Bước vào thiên nhiên kỷ mới, con người ngày càng càng tiến lên trong
công cuộc trinh phục thế giới. Những thành tựu trong lĩnh vực khoa học - kỹ
thuật và trong mọi mặt của đời sống xã hội đã làm thay đổi dần bộ mặt thế giới.
Trong sự chuyển biến mạnh mẽ đó Việt Nam chóng ta cũng khơng ngừng biến
đổi vận động. Tính đến nay nước ta đã thực hiện công cuộc đổi mới được hơn
một thập kỷ, bên cạnh những thành tựu đã đạt được. Những vấn đề của nền kinh
tế luôn đặt ra những thách thức cho các nhà kinh tế. So với thế giới, nước ta vấn
là một nước nghèo, nền kinh tế còn yếu kém, chậm phát triển những tàn dư của
nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp vẫn còn tồn tại khá nhiều góp phần kìm
hãm nền kinh tế. Chính vì thế việc nghiên cứu tìm ra hướng đi đúng đắn cho nền
kinh tế, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đất nước, với khu vực, thế giới và thời
đại là hết sức cần thiết. Điều đó cũng có nghĩa là phải phân tích nền kinh tế
trong tổng thể các mối quan hệ, trong sự vận động phát triển khơng ngừng của
nó. V.I.Lênin đã khẳng định: “ Bản chất linh hồn sống của chủ nghĩa Mác là
phân tích cụ thể một tình hình cụ thể”1. Do vậy, phải vận dụng nguyên tắc lịch
sử cụ thể, quan điểm rút ra từ hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật
của triết học Mác - Lênin vào quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam.
Quán triệt nguyên tắc lịch sử cụ thể vào quá trình đổi mới kinh tế ở Việt
Nam sẽ giúp cho kinh tế nước ta có được hướng đi đúng đắn. Về thực tiễn
nghiên cứu nguyên tắc lịch sử cụ thể sẽ giúp cho nền kinh tế nước ta tránh được
những tác động xấu, những thiếu xót, sai lầm từ nền kinh tế các nước khác và
trên hết là vận dụng những kinh nghiệm của nó vào quá trình xây dựng nền kinh
tế nước nhà.
I – Cơ sở, nội dung và yêu cầu của nguyên tắc lịch sử cụ thể
1. Cơ sở của nguyên tắc
Nguyên tắc lịch sử cụ thể là sự bổ sung quan trọng cho hai nguyên tắc toàn
diện và phát triển. Cơ sở của nguyên tắc này là hai nguyên lý của phép biện
chứng duy vật vận dụng vào khảo sát sự tồn tại, vận động và phát triển của đối
1
V.I.Lênin, Toàn tập, tập 11, bản tiếng Việt, Nxb Tiến Bộ, M.1977, tr161.
1
tượng diễn ra trong không gian, thời gian cụ thể khác nhau, do đó các mối liên
hệ và hình thức phát triển của đối tượng cũng khác nhau, bởi vậy khơng chỉ
nghiên cứu chúng trong tồn bộ q trình mà cịn trong thời điểm, điều kiện
hồn cảnh lịch sử cụ thể khác nhau.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là cơ sở
hình thành nguyên tắc lịch sử cụ thể. Mọi sự vật hiện tượng của thời gian đều
tồn tại, vận động và phát triển trong những điều kiện của không gian và thời
gian cụ thể xác định, điều kiện không gian và thời gian có ảnh hưởng trực tiếp
tới tính chất, đặc điểm của sự vật. Cùng một sự vật nhưng nếu tồn tại trong
những điều kiện không gian và thời gian cụ thể khác nhau thì tính chất, đặc điểm
của nó sẽ khác nhau, thậm trí có thể làm thay đổi hẳn bản chất của sự vật.
a. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật.
Mọi sự vật hiện tượng của thế giới tự nhiên, xã hội, tư duy đều nằm trong
mối liên hệ biện chứng với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, ràng buộc nương
tựa, quy định lẫn nhau làm tiền đề để điều kiện cho sù tin đạ và phát triển của
nhau. Mối liên hệ này chằng những diễn ra ở mọi sự vật hiện tượng trong tự
nhiên, trong xã hội, trong tư duy và còn diễn ra giữa các yếu tố, các mặt khác,
các quá trình của mỗi sự vật và hiện tượng. Mỗi liên hệ trước đây là khách quan,
nó bắt nguồn từ tính thống nhất vật chất của thế giới, biểu hiện trng các quá trình
tự nhiên, xã hội và tư duy.
Mối liên hệ của sự vật, hiện tượng trong thế giới là đa dạng và nhiều vẻ có
mỗi tiến bộ bên trong và bên ngoài, trực tiếp và gián tiếp cơ bản và không cơ
bản, chủ yếu và thứ yếu.
b. Nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật.
Mọi sự vật hiện tượng của thế giới đều khơng ngừng biến đổi và chuyển
hố lẫn nhau, cái mới kế tiếp cái cũ giai đoạn sau kế thừa giai đoạn trước tạo
thành quá trình phát triển tiền lên mãi mãi. Phát triển là khuynh hướng chung
thống trị thế giới.
2
Nguồn gốc, nguyên nhân của sự phát triển là sự thống nhất và đấu tranh
của các mặt đối lập. Cách thức hình thái của sự phát triển là sự thay đổi dần về
lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại. Khuynh hướng xu thế của sự
phát triển là đi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đền
hoàn thiện. Sự phát triển chỉ bộc lộ ra khi ra so sánh các hình thức tồn tại của sự
vật ở các thời điểm khác nhau trên trục thời gian quá khứ - hiện tại - tương lai.
d. Không gian - thời gian.
Không gian phản ánh thuộc tính của các đối tượng vật chất, có vị trí, có
hình thức kết cấu, có độ dài ngắn cao thấp - không gian biểu hiện sự cùng tồn tại
và tách biệt của các sự vật với nhau: biểu hiện quảng tính, trật tự phân bố của
chúng.
Thời gian phản ánh thuộc tính của các q trình vật chất diễn ra nhanh hay
chậm, kế tiếp nhau theo một trật tự nhất định - Thời gian biểu hiện tốc độ và
trình tự diễn biến của các quá trình vật chất, trích tách biệt giữa các giai đoạn
khác nhau của quá trình đó, trình tự xuất hiện và mất đi của sự vật hiện tượng.
Không gian và thời gian như vậy là những hình thức tồn tại của vật chất, là
những thuộc tính chung vốn có của các dạng vật chất cụ thể. Không gian và thời
gian tồn tại khách quan và có sự biến đổi phụ thuộc vào vật chất vận động.
2. Nội dung của nguyên tắc
Lịch sử phản ánh biến đổi theo thời gian của đối tượng trong quá trình phát
sinh, phát triển, chuyển hóa, biểu thị tính lịch sử cụ thể của sự phát sinh, và các
giai đoạn phát triển phát triển của nó. Mối đối tượng đều có q trình phát sinh,
trưởng thành và diệt vong riêng khá cụ thể, bao gồm mọi sự thay đổi và vận
động diễn ra trong những điều kiện, hồn cảnh, khơng gian, thời gian khác nhau.
Bởi vậy, nguyên tắc lịch sử cụ thể đòi hỏi để nhận thức đầy đủ về đối tượng,
phải đặt nó trong q trình phát sinh, phát triển, chuyển hóa ở các hình thức biểu
hiện, với những bước quanh co, những ngẫu nhiên gây tác động lên q trình tồn
tại của đối tượng trong khơng gian, thời gian cụ thể, gắn với điều kiện hoàn cảnh
3
tồn tại cụ thể của nó.
3. Yêu cầu của nguyên tắc
Quan điểm lịch sử có 3 yêu cầu.
Thứ nhất: Khi phân tích xem xét của cải biến sự vật phải đặt nó trong điều
kiện khơng gian và thời gian cụ thể của nó, phải phân tích xem những điều kiện
khơng gian Êy có ảnh hưởng như thế nào đến tính chất, đặc điểm của sự vật.
Phải phân tích cụ thể mọi tình hình cụ thể ảnh hưởng đến sự vật.
Thứ hai: Khi nghiên cứu một lý luận, một luận điểm khoa học nào đó cần
phải phân tích nguồn gốc xuất xứ, hồn cảnh làm nảy sinh lý luận đó. Có như
vậy mới đánh giá đúng giá trị và hạn chế của lý luận đó.
Thứ ba: Khi vận dụng một lý luận nào đó vào thực tiễn phải tính đến điều
kiện cụ thể của nơi được vận dụng.
II. Đổi mới kinh tế ở Việt Nam chính là q trình xây dựng nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
1. Sự đổi mới kinh tế ở Việt Nam
1.1. Quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam.
Đại hội lần thứ VI của Đảng được đánh dấu như một cái mốc quan trọng
trong việc chuyển đổi cơ chế tập trung quan liêu bao cấp mà nguồn gốc từ kinh
tế hiện vật và những hậu quả của nó. Nhất quán chuyển sang kinh tế thị trường.
Tổng kết hai năm thực hiện đại hội VI nền kinh tế phát triển, khắc phục được
suy thối, nền kinh tế xã hội đã có những thay đổi căn bản, đó là những căn cứ
để đẩy tới một bước cao hơn. Đại hội lần thứ VII của Đảng nhất quán chuyển
sang kinh tế thị trường (KTTT) với những quan điểm khá triệt để: chấp nhận thị
trường một cách cơ bản, tổng thể lâu dài, một thị trường thống thơng suốt hồ
nhập với thị trường thế giới. Thị trường là đối tượng quản lý của Nhà nước.
Thực tế hơn mười năm qua ở nước ta đã chứng tỏ quá trình chuyển kinh tế
thị trường theo địng hướng xã hội chủ nghĩa là quá trình phức tạp lâu dài. Đó là
4
quá trình cách mạng khởi đầu bằng ý nguyện của quần chúng được Đảng nắm
bắt tổng kết, định hướng bằng cơ chế, chính sách.là sự dũng cảm nhìn thẳng
vào những sai lầm,khuyết điểm từ mơ hình cũvới những quan điểm giản đơn từ
đó quyết tâm đổi mới, coi đổi mới là vấn đề sống còn của dân téc, chấp nhận
KTTT bằng lý trí,tình cảm, bằng sự tìm tịi thử nghiệm từ cuộc sống mà cách
đấy vài trục năm trong tư duy kinh tế còn là cuộc đấu tranh gay gắt.
Những chuyển đổi đó thực sứ tạo ra bước ngoặt kinh tế. Chính một thời
gian ngắn, đất nước có nhiều thay đổi. Bước đầu tình trạng suy thối dần được
khắc phục. Cuôc khủng hoảng kéo dài từ cuối thập kỷ 70 và gay gắt vào những
năm 80 khi lạm phát ở mức phí và kéo dài. Song nhờ có sự cố gắng của tồn
đảng, tồn dân nền kinh tế khơng những đứng vững mà còn tạo được những tiến
bộ vượt bậc đatt tốc đọ tăng trưởng khá liên tục. Tổng sản phẩm trong nước năm
1994 tăng 8,5% năm, trong đó sản xuất công nghiệp tăng13%, sản xuất nông
nghiệp tăng 45%, kim ngạch xuất khẩu tăng20,8% lạm phát giảm dần thu hót
được vốn đầu tư nước ngoài với số vốn đăng ký 10tỉ USD. Nền kinh tế bước đầu
đã có tích luỹ nội bộ, xuất khuẩu tăng và nhập khẩu đã lấy lại cân băng dần dần
biết phát huy và tận dụng được lợi thế so sánh trong quan hệ kinh tế quốc tế.
Thành tựu nổi bật nhất trong thời gian qua là sản phẩm nông nghiệp phát triển từ
chõ thiếu lương thực triền miên đến nay chóng ta đã có khả năng tự túc phần nào
dự trữ và xuất khẩu. Năm 1998 mặc dù một số vùng gặp thiên tai nhưng sản
lượng lương thực đạt tới mức kỷ lục 25 triệu tấn. Cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần và phát huy tác dụng.
1.2 Đổi mới nền kinh tế ở Việt Nam thành nền kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Do nước ta là nước XHCN nền khi đổi mới nền kinh tế thì đi theo nền
KTTT theo định hướng xã hội chủ nghĩa. KTTT theo định hướng XHCN là một
khái niệm kép. Định hướng theo nghĩa danh từ là nền kinh tế thị trường vận
động và trong nó hàm chứa và bị chi phối bởi tính chất XHCN. Và theo nghĩa
động từ là tiến trình chế định nền KTTT theo nguyên tắc XHCN nhằm phục vụ
5
CNXH.
Tổng hồ các nghĩa đó, KTTT theo định XHCN ở Việt Nam là một kiểu tổ
chức nền kinh tế vừa dùa trên những nguyên tắc và qui luật của KTTT vừa dùa
trên và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất CNXG, thể hiện
trên ba mặt sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối.
2. Thế nào là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Lịch sử nhân loại đã chứng kiến nhiều mơ hình kinh tế khác nhau. Mỗi mơ
hình đó là sản phẩm của trình độ nhận thức nhất định trong những điều kiện lịch
sử cụ thể. Nghiên cứu một cách nghiêm túc các mơ hình đó, cùng với thời gian
và kinh nghiệm thực tế chúng ta đã rót ra cho mình một cách nhìn đúng đắn hơn
và một sù lùa chọn thực tế hơn. Đó là chúng ta đã kịp thời chuyển sang nền
KTTT định hướng XHCN.
Trước tiên cần phải tìm hiểu khái niệm KTTT, KTTT được hiểu là một kiểu
kinh tế xã hội mà trong đó sản xuất và tái sản xuất xã hội gắn chặt với thị
trường, tức là gắn chặt với quan hệ hàng hoá, tiền tệ với quan hệ cung - cầu.
Trong nền KTTT nét biểu hiện có tính chất bề mặt của đời sống xã hội là quan
hệ hàng hoá. Mọi hoạt động xã hội đều phải tính đến quan hệ hàng hố hay Ýt
nhất thì cùng phải sử dụng các quan hệ hàng hố như là mắt, khâu trung gian.
Nền KTTT từ khi mới ra đời cho đến nay đã trải qua các giai đoạn khác
nhau, mỗi giai đoạn đều có đặc điểm riêng. Trong các giai đoạn đó đã từng có
các nền KTTT theo định hướng này hay theo định hướng khác. Đến bây giê khi
nước ta đổi mới, nền kinh tế nước ta đã xác định được một định hướng đúng
đắn cho nền KTTT đó là định hướng XHCN.
KTTT định hướng XHCN theo quan điểm của Đảng ta là nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng XHCN. Về bản chất khác với KTTT tư bản chủ nghĩa,
nền KTTT định hướng XHCN là một nền kinh tế vì nhân dân, phục vụ nhân dân,
lấy đời sống nhân dân, công bằng xã hội làm mục tiêu để tăng trưởng kinh tế.
6
2.1. Ưu điểm của nền kinh tế thị trường.
Đến đại hội lần thứ VIII (6/1996) trên cơ sở kế thừa những đường lối, chủ
trương đúng đắn về việc sử dụng KTTT do các đại hội trước đề ra, Đảng ta đã
xác định rõ hơn vai trò của KTTT: cơ chế thị trường đã phát huy tác dụng tích
cực to lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội, nó chẳng những khơng đối lập mà
cịn là một nhân tố khách quan cần thiết của việc xây dựng và phát triển đất
nước theo con đường XHCN.
2.2. Những hạn chế và khuyết điểm của kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường tuy có nhiều điểm mạnh nhưng bản thân nó vốn có
những giới hạn, những khuyết tật mang tính tự phát hết sức bướng bỉnh, hơn
thếnữa quan hệ thị trường còn là môi trường thuận lợi để phát sinh nhiều tiêu
cực và tệ nạn xã hội. Thực tế những năm qua cho thấy, tuy mới áp dụng KTTT
chưa được bao lâu mà bên cạnh những thành tựu như làm ăn thuần tuý chạy theo
lợi nhuận dẫn đến các hình thức lừa đảo, hối lé, trèn thuế, nợ nần khó trả, thương
mại hố một cách tràn lan, xâm nhập vào các lĩnh vực dễ thương tổn như y tế,
giáo dục, văn hoá... làm cho giá trị đạo đức, tinh thần bị băng hoại và xuống cấp,
đồng thời đã chi phối nhiều quan hệ giữa người với người, sự phân hoá giàu
nghèo và bất cơng xã hội có chiều hướng tăng lên, bởi sống Ých kỷ thực dụng
có nguy cơ ngày càng tăng.
Bởi vậy, Đảng ta chỉ rõ: "Vận dụng các hình thức và phương pháp quản lý
nền KTTT là để sử dụng mặt tích cực của nó, phục vụ mục didchj xây dựng
XHCN chứ khơng phải đi theo con đường TBCN"
(Tạp chí triết học số 4 (110), tháng 8 năm 1999).
2.3. Có thể thực hiện được kinh tế thị trường dưới chủ nghĩa xã hội hay
không?
Kinh tế thị trường là thể hiện kinh tế vận hành, nó có thể được thực hiện
dưới CNTD cũng như CNXH. Không nên đồng nhất KTTT với CNTB bởi
những lý do sau đây:
7
Một là: KTTT không phải là sản phẩm của TBCN, KTTT là hình thức phát
triển cao của kinh tế hàng hố và các trình độ phát triển của kinh tế hàng hố,
kinh tế hàng hố khơng phải là cái do CNTB tạo ra mà là thành tựu văn minh mà
loài người đã đạt được trong quá trình phát triển sản xuất của mình.
Hai là: KTTT là thể chế kinh tế vận hành, nó khơng phải là cơ sở kinh tế
của một chế độ xã hội. Cơ sở kinh tế của một chế độ xã hội là hệ thống quan hệ
sản xuất thống trị, trước hết là chế độ sở hữu quyết định. Cơ sở kinh tế của
CNXH là hệ thống quan hệ sản xuất XHCN dùa trên chế độ công hữu XHCN về
tư liệu sản xuất.
Ba là: KTTT và chủ nghĩa xã hội có thể dung hồ, vấn đề căn bản để hình
thành KTTT là sự tồn tại những chủ thể kinh tế độc lập tự chủ trong sản xuất
kinh doanh, có lợi Ých riêng để họ có quyền ra quyết định phi tập trung hố. Vì
vậy, trong đặc điểm chế động cơng hữu XHCN cũng có thể thực hiện được chế
độ KTTT.
Tuy nhiên, trong việc phát triển nền KTTT theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay, làm thế nào đề có thể giải quyết tốt mối quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội, rút ngắn khoảng cách phân hoá giàu
nghèo, giảm bớt thất nghiệp... [Tạp chí cộng sản số 4 (2- 2000)].
3. Tại sao phải vận dụng quan điểm lịch sử vào quá trình xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
Trước tiên cần phải khẳng định rằng KTTT định hướng XHCN cũng là một
dạng vật chất, nền kinh tế Việt Nam là một dạng vật chất xã hội theo sự phân
loại của triết học Mác - Lênin, mà cụ thể là trong những điều kiện không gian và
thời gian theo quan điểm lịch sử cụ thể.
Sù ra đời và phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hơn 10 năm qua
đã góp phần thay đổi bộ mặt đất nước, nâng cao đời sống nhân dân. Tuy nhiên
đó chưa phải là cái đích cuối cùng của Đảng ta, bởi nền kinh tế nước ta vẫn còn
chậm phát triển. Khi chóng ta vừa chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao
8
cấp, từ một nền kinh tế yếu kém lạc hậu với hệ thống sản xuất, hệ thống quản lý
kinh tế với những cán bộ mang nặng tư tưởng ỷ lại sang nền KTTT năng động,
do đó khó có thể tránh khỏi những vấp váp sai lầm. Thêm nữa, thời điểm chúng
ta bắt đầu đổi mới, chuyển sang nền KTTT quá muộn so với các nước trên thế
giới và khu vực khi mà các nước tư bản như Mỹ, Nhật, Tây Âu... đã tiến hành cơ
chế thị trường và phát triển vượt xa ta mấy trăm năm. Nhờ sử dụng triệt để
KTTT, CNTB đã đạt được những thành tựu về kinh tế - xã hội, phát triển lực
lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động, quản lý xã hội đã đạt được những
thành tựu về văn minh hành chính, văn minh công cộng, con người nhạy cảm
tinh tế với khả năng sáng tạo... và có cả những tiêu cực sự gay gắt dẫn đến tình
trạng "cá lớn nuốt cá bé" sự phân cách giàu nghèo ngày càng lớn, ô nhiễm môi
trường, tài nguyên cạn kệt, tệ nạn xã hội... là nước đi sau và theo CNXH, chóng
ta có cơ hội kế thừa và phát triển những thành tựu của nhân loại trước hết là sử
dụng văn minh của KTTT, loại bỏ những khuyết tật của nó để xây dựng CNXH
có hiệu quả.
Chính vì những lẽ đó, chúng ta cần phải vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể
vào việc nghiên cứu quá trình xây dựng nền KTTT định hướng XHCN ở Việt
Nam.
III. quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa dưới góc nhìn của quan điểm lịch sử cụ thể.
1. Những điều kiện cụ thể ảnh hưởng đến quá trình xây dựng nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.1. Những điều kiện trong nước.
Đầu tiên chúng ta tìm hiểu xuất phát điểm về kinh tế của nước ta khi bắt
đầu đổi mới. Bức tranh chung của kinh tế Việt Nam năm trứoc đổi mới là tăng
trưởng thấp 3,7% /năm, làm không đủ ăn và dựa vào nguồn bên ngoài ngày càng
lớn. Thu nhập quốc dân trong nước, sản xuất chỉ đáp ứng được 80 - 90% thu
nhập quốc dân sử dụng đến năm 1985 tỷ trọng thu từ bên ngoài chiếm 10,2% thu
9
nhập quốc dân sử dụng, nợ nước ngoài lên tới 8,5 tỷ rúp và 1,9 tỷ USD. Cũng
vào các năm đó nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng siêu
lạm phát ở mức 774,7% vào năm 1986 kéo theo giá cả leo thang và vơ phương
kiểm sốt.
Sự tàn phá của chiến tranh và nền kinh tế bao cấp yếu kém kéo dài đã để
lại nhiều hậu quả nặng nề: cơ sở vật chất thấp kém vơía nền KH - CH, kỹ thuật
lạc hậu, hầu hết các hệ thống máy móc trong các xí nghiệp đều do Liên Xô cũ
giúp đỡ từ trong chiến tranh nên năng suất thấp, chất lượng kém. Hệ thống giao
thông vận tải vốn không được tốt lại thêm bom đạn của chiến tranh nên ngày
càng xuống cấp. Công nghiệp, dịch vụ hầu như khơng phát triển, chiếm tỷ trọng
chưa đến 50% GDP cịn chủ yếu là nơng nghiệp. Bên cạnh đó cịn có một hậu
quả nặng nề khác là với cơ chế bao cấp phân phối bình quân, lợi Ých của mọi
người đều như nhau dẫn đến việc không phát huy hết năng lực sáng tạo của con
người, lực lượng nhân tài ngày càng giảm sút, trình độ dân trí thấp và đặc biệt
nghiêm trọng là tư tưởng thụ động ỷ lại, thiếu tính năng động quyết đốn ăn sâu
trong người dân và tất cả các cán bộ trong hệ thống quản lý kinh tế.
Thứ hai: Điều kiện địa lý cũng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng mạnh
mẽ đến nền kinh tế. Về địa hình, nước ta trải dài trên nhiều vĩ tuyến, bề ngang
hẹp, địa hình phức tạp mang đậm nét của sự dị sâu sắc về điều kiện tự nhiên,
kinh tế xã hội. Các đặc điểm này chi phối sự phân công lao động xã hội theo
lãnh thổ và chiếm được phát triển các vùng. Ta cũng có thuận lợi là nằm ở Tây
Thái Bình Dương và Đơng Nam Á, khu vực phát triển cao, ổn định nơi cửa ngõ
của giao lưu quốc tế. Việt Nam có nhiều khả năng để phát triển nhiều loại hình
kinh tế khác nhau dùa trên những lợi thế về vận tải biển, dịch vụ viễn thơng du
lịch. Tài ngun khống sản phân bố không đều trên các vùng, ngay ở mỗi vùng
cũng phân tán và thiếu đồng bộ không gắn với nhau gây khó khăn cho việc khai
thác sử dụng chúng và ảnh hưởng đến việc bố chí kinh tế của các vùng. Về dân
số, nước ta có dân số đơng, nguồn lao động dồi dào nhưng phân bố cũng không
đồng đều. Đặc điểm ở cấp vĩ mô, do đất nước bị chia cắt lâu dài, giữa hai miền
10
Nam - Bắc cịn có sự khác biệt khơng nhỏ hoặc khác biệt giữa các vùng, các
khu vực xa xôi hẻo lãnh với những vùng có đơ thị tập trung.
Thứ ba: Về chế độ chính trị quan hệ giữa kinh tế và chính trị là một trong
những vấn đề cơ bản của công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Theo các nhà kinh điển
của chủ nghĩa Mác - Lênin thì kinh tế quyết định chính trị - chính trị là sự biểu
hiện tập trung của kinh tế, chính trị khơng phải là mục đích mà chỉ là phương
tiện để thực hiện mục đích kinh tế. Trong tác phẩm Lutuch Phviobac và sự các
cung của triết học cổ điển Đức F.Enghon đã chỉ rõ: "để thỗ mãn những lợi ích
kinh tế thì quyền lực chính trị chỉ được sử dụng làm phương tiện đơn thuần".
Khẳng định đó của Lênin khơng có nghĩa là phủ nhận vai trò quyết định của
kinh tế đối với chính trị mà muốn nhấn mạnh tác động của chính trị đối với kinh
tế. Vấn đề kinh tế khơng thể tách rời vấn đề chính trị mà nó được xem dét giải
quyết theo một trật lập trường chính trị thống nhất biện chứng với nhau trên nền
tảng quyết định của kinh tế. Sau khi miền Bắc giải phóng và từ sau năm 1975
thống nhất đất nước, cả nước ta đã kiên quyết đi theo con đường XHCN - đây là
lùa chọn tất yếu và đúng đắn. Vì khơng qua giai đoạn TBCN, chóng ta đã gặp
nhiều khó khăn và bỡ ngỡ trong công cuộc xây dựng một hệ thống chính trị
vững mạnh. Thêm vào đó, khi ta đang trong tình trạng đầu của cơng cuộc đổi
mới, một giai đoạn quan trọng mà chính trị là yếu tố định hướng dẫn đường thì
CNXH ở Liên Xơ cũ và các những Đông Âu sụp đổ hàng loạt đã gây nhiều
hoang mang cho Đảng ta. Điều này cũng chứng tỏ rằng đang có rất nhiều thế lực
phản động khơng ngừng tìn cách phá hoại, lật đổ chế độ CNXN ở nước ta.
Thứ tư: về văn hố xã hội. Nói đến văn hố xã hội của một dân tốc là nói
đến bản sắc cốt cách riêng thể hiện trong những yếu tố cầu thành văn hố của
dân téc đó. Theo định nghĩa được thừa nhận khá rộng rãi của UNESCO thì văn
hố là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo của con người diễn ra trong
quá khứ cũng như đang diễn ra trong hiện tại. Qua hàng thế kỷ, các hoạt động
sáng tạo Êy đã cấu thành nên một hệ thống giá trị, truyền tống, thị hiếu, thẩm
mỹ và lối sống mà dùa trên đó từng dân tốc khẳng định bản sắc riêng của mình,
11
với chiều dài mấy ngàn năm lịch sử, nước ta có một nền văn hố lâu dài với các
giá trị tinh thần truyền thống tốt đẹp. Các giá trị đạo đức truyền thống vừa là kết
quả vừa là cơ sở, động lực của quá trình đấu tranh dựng nước, giữ nước và giao
lưu văn hoá lâu dài của dân tốc góp phần tạo dựng bản lĩnh dân téc và nhân cách
con người Việt Nam: chủ nghĩa yêu nước, lòng thương người, tinh thần đồn kết
cộng đồng, đức tính cần kiệm, khiêm tốn, giản dị, thủy chung... trong đó chủ
nghĩa yêu nước là cốt lõi của bản sắc văn hoá dân téc, là giá trị cao nhất trong hệ
thống giá trị đạo đức của dân téc, là tình cảm và tư tưởng lớn nhất của nhân dân
ta.. với bề dày văn hố cùng với chế độ chính trị đúng đắn là CNXH, chóng ta
có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN tiên tiến. Bên cạnh đó nền KTTT năng động và khắc nghiệt rất cần
những nhà quản lý kinh tế tài giỏi sáng tạo, năng động thì chúng ta lại chưa có
được. Nhân dân ta yêu nước, sẵn sàng xả thân hy sinh vì tổ quốc nhưng trong
hoạt động kinh tế thì nhân dân ta vẫn cịn thiếu tính năng động, thiếu tính quyết
đoán, thiếu những phẩm chất rất quan trọng của một nhà quản lý ktt.
1.2. Những điều kiện thế giới và khu vực.
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc mặc dù thế giới cịn nhiều diễn biến phức
tạp nhưng hồ bình và hợp tác là xu thế chủ đạo, là đòi hỏi bức xúc của các dân
téc và các quốc gia. Các cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đạt được những
bước tiến vượt bậc đặc biệt trong lĩnh vực tin học, viễn thông, sinh học, vật liệu
mới và năng lượng mới đang đẩy mạnh q trình quốc tế hố cao độ các lực
lượng sản xuất dẫn đến sù phân công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc, như
vậy có nghĩa là ngày nay, khơng một nền kinh tế nào có thể đứng tách ra khỏi
cộng đồng quốc tế. Tình hình đó địi hỏi một sự hợp tác ngày càng rộng tạo nên
thế tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nước dù lớn hay nhỏ, phát triển hay đang phát
triển. Trong lịch sử phát triển của xã hội có lẽ chưa bao giê có một sự hợp tác để
phát triển rộng rất đan xen lồng ghép và nhiều tầng líp như hiện nay với sự hình
thành nhiều tổ chức kinh tế như ASEAN (Hiệp hội các nước Đông Nam Á),
WTO (tổ chức thương mại thế giới) AFTA, EU...
12
Đối với các khu vực, Việt Nam nằm trong khu vực Đơng Nam Á. Châu Á
Thái Bình Dương, một khu vực được coi là có nền kinh tế năng động và có tốc
độ tăng trưởng cao nhất thế giới trong những năm gần đây. Hầu hết các nước
trong khu vực như Singapore, Thái Lan, đều đã tiến hành nền KTTT được mấy
thập kỷ và một số nước đã trở thành các nước công nghiệp mới (NIC).
Như vậy thế giới và khu vực đã phát triển vượt ta khác xa về mọi mặt đặc
biệt là về kinh tế, vì thế đã đặt ra cho Việt Nam nhiều thách thức trong quá trình
phấn đấu xây dựng và cải tiến nền KTTT định hướng XHCN.
2. Thực trạng quá trình xây dựng nền KTTT định hướng XHCN ở Việt
Nam dưới tác động của những điều kiện cụ thể.
2.1. Giai đoạn 1986 - 1991.
Đây là giai đoạn đầu chúng ta chuyển sang nền KTTT, do chưa nhận thức
được đầy đủ những yếu tố cụ thể ảnh hưởng đến nền kinh tế nên ta đã có một số
chính sách sai lầm.
Một chính sách sai lầm trong giai đoạn hiện nay là tập trung cơng nghiệp
hố - hiện đại hố theo hướng ưu tiên cho cơng nghiệp nặng. Đây là một sai lầm
nghiêm trọng đã làm mất rất nhiều thời gian, tốn rất nhiều tiền bạc bởi lúc này
với xuất phát điểm và kinh tế rất thấp, cơ sở vật chất, cơng nghệ cịn q lạc hậu
thêm vào đó là thiếu vốn và thiếu đội ngị các nhà khoa học tài giỏi.
Trong khi đó ta có đẩy đủ điều kiện để phát triển công nghiệp nhẹ. Sự khéo
léo cần cù của người dân Việt Nam, sự ưu đãi của thiên nhiên khí hậu tạo nền
một nơng sản đa dạng phong phú... với những điều kiện đó ta hồn tồn có thể
phát triển những ngành cơng nghiệp nhẹ mà chỉ cần Ýt vốn như công nghiệp chế
biến thực phẩm, đồ mỹ nghệ...
Chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nhưng trong giai đoạn
này lượng hàng hoá của chúng ta còn Ýt và chất lượng còn chưa tốt chính vì thế,
hàng hố sản xuất ra khơng có sức cạnh tranh trên thị trường. Vì số lượng hàng
hố Ýt nên phần lớn vẫn phải nhập khẩu và chưa xuất khẩu được hàng hoá ra
13
thị trường thế giới.
Với điều kiện địa lý địa hình phức tạp, hệ thống giao thông vận tải yếu kém
như trên chưa có những chính sách phát triển kinh tế phù hợp với từng vùng,
từng miền, chúng ta đã rơi vào tình trạng đầu tư phát triển kinh tế tràn lan,
không tập trung gây nên sự bất hợp lý giữa các vùng.
Cơ cấu giữa các thành phần kinh tế cũng là một vấn đề. Trong giai đoạn
này các thành phần kinh tế mới như kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản Nhà
nước chưa phát triển, chủ yếu vẫn là thành phần kinh tế Nhà nước. Nguyên nhân
của vấn đề này là do ta vẫn còn chậm đổi mới các hình thức sở hữu tư liệu sản
xuất đã có trrong nền kinh tế bao cấp cũ và chưa có được những chính sách phù
hợp để kinh tế tư bản tư nhân và tư bản Nhà nước phát triển.
Nói chung trong giai đoạn này mặc dù đã đạt được một số thành tựu, nền
kinh tế đã từng bước ổn định và phát triển, các cơn sốt do hậu quả của cơ chế
quan liêu bao cấp đã dần dà vơi đi nhưng nền kinh tế Việt Nam vẫn chưa bước
hẳn ra sự khủng hoảng của những năm trước đổi mới.
2.2. Giai đoạn 1991 đến nay.
Giai đoạn này, do dần điều chính phù hợp với những điều kiện, nhân tố cụ
thể ảnh hưởng đến nền KTTT nền kinh tế Việt Nam đã đạt được một số thành
tựu đáng kể.
Điều đầu tiên cần nói đến là tốc độ tăng trươngt kinh tế cao và tương đối ổn
định. Giai đoạn 1986 - 1990. GDP tăng trung bình 3,9% đến giai đoạn này GDP
tăng bình quân 8,2% cơ cấu giữa các thành phần kinh tế và các ngành cũng hợp
lý hơn. Hàng loạt các công ty, doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong mọi lĩnh
vực đã ra đời. Dịch vụ thương mại phát triển tương đối mạnh đã tạo điều kiện
cho việc sản xuất hàng hoá, làm cho số lượng hàng hoá phong phú hơn và chất
lượng không ngừng được cải tiến. Giao thông vận tải được chú trọng sản xuất và
xây mới nền hàng hoá đã được các vùng sâu, vùng xa và miền núi.
Trước xu thế chủ đạo của thế giới là hợp tác để phát triển. Việt Nam đã
14
bước đầu hội nhập được với nền kinh tế thế giới bằng việc gia nhập các tổ chức
kinh tế ở khu vực cũng như thế giới.
Một thành tựu quan trọng nữa là trong điều kiện nền KTTT trên thế giới
với sự cạnh tranh rất khốc liệt gây ra sự phân cực giàu nghèo mạnh mẽ với
nhiều cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng. Đảng ta kịp thời rút kinh nghiệm
và đã có những đường lối, chính sách định hướng cho nền kinh tế phát triển theo
đúng định hướng XHCN, hướng thị trường hàng hoá vào sự cạnh tranh lành
mạnh cùng giàu có. Chính vì thế nền KTTT của ta chẳng những khơng xảy ra
khủng hoảng mà cịn tránh nước ảnh hưởng tiêu cực từ những cuộc khủng hoảng
kinh tế ở các nước trong khu vực và thế giới mà cụ thể là cuộc khủng hoảng tiền
tệ vào năm 1997. Tuy nhiên nền kinh tế nước ta so với khu vực và thế giới vẫn
là một nền kinh tế đang phát triển, cần có nhiều biện pháp để phát triển theo kịp
các quốc gia khác.
KTTT đã ra đời và phát triển qua nhiều giai đoạn và cho đến bây giê nó vẫn
là kiểu kinh tế xã hội tiến bộ nhất. Trải qua các giai đoạn KTTT ngày cngx được
hoàn thiện và được áp dụng trên nhiều quốc gia, nền KTTT định hướng XHCN
Việt Nam mặc dù mới ra đời cách đây hơn một thập kỷ nhưng cũng đã trải qua
nhiều thăng trầm, không ngừng vận động và luôn biến đổi dưới sự tác động của
nhiều yếu tố cả bên ngoài lẫn bên trong bản thân nền KTTT. Các yếu tố này vừa
khơng ngừng có ảnh hưởng đến sự phát triển của nền KTTT vừa chịu sự tác
động của chính nền KTTT đó. Như thế, trải qua các giai đoạn lại hình thành nên
những yếu tố mới khiến cho công cuộc xây dựng và phát triển nền KTTT định
hướng XHCN Việt Nam ngày càng phức tạp, địi hỏi phải có sự phân tích kỹ
lưỡng chi tiết kịp thời từng yếu tố. Chính vì vậy quan điểm lịch sử cụ thể ln là
quan điểm gắn liền với quá trình xây dựng nền KTTT định hướng XHCN Việt
Nam.
Trong giai đoạn hiện nay, chóng ta đang từng bước xây dựng cơ sở vật chất
để đẩy mạnh quá trình phát triển nền KTTT định hướng XHCN nhanh chóng
đưa đất nước thành nước cơng nghiệp phát triển. Và việc nghiên cứu tìm hiểu
15
các yếu tố ảnh hưởng để tìm ra các giải pháp nhằm khắc phục những mặt yếu
kém phát huy những mặt mạnh tích cực khắc phục những mặt yếu kém đang là
việc làm bức thiết đó là...
Đẩy mạnh việc thu hót vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi. Trước mắt cần tiếp
tục cải tiến hành chính trong lĩnh vực đầu tư nước ngồi với những qui định rõ
ràng thơng suốt và đơn giản. Về lâu dài cần tiền tới xây dựng một luật đầu tư
chung, mét khung giá chung cho các nhà đầu tư nước ngoài cũng như trong
nước để tạo một sân chơi bình đẳng.
Huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn trong nước. Trong lĩnh
vực này, huy động tiết kiệm là mục tiêu hàng đâù, từ đó sẽ phát huy được hết
các ngùn nội lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Tiếp tục cân đối lại các thành phần kinh tế và các ngành: chú trọng phát
triển kinh tế giữa các vùng hợp lý hơn. Tăng cường hội nhập hợp tác với các nền
kinh tế trong khu vực và thế giới, giữ vững vai trị của nhà nước trong việc điều
tiết vĩ mơ, định hướng nền KTTT định hướng XHCN, lấy công bằng xã hội làm
mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Bảo đảm nguồn nhân lực thông qua hệ thống giáo
dục đào tạo đảm bảo y tế, nâng cao trình độ văn hố cho người lao động. Giữ
vững an ninh, trật tự xã hội, củng cố sự nghiệp quốc phòng nhằm ngăn chặn mọi
thế lực phản động phá hoại trong nước và ngoài nước: tích cực cải tạo xã hội,
xố bỏ các tệ nạn xã hội như tham nhòng, sự cân bằng sinh thái. Muốn vận cần
nâng cao nhận thức con người trong việc bảo vệ giữ gìn cuộc sống của chính họ:
vận dụng sáng tạo, khơng rập khn các mơ hình KTTT trên thế giới. Có
phương hướng kết hợp định hướng XHCN với tăng trưởng kinh tế trong những
năm tới.
16
KẾT LUẬN
Với việc áp dụng quan điểm lịch sử cụ thể vào công cuộc đổi mới kinh tế ở
Việt Nam, chóng ta đã có được một nền kinh tế thị trường năng động, một nền
kinh tế theo định hướng XHCN với những thành tựu hết sức to lớn: lần đầu tiên
chúng ta hoàn thành kế hoạch 5 năm trước thời hạin. Nhịp độ bình quân hàng
năm về sản phẩm quốc nội trong 5 năm 1991 - 1995 là 8,5% nhịp độ tăng bình
qn hàng năm về sản xuất cơng nghiệp là 13,3% sản xuất nông nghiệp là 4,5%
kim ngạch xuất khẩu 20%. Cơ cấu kinh tế có bước chuyển đổi tích cực tỷ tọng
cơng nghiệp và xây dùng trong GDP từ 22,7% năm 1990 lên 30,3% năm 1995,
tỷ trọng dịch vụ từ 38,6% lên 41,5%. Bắt đầu có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế.
Vốn đâù tư cơ bản toàn xã hội tăng từ 15,8% GDP năm 1990 lên 27,7% năm
1995. Lạm phát bị đẩy lùi từ 67,15 năm 1991 xuống 12,4% đầu năm 1995.
Quan hệ sản xuất được điều chỉnh phù hợp với yêu cầu của lực lượng sản xuất.
Số hộ có thu nhập trung bình và số hộ giàu tăng lên tỷ lệ hé nghèo giảm.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nền kinh tế nước ta vẫn còn những
hạn chế nhất định, đất nước ta vẫn còn chậm phát triển so với khu vực và thế
giới. Chóng ta cần phải áp dụng các giải pháp hợp lý để cải thiện tình hình db
chú trọng đến sù vận dơng sáng tạo để có được những sai lầm của nền KTTT
của các quốc gia khác.
Từng bước thực hiện các giải pháp để đề ra. Việt Nam sẽ có thêm tự tin
bước vào thế kỷ 21 với những thách thức mới, nền KTTT định hướng XHCN
Việt Nam sẽ ngày càng phát triển ổn định và nhanh chóng đuổi kịp trình độ của
thế giới, trở thành một nước cơng nghiệp phát triển trong tương lai không xa.
17