Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT - LÊNIN BÀN VỀ ĐẶC ĐIỂM CỦA NHÀ NƯỚC CCVS TRONG TÁC PHẨM NHÀ NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG- Ý NGHĨA ĐỐI VỚI XÂY DỰNG BỘ MÁY NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.45 KB, 22 trang )

1

1

LÊNIN BÀN VỀ ĐẶC ĐIỂM CỦA NHÀ NƯỚC CHUYÊN CHÍNH VÔ
SẢN TRONG TÁC PHẨM “NHÀ NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG” Ý NGHĨA
ĐỐI VỚI XÂY DỰNG BỘ MÁY NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY
Lênin có nhiều tác phẩm phát triển học thuyết Mác về nhà nước như: hà
“Nước và cách mạng”; “Tai họa sắp đến và những phương pháp ngăn ngừa tai
họa đó”; “Những người Bônsêvích sẽ giữ được chính quyền hay không?’;
“Nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô Viết”; “Cách mạng vô sản và tên
phản bội Causky”; “Bàn về nhà nước”; “Kinh tế chính trị trong thời đại
chuyên chính vô sản”; trong đó “Nhà nước và cách mạng” là tác phẩm chủ
yếu nhất, tiêu biểu nhất. Đây là một tác phẩm kinh điển xuất sắc của học
thuyết Mácxít về nhà nước, là kim chỉ nam cho chúng ta học tập và nghiên
cứu lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về nhà nước.
1. Hoàn cảnh ra đời và kết cấu của tác phẩm
1.1. Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”
Tên đầy đủ của tác phẩm là “Nhà nước và cách mạng. Học thuyết của
chủ nghĩa Mác về nhà nước và những nhiệm vụ của giai cấp vô sản trong
cách mạng” V.I. Lênin hoàn thành công trình này vào khoảng tháng 8, tháng
9 năm 1917, được in thành sách vào năm 1918,; năm 1919 được xuất bản lần
thứ hai và từ năm 1918 đến 1961 cuốn sách được xuất bản 190 lần, với số
lượng nhiều, bằng nhiều thứ tiếng dân tộc trong nước và trên thế giới. Hiện
nay tác phẩm được in trọng vẹn trong: V.I. Lênin Toàn tập, tập 33, Nxb, Tiến
bộ, Mátxcơva, 1976. Đây là tác phẩm có giá trị lớn về lý luận cũng như thực
tiễn đối với giai cấp vô sản và những người lao động trên thế giới trong sự
nghiệp cách mạng giải phóng giai cấp, dân tộc và nhân loại.
Tác phẩm ra đời trong hoàn cảnh tình hình thế giới và nước Nga có nhiều
biến động. Chủ nghĩa tư bản đã phát triển đến giai đoạn đế quốc chủ nghĩa.



2

2

Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918) nổ ra hòng phân chia lại thị trường
thế giới và dập tắt phong trào cách mạng của giai cấp công nhân ở các nước.
Vốn mâu thuẫn ở các nước đế quốc gay gắn, ngày càng trầm trọng hơn (mâu
thuẫn giữa tư sản với vô sản, giữa chủ nghĩa đế quốc với nhân dân các nước
thuộc địa và nửa thuộc địa, giữa chủ nghĩa đế quốc với chủ nghĩa đế quốc). Điều
đó đã làm tăng thêm tinh thần cách mạng của nhân dân, thúc đẩy cuộc đấu tranh
cách mạng của giai cấp vô sản và phong trào cách mạng vô sản thế giới phát
triển mạnh mẽ. Thời cơ giai cấp vô sản giành lấy chính quyền từ tay giai cấp tư
sản đã chín muồi, vấn đề quan hệ giữa cách mạng vô sản với nhà nước được đặt
trong chương trình nghị sự, việc giai cấp vô sản tiến hành cách mạng bạo lực để
giành lấy chính quyền đã trở thành hành động thực tế trước mắt.
Mặt khác, bọn phản động cơ hội ở quốc tế II điển hình là Bécstanh và
Causky, mưu toan chống lại những nguyên lý về nhà nước của Mác, chống lại
việc xây dựng phương pháp cách mạng để thay thế nhà nước tư sản bằng nhà
nước vô sản. Chúng phủ nhận phương pháp cách mạng bạo lực của Mác. Còn
bọn vô chính phủ thì tìm cách chống lại bất kỳ một nhà nước nào kể cả nhà
nước chuyên chính vô sản. Trước tình hình đó Lênin cho rằng nếu không đấu
tranh kiên quyết chống những thiên biến cơ hội chủ nghĩa về vấn đề nhà nước
thì không thể đấu tranh giải phóng quần chúng lao động khỏi ảnh hưởng của
giai cấp tư sản nói chung.
Nước Nga lúc này là nơi tập trung những mâu thuẫn lớn của chủ nghĩa
đế quốc, là trung tâm của phong trào cách mạng thế giới; nước Nga trở thành
mắt khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền đế quốc chủ nghĩa. Tình trạng hai
chính quyền song song tồn tại ở Nga đòi hỏi cần được chấm dứt, tất cả chính
quyền phải được về tay Xô Viết. Từ đó vấn đề khởi nghĩa vũ trang giành

chính quyền được đặt ra trực tiếp đối với những người cộng sản và nhân dân
lao động Nga.


3

3
Tác phẩm được viết vào đêm trước của cách mạng Tháng Mười, khi các

lực lượng xã hội tiến bộ, dưới sự lãnh đạo của Đảng Bốnsêvích, đang chuẩn
bị cho trận công kích cuối cùng theo sánh lược “biến chiến tranh đế quốc
thành nội chiến cách mạng”, đưa đến sự ra đời của nhà nước dân chủ kiểu
mới đầu tiên trên thế giới.
Trong bối cảnh đó, trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm lịch sử, những bài
học từ cách mạng 1848-1851, từ công xã Pa-ri1871 tại Tây Âu; từ cách mạng
1905-1907 tại Nga; từ cuộc bút chiến với Cauxky và các đại diện của chủ
nghĩa cơ hội, chủ nghĩa cải lương, cuốn sách “Nhà nước và cách mạng” ra
đời nhằm mục đích trang bị cho các nhà cách mạng, các nhà mácxít cũng như
phong trào công nhân Nga nói chung những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa
Mác về nguồn gốc và bản chất của nhà nước, về chuyên chính vô sản, về đặc
điểm của nền dân chủ mới-dân chủ của giai cấp vô sản, về giai đoạn của chủ
nghĩa cộng sản, vấn đề nhà nước tiêu vong,v.v…
Cuốn sánh này là một trong những nội dung quan trọng của chủ nghĩa
duy vật lịch sử, là cẩm nang lý luận về nhà nước của các nhà mácxít thời đó,
được soạn thảo công phu với tính cách là kiến thức triết học và chính trị cơ
bản để vận dụng vào quá trình xây dựng nhà nước chuyên chính vô sản sau
khi cách mạng xã hội thắng lợi. Tác phẩm đã trình bày một cách có hệ thống
các quan điểm của chủ nghĩa Mác về vấn đề nhà nước, phát triển lên một
bước lý luận Mácxít về nhà nước và cách mạng cho phù hợp với điều kiện
lịch sử mới, làm cơ sở cho hoạt động thực tiễn cách mạng.

1.2. Kết cấu và nội dung cơ bản của tác phẩm
*.Về kết cấu tác phẩm gồm 7 chương.
Chương I: Xã hội có giai cấp và Nhà nước (4 tiết)
Chương II: Nhà nước và cách mạng. Kinh nghiệm những năm 1848-1851(2
tiết)


4

4
Chương III: Nhà nước và cách mạng. Kinh nghiệm Công xã Pari 1871.

Sự phân tích của Mác (5 tiết)
Chương IV: Tiếp theo. Những lời giải thích bổ sung của Ăngghen. (6 tiết)
Chương V: Những cơ sở kinh tế để Nhà nước tiêu vong. (4 tiết)
Chương VI: Bọn cơ hội chủ nghĩa tầm thường hoá chủ nghĩa Mác. (3 tiết)
Chương VII: Kinh nghiệm các cuộc cách mạng Nga năm1905-1917
* Nội dung cơ bản của tác phẩm: Lênin bảo vệ và phát triển quan điểm của
Mác-Ăngghen về nguồn gốc, bản chất của nhà nước; phân tích rõ bản chất của
nhà nước tư sản và tính tất yếu phải đập tan nhà nước đó bằng cách mạng bạo
lực; khẳng định tư tưởng của chủ nghĩa Mác về chuyên chính vô sản; Lênin bàn
về nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và biện pháp xây dựng
nhà nước trong thời kỳ này, bàn về sự tiêu vong nhà nước; chỉ ra mục tiêu,
nhiệm vụ, phương pháp của cách mạng vô sản. Do nội dung bao quát và hết sức
sâu sắc được trình bày một cách có hệ thống như vậy. Cho nên trong phạm vi
bản thu hoạch này tác giả trình bày nhận thức của mình về vấn đề: Tư tưởng của
Lênin bàn về đặc điểm của Nhà nước chuyên chính vô sản trong tác phẩm “Nhà
nước và cách mạng” ý nghĩa đối với xây dựng bộ máy Nhà nước ta hiện nay.
2. Nội dung thu hoạch tư tưởng của Lênin bàn về đặc điểm cơ bản
của Nhà nước chuyên chính vô sản trong tác phẩm

Tổng kết kinh nghiệm lịch sử của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp
công nhân, C.Mác đã kết luận rằng giai cấp vô sản không thể chỉ chiếm lấy và
sử dụng bộ máy nhà nước sẵn có để cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới,
trái lại, phải đập tan bộ máy quan liêu đó và thay thế nó bằng bộ máy nhà
nước kiểu mới, nhà nước của giai cấp vô sản, nhà nước chuyên chính vô sản.
Không có nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản thì không thể hoàn
thành được nhiệm vụ lịch sử vĩ đại xây dựng chủ nghĩa cộng sản.


5

5
C.Mác đã viết: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa,

là thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ
ấy là một thời kỳ quá độ chính trị và Nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì
khác hơn là chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản” (1).
Bảo vệ và phát triển một cách sáng tạo học thuyết của C.Mác và
Ph.Ăngghen về nhà nước trong thời đại chủ nghĩa đế quốc và cách mạng vô
sản, V.I.Lênin đã đập tan những luận điểm cuả chủ nghĩa cơ hội mà đại biểu
là Bécstanh và Causky. Bọn chúng thần thánh hoá nền dân chủ tư sản, sùng
bái chế độ đại nghị, tuyên truyền dân chủ “thuần tuý” và đối lập dân chủ với
chuyên chính. Về thực chất, chúng phủ nhận chuyên chính vô sản, V.I.Lênin
viết:, “Chỉ những người đã hiểu rằng chuyên chính của một giai cấp là tất yếu
không những cho mọi xã hội có giai cấp nói chung, không những cho giai
cấp vô sản sau khi đã lật đổ giai cấp tư sản mà còn cho suốt cả thời kỳ lịch sử
từ chế độ tư bản chủ nghĩa đến “xã hội không có giai cấp” đến chế độ cộng
sản chủ nghĩa, chỉ những người đó mới thấm nhuần được thực chất của học
thuyết Mác về Nhà nước”(2). Lênin đã chỉ ra nhờ có bộ máy Nhà nước của
mình, giai cấp vô sản mới hoàn thành được nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá

độ là: trấn áp sự phản kháng của giai cấp bóc lột, đập tan âm mưu phục hồi
của chúng; tổ chức, cải tạo toàn thể quần chúng lao động không vô sản và nửa
vô sản, lôi cuốn họ vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng và
củng cố lực lượng để chống lại mọi âm mưu xâm lược của bọn đế quốc và các
lực lượng phản động quốc tế củng cố và phát triển quan hệ hợp tác giữa các
nước XHCN, ủng hộ và giúp đỡ phong trào cách mạng thế giới.
Việc thiết lập chuyên chính vô sản là quy luật phổ biến đối với tất cả các
dân tộc để thực hiện bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản.
Trong những điều kiện lịch sử và đặc điểm không hoàn toàn giống nhau. Vì
1)1 Các Mác và Ph.Ăngghen, toàn tập, Nxb CTQG, H, 1995, T.19, tr 47.
2)2 V.I.Lênin: Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, M, 1976, tr.43-44


6

6

thế việc tổ chức nhà nước chuyên chính vô sản tất nhiên sẽ có những hình
thức khác nhau, song các hình thức đó đều thể hiện quyền làm chủ tập thể về
chính trị của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản điều đó
được thể hiện ở những đặc điểm chủ yếu của Nhà nước chuyên chính vô sản:
Đặc điểm thứ nhất: Nhà nước chuyên chính vô sản là nhà nước của dân,
do dân, vì dân, là một tổ chức thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân
lao động, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
Cũng như các kiểu nhà nước trong lịch sử, nhà nước chuyên chính vô
sản là bộ máy của một giai cấp – giai cấp vô sản- để thống trị một giai cấp
khác- giai cấp tư sản. Song đối với giai cấp vô sản, sự thống trị giai cấp không
phải là mục đích cuối cùng, trái lại chỉ là tạm thời và cần thiết để thực hiện
việc xoá bỏ áp bức, bóc lột, xoá bỏ giai cấp, do đó, cũng xoá bỏ sự cần thiết
của bản thân nhà nước nói chung. Lênin viết:


“Các giai cấp bị bóc lột cần

đến sự thống trị chính trị để thủ tiêu hoàn toàn mọi sự bóc lột, nghĩa là để bảo
vệ lợi ích của đại đa số nhân dân chống lại thiểu số rất nhỏ những chủ nô hiện
đại, tức là bọn địa chủ và bọn tư bản”(3).
Lênin đã chỉ ra sự khác nhau căn bản giữa nhà nước chuyên chính vô sản
với các nhà nước đã có trong lịch sử là ở chỗ: các nhà nước trước đây bao giờ
cũng là công cụ của số ít những kẻ bóc lột để áp bức số đông nhân dân lao
động, trái lại, Nhà nước chuyên chính vô sản là công cụ của số đông nhân dân
lao động chống lại số ít bọn bóc lột. Nhà nước chuyên chính vô sản là nhà
nước kiểu mới, nhà nước của nhân dân lao động dựa trên cơ sở liên minh
công nông do giai cấp công nhân và đội tiền phong của nó là Đảng MácLênin lãnh đạo. Nhà nước chuyên chính vô sản không phải là một quyền lực
đặc biệt tách rời xã hội và đối lập với xã hội mà là một quyền lực chung của
số đông nhân dân, một công cụ để giải phóng xã hội, giải phóng con người.
3)3 V.I.Lênin: Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, M, 1976, tr.31
4. V.I.Lênin: Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, M, 1976, tr.10


7

7

Vì thế, nhà nước chuyên chính vô sản không phải là một nhà nước theo
nguyên nghĩa của từ đó nữa; nó là “nửa nhà nước”.
“Nhà nước là cơ quan thống trị của một giai cấp nhất định”, đây là quan
điểm không những đúng với mọi nhà nước nói chung mà cũng đúng đối với
nhà nước chuyên chính vô sản nói riêng. Song điều đó không có nghĩa là chỉ
riêng giai cấp vô sản là người làm chủ đối với xã hội. Trái lại, Nhà nước
chuyên chính vô sản là tổ chức để toàn thể nhân dân lao động thực hiện quyền

làm chủ tập thể của mình. Chính vì vậy, Nhà nước chuyên chính vô sản là nhà
nước thực sự của dân, do dân và vì dân. Nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo
của giai cấp công nhân, là người sáng lập và quản lý nhà nước, nhằm chống
lại kẻ thù và xây dựng cuộc sống mới cho mình. Thực chất của chuyên chính
vô sản là quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản đối với toàn xã hội, chủ yếu
thông qua nhà nước. Điều đó được thể hiện ở chỗ: Đường lối chính trị của
giai cấp vô sản là việc chỉ đạo và tổ chức hoạt động của nhà nước; Giai cấp
vô sản là giai cấp duy nhất nắm trong tay công cụ bạo lực để trấn áp giai cấp
bóc lột và cấc thế lực thù địch khác. Lãnh đạo và làm chủ là hai phạm trù
không đồng nhất. Đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo để toàn thể nhân dân lao
động thực hiện quyền làm chủ. Nhân dân lao động có thật sự làm chủ thì sự
lãnh đạo của giai cấp vô sản mới đạt được mục đích của nó. Trong xã hội xã
hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân lao động được tham gia quản lý
nhà nước là quyền làm chủ cao nhất, đầy đủ nhất, có hiệu lực nhất. Quyền
làm chủ ấy sẽ không thể thực hiện được, nếu không có sự lãnh đạo của giai
cấp vô sản.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, quần chúng nhân dân không phải chỉ là
người hưởng thụ những thành quả do chính quyền cách mạng đem lại mà
còn là người sáng tạo ra những thành quả đó. Thực hiện quyền làm chủ tập
thể về chính trị, kinh tế và văn hoá, nhân dân lao động trở thành chủ thể
chân chính của lịch sử. Quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động về


8

8

chính trị là thực chất của nền dân chủ vô sản, nền dân chủ cao nhất, rộng rãi
nhất và triệt để nhất trong lịch sử, “dân chủ gấp triệu lần”, so với nền dân
chủ tư sản. Nó đối lập với nền dân chủ tư sản; một bên (dân chủ tư sản), dựa

trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, dựa trên chế độ người bóc lột người;
ngược lại một bên (dân chủ vô sản) dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất, làm chủ tập thể về kinh tế của nhân dân lao động. Nhà nước chuyên
chính vô sản là nhà nước của dân, do dân, vì dân, điều đó được bảo đảm bởi
những cơ chế và điều kiện sau đây:
Một là, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân lao động tham gia vào
công việc quản lý của nhà nước, thông qua cơ chế gián tiếp hay trực tiếp.
Nguyên tắc tổ chức, cơ chế hoạt động và luật pháp của nhà nước xã hội
chủ nghĩa bảo đảm cho đông đảo nhân dân lao động thực sự tham gia quản lý
Nhà nước, có quyền quyết định những công việc trọng đại của nhà nước. Chế
độ bầu cử thật sự dân chủ bảo đảm cho nhân dân lao động có quyền lựa chọn
những đại biểu xứng đáng của mình vào các cơ quan quyền lực nhà nước.
Luật pháp và các thể chế của nhà nước bảo đảm cho nhân dân có quyền và có
khả năng thực tế kiểm tra, giám sát, phê bình đội ngũ công chức và cơ quan
nhà nước, có quyền bãi miễn những đại biểu do mình bầu ra. Hệ thống tổ
chức nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, trong đó mọi quyền đều
thuộc về nhân dân thông qua các cơ quan quyền lực do nhân dân bầu ra.
Hai là, người lao động làm chủ đối với tư liệu sản xuất; đời sống chính
trị và văn hoá tham gia quản lý nhà nước một cách có hiệu quả.
Không nhận thức rõ nhà nước chuyên chính vô sản là nhà nước do giai
cấp vô sản lãnh đạo, tổ chức và hoạt động theo đường lối chính trị của giai
cấp vô sản mà chỉ nói “dân chủ”, nói “nhân dân” chung chung là mơ hồ về
bản chất giai cấp của nhà nước. Song nếu không thấy rõ sự thống nhất hữu cơ
giữa tính chất giai cấp với tính chất nhân dân của nhà nước chuyên chính vô


9

9


sản thì cũng sai lầm nghiêm trọng. Bởi vì, một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng
của cách mạng vô sản là phát huy quyền làm chủ tập thể, xây dựng chế độ
làm chủ tập thể của nhân dân lao động; đó vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao
động đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, được thể chế hóa bằng pháp
luật, thực hiện chủ yếu thông qua các hoạt động quản lý của nhà nước.
Đặc điểm thứ hai, sự kết hợp giữa hai chức năng trấn áp và tổ chức xây
dựng, trong đó tổ chức xây dựng là chủ yếu.
Bản chất của nhà nước chuyên chính vô sản được thể hiện rõ ở hai chức
năng cơ bản; chức năng trấn áp và chức năng tổ chức xây dựng. Sự thống nhất
giữa hai chức năng này, trong đó chức năng tổ chức xây dựng là chủ yếu, là
đặc điểm quan trọng của nhà nước chuyên chính vô sản. Nhà nước chuyên
chính vô sản là công cụ bạo lực để giai cấp vô sản trấn áp, đè bẹp sự phản
kháng của giai cấp bóc lột. Giai cấp vô sản thiết lập nhà nước của mình,
không phải để bảo đảm quyền tự do cho “tất cả mọi người”, mà là để trấn áp
kẻ thù của mình, để bảo vệ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chừng nào
còn giai cấp bóc lột, còn những thế lực thù địch đối với sự nghiệp giải phóng
giai cấp công nhân và những người lao động; chừng nào còn tồn tại chủ nghĩa
đế quốc và các lực lượng phản động quốc tế thì chừng đó còn phải tăng
cường khả năng bạo lực trấn áp của nhà nước chuyên chính vô sản.
Đảng của giai cấp công nhân không ngừng chăm lo xây dựng và
củng cố các công cụ bạo lực của nhà nước chuyên chính vô sản, phải
thường xuyên nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, sẵn sàng đập tan
mọi âm mưu bạo loạn của bọn phản động bên trong và mọi hành động
xâm lược của kẻ thù bên ngoài, bảo vệ vững chắc chính quyền nhà nước
vô sản. Sự nghiệp của nhân dân lao động còn đòi hỏi nhà nước chuyên
chính vô sản phải kiên quyết thi hành cưỡng bức bằng bạo lực đối với bọn
phá hoại, bọn đầu cơ, ăn bám, bọn lưu manh chuyên nghiệp, buộc chúng



10

10

phải phục tùng pháp luật của nhà nước. Khi bàn về vấn đề này, Lênin
cũng chỉ ra chuyên chính vô sản không phải chỉ là bạo lực đối với bọn bóc
lột, và cũng không phải chủ yếu là bạo lực. Mà khác với nhà nước trước
đây, các nhà nhà nước trước đây mới chỉ chú trọng tổ chức bạo lực để
trấn áp, còn nhà nước chuyên chính vô sản là công cụ của giai cấp vô sản
để thực hiện kiểu tổ chức lao động xã hội cao hơn so với chủ nghĩa tư
bản. V.I. Lênin viết: “Chuyên chính vô sản, tức là thời kỳ quá độ tiến lên
chủ nghĩa cộng sản, sẽ đem lại một chế độ dân chủ cho nhân dân, cho số
đông, đi đôi với sự trấn áp tất yếu đối với số ít, đối với bọn bóc lột” 5
Trong các cuộc cách mạng trước đây, nhân dân lao động là người tham
gia quyết định việc lật đổ giai cấp thống trị nhưng không đóng vai trò làm chủ
trong chế độ xã hội mới. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa nhân dân lao
động là người đóng vai trò chủ động, sáng tạo trong việc tổ chức xây dựng
trật tự xã hội mới, phương thức sản xuất mới. Nhà nước chuyên chính vô sản
không những là một tổ chức để nhân dân lao động thi hành quyền lực của
mình trong việc trấn áp kẻ thù, mà còn là một tổ chức thể hiện quyền làm chủ
của nhân dân lao động trong việc tổ chức quản lý toàn bộ sự nghiệp xây dựng
xã hội mới, cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới là một sự nghiệp vĩ đại
khó khăn phức tạp, là nội dung chủ yếu của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Giai cấp công nhân và nhân dân lao động phải được tổ chức một cách tập
trung dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản thì mới có thể hoạt động một cách tự
giác có tổ chức, có kỷ luật trên quy mô toàn xã hội; mới cải tạo được xã hội cũ xây
dựng một xã hội mới. Vì thế, tổ chức và xây dựng là chức năng chủ yếu của Nhà
nước chuyên chính vô sản. Nhà nước thực hiện tốt chức năng bạo lực trấn áp là để
bảo đảm điều kiện thiết yếu cho việc nhân dân lao động tổ chức và xây dựng một
xã hội mới. Tổ chức và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội cộng sản là mục đích

cuối cùng của cách mạng vô sản, bảo đảm “cơ sở kinh tế”, “sức sống” và “sự thắng
55 V.I.Lênin: Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, M, 1976, tr.110


11

11

lợi” cho việc trấn áp kẻ thù của cách mạng. Hiện nay giai cấp vô sản muốn thay thế
nhà nước tư sản bằng nhà nước vô sản thì phải thông qua chuyên chính vô sản chứ
không có con đường nào khác.. V.I. Lênin viết: “Nhà nước tư sản bị thay thế bởi
nhà nước vô sản (chuyên chính vô sản) không thể bằng con đường “tiêu vong”
được, mà chỉ có thể, theo quy luật chung, bằng một cuộc cách mạng bạo lực thôi”
(6)
Đặc điểm thứ ba- Sự thống nhất giữa tính dân tộc và tính quốc tế của
Nhà nước chuyên chính vô sản
Nhà nước chuyên chính vô sản là nhà nước đầu tiên trong lịch sử, vừa có
tính dân tộc vừa có tính quốc tế. Tính dân tộc của nhà nước chuyên chính vô
sản thể hiện trước hết ở chỗ nó là một hình thức chính trị làm cho giai cấp vô
sản mỗi nước “tự mình trở thành dân tộc”. Khi đã nắm chính quyền, giai cấp
công nhân trở thành giai cấp lãnh đạo của dân tộc; Nhà nước vô sản trở thành
người đại biểu cho lợi ích và chủ quyền của dân tộc, thực hiện triệt để nhất
quyền độc lập, tự do của dân tộc; vì nhà nước đó tiêu biểu cho quyền làm chủ
của nhân dân lao động đối với Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của mình. Lợi ích
dân tộc chân chính mà nhà nước xã hội chủ nghĩa là người đại biểu, hoàn toàn
trái ngược với lợi ích “dân tộc” theo quan điểm của giai cấp tư sản. Nó không
đối lập, mà hoàn toàn nhất trí với lợi ích quốc tế của giai cấp vô sản. Vì thế,
kết hợp nghĩa vụ dân tộc và nghĩa vụ quốc tế là đặc trưng của Nhà nước
chuyên chính vô sản, thể hiện bản chất và vai trò lịch sử của giai cấp công
nhân. Lênin chỉ rõ rằng khi giai cấp công nhân đã giành được chính quyền thì

giai cấp đó có những khả năng to lớn chưa từng thấy trong việc góp phần vào
sự nghiệp giải phóng tất cả những người lao động và các dân tộc bị áp bức
trên toàn thế giới. Chính vì thế, nghĩa vụ quốc tế của nhà nước chuyên chính
vô sản càng vô cùng trọng đại. Sự thiết lập chuyên chính vô sản ở mỗi nước
chẳng những là thắng lợi của giai cấp vô sản và quần chúng lao động nước ấy,
66 V.I.Lênin: Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, M, 1976, tr.27


12

12

mà còn là thắng lợi chung của cách mạng vô sản trên toàn thế giới. V.I.Lênin
nhấn mạnh rằng giai cấp vô sản đã chiến thắng không thể thoái thác nghĩa vụ
quốc tế trọng đại của mình. Nhiệm vụ quốc tế của Nhà nước chuyên chính vô
sản bao gồm việc giúp đỡ bằng mọi cách – cả về vật chất và về chính trị tinh
thần, trong trường hợp cần thiết cả về quân sự nữa. Nhiệm vụ quốc tế của nhà
nước chuyên chính vô sản còn bao hàm việc củng cố khối đại đoàn kết giữa
các nước xã hội chủ nghĩa trong cuộc đấu tranh cho những mục tiêu chung,
cũng như cho những lợi ích dân tộc chân chính.
Khi giai cấp công nhân đã nắm chính quyền nhà nước thì việc đề
phòng nguy cơ của chủ nghĩa dân tộc và kiên quyết đấu tranh chống những
biểu hiện của nó ở trong nước cũng như trên phạm vi quốc tế là nhiệm vụ
quan trọng.
3. Ý nghĩa phương pháp luận đối với việc xây dựng chính quyền Nhà
nước ta trong sự nghiệp đổi mới hiện nay
3.1. Ý nghĩa của tác phẩm “nhà nước và cách mạng”
- Tác phẩm “Nhà nước và cách mạng” là một tác phẩm đặc biệt xuất sắc,
góp phần đấu tranh bảo vệ và phát triển học thuyết về nhà nước, đáp ứng yêu
cầu cấp thiết cho phong trào cách mạng vô sản thế giới. Là cương lĩnh cho

cuộc đấu tranh giành chính quyền nhà nước vô sản, vũ trang về mặt lý luận
cho giai cấp vô sản và quần chúng lao động, làm cho những hành động khởi
nghĩa vũ trạng có sự chỉ đạo lý luận mácxít, bảo đảm cho sự thắng lợi của
chuyên chính vô sản.
- Tác phẩm “Nhà nước và cách mạng” đáp ứng cấp bách của tình hình
thực tiễn của phong trào cách mạng Nga và đập tan chủ nghĩa cơ hội “tả” và
“hữu”, chủ nghĩa vô chính phủ lúc bấy giờ, ngăn ngừa kịp thời những tư
tưởng phi mácxít về nhà nước làm ảnh hưởng vào phong trào công nhân. Từ
đó làm rõ thêm và phát triển lý luận của Mác về nhà nước.


13

13
- Tác phẩm “Nhà nước và cách mạng” là kim chỉ nam cho hành động

của Đảng cộng sản của các nước trong việc giành chính quyền từ tay giai cấp
tư sản và xây dựng chính quyền nhà nước của mình.
-Tác phẩm “Nhà nước và cách mạng” hiện nay vẫn còn nguyên giá trị
khoa học và có tính thời sự của nó. Những tư tưởng cơ bản trong tác phẩm
làm cơ sở lý luận cho các Đảng cộng sản ở các nước tư sản nhận định bản
chất của nhà nước tư bản. Đối với các nước xã hội chủ nghĩa nó là cơ sở
định ra đường lối xây dựng nhà nước vô sản đúng đắn. Chỉ có nắm vững
thực chất và vận dụng đúng đắn những tư tưởng của V.I. Lênin trong tác
phẩm mới có cơ sở vững chắc để xem xét vấn đề nhà nước đương đại một
cách đúng đắn và cũng cố xây dựng, phát triển hoàn thiện được nhà nước
xã hội chủ nghĩa.
3.2. Đảng ta vận dụng tư tưởng của tác phẩm vào xây dựng bộ máy
Nhà nước ta hiện nay
Đảng ta đã vận dụng một cách đúng đắn sáng tạo học thuyết về Nhà

nước của chủ nghĩa Mác-Lênin vào việc xây dựng một Nhà nước pháp quyền
Việt Nam, Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Đặc biệt là vấn đề xây dựng
và củng cố bộ máy chính quyền nhà nước ta trong sự nghiệp đổi mới.
Từ sau 1975 cả nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội, đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Trong những năm 1975-1985 chúng ta đã giành được
những thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, bên cạnh những thành
tựu ấy, chúng ta đã phạm phải một số khuyết điểm, sai lầm rất nghiêm trọng,
nhất là trong lĩnh vực xây dựng và quản lý kinh tế-xã hội. Ở đây, một trong
những khuyết điểm, sai lầm là bộ máy nhà nước cồng kềnh, hoạt động kém
hiệu quả, chức năng phân cấp và quản lý chưa rõ ràng, kỷ cương phép nước
chưa được nghiêm minh.


14

14
Trước thực trạng đó, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã

khởi xướng công cuộc đổi mới đất nước. Quá trình đổi mới ở nước ta được tiến
hành một cách toàn diện, trong đó đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước, phát huy vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước là vấn đề hết sức quan
trọng. Hiện nay, sự nghiệp đổi mới đất nước đang đi vào chiều sâu, sự nghiệp
CNH-HĐH đất nước đang được đẩy mạnh, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đang
được thiết lập dần, nền kinh tế thị trường bước đầu đạt được những thành tựu
đáng khích lệ. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, chúng ta cũng gặp phải
không ít khó khăn. Đó là đất nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội trong tình hình thế giới đang có những diễn biến hết sức phức tạp;
kẻ địch vẫn thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình” hòng lật đổ chủ nghĩa xã hội
ở nước ta. Điều này đòi hỏi chúng ta phải phát huy hơn nữa những mặt tích cực,
khắc phục những hạn chế, yếu kém, đưa sự nghiệp xây dựng đất nước giành

những thắng lợi to lớn hơn nữa. Vì vậy, việc xây dựng hoàn thiện bộ máy Nhà
nước là một trong những nhiệm vụ rất quan trọng của công cuộc đổi mới đất nước
trong điều kiện mới. Để làm được điều đó, phải đảm bảo quyền lực thuộc về nhân
dân. Do đó, hơn bao giờ hết chúng ta cần phải quán triệt, vận dụng những quan
điểm cơ bản của lý luận Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của
dân, do dân và vì dân.
Một là, nâng cao bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước
Theo Hồ Chí Minh, Nhà nước ta là nhà nước của khối đại đoàn kết toàn
dân và mang bản chất giai cấp công nhân vì những lý do sau đây:
Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam là nhà nước do Đảng cộng sản lãnh đạo.
Điều này trở thành một nguyên tắc trong xây dựng nhà nước mà Chủ tịch Hồ
Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền” 7. Từ khi có
chính quyền cách mạng đến nay, Đảng ta đã trải qua không ít thời kỳ khó khăn,
nhưng nguyên tắc Đảng lãnh đạo Nhà nước không bao giờ được xem nhẹ.
77 Hồ Chí Minh: Toàn tập, , Nxb. CTQG, Hà nội, 2002, tập 12, tr. 15 .


15

15
- Nhà nước ta đại diện cho ý chí của tất cả các tầng lớp nhân dân, không

phân biệt đảng phái, tôn giáo, dân tộc, giàu nghèo, gái trai…Tuy nhiên, cái
cốt lõi của Nhà nước là sự liên minh của giai cấp công nhân, giai cấp nông
dân và tầng lớp trí thức do giai cấp công nhân lãnh đạo.
- Cách thức tổ chức và hoạt động của Nhà nước ta luôn tuân thủ nguyên
tắc tập trung dân chủ
- Trong tổ chức và quản lý, Nhà nước ta có sự thống nhất quyền lực,
nhưng có sự phân công và phân cấp rõ ràng.
Hồ Chí Minh không chấp nhận thuyết “tam quyền phân lập” (tức là ba

quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp độc lập với nhau). Theo người, giữa các
quyền đó không có sự chia cắt, mà phải có sự thống nhất chặt chẽ với nhau,
bởi chỉ có như vậy thì tất cả các quyền lực mới thuộc về nhân dân. Nhưng
giữa các quyền đó có sự phân công, phối hợp với nhau. Sự phân công này
cũng chỉ nhằm đem tất cả các quyền lực về cho nhân dân.
Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước,
chính quyền của chúng ta còn nhiều yếu kém về năng lực tổ chức thực tiễn, về
trình độ, kiến thức, thậm chí cả về phẩm chất đạo đức của không ít cán bộ,
viên chức. Đặc biệt trong bộ máy nhà nước nảy sinh nhiều tệ cửa quyền, sách
nhiễu, làm phiền hà nhân dân, gây cản trở cho việc phát triển kinh tế- xã hội
của đất nước; cách thức tổ chức cồng kềnh, chồng chéo, nhiều tầng, nhiều
nấc; hiệu quả quản lý, điều hành kém; nạn hối lộ, tham nhũng buôn lậu, trốn
thuế diễn ra khá nghiêm trọng. Vì vậy, Đảng ta khẳng định: Việc cải cách nền
hành chính nhà nước là vấn đề trọng tâm của việc xây dựng và hoàn thiện bộ
máy nhà nước trong điều kiện mới. Mục tiêu cải cách hành chính nhà nước là
nhằm xây dựng củng cố nền hành chính trong sạch, vững mạnh, đủ năng lực,
sử dụng đúng quyền lực và hiệu quả công việc của nhà nước, thúc đẩy xã hội
phát triển lành mạnh, tiến bộ.


16

16
Bên cạnh việc cải cách hành chính, phải tăng cường nguyên tắc tập trung

dân chủ và thực chiện tốt nguyên tắc pháp chế. Vì thế, để xây dựng Nhà nước
của dân, do dân và vì dân theo quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh, cần phải
giữ vững và nâng cao bản chất giai cấp công nhân của nhà nước. Đây là vấn
đề hết sức bức thiết và quan trọng, cần được quán triệt từ trung ương đến địa
phương, ở mọi cấp, mọi ngành.

Để làm trong sạch bộ máy nhà nước trước hết phải chống tham nhũng,
hối lộ, lãng phí, quan liêu, buôn lậu, hách dịch, cữa quyền…Đây là loại tệ nạn
thường rơi vào những người có chức, có quyền, trong bộ máy Nhà nước. Vì
vậy, muốn chống những tệ nạn đó, phải thật sự dựa vào dân, phát động một
phong trào trong toàn xây dựng làm theo lời Bác: “Cần, kiệm, liêm, chính”.
“Toàn dân chống giặc nội xâm”. Bàn về biện pháp chống các tệ nạn đó, tại đại
hội lần thứ IX, Đảng ta đã chỉ rõ: “Phải tăng cường về tổ chức và cơ chế, tiếp
tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng trong bộ máy nhà nước và
toàn bộ hệ thống chính trị ở các cấp, các ngành từ trung ương đến cơ sở. Gắn
chống tham nhũng với chống lãng phí, quan liêu, buôn lậu, đặc biệt chống các
hành vi lợi dụng chức quyền để làm giàu bất chính” (8). Hơn nữa, để nâng cao
bản chất giai cấp của nhà nước, phải thực hiện cho được nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa để đảm bảo cho nhân dân thực hiện quyền làm chủ trong quản lý
mọi mặt của đời sống xã hội. Quyền làm chủ đó phải được thể chế hoá bằng
Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước, không ngừng được hoàn thiện cùng với
sự phát triển kinh tế- xã hội và nâng cao dân trí. Dân chủ phải trong tổ chức,
phải gắn liền với kỷ cương phép nước, bảo đảm được ý chí, nguyện vọng của
nhân dân lao động, đồng thời phải chuyên chính với những hành động vi
phạm lợi ích của nhân dân cũng như an ninh đất nước. Cần phải tăng cường
sự lãnh đạo, điều hành tập trung, thống nhất của Trung ương, đồng thời phát
huy tính chủ động, sáng tạo của địa phương.
8)8 Đảng cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb CTQG, H, 2001, Tr.50


17

17
Để tăng cường bản chất giai cấp của nhà nước, Đảng phải thường xuyên

đổi mới sự lãnh đạo đối với nhà nước. Đảng không bao biện, làm thay nhà

nước hoặc lấn át công việc của nhà nước. Ở đây, sự lãnh đạo của Đảng phải
đảm bảo cho nhà nước hoạt động đúng hướng, không đi chệch định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Trong cơ quan nhà nước, các tổ chức Đảng và đảng viên phải phát huy
tính tiền phong, gương mẫu, phải tuyên truyền và giáo dục quần chúng thực
hiện tốt đường lối của Đảng; có trách nhiệm giới thiệu những cán bộ có phẩm
chất và năng lực vào cơ quan quản lý nhà nước. Mặt khác, Đảng cần tăng
cường công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của nhà nước thông qua các tổ
chức cơ sở Đảng, thông qua các đảng viên và quần chúng. Qua đó, Đảng kịp
thời uốn nắn những thiếu sót, lệch lạc và bổ sung, hoàn chỉnh hơn đường lối
của mình.
Tóm lại, đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước, tăng cường
bản chất giai cấp công nhân của nhà nước là nhiệm vụ hết sức cần thiết. Có như
vậy mới bảo đảm được quyền làm chủ thực sự của nhân dân lao động hay nói
cách khác, mới xây dựng được một nhà nước thật sự là của dân, do dân, vì dân.
Hai là, đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả của bộ máy
quản lý Nhà nước
Việc đẩy mạnh cải cách nền hành chính ở nước ta trong giai đoạn hiện
nay là rất cần thiết. Bởi vì, trong công cuộc đổi mới đất nước, nền hành chính
của chúng ta còn chậm thay đổi, còn nảy sinh nhiều tệ cửa quyền, sách nhiễu
nhân dân, gây cản trở lớn cho việc phát triển kinh tế- xã hội. Chính vì vậy,
Đảng ta khẳng định, hiện nay việc cải cách nền hành chính nhà nước là một
vấn đề hết sức quan trọng của việc xây dựng và quản lý nhà nước. Trong đó,
cải cách thể chế hành chính là khâu then chốt nhất cần phải tiến hành ngay.


18

18
Cải cách thể chế hành chính trước hết là cải cách một cách cơ bản các


thủ tục hành chính, cả về thể chế lẫn tổ chức thực hiện. Nâng cao hiệu quả của
bộ máy quản lý nhà nước và cải cách hành chính là công việc thường xuyên
của mọi quốc gia.
Cải cách hành chính Nhà nước là nhằm xây dựng một nền hành chính
trong sạch, có đủ năng lực, sử dụng đúng quyền lực và hiệu quả công việc
Nhà nước, thúc đẩy xã hội phát triển lành mạnh, đúng hướng nhằm phục vụ
đời sống của nhân dân, xây dựng nếp sống văn minh, sống và làm việc theo
pháp luật, đúng như Đảng ta đã chỉ rõ: “Làm cho bộ máy tinh gọn, đảm bảo
sự điều hành tập trung, thống nhất, thông suốt có hiệu lực từ Chính phủ đến
chính quyền địa phương, cơ sở; đồng thời phát huy tính chủ động, năng động
của địa phương, cơ sở”(9).
Cải cách nền hành chính Nhà nước được xác định là một trong những
nội dung vừa cơ bản, vừa cấp bách của sự nghiệp đổi mới đất nước ta hiện
nay. Điều đó góp phần củng cố và nâng cao vai trò lãnh đạo của một Đảng
cầm quyền để Đảng ngang tầm với nhiệm vụ hiện nay. Mặt khác, cải cách
nền hành chính Nhà nước giúp chúng ta khắc phục, ngăn chặn và đẩy lùi
được tệ nạn tham nhũng và những tệ nạn tiêu cực khác trong bộ máy Nhà
nước, làm trong sạch bộ máy, góp phần củng cố và làm vững mạnh hệ
thống chính trị.
Để thực hiện cải cách hành chính có hiệu quả, phải thực hiện đồng thời ở
ba lĩnh vực chủ yếu sau: cải cách thể chế hành chính; cải cách bộ máy và quy
chế hoạt động; xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ, năng lực, đủ sức để hoàn
thành nhiệm vụ được giao.
Bên cạnh việc tiến hành cải cách hành chính phải tăng cường thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh khi nói về vấn đề dân chủ đã
cho rằng, dân chủ là mọi vấn đề cần phải được thảo luận công khai, rộng rãi,
9)9 Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQ, H.1996, tr.131



19

19

nhưng một khi đã nhất trí rồi thì phải thực hiện nghiêm túc “Tập trung trên nền
tảng dân chủ”, “…dân chủ dưới sự chỉ đạo của tập trung” (10). Nguyên tắc này đòi
hỏi cấp dưới phục tùng cấp trên, địa phương phục tùng Trung ương, đây là
nguyên tác quản lý của nhà nước cần phải thực hiện tốt. Chính vì thế, việc thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong bộ máy Nhà nước là vấn đề hết sức quan
trọng trong tình hình hiện nay của đất nước. Nó góp phần cung cấp sinh lực cho
bộ máy nhà nước, bảo đảm cho bộ máy nhà nước hoạt động thống nhất có hiệu
quả hơn. Hơn nữa, một mặt chúng ta phải xây dựng pháp quyền nhà nước, tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, quản lý xã hội bằng pháp luật; mặt khác phải
coi trọng việc giáo dục, nâng cao đạo đức cho đội ngũ cán bộ, công chức nhà
nước.
Như vậy, việc tiến hành cải cách hành chính nhà nước không phải là
nhằm làm thay đổi bản chất của Nhà nước, mà là nhằm nâng cao hơn nữa bản
chất giai cấp công nhân của nhà nước.
Ba là, giải quyết đúng đắn mối quan hệ Đảng lãnh đạo và vai trò quản
lý của Nhà nước
Từ khi có Đảng, sự lãnh đạo của Đảng là một trong những nhân tố quyết
định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những thành
tựu, ưu điểm, Đảng ta cũng không tránh khỏi những sai lầm, thiếu sót trong
quá trình lãnh đạo đất nước. Đặc biệt, trong thời kỳ thực hiện cơ chế quản lý
hành chính bao cấp, Đảng có nhiều hạn chế, khuyết điểm như bao biện, làm
thay công việc của nhà nước. Ngược lại, các cơ quan nhà nước có nơi, có lúc
không thực hiện đầy đủ, nghiêm túc chủ trương, đường lối của Đảng hoặc ỷ
lại vào Đảng. Giữa công việc của Đảng và công việc của nhà nước còn có sự
chồng chéo, trùng lặp.
Không chỉ là người lãnh đạo đất nước, Đảng ta còn là Đảng cầm quyền.

đảng chỉ có thể làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình với điều kiện nắm vững
10)10 Hồ Chí Minh, toàn tập, Tập 7, Nxb CTQG, H, 1995, tr. 240-241.


20

20

quyền lực và biết sử dụng quyền lực. Cần khẳng định Đảng là một bộ phận của
hệ thống chính trị nhưng là bộ phận lãnh đạo. Đảng phải thông qua quyền lực để
định hướng đúng đắn cho toàn bộ hoạt động của hệ thống chính trị. Nhưng Đảng
phải khắc phục một cách có hiệu quả những thiếu sót mà Đảng đã mắc phải. Đặc
biệt, cần tránh tình trạng quyền lực tập trung quá lớn vào Đảng, dẫn đến nguy cơ
Đảng trị, Đảng trở thành một tổ chức đứng trên nhà nước. Sự lẫn lộn giữa chức
năng lãnh đạo và chức năng quản lý của nhà nước sẽ dẫn đến tình trạng Đảng
bao biện, làm thay công việc của nhà nước. Cần phải khắc phục sự cồng kềnh
trong bộ máy của Đảng, sự trùng lặp giữa bộ máy của Đảng và bộ máy của nhà
nước. Cần tránh tình trạng bộ máy của Đảng chia thành nhiều tầng, nhiều nấc
trung gian, dẫn đến xa rời thực tế, phương thức hoạt động của Đảng mang nặng
tính hành chính- mệnh lệnh, mất dần tính giáo dục, thuyết phục.
Để làm tốt vấn đề này cần tập trung làm tốt tốt một số nội dung sau đây:
Làm rõ về mặt nhận thức vai trò lãnh đạo của Đảng thể hiện ở việc
hoạch định đường lối phát triển đất nước, các chính sách đối nội và đối ngoại;
tiến hành công tác giáo dục chính trị-tư tưởng; tổ chức quần chúng thực hiện
công tác kiểm tra việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng.
Hoạch định đường lối xây dựng và sử dụng đội ngũ cán bộ, giới thiệu
cho chính quyền, đoàn thể những cán bộ chủ chốt, có phẩm chất, năng lực
trong công tác quản lý của nhà nước.
Củng cố xây dựng lại các tổ chức cơ sở Đảng, tuyển chọn những đảng
viên thật sự xứng đáng là “lãnh tụ chính trị” của quần chúng.

Khôi phục, củng cố quan hệ giữa Đảng và nhân dân, làm cho Đảng thật
sự gắn bó máu thịt với nhân dân, hiểu được tâm tư, nguyện vọng của nhân
dân, được nhân dân tín nhiệm.
Dân chủ hoá nội bộ Đảng, thực hiện tự do thảo luận và tranh luận các
vấn đề của Đảng trước khi đưa ra quyết định những vấn đề trọng đại. Đề


21

21

cao tính tập thể trong sự lãnh đạo của Đảng, nhưng quy định trách nhiệm
cá nhân rõ ràng.
Tại đại hội lần thứ IX, Đảng ta đã khẳng định sự cần thiết phải đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và mối quan hệ giữa Đảng
với Nhà nước như sau: “Tăng cường vai trò lãnh đạo và tiếp tục đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước
thông qua việc đề ra đường lối, chủ trương, các chính sách lớn, định hướng
cho sự phát triển và kiểm tra việc tổ chức thực hiện đường lối chủ trương của
Đảng và Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước…
Kiện toàn hệ thống tổ chức đảng gắn với cải cách, đổi mới tổ chức, bộ
máy của các cơ quan Nhà nước và các đoàn thể chính trị-xã hội”. (11)
Nhà nước thực hiện nghiêm chỉnh sự lãnh đạo của Đảng bằng việc cụ
thể hoá đường lối, chủ trương của Đảng thành Hiến pháp và pháp luật, thành
kế hoạch chương trình hành động của mình. Nhà nước phải thực hiện được ý
chí và nguyện vọng của nhân dân, đồng thời phải chịu sự lãnh đạo và chỉ
đạo của Đảng.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X tiếp tục khẳng định; “Đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng, bảo đảm vừa nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng,
vừa phát huy tính chủ động, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm của Nhà nước,

Mặt trận, các đoàn thể nhân dân và người đứng đầu; khắc phục khuynh hướng
buông lỏng lãnh đạo hoặc bao biện làm thay; phát huy sức mạnh tổng hợp của
cả hệ thống chính trị”12. Đây là một quan điểm xuyên suốt của Đảng ta trong
thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, đặc biệt tong thời kỳ đổi mới đất nước
định hướng xã hội chủ nghĩa đã thu được nhiều thắng lợi lớn.
*

*

11)11 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H,2001, tr.144145
1212 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H,2006, tr 181


22

22
*
Như vậy, những nguyên lý về nhà nước trong tác phẩm “Nhà nước và

cách mạng” của Lênin giữ vai trò định hướng chỉ đạo giai cấp vô sản khi đấu
tranh giành chính quyền và củng cố giữ vững chính quyền cách mạng trong
tiến trình đi lên chủ nghĩa xã hội. Vận dụng những nguyên lý đó vào điều kiện
cụ thể ở Việt Nam hiện nay để tiến hành sự nghiệp đổi mới đất nước, Nhà
nước ta luôn đổi mới tư duy, thay đổi nếp nghĩ, thói quen, cung cách quản lý
cũ, phải có phong cách làm việc mới, tư duy nhạy bén, chuyên môn cao, có
phẩm chất chính trị tốt để ngang tầm với nhiệm vụ hiện nay. Có như vậy, Nhà
nước ta mới thể hiện được sức mạnh, quyền lực và ý chí, nguyện vọng của
nhân dân, đồng thời thể hiện được sức mạnh và trí tuệ của Đảng cũng như vai
trò lãnh đạo của Đảng. Đó chính là sự thể hiện mối quan hệ hữu cơ giữa vai
trò lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của nhà nước.




×