Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Chương 2. MỐI QUAN HỆ KHÁCH QUAN VÀ CHỦ QUAN Ý NGHĨA ĐỐI VỚI CÔNG TÁC ĐẢNG, CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ TRONG QUÂN ĐỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.12 KB, 13 trang )

Chương 2
MỐI QUAN HỆ KHÁCH QUAN VÀ CHỦ QUAN
Ý NGHĨA ĐỐI VỚI CƠNG TÁC ĐẢNG, CƠNG TÁC CHÍNH TRỊ
TRONG QN ĐỘI
Sự đối lập về nguyên tắc giữa triết học Mác - Lênin và các trường phái triết
học khác trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học là ở việc luận giải mối quan
hệ khách quan và chủ quan trong thực tiễn sinh động của con người.
Đối với lĩnh vực quân sự, việc quán triệt và vận dụng sáng tạo quan điểm
của triết học Mác - Lênin về mối quan hệ cơ bản trên đây ln có ý nghĩa rất quan
trọng. Nó giúp cho các chủ thể, một mặt tránh được chủ nghĩa chủ quan, mặt khác,
biết cách phát huy tính năng động chủ quan trong hoạt động thực tiễn quân sự.
1. Mối quan hệ khách quan và chủ quan
1.1. Khái niệm khách quan và chủ quan
Mục đích tối cao của việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học là để luận
giải cho con người mối quan hệ giữa họ (con người có ý thức) với thế giới có con
người (thế giới vật chất). Trong tính hiện thực lịch sử của nó, con người khơng chỉ
giải thích thế giới mà cịn cải tạo thế giới bởi thực tiễn. Thực tiễn của con người;
một mặt, do có sự tham gia hướng dẫn của ý thức, mặt khác, do yêu cầu về tính
hiệu quả qui định, nên tất yếu phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa khách quan và
chủ quan.
Khách quan là phạm trù dùng để chỉ tất cả những gì tồn tại khơng phụ thuộc
vào chủ thể, hợp thành một hoàn cảnh hiện thực thường xuyên tác động đến việc xác
định mục tiêu, nhiệm vụ và phương thức hoạt động của chủ thể.
Nói đến khách quan là nói đến tất cả những gì tồn tại độc lập, bên ngồi và
khơng lệ thuộc vào chủ thể hoạt động. Theo đó, khách quan bao gồm những điều
kiện, khả năng và qui luật khách quan. Trong đó, qui luật khách quan ln giữ vai
trị quan trọng nhất. Tuy nhiên, khác với những quan niệm chung chung, trừu
tượng về khách quan, triết học Mác luôn xác định nội hàm và ngoại diên của phạm


trù khách quan căn cứ theo những chủ thể nhất định. Không phải mọi điều kiện,


khả năng và qui luật khách quan bất kỳ, mà chỉ có những điều kiện, khả năng và
qui luật khách quan nào hợp thành một hoàn cảnh hiện thực thường xuyên tác
động đến mọi hoạt động của một chủ thể xác định mới được coi là thuộc phạm trù
khách quan đối với hoạt động của chủ thể ấy. Chính vì thế, với những chủ thể khác
nhau, quan hệ khác nhau, lĩnh vực hoạt động khác nhau thì phạm vi, tính chất “cái”
khách quan khơng hồn toàn như nhau. Chẳng hạn, hệ thống các qui luật khách
quan phải tính đến khi chủ thể là tồn thể cán bộ, chiến sĩ trong quân đội sẽ khác
khi chủ thể là một bộ phận cán bộ, chiến sĩ nào đó.
Trong triết học Mác - Lênin, phạm trù khách quan luôn được đặt trong mối
quan hệ với phạm trù chủ quan - đó là phạm trù dùng để chỉ tất cả những gì cấu
thành phẩm chất và năng lực của một chủ thể nhất định, phản ánh vai trò của chủ
thể ấy đối với những hoàn cảnh hiện thực (khách quan) trong hoạt động nhận thức
và cải tạo khách thể.
Thuộc về chủ quan, trước hết bao gồm tất cả những gì cấu thành và phản
ánh trình độ phát triển về phẩm chất và năng lực của chủ thể nhất định. Theo đó,
phải kể đến phẩm chất tư duy, trình độ hiểu biết, đến tình cảm, ý chí, nguyện
vọng và thể chất của chủ thể. Nói đến phạm trù chủ quan là nói đến sức mạnh
hiện thực bên trong của chủ thể. Đến lượt nó, sức mạnh ấy lại ln được biểu
hiện ra ở năng lực tổ chức hoạt động (nhận thức và thực tiễn) của chủ thể mà
tiêu chí cơ bản, quyết định để đánh giá năng lực ấy là sự phù hợp giữa hoạt
động của chủ thể với điều kiện, khả năng và qui luật khách quan.
Như thế cũng có nghĩa là hai phạm trù khách quan và chủ quan không đồng
nhất với hai phạm trù vật chất và ý thức. Bởi vì, hai phạm trù vật chất và ý thức
dùng để khái quát bản chất và mối quan hệ giữa hai hiện tượng chung nhất của thế
giới, từ đó để xác định một thế giới quan nhất định – duy vật hoặc duy tâm. Trong
khi đó, phạm trù khách quan và chủ quan dùng để khái quát bản chất mối quan hệ
giữa thế giới bên ngoài hiện thực với sức mạnh bên trong của một chủ thể xác định
(một người, một tập thể, một tập đoàn, một giai cấp…) trong toàn bộ hoạt động



nhận thức và cải tạo thế giới đó. Do đó, khách quan và chủ quan chỉ là nó trong
những quan hệ xác định, ngồi quan hệ đó ra, sự phân biệt khách quan, chủ quan
chỉ có ý nghĩa tương đối. Có hiện tượng trong quan hệ này thì thuộc về khách quan
nhưng trong quan hệ khác lại thuộc phạm trù chủ quan và ngược lại.
Mặc dù vậy, do thực chất của vấn đề qui định nên những nguyên tắc phương
pháp luận cơ bản của triết học Mác - Lênin trong việc giải quyết mối quan hệ giữa
vật chất và ý thức vẫn còn nguyên giá trị khi vận dụng vào việc giải quyết mối
quan hệ khách quan và chủ quan.
1.2. Mối quan hệ biện chứng khách quan và chủ quan
Khách quan và chủ quan là hai mặt, hai yếu tố không thể tách rời trong mọi
hoạt động của mỗi chủ thể. Nhưng tính chất của hoạt động nhận thức và cải tạo thế
giới lại ln địi hỏi chủ thể phải giải quyết mối quan hệ giữa khách quan và chủ
quan sao cho phù hợp với vai trị, vị trí thực sự của con người trong thế giới –
nghĩa là phải phù hợp với lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng trong việc
giải quyết vấn đề cơ bản của triết học.
Theo lập trường ấy, trong mối quan hệ khách quan và chủ quan thì khách
quan bao giờ cũng là cơ sở, là tiền đề, là cái giữ vai trò quyết định suy đến
cùng. Sở dĩ như vậy là vì, các điều kiện, khả năng và qui luật khách quan, không
những luôn tồn tại độc lập không lệ thuộc vào chủ thể, ln buộc chủ thể phải
tính đến trước tiên trong mọi hoạt động, mà còn là cội nguồn làm nảy sinh mọi
tri thức, tình cảm, ý chí và nguyện vọng của chủ thể. Cả lý luận và thực tiễn đều
cho thấy, nếu chỉ bằng nỗ lực chủ quan của mình, con người chưa và khơng bao
giờ xố bỏ được bất cứ một điều kiện, khả năng hay qui luật khách quan nào.
Trái lại, chính những điều kiện khách quan hợp thành hồn cảnh, mơi trường
sống và hoạt động hiện thực của con người và chính việc con người nhận thức
được sự vận động, biến đổi của những khả năng và qui luật khách quan là điểm
xuất phát, là tiền đề làm nảy sinh ở họ những dự kiến, những kế hoạch, hình
thành nên trong họ ý chí, quyết tâm hành động cải biến hiện thực vì nhu cầu lợi
ích của mình.



Do bản chất năng động vốn có của mình qui định nên con người luôn
vươn tới tự do trong mọi hoạt động. Nhưng con người chỉ được tự do hành động
trong chừng mực họ nhận thức được ngày càng sâu sắc hơn các điều kiện, khả
năng và qui luật khách quan. Không phải thế giới khách quan khuôn theo ý chí,
nguyện vọng chủ quan của con người, mà trái lại, ý chí, nguyện vọng của con
người chỉ đúng khi nó phản ánh được sự vận động, biến đổi của những điều
kiện, khả năng và qui luật vốn có của thế giới khách quan. Nói cách khác, khách
quan qui định nội dung và sự vận động, biến đổi của nhân tố chủ quan.
Sự khác nhau giữa các chủ thể là ở tính năng động chủ quan trong nhận
thức và hành động. Nhưng giới hạn của tính năng động ấy cũng do khách quan
qui định. Chủ thể khơng thể tuỳ thích đặt ra cho mình những nhiệm vụ, khơng
thể tự mình sáng tạo ra những mục tiêu, phương pháp khi mà qui luật khách
quan không cho phép, khi mà điều kiện lịch sử chưa chín muồi. Nói cách khác,
mọi hoạt động của con người chỉ là sự phản ánh và thực hiện hố những nhu cầu
đã chín muồi của đời sống xã hội. Những nhiệm vụ mà con người phải giải
quyết là những nhiệm vụ do lịch sử đề ra và qui định nội dung, biện pháp giải
quyết. Chúng ta đạt được những thành công trong việc cải tạo hiện thực là do sự
phản ánh đúng và hành động theo những quan hệ tất yếu của hiện thực chứ
không phải là do những ảo tưởng chủ quan của mình.
Tuy vậy, trong khi khẳng định khách quan là nhân tố có vai trị quyết định
suy đến cùng, triết học Mác - Lênin không những khơng phủ nhận mà cịn đánh giá
cao vai trị của tính năng động chủ quan.
Quan điểm trên đây của triết học Mác - Lênin xuất phát từ việc giải quyết
mối quan hệ giữa con người và thế giới khách quan thông qua thực tiễn, xem con
người là một thực thể xã hội năng động và hoạt động bản chất của nó là hoạt
động thực tiễn cải tạo thế giới, sáng tạo ra đời sống xã hội của chính mình. Chính
vì vậy, mặc dù phạm trù chủ quan trước hết phản ánh phẩm chất và năng lực trí
tuệ – tinh thần của chủ thể, nhưng vai trò thực sự của nó lại chỉ có thể được đánh
giá qua tồn bộ hoạt động của con người so với thế giới khách quan.



Nói đến vai trị của nhân tố chủ quan là nói đến vai trị của con người trong
hoạt động (nhận thức và thực tiễn) để cải biến và thống trị thế giới của họ. Con
người, do bản chất xã hội của họ đưa đến và qui định, nên ln có nhu cầu và khả
năng tổ chức các hoạt động khám phá thế giới khách quan. Trên cơ sở đó, con
người nâng cao tri thức, phát triển ý chí, tình cảm của mình theo hướng ngày càng
phù hợp hơn với điều kiện, khả năng và qui luật khách quan của hiện thực. Cũng
nhờ đó mà đường lối, mục tiêu, nhiệm vụ cũng như chủ trương, biện pháp mà con
người vạch ra ngày càng đúng đắn hơn, ít mang tính chất chủ quan duy ý chí hơn.
Nói cách khác, đó cũng chính là quá trình nhân tố chủ quan của chủ thể ngày càng
được khách quan hố. Đồng thời, chính điều đó lại góp phần nâng cao quyền lực
của con người trong việc làm biến đổi thế giới khách quan theo ý chí, nguyện vọng
và nhu cầu của họ. Điều đó cũng có nghĩa con người ngày càng trở thành chủ thể
thực sự của thế giới khách quan, hay thế giới khách quan ngày càng bị chủ quan
hoá bởi hoạt động cải biến của con người.
Vai trò của nhân tố chủ quan được thể hiện tập trung ở phương thức nó biến
các qui luật, các điều kiện và các khả năng khách quan vốn tồn tại và vận động
dưới dạng các “xu hướng có thể” thành hiện thực theo hướng thoả mãn tốt nhất
nhu cầu, lợi ích của chủ thể. Thơng thường, trong tự nhiên, các “xu hướng có thể”
tự phát biến thành hiện thực khi đủ điều kiện cần thiết, nhưng trong xã hội q
trình đó lại phụ thuộc một cách quyết định vào vai trò của nhân tố chủ quan.
Mặc dù mọi hoạt động của con người đều phải dựa vào những điều
kiện khách quan nhất định, nhưng con người khơng thụ động ngồi chờ sự
chín muồi của điều kiện khách quan, mà trái lại, có thể dựa vào năng lực chủ
quan của mình để phát hiện, biết dựa vào điều kiện khách quan này để tổ
chức, hình thành những điều kiện khách quan khác cần thiết cho những
nhiệm vụ cụ thể của mình. Bằng cách đó, con người có thể thúc đẩy nhanh
hơn tiến trình biến khả năng thành hiện thực. Tương tự, trong một phạm vi,
một sự vật, hiện tượng cụ thể, tiến trình khách quan có thể có nhiều con

đường, nhiều khả năng phát triển. Ở đây, vai trị của con người khơng phải


là ở chỗ dồn mọi nỗ lực cho bất kỳ con đường hay khả năng nào sẵn có, mà
trái lại, có thể dựa vào năng lực vốn có của mình để lựa chọn, tác động sao
cho chỉ một con đường, một khả năng khách quan nào đó phù hợp nhất với
tiến trình lịch sử cụ thể và nhu cầu của mình phát triển thành hiện thực.
Bằng cách đó, như thực tế lịch sử cho thấy, con người có thể đẩy nhanh, rút
ngắn tiến trình phát triển của sự vật mà vẫn bảo đảm tính lịch sử – tự nhiên
của nó. Vai trò to lớn của nhân tố chủ quan còn thể hiện ở chỗ, mặc dù
khơng xố bỏ hoặc sáng tạo ra bất cứ qui luật khách quan nào, nhưng bằng
năng lực chủ quan của mình, con người có thể điều chỉnh hình thức tác động
của qui luật khách quan và kết hợp một cách khéo léo sự tác động tổng hợp
của nhiều qui luật theo hướng phục vụ tốt nhất cho mục đích của mình. Tính
tất yếu về sự tác động của qui luật khách quan không mâu thuẫn với tính
phong phú về hình thức và trật tự tác động của nó trong những điều kiện cụ
thể khác nhau; mà việc làm biến đổi những điều kiện này lại nằm trong khả
năng thực tế của con người. Chúng ta có thể chứng minh cho khả năng này,
chẳng hạn như việc Đảng và Nhà nước ta đã nghiên cứu tìm ra và thực hiện
một số chính sách có tính chất địn bẩy để điều tiết, hạn chế tính tự phát của
qui luật giá trị, của các qui luật khách quan trong q trình hội nhập kinh tế
quốc tế hiện nay.
Tóm lại, “thế giới không thoả mãn con người, và con người quyết định
biến đổi thế giới bằng hành động của mình” 1 . Nhưng hành động biến đổi thế
giới của con người chỉ có hiệu quả khi nó được thực hiện bởi những công cụ,
phương tiện vật chất và phù hợp với qui luật vốn có của thế giới vật chất,
nghĩa là hành động ấy luôn là một thể thống nhất giữa nhận thức và thực tiễn.
Quá trình thực tiễn - nhận thức – thực tiễn là một quá trình vơ tận với sự
chuyển hố khơng ngừng giữa khách quan và chủ quan theo hướng đưa con
người trở thành chủ thể thực sự của thế giới khách quan.

1.3. Ý nghĩa phương pháp luận
1

V. I. Lênin, toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1981, t. 29, tr. 229.


Việc nghiên cứu mối quan hệ khách quan và chủ quan theo lập trường của
chủ nghĩa duy vật biện chứng có ý nghĩa chỉ đạo rất sâu sắc đối với hoạt động thực
tiễn.
Trong mọi trường hợp khách quan luôn là nhân tố giữ vai trò qui định suy
đến cùng nên trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, chúng ta phải tôn trọng
khách quan – nghĩa là phải luôn xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực tế khách
quan làm căn cứ cho mọi hoạt động, phải tôn trọng và hành động theo qui luật
khách quan. Tôn trọng khách quan cũng đồng thời kiên quyết khắc phục bệnh chủ
quan duy ý chí – lấy ý chí chủ quan áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện
thực.
Do vai trò chủ động của nhân tố chủ quan nên trong hoạt động nhận thức và
thực tiễn, chúng ta phải biết trên cơ sở tôn trọng khách quan mà phát huy cao độ
tính năng động chủ quan – nghĩa là trên cơ sở “cái” khách quan đã được nhận thức
mà huy động, phát huy cao nhất mọi phẩm chất và năng lực của chủ thể vào việc
nghiên cứu, phát hiện, lựa chọn ra con đường, những biện pháp, hình thức, bước
đi, những công cụ và phương tiện phù hợp nhất, đạt hiệu quả cao nhất trong mọi
hoạt động. Phát huy tính năng động chủ quan đồng thời bao hàm việc phê phán,
đấu tranh, khắc phục tư tưởng thụ động, ỷ lại, bó tay, phó mặc trước khó khăn của
hiện thực cuộc sống.
Nắm vững quan điểm của triết học Mác - Lênin về mối quan hệ khách
quan và chủ quan cho phép chúng ta khẳng định rằng, trong suốt quá trình lãnh
đạo cách mạng, Đảng ta luôn nghiêm túc vận dụng mối quan hệ này vào việc
xác định đường lối, mục tiêu, phương hướng và phương pháp cách mạng; đồng
thời cũng cho thấy, việc nhận thức và vận dụng mối quan hệ trên đây là q

trình nghiên cứu, tìm tịi với nhiều khó khăn và phức tạp. Chính vì vậy, trong
các văn kiện của Đảng, nhất là từ Đại hội VI đến nay, Đảng ta luôn quan tâm
đúng mức đến việc tổng kết, rút ra những tư tưởng chỉ đạo, những bài học kinh
nghiệm xung quanh việc nhận thức và vận dụng mối quan hệ khách quan và chủ
quan trong quá trình đổi mới ở Việt Nam. Có thể thấy điều đó trong Văn kiện


Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, với tư tưởng nhìn thẳng vào sự
thật (nhận thức giản đơn về những qui luật khách quan của CNXH) và bài học
“lấy dân làm gốc”; trong Cương lĩnh được thông qua tại Đại hội VII với nhận
định “Đảng đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm qui luật khách quan” 1
và bài học “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tơn
trọng qui luật khách quan” 2. Tương tự, có thể thấy nhận định trên trong Văn
kiện Đại hội VIII với chủ trương “lấy việc phát huy nguồn lực con người làm
yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững” 3, vừa “cần tránh sai lầm chủ
quan nóng vội trong cơng nghiệp hố, hiện đại hố”, vừa phải biết “khơi dậy
trong nhân dân lịng u nước, ý chí quật cường, phát huy tài trí của người Việt
Nam; và ở Đại hội IX với bài học “đổi mới phải dựa vào dân, vì lợi ích của nhân
dân, phù hợp với thực tiễn và luôn luôn sáng tạo” 4.
2. Mối quan hệ khách quan và chủ quan trong lĩnh vực quân sự và đặc
thù vận dụng vào hoạt động công tác đảng, cơng tác chính trị
2.1. Tính đặc thù của mối quan hệ khách quan và chủ quan trong lĩnh
vực quân sự
Mối quan hệ khách quan và chủ quan là qui luật phổ biến tác động trong tất
cả các lĩnh vực hoạt động của con người, kể cả lĩnh vực quân sự. Tuy nhiên, do
những đặc điểm của lĩnh vực quân sự đưa đến và qui định, nên ở đây, mối quan hệ
này có những biểu hiện đặc thù.
Trước hết, mối quan hệ khách quan và chủ quan biểu hiện ra thành mối
quan hệ đối địch về tính năng động chủ quan của hai bên tham chiến. Chiến
tranh là cuộc đọ sức toàn diện. Qui luật tuyệt đối của chiến tranh là mạnh được

yếu thua. Nhưng cũng như mọi qui luật xã hội khác, qui luật của chiến tranh bao
giờ cũng được thực hiện thông qua hoạt động của con người có ý thức. Vì vậy,
hơn bất cứ lĩnh vực nào khác, chiến tranh ln địi hỏi tính năng động đặc biệt
. Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Nxb
Sự thật, Hà Nội 1991, tr. 5
3
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb ST, H. 1996, tr.
107.
4
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb ST H. 2001, tr.
81.
1, 2


của các giai cấp, các lực lượng xã hội tham chiến. Theo đó, mỗi bên tham chiến
đều ra sức phát huy đến mức cao nhất mọi phẩm chất, huy động đến mức triệt để
nhất mọi tiềm lực trí tuệ – tinh thần để nhận thức và hành động phù hợp với qui
luật chiến tranh, tạo ra tương quan lực lượng có lợi nhất để đánh bại đối phương
trên thực tế chiến trường. Chính vì vậy, tính năng động chủ quan của mỗi bên
trở thành nhân tố cơ bản cấu thành “cái” khách quan mà phía bên kia phải tính
đến trong mọi hoạt động của mình. Lịch sử các cuộc chiến tranh cho thấy, đánh
giá đúng đối tượng tác chiến, biết xuất phát từ đặc điểm mọi mặt của kẻ thù để
nỗ lực chuẩn bị và tiến hành chiến tranh vừa là một vấn đề có tính ngun tắc,
vừa là một nhân tố bảo đảm cho thắng lợi cho mỗi bên tham chiến.
Mối quan hệ khách quan và chủ quan còn được biểu hiện ra trong lĩnh vực
quân sự thành mối quan hệ giữa tính năng động chủ quan của các chủ thể quân sự
với hệ thống các qui luật đặc biệt - hệ thống các qui luật tác động trong q trình
chuẩn bị và sử dụng một loại cơng cụ đặc biệt, công cụ bạo lực vũ trang. Trong mọi
lĩnh vực, làm trái qui luật khách quan, chủ thể tất phải bị trả giá. Nhưng cái giá phải
trả cho việc làm trái với qui luật khách quan trong lĩnh vực quân sự là tính mạng con

người, là thất bại trên chiến trường, là bất lợi trong kết cục chiến tranh và thậm chí
cịn dẫn đến sự đình đốn, suy vong của cả quốc gia, dân tộc. Tính chất đặc biệt của
hệ thống các qui luật trong lĩnh vực quân sự, đặc biệt là các qui luật của chiến tranh,
của khởi nghĩa và đấu tranh vũ trang được thể hiện ở những yêu cầu hà khắc của nó
mà mọi chủ thể phải đáp ứng một cách vô điều kiện nếu muốn giành thắng lợi.
Trong một cuộc chiến tranh, tất nhiên phía chính nghĩa thường có nhiều khả năng
khách quan để đáp ứng những yêu cầu hà khắc trên đây, nhưng điều đó tuyệt nhiên
khơng đồng nghĩa với việc cho phép họ hành động một cách chủ quan tuỳ tiện, vi
phạm những qui luật khách quan trong lĩnh vực đặc biệt này của thực tiễn.
Tính đặc thù của mối quan hệ khách quan và chủ quan trong lĩnh vực quân
sự được biểu hiện rõ nét qua mối quan hệ giữa tính năng động chủ quan của các
chủ thể với điều kiện, hoàn cảnh chiến trường. Con người luôn hoạt động trong
những điều kiện, hồn cảnh, mơi trường nhất định. Nhưng điều kiện, hoàn cảnh,


môi trường của hoạt động quân sự, của chiến tranh là điều kiện, hồn cảnh của
chiến trường. Nói đến chiến trường là nói đến những điều kiện, hồn cảnh đặc biệt
khó khăn gian khổ, căng thẳng và khốc liệt với đầy rẫy những bất trắc và biến cố
khôn lường. Chiến trường ln địi hỏi ở các chủ thể những phẩm chất và năng lực
đặc biệt đủ để giải quyết một cách năng động, sáng tạo các nhiệm vụ, các trạng
huống khó khăn và phức tạp nảy sinh. Tính năng động chủ quan trong trường hợp
này được thể hiện rõ nhất ở khả năng chịu đựng phi thường mọi hy sinh tổn thất,
khả năng đương đầu với mọi thử thách khủng khiếp nhất, khả năng vượt qua tất cả
những sức ép tâm lý – tinh thần liên tục, kéo dài và ngày một tăng, đặc biệt là
những sức ép phát sinh từ phía kẻ thù… để đi đến thắng lợi. Thực tiễn lịch sử các
cuộc chiến tranh đã chỉ rõ, trong những điều kiện nhất định, tính năng động chủ
quan có thể chuyển yếu thành mạnh, chuyển bại thành thắng. Ngược lại, nếu thiếu
tính năng động, sáng tạo thì ngay cả khi đã có đủ những điều kiện khách quan để
giành thắng lợi nhưng rút cục vẫn phải chịu thất bại. Cho nên, huấn luyện và rèn
luyện cho bộ đội sát với thực tế chiến tranh, với mức độ khó khăn và gian khổ

ngày càng cao là bài học không bao giờ cũ của chiến tranh, nhất là trong chiến
tranh hiện đại.
Có thể nói, chiến tranh bao giờ cũng là sự tổng hợp biện chứng của những
nhân tố khách quan và chủ quan. Chiến tranh trước hết chịu sự chi phối của những
qui luật khách quan, đồng thời trên cơ sở các qui luật khách quan đã được nhận
thức thì vai trò năng động của các giai cấp, các lực lượng xã hội tham gia lại có ý
nghĩa quyết định đối với tiến trình và kết cục của nó. Nắm chắc quan điểm trên đây
cho phép chúng ta có cơ sở khoa học để đấu tranh chống lại quan điểm vũ khí luận
trong các học thuyết quân sự tư sản và các trào lưu cơ hội, xét lại coi vũ khí, đặc
biệt là vũ khí cơng nghệ cao là nhân tố quyết định tối cao của chiến tranh. Vũ khí
kỹ thuật là cơ sở vật chất không thể thiếu được, là một trong những nhân tố tạo
thành sức mạnh chiến đấu của quân đội, tạo thành sức mạnh trong chiến tranh, đặc
biệt là trong chiến tranh ở thời đại cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại.
Nhưng cái chi phối sâu xa là qui luật khách quan của chiến tranh và con người với


tính năng động sáng tạo của mình có thể nắm được, vận dụng đúng đắn những qui
luật ấy để phát huy mọi tiềm lực vật chất trong chiến tranh, kể cả phát huy sức
mạnh của vũ khí kỹ thuật, do đó, chính con người mới là nhân tố giữ vai trò quyết
định thắng lợi trong chiến tranh. Trên thực tế, quan điểm có tính ngun tắc trên
đây của triết học Mác-Lênin đã và đang được Đảng ta quán triệt một cách sâu sắc
và vận dụng sáng tạo vào quá trình chuẩn bị và tiến hành các cuộc chiến tranh giải
phóng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là trong quá trình chuẩn bị cho đất nước sẵn sàng
đánh thắng cuộc chiến tranh có sử dụng vũ khí cơng nghệ cao của chủ nghĩa đế
quốc nếu nó xảy ra.
2.2. Vận dụng mối quan hệ khách quan và chủ quan vào hoạt động cơng
tác đảng, cơng tác chính trị trong qn đội
Để phát huy hiệu lực của cơng tác đảng, cơng tác chính trị, trong mỗi tình
huống và nhiệm vụ cụ thể cũng phải nắm vững và quán triệt sâu sắc những vấn đề
có tính ngun tắc phương pháp luận của mối quan hệ khách quan và chủ quan.

Theo đó, việc xác định phương hướng, nội dung, hình thức, biện pháp cơng
tác đảng, cơng tác chính trị phải xuất phát từ thực tế khách quan. Cũng như tất cả
những công tác cách mạng khác, cơng tác đảng, cơng tác chính trị trong qn đội
bao giờ cũng phải lấy hiện thực khách quan làm tiền đề. Bất kỳ trong nhiệm vụ
nào, trong hoàn cảnh cụ thể nào, căn cứ cơ bản và trước tiên để cơng tác đảng,
cơng tác chính trị xác định những vấn đề trên đây là phải dựa vào yêu cầu nhiệm
vụ cách mạng, nhiệm vụ của lực lượng vũ trang, nhiệm vụ cụ thể của từng đơn vị
và tình hình tư tưởng, tổ chức thực tế đang diễn ra, tình hình và qui luật của sự vật,
của cơng việc. Qui luật xã hội vốn đã phức tạp, càng phức tạp hơn trong điều kiện,
hoàn cảnh chiến tranh, nhất là trong chiến tranh hiện đại. Chính vì vậy, khi xem
xét, xác định các vấn đề càng đòi hỏi phải thực sự nghiêm túc, cụ thể, chính xác.
Hết sức tránh những nhận định chung chung trừu tượng, kết luận chủ quan, giản
đơn, hời hợt, thiếu sự phân tích khách quan, tồn diện và lịch sử cụ thể.


Đồng thời, trong giải quyết các vấn đề phải đề cao và phát huy nhân tố
chủ quan. Mọi sự việc, mọi vấn đề cơng tác đảng, cơng tác chính trị đều bị chi
phối bởi những qui luật khách quan, nhưng phương thức giải quyết nó lại có thể
hết sức phong phú tuỳ theo từng chủ thể, vì vậy phải phát huy tính năng động
chủ quan trong việc nghiên cứu, tìm kiếm những phương thức tốt nhất, có hiệu
quả nhất. Bộ đội luôn hành động theo đường lối, chủ trương, kế hoạch, nhưng
tất cả những cái đó đều phải thơng qua công tác tư tưởng mới trở thành nhận
thức thống nhất, ý chí thống nhất của tồn qn, vì vậy phải chú trọng công tác
tư tưởng. Nhưng bản thân việc thống nhất tư tưởng và ý chí tự nó chưa thể tạo
ra sức mạnh. Chính vì vậy, cơng tác tư tưởng bao giờ cũng phải kết hợp với
công tác tổ chức. V.I.Lênin khẳng định “Sự thống nhất tư tưởng của giai cấp vô
sản dựa trên cơ sở những nguyên lý chủ nghĩa Mác được củng cố bằng sự thống
nhất vật chất của tổ chức” 1. Nguyên tắc kết hợp chặt chẽ cơng tác tư tưởng với
cơng tác tổ chức địi hỏi phải nghiên cứu tình hình tổ chức và cơng tác tổ chức
để làm công tác tư tưởng và nghiên cứu tình hình tư tưởng và cơng tác tư tưởng

để làm cơng tác tổ chức. Đó là hai mặt của một q trình liên tục, có quan hệ
chặt chẽ với nhau, tương hỗ lẫn nhau để thực hiện cả nhiệm vụ công tác tư
tưởng và nhiệm vụ xây dựng tổ chức trong lực lượng vũ trang. Đến lượt nó,
nguyên tắc trên đây lại địi hỏi người cán bộ làm cơng tác đảng, cơng tác chính
trị khơng những là nhà giáo dục mà còn là người tổ chức quần chúng thực hiện
nhiệm vụ.
Cuối cùng, trong cơng tác đảng, cơng tác chính trị phải quán triệt quan
điểm trung thành và sáng tạo khi vận dụng các nguyên tắc. Như mọi hệ thống
các nguyên tắc của các lĩnh vực công tác khác, hệ thống các ngun tắc cơng tác
đảng, cơng tác chính trị được đúc kết từ thực tiễn, được xây dựng trên cơ sở các
qui luật khách quan của lĩnh vực này. Quán triệt và vận dụng đúng đắn các
nguyên tắc sẽ tránh được những sai lầm chủ quan trong hoạt động. Tuy nhiên,
thực tiễn luôn vận động, biến đổi, qui luật cũng có thể bị con người điều chỉnh
1

V. I. Lênin, tồn tập, Nxb Tiến bộ, M.1979, t. 6, tr. 490.


tính chất và chiều hướng tác động, vì thế, ngun tắc không phải là nhất thành
bất biến. Vận dụng sáng tạo các nguyên tắc, cũng là một yêu cầu cơ bản trong
hoạt động cơng tác đảng, cơng tác chính trị. Nó bảo đảm cho người chính uỷ,
chính trị viên ln giữ được thế chủ động trong việc giải quyết các vấn đề nảy
sinh phù hợp với tình hình thực tế mà vẫn không vi phạm những yêu cầu cơ bản
của hệ thống các nguyên tắc công tác đảng, công tác chính trị. Đương nhiên, để
thực hiện được những yêu cầu trên đây, người chính uỷ, chính trị viên phải
nghiên cứu và nắm vững các nguyên tắc, tích cực rèn luyện trong thực tiễn cơng
tác đảng, cơng tác chính trị; đồng thời phải tích cực đấu tranh: phê phán, khắc
phục cả thái độ tuỳ tiện lẫn bệnh giáo điều, cứng nhắc trong các hoạt động cơng
tác đảng, cơng tác chính trị của mình.




×