chi bộ Đảng.


- Xây dựng đội ngũ đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng
+ Đội ngũ đảng viên
Nhanh chóng phát triển Đảng, tuyển thêm đảng viên trở thành một yêu cầu
cấp thiết, được coi là công tác thường xuyên của Đảng. Trong điều kiện kháng
chiến, việc phát triển Đảng được quán triệt theo nguyên tắc: Tránh lối phát triển ô
hợp. Trong hai năm 1948-1949, đã kết nạp hơn 50 vạn đảng viên. Đến đầu năm 1951,
số lượng đảng viên phát triển tới 76 vạn. Phát triển Đảng trong quân đội được chú
trọng. Đến cuối năm 1946, tồn qn đội có 8.000 đảng viên. Nói chung, các đảng
viên được kết nạp phần lớn là trung thành, hăng hái hoạt động. Tuy nhiên, do nhiều
khi kết nạp cẩu thả, nên cũng cịn có những đảng viên kém ý thức Đảng, kém ý thức
giai cấp; khơng ít những kẻ cơ hội, lợi dụng Đảng, mưu cầu lợi ích cá nhân. Vì thế,
năm 1950, Trung ương đã ra Chỉ thị về việc tạm ngừng kết nạp đảng viên mới trong
toàn Đảng (trừ trường hợp đặc biệt), để tập trung năng lực vào việc củng cố hàng ngũ,
giáo dục đảng viên đã được kết nạp từ trước. Việc tạm ngừng kết nạp đảng viên mới
được thực hiện đến cuối năm 1953.

Đồng thời với việc phát triển đảng viên, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng
viên thường xuyên được đặt ra. Đảng chủ trương đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội,
cải lương trong cán bộ đảng viên, đồng thời cần nhanh chóng loại trừ những bệnh,
những khuyết điểm như bè phái, địa phương chủ nghĩa, quân phiệt, quan liêu, hẹp
hòi, ich kỷ, tự mãn, kiêu ngạo, phạm quyền, bao biện, xung đột, kỷ luật không
nghiêm. Năm 1951, Đảng ra Chỉ thị “Về cuộc vận động chấn chỉnh Đảng” với nội
dung: Học tập kết hợp với kiểm thảo, phê bình và tự phê bình để nâng cao ý thức, tinh
thần trách nhiệm của đảng viên.
+ Tổ chức cơ sở Đảng
Trong những năm 1945-1946, Đảng đẩy mạnh xây cơ sở Đảng trong người
Pháp ở Đông Dương; mở rộng hoạt động của Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở
Đông Dương, để thu hút quần chúng. Từ năm 1948, một hình thức chi bộ độc đáo
được thành lập - chi bộ tự động. Đây là loại hình chi bộ linh hoạt trong lãnh đạo
mọi mặt cơng tác, ứng phó được với mọi hồn cảnh và tình thế đặt ra. Việc tổ chức
chi bộ tự động đã phát huy tính chủ động, sáng tạo, nâng cao chất lượng hoạt động
và trình độ lãnh đạo của chi bộ. Bên cạnh đó, q trình xây dựng chi bộ tự động


cũng được gắn liền với việc nâng cao kỷ luật của Đảng. Đảng luôn nhắc nhở các tổ
chức Đảng phải sinh hoạt cho đều, không được rời rã, loạc choạc.
Năm 1951, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng được tổ chức trong điều
kiện thế và lực của ta đã mạnh hơn nhiều so với những năm đầu kháng chiến. Chủ
trương, biện pháp xây dựng Đảng về tổ chức của Đại hội là một bước phát triển mới. Đại
hội II chỉ rõ:
Về tổ chức, Đảng được tổ chức theo “nguyên tắc dân chủ tập trung và có kỷ
luật rất nghiêm, kỷ luật tự giác”.
Về đảng viên, tất cả những người Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, khơng phân
biệt nam nữ, chủng tộc, thừa nhận Chính cương, Điều lệ Đảng, hoạt động trong
một tổ chức cơ sở Đảng, phục tùng kỷ luật Đảng, đóng nguyệt phí cho Đảng, đều
được nhận là đảng viên.

Hệ thống tổ chức của Đảng được Đại hội II xác định một các rõ ràng cả về
nguyên tắc tổ chức đến bộ máy Đảng. Tổ chức bộ máy Đảng phải căn cứ vào đơn
vị sản xuất, cơng tác, hành chính, các đảng bộ khi mới thành lập phải được cấp trên
cách một cấp chuẩn y. Theo Điều lệ lần này, tổ chức của ĐLĐVN gồm 6 cấp, từ BCH
Trung ương đến Chi uỷ. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội Đại biểu Đảng
toàn quốc. Điều lệ cũng xác định chi bộ là tổ chức nền tảng của Đảng, đồng thời
đưa ra quy định về các cơ quan Trung ương của Đảng (Đại hội đại biểu tồn quốc,
BCH Tw, Bộ Chính trị ...), về Ban kiểm tra các cấp, về đảng đồn, về tài chính của
Đảng… rất chặt chẽ, rõ ràng.
Về thành phần, Đảng có thành phần là cơng nhân, nơng dân, trí thức cách
mạng, thật hăng hái và giác ngộ cách mạng.
Từ 1951 trở đi (sau Đại hội II), khi thế và lực của cuộc kháng chiến lên cao,
công tác đưa Đảng ra công khai và việc sắp xếp lại chi bộ theo Điều lệ Đảng mới, tiến
hành chỉnh đốn cơ sở Đảng được chú trọng một bước. Chỉ thị “Về cuộc vận động chấn
chỉnh Đảng” (12-1951) hướng dẫn tiến hành chỉnh đốn các chi bộ, với trọng tâm chỉnh
đốn tổ chức (thực hiện biên chế, sắp xếp lại bộ máy và lề lối làm việc của các chi bộ; tến
hành chia lại các chi bộ đông đảng viên theo Điều lệ mới). Trong hai năm 1952-1953,
Đảng cũng đã tiến hành phát triển cơ sở Đảng trong lực lượng vũ trang, trong các làng
xã, xí nghiệp. Cơng tác thành lập chi bộ, phát triển đảng viên trong quân đội, công an


được chú trọng, tiến hành thường xuyên và đẩy mạnh từ sau năm 1951. Trung ương
quyết định lập chế độ cấp uỷ đảng để thực hiện sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện và tuyệt
đối của Đảng trong quân đội. Đối với công an, do tầm quan trọng của ngành này, nên
công tác cán bộ được Đảng hết sức chú ý, sắp xếp cán bộ, làm cho nội bộ công an trong
sạch, cử những cán bộ cốt cán, trung thành, tin cẩn, để bổ sung cho công an.
+ Bảo vệ chính trị nội bộ Đảng
Đề phịng bọn khiêu khích tay sai của Pháp chui vào Đảng phá hoại, công tác
bảo đảm kỷ luật Đảng, tăng cường kiểm tra, giám sát trong Đảng cũng là những
vấn đề được các Hội nghị Trung ương thường xuyên nhắc nhở cho các đảng bộ, chi

bộ tích cực chăm lo thực hiện. Từ năm 1951, Đảng chú trọng thực hiện việc cải thiện
thành phần tổ chức của chi bộ, đưa những phần tử không xứng đáng, không chịu sửa
chữa sai lầm ra khỏi Đảng. Công tác chấn chỉnh các chi bộ nông thôn cũng thường xuyên
được tiến hành, kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những đảng viên dùng danh nghĩa Đảng
đục khoét, hà hiếp dân, đầu hàng, đầu thú, làm tay sai cho địch, làm hại cách mạng và
ảnh hưởng đến uy tín của Đảng.
d. Phương thức lãnh đạo của Đảng
Những điều kiện tác động đến phương thức lãnh đạo của Đảng
Sau Cách mạng tháng Tám (1945), Đảng trở thành Đảng cầm quyền. Điều
đó địi hỏi một sự chuyển biến căn bản về địa vị xã hội, nhiệm vụ, nội dung và
phương thức lãnh đạo của Đảng.
Về địa vị xã hội, Đảng từ chỗ tồn tại và hoạt động khơng hợp pháp, bị đặt
ngồi vịng pháp luật, bị truy lùng, khủng bố, phải hoạt động bí mật, đã trở thành
Đảng lãnh đạo xã hội, hoạt động cơng khai, hợp pháp. Trong điều kiện mới, Đảng
có thuận lợi lớn trong lãnh đạo cách mạng, song cũng rất dễ sinh ra chủ quan, tự
mãn, duy ý chí, dễ phạm sai lầm.
Về nhiệm vụ lịch sử, Đảng chuyển sang lãnh đạo nhân dân đấu tranh giữ
vững chính quyền, bảo vệ những thành quả do cách mạng mang lại và xây dựng xã
hội mới.
Về nội dung lãnh đạo, từ chỗ chỉ lãnh đạo đấu tranh chính trị (và võ trang) để
giành chính quyền, Đảng chuyển sang lãnh đạo tồn diện đời sống xã hội, bao gồm mọi
lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng, đối ngoại… Như vậy, nội


dung lãnh đạo của Đảng mở rộng hơn gấp nhiều lần, từ nội trị đến ngoại giao, từ vĩ mô
đến vi mô, bao trùm trên khắp vùng miền của Tổ quốc.
Về phương thức lãnh đạo, lúc này Đảng thực hiện vai trị lãnh đạo của mình
đối với xã hội thơng qua Nhà nước, Mặt trận, các đoàn thể quần chúng và các tổ
chức tự quản do nhân dân tự nguyện lập ra, hoạt động theo pháp luật.
Về phương thức lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn 1945 – 1954

Một là, Đảng đã áp dụng phương thức lãnh đạo tài tình, vừa giữ vững
nguyên tắc bảo vệ độc lập và thống nhất của Tổ quốc, vừa mềm dẻo, linh hoạt,
sáng tạo. Đó là đưa Đảng vào hoạt động khơng cơng khai dưới danh nghĩa tuyên
bố tự giải tán, để tránh sự tập trung phá hoại của các thế lực thù địch. Việc ký kết
Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946 là một sách lược khơn khéo để tạo điều kiện cho Đảng
có thời gian chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ. Tiến hành Tổng
tuyển cử đầu tiên, bầu ra Quốc hội và xây dựng được Hiến pháp mới dân chủ, tiến
bộ, xây dựng và củng cố bộ máy chính quyền Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở,
xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân gồm 3 thứ quân, trấn áp các lực lượng phản
động, xây dựng Luật lao động, thực hiện giảm tô, giảm tức, chia ruộng cho nông
dân nghèo, xây dựng đời sống mới, mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất là những
biện pháp hữu hiệu, nhằm đưa đường lối, chủ trương của Đảng vào thực tiễn một
cách hiệu quả nhất.
Nhờ công tác tuyên truyền vận động, cơng tác tổ chức cơng phu, tỉ mỉ, thích
hợp và có hiệu quả cao của cả hệ thống Đảng, Chính phủ, Mặt trận và các đoàn thể
quần chúng yêu nước…Đảng đã phát động được phong trào cả nước ra sức thi đua
sơi nổi diệt giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Như vậy, tư tưởng triệt để dựa vào
dân là nét nổi bật trong phương thức lãnh đạo của Đảng trong thời kỳ này.
Hai là, Đảng đã tổ chức lãnh đạo cuộc kháng chiến thần thánh, cuộc kháng
chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ dưới
khẩu hiệu tự lực cánh sinh, trường kỳ kháng chiến, vừa kháng chiến, vừa kiến
quốc. Phương thức lãnh đạo của Đảng lúc này tập trung nắm chắc lực lượng vũ
trang gồm 3 thứ quân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích). Đảng lãnh
đạo cuộc kháng chiến, bám sát quần chúng ở vùng tự do, cũng như vùng địch tạm


chiếm, bám sát cơ sở chiến đấu và sản xuất, vận dụng sáng tạo và tài tình nghệ
thuật chiến tranh nhân dân. Cuối cùng, Đảng lãnh đạo thắng lợi chiến dịch Điện
Biên Phủ vang dội địa cầu, giải phóng nửa nước, tạo ra hậu phương vững chắc là
miền Bắc XHCN, tạo tiền đề cho sự nghiệp đấu tranh thống nhất đất nước sau này.

Để lãnh đạo cuộc kháng chiến thắng lợi, Đảng đã tập hợp, đoàn kết toàn dân. Về
tập hợp và đoàn kết toàn dân, Đảng đã hướng dẫn và tổ chức Hội liên hiệp quốc
dân Việt Nam (gọi tắt là Liên Việt) để tập hợp đông đảo nhân sĩ, trí thức, các tầng
lớp nhân dân yêu nước, động viên lịng u nước và nhiệt tình của họ tham gia
kháng chiến. Tiếp theo đó, Đảng đã thống nhất Việt Minh với Liên Việt thành Mặt
trận Việt Minh Liên Việt, đồng thời tăng cường củng cố, mở rộng, phát huy vai trò
của Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội Việt Nam.
Tóm lại, cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi là thắng lợi của việc không
ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, biết phát huy sức mạnh toàn dân,
đi từ yếu đến mạnh, phá tan chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh của địch, bẻ gẫy
âm mưu chia rẽ khối đoàn kết dân tộc, thực hiện kháng chiến trường kỳ và đoàn
kết toàn dân, đoàn kết quốc tế.
2. Xây dựng Đảng trong kháng chiến chống Mỹ, cứu
nươc (1954-1975)
2.1. Đặc điểm tình hình, nhiệm vụ, mục tiêu cách mạng
Sau tháng 7-1954, phong trào cách mạng thế giới tiến tục có những bước phát
triển. Sự lớn mạnh của Liên Xô, Trung Quốc và các nước khác trong hệ thống XHCN là
chỗ dựa vững chắc của cách mạng Việt Nam. Phong trào giải phóng dân tộc cuồn cuộn
dâng cao ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ- Latinh, hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế
quốc bị thu hẹp và đi vào quá trình tan rã. Cuộc đấu tranh cho dân sinh, dân chủ và hồ
bình ở các nước TBCN phát triển rộng khắp và liên tục. So sánh lực lượng trên thế giới
ngày càng thay đổi có lợi cho CNXH, cho lực lượng cách mạng. Cách mạng thế giới lúc
này đang ở thế tiến công.
Tuy nhiên, trong phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và hệ thống XHCN
xuất hiện những bất đồng ngày càng nghiêm trọng và những sai lầm về tư tưởng
chính trị. Biến động lớn nhất của các nước XHCN là sự chia rẽ và xung đột giữa
Liên Xô và Trung Quốc về quan điểm chính trị, về vị thế và ảnh hưởng quốc tế, về


lợi ích dân tộc. Điều đó đã dẫn tới sự phân hoá trong phe XHCN, trong phong trào

cộng sản và cơng nhân quốc tế, trong phong trào giải phóng dân tộc. Chủ nghĩa xét
lại và cơ hội xuất hiện ở nhiều nước XHCN và phong trào cộng sản quốc tế. Ở
những nước XHCN khác nhau, thực hiện xây dựng CNXH theo nhiều mơ hình
khác nhau. Tại Trung Quốc đã diễn ra phong trào đại nhảy vọt, tiếp đó là cuộc đại
cách mạng văn hóa vơ sản.
Đế quốc Mỹ thay đổi chiến lược toàn cầu, từ đối đầu chuyển sang hoà hỗn
với Liên Xơ, Trung Quốc và lợi dụng mâu thuẫn giữa hai nước đó để chống phá
phong trào giải phóng dân tộc. Trong việc thực hiện âm mưu bá chủ thế giới, Việt
Nam trở thành đối tượng xâm lược trọng điểm của đế quốc Mỹ.
Theo quy định của Hiệp định Giơnevơ, nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai
miền, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân sự tạm thời. Quân đội ta tập kết ra Bắc,
đối phương rút vào Nam. Sau hai năm, hai miền sẽ hiệp thương thực hiện Tổng
tuyển cử vào tháng 7-1956 để thống nhất đất nước. Như vậy, cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc thắng lợi, nhưng chưa đạt tới mục tiêu giải
phóng hồn tồn đất nước, thống nhất Tổ quốc. Đất nước bị chia cắt làm hai miền.
Miền Bắc được hồn tồn giải phóng, bước vào thời kỳ q độ lên CNXH, đồng
thời thực hiện nhiệm vụ dân chủ, chủ yếu là mang lại ruộng đất cho nông dân.
Miền Bắc tuy có hồ bình, nhưng lại phải đối đầu với nhiều khó khăn, thách thức
về kinh tế- xã hội; sự đe doạ của chiến tranh xâm lược do đế quốc Mỹ gây ra và
mưu đồ phá hoại của nhiều kẻ thù.
Ở miền Nam, đế quốc Mỹ và Chính quyền Ngơ Đình Diệm đã cơng khai xé
bỏ Hiệp định Giơnevơ, tàn sát, giam cầm hàng chục vạn cán bộ, đảng viên và quần
chúng cách mạng, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, tiến hành đàn áp dã
man phong trào cách mạng, phá hoại Tổng tuyển cử.
Tình hình trên làm cho cách mạng Việt Nam sau tháng 7-1954 vừa có những
thuận lợi cơ bản, lại vừa có những khó khăn phức tạp, mà đặc điểm nổi bật là nước
ta bị chia ra làm hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Yêu cầu đặt ra
cho cách mạng Việt Nam là tranh thủ các yếu tố thuận lợi, vượt qua khó khăn, nhanh
chóng ổn định tình hình miền Bắc, tiếp tục hồn thành nhiệm vụ của cuộc
CMDTDCND trên cả nước. Thực hiện nhiệm vụ đó, việc xác định đường lối chiến



lược đúng đắn cho cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam tiến lên phù hợp
với tình hình đất nước trong giai đoạn mới và xu thế phát triển chung của thời đại,
hoàn thành mục tiêu thống nhất nước nhà vừa là yêu cầu khách quan, vừa là đòi hỏi
bức thiết. Nhiệm vụ đó chỉ có thể hồn thành khi xây dựng Đảng vững mạnh trên mọi
phương diện, tăng cường sức chiến đấu của Đảng. Vì thế, đây cũng là một trong
những yêu cầu quan trọng đối với cách mạng Việt Nam.
2.2. Chủ trương, biện pháp xây dựng Đảng
a. Xây dựng Đảng về tư tưởng
Trong những năm 1954-1957, công tác xây dựng Đảng về tư tưởng vẫn là một
trong những cơng tác được Trung ương Đảng, Bộ Chính trị quan tâm. Việc thống nhất tư
tưởng trong toàn Đảng về tình hình và nhiệm vụ mới có vị trí quan trọng. Cần phải đẩy
mạnh giáo dục tư tưởng cho cán bộ đảng viên, tăng cường lãnh đạo tư tưởng, củng cố
Đảng, chống lại những tư tưởng hữu khuynh, sợ gian khổ, sợ Mỹ trực tiếp can thiệp thì ta
sẽ thất bại. Vì thế, Đảng chủ trương tăng cường đấu tranh với những tư tưởng “tả”
khuynh trong thời kỳ đình chiến và thời kỳ mới vào thành phố, bởi tư tưởng này rất nguy
hại đến sự củng cố và đoàn kết trong Đảng.
Những năm 1957-1959, do một số khơng ít cán bộ đảng viên chưa nhận thức
đúng đắn và đầy đủ một số vấn đề căn bản của cách mạng; chủ nghĩa cá nhân vẫn tồn tại
phổ biến, nên cần công tác cần kíp lúc này là củng cố lập trường giai cấp vô sản, nâng
cao ý thức tư tưởng, giác ngộ XHCN và ý thức đấu tranh thống nhất nước nhà cho cán bộ
đảng viên, làm cho tư tưởng của cán bộ đảng viên tiến kịp với tình hình nhiệm vụ; đồng
thời, cần phê phán chủ nghĩa cá nhân. Theo định hướng này, công tác giáo dục tư
tưởng, nâng cao phẩm chất cho cán bộ đảng viên được tiến hành. Kết quả là đã có
những chuyển biến rõ rệt về mặt lập trường, tư tưởng, khối đoàn kết, thống nhất trong
Đảng được củng cố. Cũng trong những năm này, các lớp bồi dưỡng về lập trường tư
tưởng, bồi dưỡng về chủ nghĩa Mác – Lênin, về đường lối chính trị, đường lối giai cấp,
đường lối cán bộ… cho đảng viên cũng thường xuyên được tiến hành. Tính đến cuối
năm 1959, các trường bồi dưỡng lý luận của các khu đã bồi dưỡng cho trên 3.482 cán bộ

sơ cấp; các trường của các tỉnh bồi dưỡng lý luận cho 17.120 cán bộ xã; có hơn 400 cán
bộ trung cao cấp đang được đào tạo, bồi dưỡng về lý luận ở các trường chính trị Trung
ương. Những lớp bồi dưỡng cán bộ đảng viên của Đảng về nghiệp vụ, văn hóa, chuyên


môn… đã tăng cường năng lực làm việc của cán bộ đảng viên. Các sinh hoạt chính trị để
giác ngộ lập trường giai cấp, chính trị – tư tưởng được mở ra cho các tổ chức cơ sở Đảng
cũng có tác dụng tích cực.
Tháng 9-1960, Đại hội lần thứ III của Đảng nhóm họp, đánh dấu một bước phát
triển quan trọng về lý luận xây dựng Đảng trên phương diện tư tưởng. Đại hội chỉ rõ:
Phải ra sức học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, tăng cường giáo dục tư tưởng trong Đảng,
đấu tranh khắc phục những khuyết điểm, những hạn chế còn tồn tại trong Đảng; ra sức
giáo dục cho đảng viên thấm nhuần thế giới quan Mác – Lênin và nhân sinh quan cộng
sản chủ nghĩa; nâng cao trình độ lý luận Mác – Lênin trong cán bộ đảng viên bằng cách
đưa ra kế hoạch dài hạn giáo dục lý luận một cách có hệ thống trong tồn Đảng, đi đôi
với tổng kết kinh nghiệm cách mạng; nâng cao khơng ngừng trình độ tư tưởng của đảng
viên. Đại hội cũng khẳng định sự cần thiết phải chĩa mũi nhọn đấu tranh vào tư tưởng tư
sản và tiểu tư sản, đấu tranh chống xu hướng chính trị hữu và “tả”, những hiện tượng dao
động về chính trị của đảng viên; bài trừ những bệnh còn tồn tại trong Đảng như chủ
nghĩa cá nhân, chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa tự do…
Sau Đại hội III của Đảng, công tác giáo dục chính trị – tư tưởng cho đảng
viên được đặc biệt chú trọng. Tháng 2-1961, Bộ Chính trị mở cuộc vận động, chỉnh
huấn, nhằm bồi dưỡng và xây dựng tư tưởng XHCN cho đảng viên. Đây là cuộc
vận động tư tưởng lớn nhất từ sau năm 1954. Mục tiêu của cuộc vận động là tuyên
truyền những quan điểm cơ bản của Đảng về sự nghiệp xây dựng CNXH ở miền
Bắc cho đảng viên; đồng thời chống những bệnh thường mắc trong Đảng: Bệnh
chủ nghĩa cá nhân, tự do vô kỷ luật, thiếu tinh thần trách nhiệm, quan liêu mệnh
lệnh, tham ô lãng phí, bảo thủ, rụt rè…Để làm cho cuộc vận động thực sự hiệu quả,
tháng 4-1961, Hội nghị lần thứ 4 BCH Trung ương quyết định mở cuộc “Vận động
xây dựng chi bộ và đảng viên bốn tốt” 1. Cũng trong năm 1961, cơng tác chống

tham ơ lãng phí, xây dựng đạo đức đảng viên được đẩy mạnh. Như vậy, với hai
cuộc vận động kể trên, công tác xây dựng Đảng về tư tưởng là nhằm vào mục đích
nâng cao nhận thức chính trị của tồn Đảng, bồi dưỡng, xây dựng tư tưởng XHCN

1

Bốn tốt: Lãnh đạo sản xuất tốt; lãnh đạo thực hiện chính sách tốt; củng cố, phát triển Đảng tốt; vận động quần
chúng tốt.


và tạo ra một sự chuyển biến mạnh mẽ trong tư tưởng của toàn Đảng theo yêu cầu
bốn tốt.
Trong những năm 1960-1965, ảnh hưởng bởi tư tưởng xét lại, cơ hội, ở một
bộ phận đảng viên bộc lộ tư tưởng hữu khuynh; sự đồn kết nhất trí trong nhiều
cấp uỷ và tổ chức Đảng chưa được tăng cường đầy đủ. Đây cũng là một trong những
thiếu sót lớn nhất của cơng tác giáo dục chính trị – tư tưởng. Nhằm khắc phục hạn chế
này, tháng 12-1963, Hội nghị lần thứ 9 BCH Trung ương đã phê phán những tư tưởng
hữu và “tả” khuynh, tư tưởng giáo điều trong Đảng, nhắc nhở đảng viên nắm vững
đường lối, chính sách của Đảng về cách mạng XHCN ở miền Bắc và CMDTDCND ở
miền Nam. Tháng 3-1965, Hội nghị lần thứ 11 BCH Trung ương Đảng nhấn mạnh
yêu cầu tăng cường công tác tư tưởng và tổ chức trong thời kỳ mới. Về tư tưởng, đảng
viên phải ra sức xây dựng ý chí quyết chiến, quyết thắng đế quốc Mỹ và tay sai, sẵn
sàng hoàn thàn mọi nhiệm vụ cách mạng.
Trong giai đoạn 1965-1968, cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho đảng
viên được các cấp uỷ đảng quan tâm, gắn với cuộc vận động xây dựng chi bộ bốn
tốt. Khoảng 60% đảng viên được học tập về đường lối, chủ trương của Đảng, học
tập các bài học kinh nghiệm xây dựng Đảng. Thông qua các đợt vận động, học tập,
phần lớn đảng viên đã tiến hành tự phê bình trước quần chúng. Các đảng viên được
học tập về lý luận, được rèn luyện trong sản xuất, chiến đấu, công tác, nên đại bộ
phận có phẩm chất cách mạng vững vàng, có tinh thần chịu đựng gian khổ, dũng

cảm trong công tác, phát huy tốt vai trị tiên phong của mình. Đặc biệt, trong
những năm 1967-1968, mặc dù có những biến động trên thế giới (sự kiện Tiệp
Khắc), trong nước (Tết Mậu Thân), song đại đa số cán bộ đảng viên đã tỏ ra vững
vàng về chính trị – tư tưởng, nhất trí với nhận định và đường lối của Trung ương,
có thái độ độc lập, tự chủ, tin tưởng và đoàn kết chặt chẽ xung quanh Đảng.
Từ năm 1969–1975, để hoàn thành nhiệm vụ chính trị tích cực khơi phục,
phát triển kinh tế, xây dựng miền Bắc vững mạnh, dồn sức chi viện cho cách mạng
miền Nam, tích cực chuẩn bị mọi điều kiện cho việc thống nhất nước nhà, công tác
xây dựng Đảng về tư tưởng được đẩy mạnh lên một bước mới. Trung ương Đảng
hết sức chú trọng công tác giáo dục tư tưởng cho cán bộ, đảng viên. Nhiệm vụ đặt
ra là phải giáo dục cho đảng viên luôn ln bám sát tình hình và nhiệm vụ; chống


chủ quan khinh địch, xả hơi, ngại khó, sợ hy sinh, gian khổ, tự do, tuỳ tiện, thiếu ý
thức trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật… Sự cần thiết phải giáo dục cho cán bộ,
đảng viên tinh thần làm chủ tập thể, chủ động tiến công, quan điểm quần chúng,
quan điểm độc lập tự chủ, tự lực cánh sinh, khơng trơng chờ ỷ lại vào bên ngồi…
ln ln được nhấn mạnh. Các cấp ủy thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng cho
cán bộ, đảng viên về chủ nghĩa Mác – Lênin, về lý luận chính trị. Cơng tác giáo
dục tư tưởng cho đảng viên được nâng lên một tầm mức mới, khi Trung ương
Đảng ra Chỉ thị quán triệt và học tập tác phẩm “Nêu cao đạo đức cách mạng, quét
sạch chủ nghĩa cá nhân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh (xuất bản 3-2-1969). Trong
hai năm 1969-1970, Đảng đã mở cuộc vận động làm theo Di chúc của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, mở các cuộc vận động phát huy dân chủ, nâng cao chất lượng đảng
viên…Những cuộc vận động này đều có tác dụng tích cực. Đặc biệt, tháng 121970, Ban Bí thư ra Nghị quyết 210 “Về cơng tác giáo dục lý luận chính trị và tư
tưởng đối với cán bộ đảng viên”, coi công tác giáo dục chính trị – tư tưởng là một
trong những biện pháp cần kíp trước mắt. Trung ương Đảng yêu cầu cán bộ đảng
viên phải luôn vững vàng, nâng cao cảnh giác, kêu gọi toàn dân đoàn kết quanh
Đảng, đoàn kết quốc tế, nêu cao tinh thần phấn đấu hy sinh vì độc lập, tự do, vì
CNXH, quyết tâm giành thắng lợi hoàn toàn. Trên thực tế, sau khi thực hiện, lập

trường, quan điểm giai cấp, tính kiên định cách mạng, lịng tin vào đường lối của
Đảng… của cán bộ đảng viên được củng cố, nâng cao; khối đồn kết, nhất trí trong
Đảng được tăng cường. Từ năm 1973-1975, toàn Đảng đã tổ chức các đợt sinh hoạt
chính trị, bồi dưỡng lý luận để quán triệt đường lối của Đảng, nâng cao nhận
thức tư tưởng, biến chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến đấu thành khí thế
trong sản xuất, tiếp tục hoàn thành sự nghiệp cách mạng ở miền Nam. Qua đợt
sinh hoạt chính trị, đơng đảo cán bộ đảng viên đã nhất trí cao với Trung ương
Đảng về đánh giá thắng lợi, về xác định nhiệm vụ chống Mỹ, nâng cao lòng tự
hào dân tộc, lòng tin vào sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, khắc phục được
những nhận thức chưa đúng…
Đảng cũng tổ chức các lớp bồi dưỡng, nhằm nâng cao chất lượng đảng viên
thông qua hệ thống trường Đảng. Trong những năm 1972-1973, hệ thống trường
Đảng huyện đã bồi dưỡng được 26.000 đảng viên theo chương trình cơ sở; trên 31


vạn đảng viên được bồi dưỡng những bài về đường lối. Hệ thống trường Đảng tỉnh
đã mở lớp cho trên 8.400 đảng viên theo các chương trình sơ cấp. Trường Nguyễn
Ái Quốc mở lớp cho trên 7.200 dảng viên. Trường lý luận chính trị tại chức ở
Trung ương đã bồi dưỡng cho trên 1.600 cán bộ.
b. Xây dựng Đảng về chính trị
Trong những năm 1954 -1957, các Hội nghị BCH Trung ương Đảng (khoá II) đề
ra nhiệm vụ ổn định tình hình miền Bắc, khơi phục kinh tế, hàn gắn vết thương
chiến tranh, trước hết là phục hồi và phát triển sản xuất nông nghiệp, ổn định xã
hội, ổn định đời sống nhân dân, tăng cường và mở rộng hoạt động quan hệ quốc
tế... để sớm đưa miền Bắc trở lại hoạt động bình thường.
Các Hội nghị cũng xác định: Muốn chống đế quốc Mỹ và tay sai, củng cố
hòa bình, thực hiện thống nhất, hồn thành độc lập và dân chủ, điều cốt lõi là phải
ra sức củng cố miền Bắc, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân
miền Nam. Để củng cố miền Bắc, trong những năm 1958 – 1960, các Hội nghị BCH
Trung ương Đảng (khoá II) quyết định thực hiện cải tạo XHCN, đưa miền Bắc lên

CNXH. Đối với cách mạng miền Nam, Đề cương cách mạng miền Nam (8-1956) của
Xứ ủy Nam Bộ khẳng định con đường duy nhất tự cứu mình của nhân dân miền Nam là
tiến hành đấu tranh cách mạng, tiến tới giành chính quyền về tay nhân dân. Tiếp tục phát
triển tư tưởng của Đề cương cách mạng miền Nam, Nghị quyết Trung ương 15 (1-1959)
xác định con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi
nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Đó là con đường lấy sức mạnh của quần
chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp đấu tranh
chính trị và vũ trang để đánh đổ chính quyền thống trị độc tài Ngơ Đình Diệm, tay
sai của đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hiệp dân tộc, dân chủ ở miền
Nam. Nghị quyết cũng chỉ rõ rằng, Đế quốc Mỹ là nước đế quốc hiếu chiến nhất, cho
nên trong những điều kiện nào đó, cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền nam cũng có
khả năng chuyển thành cuộc chiến tranh cách mạng lâu dài, nhưng thắng lợi cuối
cùng nhất định về ta.
Đại hội lần thứ III của Đảng (9-1960) đã thông qua đường lối chiến lược của
cách mạng nước ta trong giai đoạn mới. Đảng xác định cách mạng Việt Nam trong
giai đoạn này có hai chiến lược cách mạng khác nhau, tiến hành đồng thời ở cả hai


miền:Một là, tiến hànhcách mạng XHCN ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành
căn cứ vững mạnh của cách mạng cả nước, hậu thuẫn và chi viện đắc lực cho cách
mạng miền Nam; hai là, tiến hànhCMDTDCND ở miền Nam, nhằm giải phóng
miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, thực hiện thống nhất nước
nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước. Trong đó, cuộc cách mạng
XHCN ở miền Bắc giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách
mạng Việt Nam và đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà. Cuộc CMDTDCND ở
miền Nam giữ một vị trí rất quan trọng. Nó có tác dụng “quyết định trực tiếp đối với
sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai,
thực hiện hồ bình, thống nhất nước nhà, hoàn thành nhiệm vụ CMDTDCND trong
cả nước”. Sau khi vạch ra đường lối chung, Đại hội đề ra 5 nhiệm vụ cơ bản của kế
hoạch phát triển kinh tế – văn hóa năm năm lần thứ nhất (1961-1965) và giao cho

BCH Trung ương quyết định những nội dung, nhiệm vụ cụ thể của kế hoạch này,
nhằm mục tiêu phấn đấu xây dựng bước đầu cơ sở vật chất, kỹ thuật cho CNXH,
thực hiện một bước cơng nghiệp hố XHCN, đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh,
tiến vững chắc lên CNXH. Như vậy, Đại hội III của Đảng là Đại hội xây dựng
CNXH ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà. Nói cách khác, đây là Đại hội
xác định về cơ bản đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Tiếp tục hồn thiện, bổ sung đường lối chính trị của Đại hội III, xây dựng
Đảng về chính trị, hàng loạt các Hội nghị Trung ương đã được tổ chức.
Trên miền Bắc, trong nông nghiệp, Hội nghị lần thứ 3 BCH Trung ương
Đảng (khố III- tháng 1-1961) thơng qua những nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch
nhà nước năm 1961, chú trọng củng cố và phát triển hợp tác xã nông nghiệp. Hội
nghị lần thứ 5 (7-1961) chủ trương đẩy mạnh phát triển nơng nghiệp tồn diện, giải
quyết vấn đề lương thực là chính. Tháng 11-1961, Bộ Chính trị chủ trương mở
cuộc vận động cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật, nhằm phát triển nơng
nghiệp tồn diện, mạnh mẽ và vững chắc. Trong công nghiệp, BCH Trung ương
Đảng họp Hội nghị lần thứ 7 (mở rộng- tháng 6-1962) bàn về xây dựng và phát
triển công nghiệp. Tháng 7-1963, Bộ Chính trị mở cuộc vận động “ Nâng cao ý
thức trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế tài chính, cải tiến kỹ thuật, chống
tham ơ, lãng phí, quan liêu” (gọi tắt là “ba xây, ba chống”). Tháng 12-1964, Hội


nghị lần thứ 10 họp bàn về công tác thương nghiệp và giá cả. Về vấn đề xây
dựng, phát triển kinh tế trên miền Bắc, Hội nghị lần thứ 19 (1-1971), lần thứ 20
(4-1972) bàn về những vấn đề trong quản lý kinh tế nói chung và nhiệm vụ khơi
phục, phát triển kinh tế, đặc biệt là kinh tế nông nghiệp miền Bắc.
Ở miền Nam, chủ trương đưa cách mạng miền Nam phát triển từ khởi nghĩa
từng phần lên chiến tranh cách mạng, tiếp tục giữ vững tư tưởng chiến lược tiến
công, đưa đấu tranh vũ trang phát triển lên song song với đấu tranh chính trị, tiến
cơng địch trên cả ba vùng chiến lược, đánh địch bằng ba mũi giáp công của Đảng
được thể hiện qua các nghị quyết chủ yếu:

Nghị quyết Hội nghị Bộ Chính trị tháng 1-1960 và tháng 2-1962:
- Cách mạng miền Nam sẽ phát triển từ khởi nghĩa từng phần lên chiến tranh
cách mạng.
- Tiếp tục giữ vững tư tưởng chiến lược tiến công, đưa đấu tranh vũ trang
phát triển lên song song với đấu tranh chính trị.
- Tiến cơng địch trên cả ba vùng chiến lược: Đô thị, đồng bằng và rừng núi,
thực hiện phương châm đánh địch bằng ba mũi giáp công: quân sự, chính trị và binh vận.
Hội nghị Trung ương lần thứ 11 (3-1965) và lần thứ 12 (12-1965):
- Phương châm chỉ đạo chiến lược: Tiếp tục và đẩy mạnh cuộc chiến tranh
nhân dân chống chiến tranh cục bộ của Mỹ ở miền Nam, đồng thời phát động chiến
tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền Bắc; thực hiện kháng
chiến lâu dài, dựa vào sức mình là chính, càng đánh càng mạnh và cố gắng đến
mức cao độ, tập trung lực lượng của cả hai miền để mở những cuộc tiến công lớn,
tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn trên
chiến trường miền Nam.
- Tư tưởng chỉ đạo và phương châm đấu tranh ở miền Nam: Giữ vững và
phát triển thế tiến công, kiên quyết tiến công và liên tục tiến cơng. “Tiếp tục kiên
trì phương châm đấu tranh qn sự kết hợp với đấu tranh chính trị, triệt đề vận
dụng ba mũi giáp công”, đánh địch trên cả ba vùng chiến lược. Trong giai đoạn
hiện nay, đấu tranh quân sự có tác dụng quyết định trực tiếp và giữ một vị trí ngày càng
quan trọng.


- Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Bắc: Chuyển hướng xây dựng kinh tế, bảo
đảm tiếp tục xây dựng miền Bắc vững mạnh về kinh tế và quốc phòng trong điều
kiện có chiến tranh, tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá
hoại của đế quốc Mỹ để bảo vệ vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa, động viên
sức người, sức của ở mức cao nhất để chi viện cho cuộc chiến tranh giải phóng
miền Nam, đồng thời tích cực chuẩn bị đề phịng để đánh bại địch trong trường
hợp chúng liều lĩnh mở rộng “Chiến tranh cục bộ” ra cả nước.

- Nhiệm vụ và mối quan hệ giữa cuộc chiến đấu ở hai miền: Trong cuộc
chiến tranh chống Mỹ của nhân dân cả nước, miền Nam là tiền tuyến lớn, miền
Bắc là hậu phương lớn. Bảo vệ miền Bắc là nhiệm vụ của cả nước, vì miền Bắc
XHCN là hậu phương vững chắc trong cuộc chiến tranh chống Mỹ. Phải đánh bại
cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc và ra sức tăng cường lực
lượng miền Bắc về mọi mặt nhằm đảm bảo chi viện đắc lực cho miền Nam càng
đánh càng mạnh. Hai nhiệm vụ trên đây không tách rời nhau, mà mật thiết gắn bó
nhau. Khẩu hiệu chung của nhân dân cả nước lúc này là: “Tất cả để đánh thắng
giặc Mỹ xâm lược”.
- Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 11, 12 (khố III) có tầm quan trọng
đặc biệt. Các Nghị quyết đã chỉ ra phương hướng cụ thể cho cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước đang ở vào giai đoạn khó khăn và quyết liệt.
Hội nghị Trung ương lần thứ 13 (1-1967)
- Quyết định đẩy mạnh đấu tranh quân sự trên cả hai miền, đồng thời đưa
mặt trận ngoại giao thành một mặt trận quan trọng để mở ra cục diện “vừa đánh,
vừa đàm”, chỉ rõ:
+ Thắng lợi trên chiến trường miền Nam là cơ sở cho thắng lợi trên mặt trận
ngoại giao. Chúng ta chỉ có thể giành được trên bàn đàm phán những cái mà chúng
ta đã giành được trên chiến trường. Tuy nhiên, đấu tranh ngoại giao không chỉ đơn
thuần phản ánh cuộc đấu tranh trên chiến trường mà trong tình hình quốc tế hiện
nay với tính chất cuộc đấu tranh giữa ta và địch, đấu tranh ngoại giao giữ một vai
trò quan trọng, tích cực và chủ động.


+ Cần có phương pháp và hình thức thích hợp để tiến công địch và phải mở
đường buộc địch đi vào thương lượng theo hướng có lợi nhất cho ta. Trên cơ sở đó,
ta đã phối hợp đấu tranh quân sự, chính trị với đấu tranh ngoại giao, tạo địn tấn
công chiến lược quyết định, làm phá sản các chiến lược quân sự và các thủ đoạn
ngoại giao của địch, đưa tới thắng lợi của việc ký kết Hiệp định Pa-ri về Việt Nam
năm 1973.

Hội nghị Trung ương lần thứ 14 (1-1968)
Quyết định đưa cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam lên bước phát triển
cao nhất, dùng phương pháp tổng cơng kích và tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi
quyết định.nhằm thực hiện những nhiệm vụ chiến lược:
1). Tiêu diệt một phần quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của
Mỹ, làm cho quân Mỹ không thể triển khai được âm mưu chính trị và quân sự của
chúng ở Việt Nam; 2). Đập tan ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Mỹ phải chịu thua ở
miền Nam, chấm dứt mọi hành động chiến tranh đối với miền Bắc, tiến tới thống
nhất nước nhà.
Hội nghị Trung ương lần thứ 21 (7-1973)
- Dù tình hình phát triển như thế nào, con đường cách mạng miền Nam vẫn
là con đường cách mạng bạo lực.
-Ta phải nắm vững thời cơ, giữ vững chiến lược tiến công và chỉ đạo linh
hoạt để đưa cách mạng tiến lên.
- Hội nghị Bộ Chính trị tháng 12-1974 và đầu tháng 1-1975 bàn và hạ quyết
tâm giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
- Như vậy, trong suốt những năm 1961-1975, bám sát sự vận động của tình
hình, Đảng đã kịp thời bổ sung, điều chỉnh đường lối, đáp ứng được nhu cầu thực
tiễn, đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi.
Về ngoại giao, Hội nghị lần thứ 2 (11-1960), lần thứ 6 (11-1961), lần thứ 9
(12-1963) nhất qn quan điểm tăng cường tình đồn kết, hữu nghị với các nước
XHCN, tranh thủ mọi sự ủng hộ về tinh thần, vật chất cho cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước. Hội nghị lần thứ 13 (1-1967), lần thứ 16 (5-1969) chủ trương đẩy
mạnh đấu tranh ngoại giao, chủ động tiến công địch, phục vụ sự nghiệp kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước.


c. Xây dựng Đảng về tổ chức
- Xây dựng chi bộ cơ sở, phát triển Đảng viên và kiện toàn bộ máy Đảng
+ Ở miền Bắc

Trong những năm 1954-1957, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng nói chung và
trong quân đội được đẩy mạnh, đặc biệt là công tác chỉnh đốn tổ chức Đảng ở địa
phương (chi bộ, huyện và tỉnh). Trong các đợt đầu của giảm tô, ta đã thu được một số kết
quả, nhưng về sau, nhất là từ các đợt giảm tô thứ 7, 8 và cải cách ruộng đất ở các đợt 4, 5,
thì những sai lầm càng trở nên trầm trọng, thể hiện qua việc đả kích tràn lan vào nội bộ
Đảng; tỷ lệ xử trí đảng viên quá cao, giải tán chi bộ một cách bừa bãi. Như vậy, cuộc vận
động chỉnh đốn chi bộ đã làm cho cơ sở cũ của Đảng ở nông thôn, trong vùng cải cách
ruộng đất bị tổn thất nặng nề. Nhiều đảng viên tốt được rèn luyện trong công tác và trong
chiến đấu từ trước Cách mạng tháng Tám, hoặc trong kháng chiến đã bị xử trí nhầm,
thậm chí đã bị coi là địch và bị đả kích rất nặng. Bên cạnh đó, do đánh giá khơng đúng tổ
chức của Đảng, cho nên ở nhiều nơi, cán bộ đã mất cảnh giác trước những lời khai bậy
của những phần tử xấu, thậm chí, một số cán bộ vì động cơ không tốt đã thúc ép quần
chúng dựng nên tội trạng để tố cáo đảng viên. Mặt khác, trong quá trình cải cách ruộng
đất, nhiều cơ sở Đảng đã ồ ạt kết nạp đảng viên mới, làm cho một số phần tử cơ hội chui
vào Đảng để phá hoại tổ chức.
Trung ương đã chỉ đạo cho tiến hành chỉnh đốn cấp huyện và cấp tỉnh (trong 7
tỉnh), nhưng sau đó theo chỉ thị của Bộ Chính trị đã đình lại, do chủ trương và phương
pháp đều sai lầm. Đây có thể coi là một thất bại đau đớn của Đảng ta. Nhiều cán bộ tốt và
có cơng đã bị xử trí oan; nhiều cấp uỷ cũ của Đảng bị tan rã; cấp uỷ mới xây dựng nói
chung là yếu và rất phức tạp. Lịch sử đấu tranh của nhiều chi bộ và đảng bộ bị xun tạc,
bơi nhọ.
Trước tình hình đó, tháng 9-1956, Hội nghị lần thứ 10 BCHTƯ (khoá II) đã họp
bàn về thắng lợi và sai lầm của cải cách ruộng đất. Về công tác chỉnh Đảng, sau khi
phân tích những sai lầm và tác hại của nó, Hội nghị đã khẳng định: Đảng khơng sợ
chỉ ra sai lầm, ngược lại, Đảng chủ trương phải nhận thức rõ sai lầm, tích cực sửa chữa,
khắc phục sai lầm, giành lấy thắng lợi mới. Trên cơ sở đó, Hội nghị đã đề ra phương
hướng và 10 điểm cụ thể để sửa chữa sai lầm, trong đó có các điểm quan trọng như: Xoá



×