Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ “ĐỔI MỚI CĂN BẢN, TOÀN DIỆN NỀN GIÁO DỤC THEO HƯỚNG CHUẨN HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA, XÃ HỘI HÓA, DÂN CHỦ HÓA VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ”. Ý NGHĨA TRONG ĐỊNH HƯỚNG ĐỔI MỚI, PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC Ở CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUÂN SỰ HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.36 KB, 32 trang )

BỘ QUỐC PHỊNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ


TIỂU LUẬN
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ “ĐỔI MỚI CĂN BẢN, TOÀN DIỆN NỀN
GIÁO DỤC THEO HƯỚNG CHUẨN HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA,
XÃ HỘI HÓA, DÂN CHỦ HÓA VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ”. Ý NGHĨA
TRONG ĐỊNH HƯỚNG ĐỔI MỚI, PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC
Ở CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUÂN SỰ HIỆN NAY
Số phách
Người chấm
Điểm
Bằng số
Bằng chữ
(Do Phòng SĐH
(Ký, ghi rõ họ tên)
ghi)

.......................................................................................................................................................

Số phách
(Do Phòng SĐH ghi)

Họ và tên:
Ngày sinh:
Lớp:
Chuyên ngành:
Ngày thực hiện:
MỤC LỤC


GIÁO DỤC HỌC

24/10/ 2021


2

Trang
Mở đầu
1. Quan điểm của Đảng về “Đổi mới căn bản, tồn
diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại
hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế”.
1.1. Bối cảnh và xu thế đổi mới, phát triển giáo dục trên
thế giới hiện nay
1.2. Bối cảnh trong nước và thực trạng nền giáo dục Việt
Nam hiện nay
1.3. Quan điểm của Đảng về “Đổi mới căn bản, toàn diện
nền giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã
hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế”
2. Ý nghĩa trong đổi mới, phát triển giáo dục ở các
trường đại học quân sự hiện nay.
3.1. Thực trạng công tác giáo dục trong các trường đại học
quân sự
3.2. Giải pháp định hướng đổi mới, phát triển giáo dục ở
các trường đại học quân sự
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

MỞ ĐẦU
Trong suốt quá trình phát triển của lịch sử xã hội lồi người, giáo dục có

vai trị đặc biệt quan trọng. Giáo dục không chỉ là công cụ, phương tiện để
giúp con người tích lũy tri thức, kinh nghiệm, vốn sống để tồn tại mà còn là
một nhân tố tích cực tạo nên nguồn nhân lực – yếu tố quyết định sự tồn tại và


3

phát triển của xã hội loài người. Trong xã hội hiện đại, việc xây dựng và đổi
mới nền giáo dục nhằm đáp ứng ngày càng có hiệu quả cao yêu cầu đòi hỏi
của thực tiễn là “quốc sách hàng đầu” trong chiến lược phát triển của mỗi
quốc gia nhằm chấn hưng đất nước.
Đối với Việt Nam, trong quá trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội đang tạo ra nhiều
cơ hội, đồng thời cũng đặt ra những thách thức không nhỏ đối với sự nghiệp
phát triển giáo dục, đào tạo của đất nước. Đặc biệt, sự phát triển mạnh mẽ của
khoa học và công nghệ, xu thế quốc tế hóa, tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế
sâu, rộng trên nhiều lĩnh vực đã và sẽ mang đến những cơ hội để nền giáo dục
nước ta thâm nhập, tiếp cận và lĩnh hội những tinh hoa của các xu thế, tri thức
và những mơ hình giáo dục hiện đại để tranh thủ các nguồn lực bên ngoài tạo
điều kiện đổi mới căn bản, toàn diện nội dung, phương pháp và hình thức tổ
chức giáo dục; đổi mới quản lý giáo dục, đào tạo, tiến tới xây dựng và phát
triển nền giáo dục Việt Nam mang đậm tính truyền thống, cách mạng, khoa
học, tiến bộ, hiện đại, nhân văn.
Trong những năm qua, cùng với sự đổi mới của nền giáo dục Việt Nam,
quá trình giáo dục đào tạo trong các trường đại học quân sự đã không ngừng
chủ động đổi mới theo các xu thế tiến bộ của thời đại, phù hợp với đặc điểm
của thực tiễn nhằm góp phần đẩy nhanh tốc độ chuẩn hóa, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực phục vụ có hiệu quả sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, bên cạnh những
thành tựu đã đạt được, thì chất lượng, hiệu quả giáo dục trong các trường đại

học quân sự vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập mà một trong những
nguyên nhân cơ bản là quá trình tiếp cận các xu thế giáo dục mới để định
hướng cho quá trình đổi mới, phát triển cơng tác giáo dục ở các nhà trường
còn chậm, thiếu chủ động, chưa sáng tạo và kịp thời. Tính chất, nhiệm vụ,


4

mục tiêu của sự nghiệp xây dựng quân đội trong thời kì mới địi hỏi q trình
giáo dục trong các trường đại học quân sự những yêu cầu, nhiệm vụ, thách
thức mới. Trong đó việc định hướng xu thế, chiến lược phát triển ổn định, có
hiệu quả cơng tác giáo dục là vấn đề cốt lõi, có tầm quan trọng hàng đầu. Từ
việc nghiên cứu về xu thế phát triển của giáo dục thế giới, thực trạng và quan
điểm chỉ đạo đổi mới, phát triển nền giáo dục nền giáo dục Việt Nam sẽ làm
cơ sở để định hướng quá trình vận dụng vào sự nghiệp đổi mới, phát triển
giáo dục trong các trường đại học quân sự hiện nay.

NỘI DUNG
1. Quan điểm của Đảng về “Đổi mới căn bản, tồn diện nền giáo dục
theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập
quốc tế”
1.1. Bối cảnh và xu thế phát triển giáo dục trên thế giới hiện nay


5

Bước sang thế kỷ XXI, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công
nghệ thông tin, truyền thông đã làm gia tăng nhanh chóng lượng tri thức của
nhân loại về quy mơ, tính chất, nội dung và phương pháp tiếp cận. Xu thế
chung của thế giới hiện đại là hướng tới cuộc cách mạng công nghiệp, lấy tri

thức làm động lực phát triển. Trình độ, tốc độ và hiệu quả phát triển của các
quốc gia phụ thuộc chủ yếu vào khả năng nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu
của tri thức vào các lĩnh vực của đời sống xã hội. Cùng với đó thì địi hỏi nền
giáo dục ở mỗi quốc gia phải không ngừng đổi mới mạnh mẽ mục tiêu; nội
dung; phương pháp; hình thức; các mơ hình quản lý, chỉ đạo, điều hành;
không gian và phạm vi tiến hành các hoạt động giáo dục để nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực cung cấp cho xã hội. Xu thế tồn cầu hố và hội nhập
quốc tế vừa là quá trình hợp tác để phát triển đồng thời là sân chơi có tính
cạnh tranh quyết liệt giữa các quốc gia trên con đường hội nhập, phát triển và
khẳng định cũng như giữ gìn, bảo tồn các giá trị, quyền lợi riêng. Tồn cầu
hóa và hội nhập quốc tế đã và đang ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực,
khía cạnh của đời sống kinh tế - văn hóa – xã hội trong đó có giáo dục. Trong
đó việc giải quyết các nhiệm vụ cơ bản như: kết hợp giữa truyền thống và
hiện đại, giữa tự do với định hướng, quản lý điều hành thống nhất, giữa mở
rộng hội nhập để chuyển giao công nghệ và tranh thủ nguồn lực bên ngoài với
phát huy nội lực bên trong, giữa hội nhập với tự chủ trong phát triển giáo dục
là yếu tố đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển giáo dục của các quốc
gia. Mỗi quốc gia, dân tộc phải có biện pháp để bảo đảm cho nền giáo dục
thực hiện được sứ mệnh nhân văn trong tiến trình tồn cầu hóa, biến tồn cầu
hóa trong giáo dục thành xu thế tất yếu, có giá trị và ý nghĩa đối với từng con
người với tất cả nhân loại. Hiện nay, giáo dục không chỉ bị giới hạn về quyền
năng là con đường quan trọng để chuẩn bị nguồn nhân lực có chất lượng của
mỗi đất nước và tạo cơ hội học tập nâng cao trình độ cho mỗi người dân mà


6

cịn là một phương tiện để chuyển giao văn hóa, hợp tác, ngoại giao giúp các
cá nhân trong mỗi quốc gia và toàn cầu hiểu biết, giúp đỡ và tương trợ lẫn
nhau. Phát triển giáo dục đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời của người dân đã

trở thành đòi hỏi và cam kết của mỗi quốc gia. Hệ thống giáo dục, chương
trình và phương pháp giáo dục của các quốc gia tiếp tục được thay đổi, mở
rộng nhằm xóa bỏ mọi ngăn cách giữa nhà trường với xã hội, giữa các quốc
gia để cung cấp ngày càng nhiều tri thức cho nhân dân giúp họ chung sống,
chung tay giải quyết các vấn đề phức tạp nảy sinh trong cuộc sống của từng
cá nhân và toàn xã hội.
Đối với giáo dục đại học, vai trò, tầm quan trọng và vị thế trong xã hội
hiện đại ngày càng được mở rộng và nâng cao. Các trường đại học không
ngừng tiến hành các cải cách toàn diện, sâu rộng để trở thành những trung tâm
đào tạo, nghiên cứu khoa học, sản xuất, chuyển giao công nghệ và xuất khẩu
tri thức. Xu thế xuất hiện của các công ty đại học, các mô hình liên kết giữa
trường – viện nghiên cứu – doanh nghiệp được mở rộng và đa dạng hóa đã và
đang tạo ra những phương thức kết hợp có hiệu quả giữa giáo dục và sản xuất.
Công nghệ thông tin và truyền thông được ứng dụng trên quy mô rộng lớn ở
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt trong giáo dục. Giáo dục từ xa, dạy
học không giáp mặt, giáo dục trong không gian ảo đã và đang trở thành một
xu thế phát triển mạnh của thời đại, tạo nên một nền giáo dục mở, phi truyền
thống, thích ứng với nhu cầu của từng người học giúp cá thể hóa người học và
nâng cao chất lượng giáo dục. Đặc biệt là sự phát triển mạnh mẽ của các loại
hình dịch vụ giáo dục cung cấp cơ hội học tập mọi lúc, mọi nơi và cho mọi
người, trở thành giải pháp hiệu quả nhất để đáp ứng các yêu cầu ngày càng
tăng về giáo dục hiện nay.
Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng của các phương tiện thơng tin,
truyền thơng, tốc độ của xu thế tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế cũng tạo ra


7

những khó khăn, thách thức đối với sự phát triển giáo dục ở các quốc gia. Sự
du nhập, ảnh hưởng đan xen của hệ thống giá trị giữa các quốc gia đang đặt ra

những yêu cầu cho quá trình bảo tồn tính truyền thống, bản sắc văn hóa, định
hướng tự chủ trong phát triển giáo dục. Đặc biệt cuộc đấu tranh gay gắt giữa
các hệ tư tưởng, quan niệm, xu hướng, trường phái phát triển giáo dục là một
thực tế diễn ra thường xuyên và ngày càng quyết liệt. Toàn cầu hố và hội
nhập quốc tế cịn làm nảy sinh những mặt trái trong phát triển giáo dục, nuôi
dưỡng những mầm mống của các tiêu cực trong giáo dục như: lệch chuẩn
trong giáo dục; thương mại hóa giáo dục; các chia rẽ, xung đột về lợi ích
trong giáo dục; chủ nghĩa cá nhân trong giáo dục; sự đảo lộn các quan niệm
về môi trường giáo dục giữa thực và ảo; sự bất bình đẳng trong giáo dục...
Tóm lại, sự phát triển của q trình tồn cầu hóa, quốc tế hóa và hội
nhập quốc tế cũng như sự bùng nổ của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ,
thông tin, truyền thông đã và đang tạo ra những điều kiện và xu thế mới cho
sự vận động, phát triển của giáo dục thế giới đồng thời cũng đặt ra những
thách thức, thời cơ và khó khăn cho các quốc gia khi tiến hành phân tích,
hoạch định cho đường hướng phát triển giáo dục trong đó có Việt Nam.
1.2. Bối cảnh trong nước và thực trạng nền giáo dục Việt Nam hiện nay
Sau hơn hai thập kỉ tiến hành công cuộc đổi mới, đất nước đang bước
vào thời kỳ phát triển mạnh với vị thế và diện mạo mới. Đặc biệt trong 10
năm từ 2001 - 2010, chúng ta đã tranh thủ thời cơ, thuận lợi, vượt qua nhiều
khó khăn, thách thức, nhất là những tác động tiêu cực của hai cuộc khủng
hoảng tài chính - kinh tế khu vực và tồn cầu, đạt được những thành tựu to
lớn và rất quan trọng, đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển. Kinh tế
liên tục phát triển đạt tốc độ bình quân 7,26%/năm. Thu nhập bình quân theo
đầu người các năm tăng liên tục, năm 2011 là 1.300USD. Cơ cấu kinh tế tiếp
tục chuyển dịch theo hướng tăng cường công nghiệp và dịch vụ. Đời sống của


8

nhân dân được cải thiện rõ rệt. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội

chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện. Các lĩnh vực văn hoá, xã
hội đạt thành tựu quan trọng trên nhiều mặt, nhất là xóa đói, giảm nghèo.
Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Chính trị xã hội ổn định; quốc phịng, an ninh được giữ vững. Công tác đối ngoại, hội
nhập quốc tế được triển khai sâu rộng và hiệu quả, góp phần tạo mơi trường
hịa bình, ổn định và tăng thêm nguồn lực cho phát triển đất nước. Việt Nam
đang tích cực tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế với nhịp độ tăng trưởng
kinh tế khá cao. Việc chủ động tích cực hội nhập quốc tế, và gia nhập Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO) tạo thêm nhiều thuận lợi cho quá trình phát triển
kinh tế xã hội của đất nước.Tuy nhiên, nền kinh tế nước ta vẫn là nền kinh tế
có mức thu nhập thấp. Các chỉ số về kết cấu hạ tầng, phát triển con người vẫn
ở thứ hạng thấp so với nhiều nước trên thế giới. Năng suất lao động cịn thấp,
cơ cấu kinh tế có chuyển dịch nhưng cịn chậm: tỷ trọng dịch vụ và cơng
nghiệp trong GDP cịn thấp, tỷ trọng nơng nghiệp tuy có giảm nhưng vẫn ở
mức khá cao. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội chưa đáp ứng được yêu cầu phát
triển. Hoạt động kinh tế đối ngoại còn hạn chế, thiếu lộ trình chủ động hội
nhập quốc tế. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn
nhiều vướng mắc, chưa đồng bộ. Hiệu lực quản lý nhà nước đối với nhiều
lĩnh vực kinh tế - xã hội cịn thấp.
Sự phát triển của tình hình kinh tế - chính trị - văn hóa – xã hội của đất
nước trong giai đoạn hiện nay tạo ra nhiều cơ hội, đồng thời cũng đặt ra
những thách thức không nhỏ đối với sự nghiệp phát triển giáo dục, đào tạo.
Trong điều kiện hiện nay, nền giáo dục nước ta có cơ hội tiếp cận với các xu
thế, quan điểm, mơ hình, phương thức giáo dục hiện đại để tiếp thu các thành
tựu, công nghệ, nguồn lực nhằm phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục đào
tạo. Đây là điều kiện thuận lợi để đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục đáp


9

ứng nhu cầu của xã hội và từng cá nhân. Quá trình hội nhập với các trào lưu

đổi mới mạnh mẽ trong giáo dục đang diễn ra ở quy mô toàn cầu tạo cơ hội
thuận lợi cho nước ta tận dụng các kinh nghiệm quốc tế để đổi mới làm thu
hẹp khoảng cách phát triển giữa nước ta với các nước khác. Hợp tác quốc tế
được mở rộng tạo điều kiện tăng đầu tư của các nước, các tổ chức quốc tế và
các doanh nghiệp nước ngoài, tăng nhu cầu tuyển dụng lao động qua đào tạo,
tạo thời cơ để phát triển giáo dục. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 20112020 với yêu cầu tái cơ cấu nền kinh tế và đổi mới mơ hình tăng trưởng cùng
với Chiến lược phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2011-2020 là tiền đề lý
luận cơ bản để chúng ta thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay cũng đặt ra nhiều thách thức mới đối
với sự nghiệp phát triển giáo dục, đào tạo, như: khoảng cách phát triển kinh
tế, khoảng cách về giáo dục, đào tạo giữa nước ta và các nước ngày càng mở
rộng. Quá trình hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế thị trường làm nảy sinh
những nguy cơ xâm nhập của văn hóa và lối sống khơng lành mạnh làm xói
mịn dần bản sắc văn hóa dân tộc trong giáo dục; sự thâm nhập của các loại
dịch vụ giáo dục, đào tạo kém chất lượng từ bên ngồi có thể gây rủi ro lớn
đối với giáo dục, đào tạo. Khả năng xuất khẩu giáo dục kém chất lượng từ
một số nước có thể gây nhiều lực cản đối với giáo dục Việt Nam khi mà năng
lực quản lý của ta đối với giáo dục xun quốc gia cịn yếu, thiếu nhiều chính
sách và giải pháp thích hợp để định hướng và giám sát chặt chẽ các cơ sở giáo
dục có yếu tố nước ngồi. Ở trong nước, sự phân hóa trong xã hội có chiều
hướng gia tăng. Khoảng cách giàu nghèo giữa các nhóm dân cư, khoảng cách
phát triển giữa các vùng miền ngày càng rõ rệt. Điều này có thể làm tăng
thêm tình trạng bất bình đẳng trong tiếp cận giáo dục giữa các vùng miền và
giữa các đối tượng người học. Ngoài ra, nhu cầu phát triển nhanh giáo dục,
đào tạo đáp ứng địi hỏi của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất


10

nước, phát triển kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế đang đặt ra yêu cầu ngày

càng cao đối với phát triển giáo dục, đào tạo, trong khi nguồn lực đầu tư cho
giáo dục, đào tạo có hạn, tạo sức ép lớn cho sự phát triển giáo dục, đào tạo.
Những vấn đề đó đang đặt ra yêu cầu cấp bách phải đổi mới cả về triết lý, lý
luận cũng như những giải pháp thực tiễn để phát triển giáo dục, đào tạo.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng với sự phát triển
của xã hội, lĩnh vực giáo dục và đào tạo tiếp tục phát triển mạnh mẽ trên cả ba
mặt: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Đầu tư cho giáo
dục-đào tạo ngày càng tăng. Quy mô đào tạo không ngừng được mở rộng.
Chất lượng dạy nghề có nhiều chuyển biến tích cực. Đổi mới giáo dục-đào tạo
đang được tích cực triển khai ở mọi cấp học. Việc xã hội hoá giáo dục và xây
dựng xã hội học tập đã thu được kết quả bước đầu. Về thành tựu của phát
triển giáo dục, đào tạo, Đại hội XI của Đảng đánh giá "Đổi mới giáo dục đạt
được một số kết quả bước đầu. Chi ngân sách nhà nước cho giáo dục đào tạo
trên 20% tổng chi ngân sách; việc huy động các nguồn lực xã hội cho giáo
dục, đào tạo, phát triển giáo dục-đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó
khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được quan tâm. Quy mô giáo dục tiếp
tục được phát triển. Đến năm 2010, tất cả các tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn
phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng, năm 2010
đạt 40% tổng số lao động đang làm việc" 1 _ftn1. Nguyên nhân chủ yếu là do sự ổn định chính trị và những thành quả
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đã cải thiện đời sống nhân dân, tạo
điều kiện cho sự nghiệp giáo dục-đào tạo phát triển. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, sự quan tâm của Quốc hội và sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ và
chính quyền các cấp, đặc biệt là sự quan tâm, tham gia đóng góp của các đồn
thể, tổ chức xã hội trong và ngồi nước, cùng với lịng u nước, yêu người,
1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, tr 153


11


yêu nghề, ý thức trách nhiệm, sự nỗ lực của đội ngũ nhà giáo và quyết tâm đổi
mới của ngành giáo dục đã phát huy mạnh mẽ truyền thống hiếu học của dân
tộc để tạo nên những thành quả giáo dục to lớn, góp phần nâng cao dân trí,
phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phát triển kinh tế - xã hội và
giữ vững an ninh, chính trị của đất nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích và tiến bộ đã đạt được, giáo dục và
đào tạo nước ta những năm qua vẫn còn nhiều yếu kém, bất cập kéo dài, chậm
được khắc phục. Trong đó, đặc biệt là chất lượng, hiệu quả giáo dục-đào tạo thấp
và công tác quản lý nhà nước về giáo dục-đào tạo còn nhiều yếu kém, chưa theo
kịp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước. Đại
hội XI của Đảng đánh giá: "Chất lượng giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu
cầu phát triển, nhất là đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao còn hạn chế; chưa
chuyển mạnh sang đào tạo theo nhu cầu của xã hội. Chưa giải quyết tốt mối
quan hệ giữa tăng số lượng, quy mô với nâng cao chất lượng, giữa dạy chữ và
dạy người. Chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học lạc hậu, đổi mới
chậm; cơ cấu giáo dục không hợp lý giữa các lĩnh vực, ngành nghề đào tạo;
chất lượng giáo dục toàn diện giảm sút, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự
nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố. Quản lý nhà nước về giáo dục còn bất
cập. Xu hướng thương mại hoá và sa sút đạo đức trong giáo dục khắc phục còn
chậm,

hiệu

quả

thấp

đang


trở

thành

nỗi

bức

xúc

của



hội"2 - _ftn2. Nguyên nhân của những yếu
kém trước hết phải kể đến trên thực tế việc thấu triệt và thực hiện quan điểm
“Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu” chưa được tiến hành đầy đủ; tư duy
về giáo dục-đào tạo cịn chậm đổi mới, chưa thích ứng với nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; chưa nhận thức đúng vai trò
quyết định của đội ngũ nhà giáo và sự cần thiết phải tập trung đổi mới quản lý
2

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, tr167168


12

nhà nước về giáo dục, đào tạo. Mặt khác, trong quá trình hội nhập quốc tế, giáo
dục và đào tạo phải đối mặt với nhiều thách thức lớn, bị chi phối bởi tâm lý
truyền thống nặng về khoa cử, bằng cấp và chịu nhiều tác động tiêu cực của mặt

trái cơ chế thị trường, sức ép về nhu cầu học tập của nhân dân ngày càng cao,
trong khi khả năng đáp ứng của ngành và trình độ phát triển kinh tế của đất nước
cịn hạn chế. Khơng có quy hoạch phát triển nhân lực của cả nước, của các
ngành và địa phương làm căn để xác định mục tiêu, kế hoạch, quy mô, cơ cấu và
chất lượng giáo dục, đào tạo.
Những yếu kém của giáo dục nước ta nếu không sớm được khắc phục,
không những sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển bền vững của ngành
giáo dục mà cịn góp phần làm gia tăng nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so
với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy đổi mới tồn diện nền
giáo dục Việt Nam là yêu cầu khách quan, nhu cầu cấp thiết của xã hội.
1.3. Quan điểm của Đảng về “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo
hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế”
Kế thừa và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục, đào tạo và tinh hoa của giáo
dục thế giới vào phân tích thực trạng nền giáo dục Việt Nam. Xuất phát từ yêu
cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội và nhất quán quan điểm và tư tưởng lãnh
đạo giáo dục của các kì đại hội VI, VII, VIII, IX và X. Đại hội XI của Đảng
xác định "Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn
diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hố,
dân chủ hố và hội nhập quốc tế, trong đó đổi mới cơ chế quản lý giáo dục,
phát triển đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt. Tập trung
nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống,
năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng lập nghiệp. Đổi mới cơ chế
tài chính giáo dục. Thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục-đào tạo ở tất cả


13

các bậc học. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa
nhà trường với gia đình và xã hội"3 - _ftn3.

Đổi mới căn bản, toàn diện là yếu tố quan trọng hàng đầu, quyết định
cho những thay đổi mang tính chiến lược cho nền giáo dục nước ta. Đây là
vấn đề có ý nghĩa sống cịn của nền giáo dục trước ngưỡng cửa của sự phát
triển mới. Việc đổi mới toàn diện sẽ khắc phục căn bản những hạn chế quá
chú ý chuyên sâu mà thiếu tính đa dạng, tồn diện của nền giáo dục. Đổi mới
căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại
hoá, xã hội hoá, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế là một quan điểm đúng đắn
của Đảng thể hiện sự đổi mới, bám sát vào thực tiễn làm cho giáo dục và đào
tạo không tách rời với xu thế phát triển chung của đất nước và thế giới. Đây là
thể hiện cụ thể sự phát triển tư duy lý luận của Đảng về giáo dục-đào tạo. Đổi
mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo Việt Nam theo Đại hội XI tập
trung thực hiện tốt những quan điểm chỉ đạo chủ yếu sau:
Thứ nhất, phát triển giáo dục, đào tạo là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước
và của toàn dân, là quốc sách hàng đầu. Do vậy, phải tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng, huy động cả hệ thống chính trị, phát huy đóng góp của mọi tầng
lớp nhân dân chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo;
Thứ hai, đổi mới giáo dục, đào tạo phải nhằm mục tiêu xây dựng nền
giáo dục có tính dân tộc, hiện đại, qn triệt nguyên lý học đi đôi với hành, lý
luận gắn liền với thực tiễn, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và
xã hội; đáp ứng nhu cầu nhân lực phát triển đất nước, nhất là nhân lực chất
lượng cao, góp phần xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội bình đẳng để mọi
người dân đều có thể đi học và học tập suốt đời;
Thứ ba, đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển; đa dạng hóa các nguồn
lực đầu tư cho giáo dục, đào tạo; ưu tiên ngân sách nhà nước dành cho phát
3

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, tr130131


14


triển giáo dục, đào tạo ở vùng khó khăn, cho giáo dục phổ cập và đào tạo
nhân lực chất lượng cao. Phát triển giáo dục, đào tạo phải gắn với phát triển
kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng và an ninh, với tiến bộ khoa học - công
nghệ và hội nhập quốc tế;
Thứ tư, mở rộng hợp tác quốc tế về giáo dục, đào tạo phải trên cơ sở giữ
gìn và phát huy bản sắc dân tộc, giữ vững độc lập, chủ quyền, định hướng xã
hội chủ nghĩa. Khuyến khích các cơ sở giáo dục, đào tạo trong nước hợp tác
với các đối tác nước ngoài trong đào tạo nhân lực và nghiên cứu khoa học,
chuyển giao công nghệ, nâng cao trình độ chun mơn của đội ngũ giảng viên
và cán bộ quản lý giáo dục, đào tạo.
Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục-đào tạo là phải tiến hành cuộc cải
cách giáo dục toàn diện, hệ thống, thiết thực trên tất cả các mặt, các lĩnh vực và
các yếu tố của nền giáo dục. Đổi mới phải bắt đầu từ nguồn gốc cốt lõi của nền
giáo dục nhưng phải có tính kế thừa, phát triển những quan điểm của Đảng
trong lịch sử tạo được bước phát triển tồn diện cả về số lượng, chất lượng và
trình độ giáo dục-đào tạo của đất nước. Đổi mới căn bản phải gắn với đổi mới
toàn diện để tạo sự chuyển biến đồng bộ cả về quy mơ, trình độ, chất lượng,
đến cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý; cả yêu cầu chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội
hóa, dân chủ hóa giáo dục với yêu cầu hội nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực
của đất nước. Trên thực tế đây là một cuộc cách mạng giáo dục trong tất cả hệ
thống giáo dục quốc dân và tất cả các bộ phận cấu thành của hệ thống này. Để
thực hiện thành cơng q trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo
nước ta theo tinh thần Đại hội XI của Đảng, cần thực hiện một số giải pháp chủ
yếu sau:
Thứ nhất, Đổi mới nhận thức và phát huy có hiệu quả vị trí, vai trị
của giáo dục và đào tạo vào quá trình phát triển nguồn nhân lực. Đại hội


15


XI đã khẳng định: “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu” 4. Theo đó, giáo
dục-đào tạo phải được nhận thức đầy đủ, rõ ràng và cụ thể hơn về vị trí, vai
trị trong mối quan hệ với các lĩnh vực khác, cũng như đối với sự phát triển
chung của xã hội. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục trước hết phải tạo
sự chuyển biến về nhận thức, phải tạo được sự nhất trí đồng thuận cao trong
xã hội về nhận định, đánh giá chính xác và phát huy có hiệu quả vai trị của
giáo dục-đào tạo với sự phát triển xã hội và quốc gia.
Thứ hai, Thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển và nâng cao chất
lượng giáo dục, đào tạo. Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy
và học, phương pháp thi, kiểm tra theo hướng hiện đại; nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền thống
lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành,
tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội. Đề cao trách nhiệm của gia
đình và xã hội phối hợp chặt chẽ với nhà trường trong giáo dục thế hệ trẻ.
Đầu tư hợp lý, có hiệu quả xây dựng một số cơ sở giáo dục-đào tạo đạt trình
độ quốc tế. Tiếp tục xã hội hóa các nguồn lực đầu tư cho giáo dục đào tạo,
huy động mọi nguồn lực để phát triển sự nghiệp giáo dục và xây dựng xã hội
học tập. Đổi mới cơ chế tài chính và đầu tư cho giáo dục, bảo đảm tính minh
bạch, thiết thực, hiệu quả của các nguồn cung cho các chiến lược và dự án
phát triển giáo dục. Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên trên cơ sở thực
hiện có hiệu quả việc xây dựng, chuẩn hóa đội ngũ giảng viên cả về số lượng
và chất lượng, có trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp, toàn tâm toàn ý với
sự nghiệp giáo dục. Nâng cao mức sống, điều kiện làm việc, chất lượng đào tạo
và bố trí, sử dụng hợp lý, hiệu quả đội ngũ giáo viên. Cần nhanh chóng khắc
phục các yếu kém trong bố trí, sắp xếp và sử dụng để sớm xây dựng được đội
ngũ nhà giáo đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu và bảo đảm các yêu cầu về
4

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H.2011, tr130



16

phẩm chất, đạo đức, năng lực chuyên môn phù hợp với yêu cầu đổi mới giáo
dục. Phải có chế độ chính sách, đặc biệt là chính sách về lương, thưởng, thăng
tiến, phát triển chuyên môn, đánh giá, đãi ngộ phù hợp để tạo động lực và hiệu
quả làm việc của đội ngũ giáo viên.
Thứ ba, Đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý giáo dục. Tổ chức xây
dựng và hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân cho hợp lý theo mơ hình giáo
dục mở, mơ hình xã hội học tập với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liên
tục, liên thông giữa các bậc học và ngành học. Xây dựng được hệ thống các
cơ sở đào tạo nhân lực tiên tiến, hiện đại, đa dạng, cơ cấu ngành nghề đồng
bộ, đa cấp, năng động, liên thông giữa các cấp và các ngành đào tạo trong
nước và quốc tế, phân bố rộng khắp trên cả nước. Tăng cường hợp tác quốc tế
trong giáo dục đào tạo. Đổi mới cơ chế quản lý giáo dục. Tập trung vào quản
lý nội dung và chất lượng giáo dục và đào tạo, tăng cường công tác kiểm tra,
thanh tra đối với các cơ sở giáo dục và đào tạo. Tổ chức lại hệ thống cơ quan
quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo; nâng cao hiệu lực chỉ đạo tập trung
thống nhất của Chính phủ trong việc thực hiện chiến lược, chính sách phát
triển giáo dục. Đẩy mạnh cơng tác nghiên cứu khoa học giáo dục giải quyết
tốt những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra trong quá trình đổi mới giáo dục,
đào tạo. Nghiên cứu bổ sung hồn thiện đường lối, chủ trương, chính sách
giáo dục, đào tạo của Đảng và Nhà nước, đổi mới nội dung, phương pháp giáo
dục. Thường xuyên đánh giá tác động của các chủ trương, chính sách, các giải
pháp đổi mới giáo dục, đào tạo để có biện pháp điều chỉnh giáo dục tiến kịp
với yêu cầu của thời đại và không lạc hậu so với tiến trình đổi mới kinh tế,
văn hoá, xã hội. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, sự
giám sát của các đoàn thể nhân dân đối với tiến trình đổi mới giáo dục, đào
tạo.



17

Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo đóng một vai trị quan
trọng trong việc vận động và phát triển của đất nước, là một trong những nhân
tố cơ bản quyết định tương lai của dân tộc, là chìa khố để mở ra tiềm năng
cho sự phát triển bền vững của đất nước. Đổi mới toàn diện, sâu sắc, triệt để
có tính cách mạng nền giáo dục và đào tạo là một điều kiện tiên quyết để đưa
nước ta tiến lên nhanh và vững trên con đường hiện đại hóa đất nước, hội
nhập quốc tế và sánh vai cùng các quốc gia tiên tiến trên thế giới trong kỷ
ngun thơng tin và tồn cầu hóa tạo ra động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới
thành công và hoàn thành từng bước mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã
hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Nằm
trong quy luật chung của giáo dục Việt Nam, việc nghiên cứu và vận dụng
sáng tạo các quan điểm của Đại hội XI về đổi mới giáo dục là vấn đề có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng, cấp thiết từng bước góp phần đẩy nhanh quá trình
chuẩn hóa, hiện đại hóa và hội nhập của hệ thống các trường đại học quân sự
vào quá trình phát triển của nền giáo dục Việt Nam.
2. Ý nghĩa trong đổi mới, phát triển giáo dục ở các trường đại học
quân sự hiện nay.
2.1. Thực trạng công tác giáo dục đào tạo trong các trường đại học
quân sự
Quán triệt và thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII, Nghị quyết
Đại hội lần thứ X, XI của Đảng, Nghị quyết 93, Nghị quyết 86 của Đảng ủy
Quân sự trung ương (nay là Quân ủy Trung ương) công tác giáo dục, đào tạo
trong các trường đại học quân sự đã có sự phát triển; cơ bản đạt được mục
tiêu, yêu cầu về số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ, nhân viên chuyên môn
kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng,
chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện nay, góp phần thực hiện thắng lợi

nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Các trường đại học quân sự đã


18

khơng ngừng cải tiến, đổi mới tồn diện, cả về tư duy và thực tiễn sư phạm.
Quá trình giáo dục đã khơng ngừng được củng cố, hồn thiện, đổi mới trong
tất cả các khâu, các bước từ việc xây dưng mục tiêu, mơ hình và quy trình đào
tạo, đổi mới nội dung, hồn thiện phương pháp, đa dạng hóa các hình thức,
chú trọng tăng cường đầu tư phương tiện vật chất kĩ thuật đến đổi mới hoạt
động kiểm tra, đánh giá kết quả. Các trường đại học quân sự được củng cố,
phát triển bao gồm nhiều bậc học, ngành học tương đối hoàn chỉnh đáp ứng
được về cơ bản yêu cầu đào tạo của quân đội và gắn với hệ thống giáo dục
quốc dân, tạo được sự phối hợp, liên kết, hỗ trợ giữa các trường trong và
ngoài quân đội. Hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học từng bước được
đầu tư theo hướng tích hợp liên kết hỗ trợ cho nhau. Quy trình và phương
châm đào tạo bảo đảm tốt các mối liên hệ giữa lý luận với thực tiễn, nhà
trường với chiến trường, học với hành, nhà trường và đơn vị và gia đình.
Cơng tác nghiên cứu khoa học của các nhà trường được đẩy mạnh, phục vụ
hiệu quả cho hoạt động giảng dạy. Công tác tuyển chọn nguồn đào tạo có
nhiều chuyển biến tích cực, chất lượng từng bước được nâng lên. Chiến lược
đầu tư xây dựng trường lớp, phục vụ giáo dục được xây dựng và triển khai
thực hiện nghiêm túc, nhanh chóng, kịp thời và có hiệu quả cao. Cơ sở vật
chất của các nhà trường được đầu tư xây dựng, nâng cấp với hệ thống phịng
học, phịng thí nghiệm, thao trường, bãi tập có trang thiết bị hiện đại; ứng
dụng cơng nghệ thơng tin, kỹ thuật mô phỏng vào giáo dục.
Hệ thống mục tiêu đào tạo từng bước được hoàn thiện và củng cố mang
tính hệ thống cao. Các tiêu chí được xây dựng bảo đảm tốt các chỉ số về tính
định lượng và định tính. Gắn các tiêu chí về trình độ học vấn với kỹ năng thực
hành và phẩm chất nghề nghiệp trong một chỉnh thể thống nhất. Các trường

đại học quân sự đã chú trọng công tác xây dựng và hồn thiện hệ thống nội
dung, chương trình đào tạo bảo đảm chặt chẽ tính Đảng, tính khoa học, hiện


19

đại, toàn diện, đa dạng, chuyên sâu, cơ bản, hệ thống và thiết thực. Các học
viện, trường đại học quân sự, thiết kế chương trình kết hợp một cách hợp lý
giữa yêu cầu đào tạo chức vụ và đào tạo trình độ học vấn. Bước đầu bảo đảm
được sự liên thơng với các chương trình của một số ngành khác thuộc các
nhóm ngành khoa học quân sự, do đó cho phép tạo được sự liên kết đào tạo
giữa một số trường của hệ thống nhà trường quân đội. Phương pháp giáo dục
đã được đổi mới theo hướng tích hợp giữa các phương pháp giáo dục truyền
thống với phương pháp giáo dục hiện đại, tăng các phương pháp bồi dưỡng
phương pháp học tập, nghiên cứu, kỹ năng thực hành, tư duy sáng tạo, khắc
phục lối truyền thụ “một chiều”; “độc thoại”. Đi đôi với việc đổi mới các
phương pháp giáo dục, các trường đại học quân sự đã chú trọng đầu tư hiện
đại hóa cơ sở vật chất kĩ thuật, phương tiện giáo dục phục vụ cho q trình sử
dụng có hiệu quả các phương pháp giáo dục. Hoạt động kiểm tra, đánh giá kết
quả cũng được cải tiến, đổi mới theo hướng đa dạng, chính xác, chặt chẽ, hiện
đại, kết hợp kiểm tra lý thuyết với kiểm tra thực hành, kiểm tra thường xuyên
với kiểm tra định kì theo một quy trình chặt chẽ. Hệ thống các tiêu chí kiểm
tra đánh giá cũng khơng ngừng được hồn thiện, đổi mới tiếp cận với các
chuẩn quốc tế và quốc gia tạo cơ sở và điều kiện tăng độ chính xác của kết
quả đánh giá. Liên kết, hợp tác đào tạo giữa các nhà trường quân đội với
nhau, giữa các nhà trường quân đội với các trường dân sự và với một số nước
trên thế giới được mở rộng và tăng cường. Cơng tác chuẩn hóa, kiện tồn và
phát triển nguồn nhân lực sư phạm đã được quan tâm và tiến hành có hiệu
quả. Xây dựng quy trình tuyển chọn và bồi dưỡng đội ngũ giảng viên tại các
nhà trường bảo đảm tính thống nhất, kế thừa và theo một định hướng xác

định. Các chế độ chính sách đãi ngộ cho cống hiến của đội ngũ giảng viên và
cán bộ quản lý khơng ngừng được hồn thiện, củng cố, đi vào nền nếp đạt
chất lượng tốt tạo cho đội ngũ sư phạm yên tâm và trách nhiệm với nhiệm vụ


20

được giao. Cơng tác quản lý, điều hành q trình giáo dục của các nhà trường
bảo đảm tính kế hoạch, tính khoa học, tính hiệu quả cao và thực sự đã đi vào
nền nếp phục vụ thiết thực cho quá trình xây dựng nhà trường chính quy, mẫu
mực đạt vững mạnh tồn diện.
Bên cạnh những mặt đã đạt được thì chất lượng quá trình giáo dục trong
các trường đại học quân sự cũng còn bộc lộ nhiều hạn chế như: Mục tiêu, mơ
hình đào tạo đối với từng cấp, từng bậc học chưa được bổ sung kịp thời và rõ
ràng. Quy trình đào tạo chưa gắn với quy hoạch sử dụng. Chưa kết hợp chặt
chẽ yêu cầu đào tạo cán bộ theo chức vụ với nâng cao trình độ học vấn cùng
bậc học, mặt bằng kiến thức chưa tương ứng với hệ thống giáo dục quốc dân.
Việc phát hiện, tuyển chọn, đào tạo bồi dưỡng tài năng trẻ trong quá trình giáo
dục chưa được quan tâm đúng mức. Chất lượng các luận án, luận văn và khả
năng nghiên cứu độc lập của một số nghiên cứu sinh, học viên cao học còn
hạn chế. Hiệu quả ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học, công nghệ vào
thực tiễn chưa cao. Các nhà trường qn sự cịn phân tán, khép kín; chưa hình
thành được những trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học mạnh, chậm bổ
sung các nội dung chương trình chuẩn cho từng bậc học, cấp học và ngành
học. Phương pháp giáo dục còn giản đơn, nặng về truyền thụ lý thuyết, chưa
kịp thời cập nhật thông tin khoa học mới vào trong giảng dạy. Việc kết hợp
giữa giáo dục và dạy học của một số trường chưa được quan tâm đúng mức,
chưa tiến hành đồng bộ, chưa thực sự coi trọng giáo dục nhân cách học viên.
Một số nhà trường chậm đổi mới ứng dụng công nghệ giáo dục hiện đại vào
quá trình giảng dạy, trang bị phương tiện giáo dục cịn lạc hậu. Ngồi ra tính

hiệu quả trong khai thác các phương tiện giáo dục còn nhiều hạn chế do một
số nhà giáo ngại đổi mới phương pháp giảng dạy hiện đại.
Đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục còn thiếu về số lượng,
chất lượng còn hạn chế đặc biệt là kỹ năng sư phạm, kinh nghiệm thực tiễn và


21

khả năng sử dụng các phương tiện kĩ thuật hiện đại trong q trình giáo dục.
Chính sách đối với giảng viên chưa được kịp thời bổ sung, sửa đổi cho phù
hợp. giảng viên chủ yếu hướng vào việc thực hiện chức năng truyền thụ, chưa
chú ý đến việc thực hiện chức năng tổ chức, điều chỉnh hoạt động nhận thức
của người học. Bên cạnh đó nguồn tuyển chọn đào tạo ở các trường đại học
quân sự chất lượng còn thấp, trình độ nhận thức của học viên khơng đồng đều
đây cũng là một trong những nguyên nhân làm cho chất lượng giáo dục tại
các nhà trường đạt kết quả không cao. Cơng tác điều hành có nhà trường chưa
chặt chẽ, tập trung, thống nhất. Việc phân công, phân cấp và phối hợp giữa
các cơ quan chức năng và các ngành nghiệp vụ để giải quyết nhằm nâng cao
chất lượng giáo dục chưa được rõ ràng, hợp lý.
Những hạn chế này đã và đang là những vấn đề bức thiết đặt ra địi hỏi
phải có những phương hướng và biện pháp cơ bản để khắc phục nhằm nâng
cao chất lượng giáo dục ở các trường đại học quân sự thực hiện có hiệu quả
mục tiêu đào tạo đội ngũ cán bộ, nhân viên chun mơn ưu tú làm nịng cốt
cho cơng cuộc xây dựng quân đội chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại
đáp ứng với yêu cầu của cách mạng trong tình hình mới.
2.2. Giải pháp định hướng đổi mới, phát triển giáo dục ở các trường đại
học quân sự
Quán triệt quan điểm “chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa
và hội nhập quốc tế” trong đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo Đại
hội XI vào đổi mới, phát triển giáo dục ở các trường đại học quân sự cần tập

trung thực hiện tốt những giải pháp định hướng sau:
Một là, Tiếp tục đổi mới tư duy giáo dục trong các trường đại học quân
sự. Đây là biện pháp quan trọng, là cơ sở định hướng đổi mới giáo dục ở các
trường đại học quân sự có hiệu quả. Đổi mới tư duy giáo dục trước hết phải
đổi mới mạnh mẽ tư duy nhận thức về vai trò của giáo dục, phương pháp phát


22

huy có hiệu quả vai trị của giáo dục trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực
quân sự cho quân đội. Muốn vậy phải nâng cao nhận thức cho các lực lượng ở
đại học quân sự về vị trí, vai trị, tầm quan trọng, u cầu, nội dung và quy
trình tiến hành đổi mới công tác theo theo hướng “chuẩn hóa, hiện đại hóa,
dân chủ hóa và hội nhập quốc tế” phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt
Nam và đặc thù hoạt động của từng nhà trường. Đặc biệt chú trọng quán triệt
cho các lực lượng sư phạm nắm vững mục tiêu, nhiệm vụ và chiến lược phát
triển giáo dục đào tạo trong Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, Chiến lược phát
triển giáo dục giai đoạn 2011 – 2012 và Chiến lược phát triển kinh tế–xã hội
giai đoạn 2011 – 2020; xu thế phát triển của giáo dục ở Việt Nam và trên thế
giới. Ngoài ra cần xác lập và định hình một tư duy mới trong việc quán triệt
và thực hiện linh hoạt, sáng tạo, chính xác các nguyên tắc giáo dục, quản lý
giáo dục ở các trường đại học quân sự phù hợp với xu thế của đất nước và
thực tiễn giáo dục trong quân đội trên cơ sở dân chủ hóa và xã hội hóa. Trên
cơ sở đổi mới tư duy từng bước xác lập đồng bộ các hệ giải pháp để phát huy
trách nhiệm của tất cả các lực lượng tham gia vào tiến trình đổi mới cơng tác
quản lý giáo dục trong các nhà trường theo hướng “dân chủ hóa, xã hội hóa”,
từng bước khắc phục triệt để, có hiệu quả sự lạc hậu, bảo thủ, tư tưởng “khép
kín”, “mệnh lệnh hành chính” trong giáo dục và quản lý giáo dục.
Hai là, Đổi mới tồn diện, đồng bộ q trình giáo dục ở đại học quân sự
theo hướng “chuẩn hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”. Q trình giáo

dục là một chỉnh thể gồm nhiều nhân tố có mối quan hệ thống nhất, chặt chẽ
với nhau. Đổi mới quá trình giáo dục trước hết cần tập trung đổi mới mục tiêu
giáo dục ở các trường đại học quân sự theo hướng chuẩn hóa, tồn diện cả thể
lực, trí lực và đạo đức; năng lực tự học, tự đào tạo; năng động, sáng tạo; có tri
thức quân sự và kỹ năng nghề nghiệp; có khả năng thích ứng nhanh, chủ động
trong xử lý các tình huống. Giải quyết khoa học các mối quan hệ về phẩm


23

chất và năng lực, giữa tính định tính và tính định lượng, giữa kiến thức và kỹ
năng, giữa trình độ học vấn theo chuẩn và chức danh theo quy định của quân
đội trong xây dựng mục tiêu giáo dục. Từng bước đổi mới, hồn thiện quy
trình giáo dục theo hướng khoa học, hiện đại, thiết thực, chính xác, chặt chẽ.
Chú trọng ứng dụng các thành tựu mới của công nghệ giáo dục hiện đại vào
hoàn thiện các khâu, các bước của quy trình giáo dục. Chủ động liên kết với
các nhà trường trong và ngồi qn đội trong q trình xây dựng quy trình
đào tạo của từng mơn học, từng ngành học ở các trường đại học quân sự cho
phù hợp. Đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp, hình thức giáo dục
theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, đa dạng, chuyên sâu, cơ bản, thiết thực,
khoa học. Trước hết phải bảo đảm cho nội dung, chương trình giáo dục đáp
ứng yêu cầu quy chuẩn theo tiêu chuẩn quốc gia, quốc tế, phù hợp với thực
tiễn quá trình giáo dục trong các trường đại học quân sự, không bị lạc hậu so
với sự biến đổi mạnh mẽ của thực tiễn. Tiếp theo cần tiến hành chuẩn hóa hệ
thống các khái niệm, các phạm trù của môn học, ngành khoa học, tỷ lệ các
thành phần của nội dung giáo dục, các nguồn tài liệu, giáo khoa, giáo trình sử
dung trong giảng dạy; chuẩn hoá hệ thống giáo án của giảng viên, chuẩn hố
về phương pháp, hình thức giảng dạy và học tập; chuẩn hóa về thời lượng
dành cho các nội dung giáo dục lý thuyết và thực hành. Hiện đại hóa nội dung
giáo dục là phải bảo đảm cho nội dung giáo dục phù hợp với trình độ hiện đại

của khoa học - cơng nghệ và văn hố. Bên cạnh đó trong nội dung, chương
trình giáo dục cần được đổi mới theo hướng tăng tính liên thơng, liên kết hỗ
trợ của nhiều ngành khoa học vào nội dung của từng môn học. Bảo đảm tính
cân đối, hài hịa, tồn diện, thiết thực, hiệu quả trong nội dung và chương
trình đào tạo.
Đa dạng hóa, hiện đại hóa các phương pháp, hình thức giáo dục, tích hợp
giữa các phương pháp truyền thống với phương pháp giáo dục hiện đại. Sử


24

dụng đa dạng theo hướng kết hợp tối ưu sự tương hỗ của nhiều phương pháp,
hình thức trong quá trình giáo dục bảo đảm phát huy cao độ tính tích cực, chủ
động, độc lập, sáng tạo trong nhận thức và năng lực tự học của học viên trong
học tập và nghiên cứu khoa học đồng thời bồi dưỡng cho học viên phương
pháp tự học, tự nghiên cứu khoa học. Tích cực ứng dụng các thành tựu của
công nghệ thông tin vào trong quá trình giáo dục ở các trường đại học quân sự.
Thường xuyên đầu tư, hiện đại hóa cơ sở vật chất, phương tiện giáo dục, khai
thác và sử dụng có hiệu quả các phần mềm cơng nghệ thơng tin trong đổi mới
phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả học tập và trong tự học của học viên.
Bên cạnh việc đổi mới và hiện đại hóa các phương pháp giáo dục đòi hỏi phải
thường xuyên tiến hành đa dạng hóa, hiện đại hóa các hình thức tổ chức giáo
dục tạo được sự hứng thú, tích cực tự giác của học viên trong quá trình học
trên cơ sở tăng cường các hình thức giáo dục thực hành, thực tập đưa người
học vào điều kiện thực tiễn quân sự để củng cố kiến thức, hình thành kỹ xảo,
kỹ năng nghề nghiệp. Khi tiến hành lựa chọn các hình thức giáo dục cần sử
dụng kết hợp các hình thức giáo dục mới với các hình thức giáo dục truyền
thống bảo đảm tính sư phạm, kế hoạch, khoa học và hiệu quả.
Mở rộng việc liên kết trong các trường đại học quân sự với các viện
nghiên cứu, các đơn vị cơ sở, các trung tâm nghiên cứu, các nhà trường ngoài

quân đội để tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật
và tăng cường sự hợp tác nghiên cứu, áp dụng kết quả nghiên cứu trong thực
tiễn. Ngoài ra, cần tăng cường sự hợp tác quốc tế thực hiện sự giao lưu khoa
học nhằm nâng cao chất lượng đào tạo trong các trường đại học quân sự. Tổ
chức hệ thống đào tạo, bồi dưỡng cho giảng viên về kỹ thuật sử dụng các
phương tiện giáo dục hiện đại. Khuyến khích động viên giảng viên và học viên
tự chế tạo các học cụ từ đơn giản đến phức tạp phục vụ quá trình giáo dục.


25

Ba là, Đổi mới, phát triển đội ngũ giảng viên các trường đại học quân
sự theo hướng chuẩn hóa.
Đây là biện pháp quan trọng, là "khâu then chốt" trong đổi mới, nâng cao
chất lượng giáo dục ở các trường đại học quân sự hiện nay. Đổi mới, phát
triển đội ngũ giảng viên cần phải được tiến hành đồng bộ, trước hết phải bắt
đầu từ khâu tuyển chọn. Tuyển chọn phải tiến hành từ nhiều nguồn, phải bảo
đảm tiêu chí về khả năng hoàn thành nhiệm vụ, cũng như khả năng phát triển
sau này. Trên cơ sở quy hoạch các nhà trường cần tập trung xây dựng các kế
hoạch, chiến lược tuyển chọn nguồn lực sư phạm cho nhà trường một cách
khoa học phù hợp với điều kiện biên chế và tình hình thực tiễn. Cùng với đó,
cần chú trọng việc “chuẩn hóa” cả số lượng và chất lượng đội ngũ giáo viên.
Trước hết cần tập trung kiện toàn đội ngũ này ở các trường đại học quân sự đủ
về số lượng, bảo đảm tính hợp lí về cơ cấu, độ tuổi, có tính kế thừa và lượng
dự trữ phù hợp theo quy chuẩn. Ngồi ra tập trung nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ, học vị cho đội ngũ giảng viên các trường đại học quân sự. Đi
đôi với vấn đề chuẩn hóa về số lượng cần quan tâm kết hợp với tổ chức đào
tạo, bồi dưỡng theo chức danh quy định. Kiên quyết tuyển chọn, điều động số
cán bộ đã qua đào tạo cơ bản và qua thực tiễn chiến đấu, cơng tác, có khả
năng giảng dạy, tăng cường cho các nhà trường, bảo đảm đủ giảng viên và có

phần dự trữ. Tạo điều kiện cho giảng viên đi thực tế tích lũy kinh nghiệm ở
các đơn vị cơ sở. Có chính sách đối với giảng viên để khuyến khích giảng
viên giỏi n tâm và làm tốt cơng tác giảng dạy. Tổ chức biên chế hợp lý đội
ngũ giảng viên theo hướng mở rộng liên kết giảng dạy giữa các cơ sở đào tạo.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống tiêu chí đánh giá chất lượng giảng viên theo
chuẩn của Bộ Giáo dục và Bộ Quốc phòng. Đổi mới, nâng cao chất lượng đào
tạo và bố trí, sử dụng hợp lý, hiệu quả đội ngũ giảng viên. Nhanh chóng khắc
phục các yếu kém trong tuyển chọn, bố trí, sắp xếp và sử dụng để sớm xây


×