Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

NGUYÊN tắc và NĂNG lực bồi THƯỜNG THIỆT hại TRONG TRÁCH NHIỆM bồi THƯỜNG THIỆT hại NGOÀI hợp ĐỒNG THEO bộ LUẬT dân sự năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.87 KB, 20 trang )

Trường
Khoa
Logo

TIỂU LUẬN CUỐI KÌ
Học phần: Luật Dân sự 2
Đề tài: NGUYÊN TẮC VÀ NĂNG LỰC BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
TRONG TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP

ĐỒNG THEO BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015

Thực hiện:
Họ và tên sinh viên:
Mã sinh viên:
Giarng viên hướng dẫn:

Hà Nội, năm 2022


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
1.
2.
3.
4.
5.

Lý do chọn đề tài
Tình hình nghiên cứu
Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài


Kết cấu đề tài

Nội dung 1: Cơ sở lí luận và pháp luật thực định về nguyên tắc và năng lực bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng
1.1.

Khái niệm chung

1.1.1.

Bồi thường thiệt hại là gì?

1.1.2.

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại

1.1.3.

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

1.1.4.

Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại

1.2.

Nguyên tắc bồi thường thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại

ngoài hợp đồng trong BLDS năm 2015
1.2.1.


Quy định pháp luật về Nguyên tắc bồi thiệt hại trong trách nhiệm bồi

thường thiệt hại ngoài hợp đồng
1.2.2. Nhận diện những thay đổi cơ bản về nguyên tắc bồi thường thiệt hại trong
trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong BLDS năm 2015 so với BLDS năm 2005
1.3.

Năng lực bồi thường thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại

ngoài hợp đồng trong BLDS năm 2015
1.3.1.

Quy định pháp luật về Năng lực bồi thường thiệt hại trong trách nhiệm

bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong BLDS năm 2015


1.3.2. Nhận diện những thay đổi cơ bản về năng lực bồi thường thiệt hại trong
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong BLDS năm 2015 so với
BLDS 2005
Kết luận Nội dung 1
Nội dung 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật về nguyên tắc và trách nhiệm bồi
thường thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
2.1. Bất cập và kiến nghị pháp luật về nguyên tắc bồi thường thiệt hại trong
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo BLDS năm 2015
2.2. Bất cập và kiến nghị pháp luật về năng lực bồi thường thiệt hại trong trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo BLDS năm 2015
Kết luận Nội dung 2
KẾT LUẬN CHUNG

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

MỞ ĐẦU


1. Lý do chọn đề tài
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một trong những chế định pháp lý của bồi
thường dân sự, trong lịch sử pháp luật việc bồi thường dân sự thường được giải quyết
bằng phạm trù đạo đức, khi xã hội chưa có nhà nước, chưa có pháp luật vấn đề bồi
thường dân sự được giải quyết theo phong tục tập quán của từng bộ tộc người hoặc
của từng nhóm người. Khi xã hội phát triển nhà nước và pháp luật ra đời, bồi thường
dân sự nói chung và bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng nói riêng được điều chỉnh
bởi quan hệ pháp luật dân sự, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo quy định của
bộ luật dân sự thường hết sức da dạng phức tạp, khó giải quyết, khó xác định các chủ
thể tham gia trong quan hệ pháp luật này, nhưng theo quy định của pháp luật dân sự
Việt Nam thì người nào gây thiệt hại thì người đó phải bồi thường. Vậy trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là gì, và việc xác định nguyên tắc và năng lực
chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng vì thế mà có ý nghĩa pháp
lý quan trọng trong hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam, góp phần bảo vệ quyền sở
hữu, quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức pháp nhân khi tham gia vào
quan hệ dân sự. Để có cái nhìn khách quan hơn về những thay đổi đó, em xin chọn đề
tài: “Nguyên tắc và năng lực bồi thường thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng theo Bộ luật Dân sự năm 2015” làm đề tài nghiên cứu của mình.
Trong quá trình làm bài, tất nhiên sẽ khơng tránh khỏi mặt thiếu sót về kiến thức, em
mong thầy/cơ có thể sửa chữa, châm chước và bỏ qua ạ. Em xin chân thành cảm ơn!
2. Tình hình nghiên cứu
Nguyên tắc và năng lực bồi thường thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng theo BLDS năm 2015 là đề tài được nhiều nhà nghiên cứu pháp luật
quan tâm. Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng, năng lực bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng như: Bùi Nguyên Khánh,

“Góp ý về dự thảo Bộ luật dân sự sửa đổi phần liên quan đên bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 10-2010; Trương Hồng Quang,
‘trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong bộ luật dân sự và những tình


huống thực tế, NXB. Chính trị quốc gia sự thật; Phùng Trung Tập, ‘Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng”, NXB. Cơng an nhân dân… Nhìn chung những bài
nghiên cứu trên đào sâu các chế định về bồi thường thiệt hại trong đó có nguyên tắc
và năng lực bồi thường thiệt hại.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về nguyên
tắc và năng lực bồi thường thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng và việc áp dụng các quy định này vào thực tiễn.
- Phạm vi nghiên cứu: Tiểu luận tập trung nghiên cứu các đối tượng nghiên cứu đã
nêu trên, kết quả nghiên cứu của tiểu luận nhằm tìm ra những định hướng, giải pháp
nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về nguyên tắc và năng lực bồi thường thiệt hại
trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Em chỉ đi vào nghiên cứu ở
mức độ cơ bản, làm cơ sở cho lí luận chung nhất phục vụ cho việc làm sáng tỏ các
vấn đề trong phạm vi đề tài nghiên cứu.
4. Mục đích nghiên cứu đề tài
Như đã nói ở phần trên, vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một phạm trù
hết sức phức tạp cả về lý luận và thực tiễn, do đó em chọn đề tài này để đối chiếu so
sánh và đưa ra một số giải pháp và kiến nghị để góp phần vào việc hoàn chỉnh chế
định pháp lý của đề tài này
5. Kết cấu đề tài
Với bài tiểu luận em chọn làm nghiên cứu, bố cục theo 3 phần: phần mở đầu, phần
nội dung và phần kết luận. Với phần nội dung, chia thành 2 nội dung: cơ sở lí luận,
pháp luật thực định và thực tiễn.

NỘI DUNG



Nội dung 1: Cơ sở lí luận và pháp luật thực định về nguyên tắc và năng lực bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng
1.1. Khái niệm chung
1.1.1. Bồi thường thiệt hại là gì?
Bồi thường thiệt hại là một chế định quan trọng được quy định trong Bộ luật dân sự
2015. Đây là hình thức trách nhiệm dân sự được lập ra nhằm mục đích buộc bên có hành
vi gây ra thiệt hại phải khắc phục hậu quả bằng cách bù đắp, đền bù tổn thất về vật chất
và tổn thất về tinh thần cho bên bị thiệt hại. Thiệt hại khơng chỉ là nền tảng cơ bản mà
cịn là điều kiện bắt buộc của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
1.1.2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một loại trách nhiệm dân sự mà theo đó thì khi một
người vi phạm nghĩa vụ pháp lý của mình gây tổn hại cho người khác phải bồi thường
những tổn thất mà mình gây ra.
1.1.3. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Là loại trách nhiệm dân sự phát sinh
bên ngồi, khơng phụ thuộc hợp đồng mà chỉ cần tồn tại một hành vi vi phạm pháp luật
dân sự, cố ý hay vô ý gây thiệt hại cho người khác và hành vi này cũng khơng liên quan
đến bất cứ một hợp đồng nào có thể có giữa người gây thiệt hại và người bị thiệt hại.
1.1.4. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Theo như quy định tại Điều 604 Bộ luật Dân sự quy định thì người nào do lỗi cố ý hoặc
lỗi vơ ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi
ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc
của chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường. Ngồi ra thì tại điều này cũng quy
định trong trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi thường cả trong
trường hợp khơng có lỗi thì áp dụng quy định đó. Trong quy định về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại thì người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm dân sự khi họ có lỗi. Xét về



hình thức thì lỗi được hiểu là là thái độ tâm lý của người thực hiện hành vi vi phạm các
quy định của pháp luật gây ra thiệt hại. Trong hồn cảnh đó chủ thể có khả năng xử sự
hành vi của mình khác nhưng đã khơng xử sự mặc dù có điều kiện để xử sự khác; khi
thực hiện hành vi chủ thể biết được hành vi của mình là trái với quy định của pháp luật và
có thể xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của chủ thể khác nhưng vẫn thực hiện. Lỗi được
thể hiện dưới hai dạng là lỗi cố ý và lỗi vơ ý. Cịn vơ ý gây thiệt hại dưới góc độ pháp lý
thì được hiểu là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng
gây thiệt hại và mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước hành vi của mình có khả năng gây
thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ khơng xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được. Như vậy,
lỗi là điều kiện đầu tiên phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Căn cứ pháp lý tại Điều 584 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về Căn cứ phát sinh
trách nhiệm bồi thường thiệt hại, cụ thể:
“1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài
sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường,
trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.
2. Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp
thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại,
trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.
3. Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại phát sinh theo quy định tại
khoản 2 Điều này.”
1.2.

Nguyên tắc bồi thường thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài

hợp đồng trong BLDS năm 2015
1.2.1. Quy định pháp luật về Nguyên tắc bồi thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng
Điều 585 BLDS năm 2015 quy định về các nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng như sau:



“1. Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thoả thuận
về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một
công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có
quy định khác.
2. Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu
khơng có lỗi hoặc có lỗi vơ ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình.3. Khi
mức bồi thường khơng cịn phù hợp với thực tế thì bên bị thiệt hại hoặc bên gây thiệt hại
có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi
thường.
4. Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì khơng được bồi thường phần thiệt
hại do lỗi của mình gây ra.
5. Bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại xảy ra do
không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho chính
mình.”
1.2.2. Nhận diện những thay đổi cơ bản về nguyên tắc bồi thường thiệt hại trong
trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong BLDS năm 2015 so với BLDS năm 2005
Nhiều thay đổi trong nguyên tắc bồi thường thiệt hại quy định tại Điều 585 BLDS năm
2015 so với Điều 605 BLDS năm 2005, trong đó có những thay đổi mang tính căn bản
sau:
Thứ nhất, Điều 585 Bộ luật dân sự xác định thiệt hại buộc phải bồi thường kịp thời, toàn
bộ phải là thực hại thực tế chứ không phải là thiệt hại chung chung như quy định cũ; yếu
tố thực tế nảy khẳng định trách nhiệm chứng minh thiệt hại của người u cầu bồi
thường, tránh những u cầu khơng có cơ sở, gây khó khăn cho cơng tác thụ lý, thu thập
chứng cứ, chứng minh trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự của cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và cá nhân, tổ chức liên quan khác.


Thứ hai, Khoản 2 Bộ luật dân sự năm 2005 xác định đối tượng được xem xét giảm mức

bồi thường là người gây thiệt hại, nhưng khoản 2 Điều 585 Bộ luật dân sự năm 2015 đã
sửa lại đối tượng này là “người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại”. Sự thay đổi này đã
kịp thời tháo gỡ được vướng mắc của thực tiễn trong trường hợp “người gây thiệt hại”
không phải là “người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại” (người gây thiệt hại là người
dưới 15 tuổi, người bị mất năng lực hành vi dân sự, người sử dụng bất hợp pháp nguồn
nguy hiểm cao độ….). Cũng cần chú ý là việc xem xét giảm mức bồi thường ở điều luật
mới khơng cịn xác định “khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài nữa” nên khi tạo điều
kiện thuận lợi cho hoạt động chứng minh khả năng kinh tế của người gây thiệt hại – chủ
yếu là khả năng kinh tế trước mắt!
Thứ ba, Điều kiện được xem xét giảm trách nhiệm bồi thường thiệt hại quy định tại Điều
585 Bộ luật dân sự năm 2015 được mở rộng hơn so với Điều 605 Bộ luật dân sự năm
2005. Cụ thể, ngồi yếu tố lỗi vơ ý được xác định là điều kiện để xem xét giảm trách
nhiệm bồi thường ở quy định cũ, khoản 2 Điều 585 cịn quy định thêm yếu tố “khơng có
lỗi” là điều kiện để giảm trách nhiêm bồi thường. Trước đây, trong thực tiễn giải quyết,
xét xử các vụ án liên quan, cơ quan thẩm quyền có căn cứ pháp lý để quyết định giảm
trách nhiệm cho người chịu trách nhiệm bồi thường khi có lỗi vơ ý nhưng lại lúng túng,
thiếu cơ sở pháp lý để xem xét giảm trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp
khơng có lỗi vì điều luật khơng quy định, mặc dù theo lẽ cơng bằng, người gây thiệt hại
khơng có lỗi hiển nhiên được ưu tiên xem xét miễn, giảm trách nhiệm bồi thường hơn
người gây thiệt hại có lỗi vơ ý.
Thứ tư, Điều 585 Bộ luật dân sự 2015 bổ sung thêm hai nguyên tắc bồi thường thiệt hại ở
khoản 4 và khoản 5 so với 3 khoản của Điều 605 Bộ luật dân sự 2005. Về ý nghĩa áp
dụng, tuy là bổ sung 2 quy định nhưng chỉ có một quy định mới hoàn toàn và một quy
định làm rõ, cụ thể hơn quy định cũ.
Theo đó, khoản 4 Điều 585 được bổ sung nhằm quy định rõ hơn căn cứ phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại được quy định tại khoản 1 Điều 604 Bộ luật dân sự năm 2005
và khoản 2 Điều 584 Bộ luật dân sự 2015. Quy định này xác định phạm vi bồi thường


thiệt hại của người có nghĩa vụ bồi thường, đồng thời xác định phạm vi chịu nghĩa vụ của

người bị thiệt hại khi họ cũng có lỗi trong việc gây ra thiệt hại. Đây là cơ sở pháp lý cần
thiết để xử lý trường hợp lỗi hỗn hợp hoặc chỉ có bên bị thiệt hại có lỗi cố ý tồn bộ, một
phần trong việc gây ra thiệt hại, còn bên chịu trách nhiệm bồi thường chỉ có lỗi một phần
hoặc khơng có lỗi. Ví dụ: Chủ sở hữu xe ơtơ gây tai nạn giao thông phải bồi thường thiệt
hại cho người bị hại trong trường hợp thiệt hại xảy ra do hành vi trái pháp luật giao thông
của người bị hại.
1.3.

Năng lực bồi thường thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài

hợp đồng trong BLDS năm 2015
1.3.1. Quy định pháp luật về Năng lực bồi thường thiệt hại trong trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong BLDS năm 2015
Quy định về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường của cá nhân là cần thiết vì: cá nhân
gây thiệt hại và việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về ai có ý nghĩa
khơng những về mặt lý luận, mà cịn có ý nghĩa về mặt thực tế rất quan trọng. Việc xác
định ai là người phải bồi thường thiệt hại do cá nhân là người thành niên hay chưa thành
niên hoặc là người mất năng lực hành vi dân sự khi họ gây thiệt hại là mục đích điều
chỉnh của pháp luật.
Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do gây thiệt hại ngoài hợp đồng được quy
định tại điều 586 BLDS năm 2015 như sau:
“1. Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thường.
2. Người chưa đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường
tồn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên
gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ trường
hợp quy định tại Điều 599 của Bộ luật này.
Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường
bằng tài sản của mình; nếu khơng đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường
phần cịn thiếu bằng tài sản của mình.



3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ đó được
dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được giám hộ khơng có
tài sản hoặc khơng đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài
sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình khơng có lỗi trong việc giám hộ
thì khơng phải lấy tài sản của mình để bồi thường.”
Theo quy định tại Điều 586 BLDS năm 2015 thì việc xác định trách nhiệm của cá nhân
gây thiệt hại ngoài hợp đồng phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại dựa trên các mức
độ năng lựa hành vi dân sự khác nhau:
– Mức độ thứ nhất tại khoản 1: Người từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi đấy đủ
phải tự bồi thường thiệt hại do họ gây ra. Điều này xuất phát từ “khả năng bằng hành vi
của họ tự tạo ra quyền và thực hiện nghĩa vụ”. Như vậy, người có đầy đủ năng lực hành
vi dân sự, người đã thành niên phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình, phải bồi
thường thiệt hại bằng tài sản của mình và khơng phụ thuộc vào tình trạng tài sản của bản
thân người này. Người đã thành niên có hành vi gây thiệt hại cho người khác phải chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại bằng tài sản của mình và có đủ tư cách làm bị đơn dân
sự trước tịa án, là người có trách nhiệm dân sự bồi thường toàn bộ thiệt hại.
Theo quy định trên thì nhằm hạn chế năng lực hành vi dân sự của cá nhân khi tham gia
vào quan hệ giao dịch dân sự mà có liên quan đến tài sản của người bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự nhưng không phải là căn cứ loại trừ trách nhiệm dân sự của người bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự khi có hành vi gây thiệt hại cho người khác. Người bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự là người đã trưởng thành, phải chịu trách nhiệm về mọi hành
vi của mình vì khi tham gia giao dịch dân sự, chủ thể tự mình tham gia theo ý chí, tự
nguyện, tự do, tự định đoạt và có nhiệm vụ thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự liên
quan đến tài sản của mình.
– Mức độ thứ hai: Theo khoản 2 đối với những người dưới 18 tuổi bao gồm 3 trường
hợp:



+ Trường hợp 1: người dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại mà cịn cha, mẹ thì cha, mẹ phải
bồi thường tồn bộ thiệt hại, theo đó, cha mẹ của người gây thiệt hại trong độ tuổi này có
tư cách là bị đơn dân sự trước tòa án. Nếu tài sản của cha mẹ khơng đủ mà con có tài sản
riêng thì lấy tài sản của con để bồi thường phần còn thiếu. Trách nhiệm của cha, mẹ
người dưới 15 tuổi phải bồi thường thiệt hại do con chưa thành niên gây ra là trách nhiệm
pháp lí, khơng cần có điều kiện lỗi. Việc lấy tài sản của con để bồi thường trong trường
hợp này không được hiểu là nghĩa vụ bổ sung mà chỉ là khắc phục phần còn thiếu về tài
sản.
Trong quan hệ bồi thường thiệt hại thì cha mẹ của người dưới mười lăm tuổi có trách
nhiệm bồi thường thiệt hại còn người con trực tiếp gây thiệt hại không phải là chủ thể
trong quan hệ nghĩa vụ bồi thường thiệt hại. Việc lấy tài sản của con là để bảo vệ kịp thời
quyền, lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại và nhằm bảo vệ nguyên tắc bồi thường toàn
bộ và kịp thời. Ngoài ra, cũng có trường hợp những người dưới 15 tuổi, người mất năng
lực hành vi dân sự gây ra thiệt hại trong thời gian ở trường học, bệnh viện quản lý thì
trường hợp, bệnh viện phải bồi thường.
“Thời gian quản lí” được hiểu là thời hạn trong đó các tổ chức theo quy định của nghề
nghiệp có nghĩa vụ giáo dục, chữa bệnh mà họ đã không thực hiện chức năng của họ, do
lỗi của họ quản lí khơng tốt, người khơng có năng lực hành vi ,người dưới mười lăm tuổi
gây ra thiệt hại cho những người khác (như tổ chức lao động cho các học sinh khơng tốt,
khơng có các biện pháp an toàn, bảo hộ, việc nhân viên bệnh viện khơng có biện pháp
quản lí các bệnh nhân tâm thần…).Nếu các tổ chức trên khơng có lỗi thì cha, mẹ, người
giám hộ phải bồi thường.
+ Trường hợp 2: đối với những người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi
gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình và người này là chủ thể bồi
thường thiệt hại. Pháp luật quy định người từ đủ 15 tuổi gây thiệt hại có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại là căn cứ vào điều kiện xã hội thực tế. Bộ luật lao động quy định những
người từ đủ mười lăm tuổi được tham gia giao kết hợp đồng lao động với những công
việc phù hợp với nhận thức và sức khỏe của người đó.



Theo đó, những người ở độ tuổi này tham gia lao động và được hưởng các khoản tiền
lương, tiền thưởng và các khoản phúc lợi khác và là chủ sở hữu với các khoản thu nhập
hợp pháp đó. Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự thì những người trong đọ tuổi này
có quyền tham gia tố tụng dân sự với tư cách là nguyên đơn hoặc bị đơn dân sự trước tòa
án. Người ở độ tuổi này đã nhận thức được hành vi của mình và phần nào cũng tự định
đoạt ý chí tham gia vào các quan hệ dân sự phổ biến trong cuộc sống. Pháp luật đã dựa
vào những cơ sở này để quy định năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
người ở độ tuổi này.
+ Trường hợp 3: Địa vị pháp lí của người giám hộ hồn tồn khác biệt so với địa vị pháp
lí của người là cha, mẹ của những người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân
sự. Người giám hộ có trách nhiệm bồi thường thiệt hại nếu có lỗi trong việc thực hiện
nghĩa vụ của người giám hộ mà để người được giám hộ gây thiệt hại cho người khác.
Người giám hộ đương nhiên, giám hộ được xử đối với những người phải có giám hộ
được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường. Người giám hộ có nghĩa vụ bổ
sung. Theo quy định người từ đủ 15-18 tuổi khơng cịn cha, mẹ, cha mẹ mất năng lực
hành vi không buộc phải có người giám hộ. Theo nguyên tắc chung người từ đủ 15 tuổi
đến 18 tuổi phải chịu trách nhiệm dân sự, do vậy nếu có hành vi gây thiệt hại thì lấy tài
sản của họ để bồi thường.
1.3.2. Nhận diện những thay đổi cơ bản về năng lực bồi thường thiệt hại trong trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong BLDS năm 2015 so với BLDS 2005
Nhận diện những thay đổi cơ bản về Qui định về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của cá nhân trong Bộ luật dân sự năm 2015 khơng có nhiều thay đổi. Có hai vấn
đề nhỏ cần chú ý sau:
Một là, nếu khoản 2 Điều 606 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do “người chưa thành niên dưới 15 tuổi” gây ra, thì khoản 2 Điều 586 Bộ luật
dân sự năm 2015 chỉ sửa lại là “người chưa đủ 15 tuổi”, bỏ cụm từ “chưa thành niên” vốn


khơng có giá trị sử dụng trên thực tế – bởi người chưa đủ 15 tuổi thì đương nhiên là
người chưa thành niên.

Hai là, khoản 3 của Điều 585 Bộ luật dân sự bổ sung đối tượng “người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ được hành vi” vào quy định trách nhiệm bồi thường của người giám
hộ. Sự bổ sung này là tháo gỡ vướng mắc, bất cập trong thực tiễn khi có một số trường
hợp thiệt hại do người “có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi” gây ra, họ không
phải là “người mất năng lực hành vi dân sự” nhưng không cũng không đủ điều kiện để
xác định là “người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự”

Kết luận nội dung 1

Một trong những điểm mới tích cực nhất của BLDS2015 là phần các quy định về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. So với BLDS năm 2005, Bộ luật mới khơng
có thay đổi về sự phân chia các nhóm quy định. Giống như BLDS năm 2005, những quy
định chung vềtrách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong BLDS năm 2015
cũng bao gồm các quy định vềcăn cứphát sinh trách nhiệm, nguyên tắc bồi thường, năng
lực chịu trách nhiệm bồi thường, thời hiệu khởi kiện và cách xác định thiệt hại phát sinh.

Nội dung 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật về nguyên tắc và trách nhiệm bồi thường
thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
2.1. Bất cập và kiến nghị pháp luật về nguyên tắc bồi thường thiệt hại trong trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo BLDS năm 2015


Theo như quy định của pháp luật dân sự thì bồi thường thiệt hại trong hợp đồng yêu cầu
giữa các bên phải có quan hệ hợp đồng và hành vi gây thiệt hại phải thuộc phạm vi điều
chỉnh của hợp đồng. Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng khác với bồi thường thiệt hại
trong hợp đồng là bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là loại trách nhiệm dân sự phát
sinh giữa các chủ thể mà trước đó khơng có quan hệ hợp đồng hoặc có quan hệ hợp đồng
nhưng hành vi gây thiệt hại không thuộc nghĩa vụ thi hành hợp đồng đã ký kết.
Trên thực tế hiện nay việc xét xử ở Việt Nam thì có thể thấy rằng, số vụ án về bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng chiếm số lượng lớn hơn bồi thường thiệt hại trong hợp đồng. Do

đó, để có thể áp dụng một cách tốt nhất quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại
ngồi hợp đồng thì việc tiên quyết là làm rõ quy định về điều kiện phát sinh trách nhiệm
này. Thực tế cho thấy, nguyên tắc bồi thường toàn bộ hầu như chỉ áp dụng được với
trường hợp thiệt hại do tài sản bị xâm phạm, bởi vì bằng cách này hay cách khác, giá trị
của tài sản bị xâm phạm đều co thể được xác định cụ thể bằng các đơn vị đo lường. Trong
trường hợp đối tượng bị xâm phạm là các giá trị nhân thân như sức khỏe, tính mạng, danh
dự, nhân phẩm, uy tín thì việc xác định thiệt hại sẽ rất khó, bởi các giá trị nhân thân và
tiền tệ không phải là các đại lượng ngang giá nên không thể dùng tiền để đo giá trị nhân
thân bị tổn hại. (Ví dụ: Khi sức khỏe bị xâm phạm thì có thể bồi thường được các chi phí
để chữa lành vết thương, nhưng khơng thể bù đắp được các bộ phận cơ thể đã tổn hại như
chân, tay,…). Do đó, khi các giá trị nhân thân bị xâm phạm, mức độ bồi thường thiệt hại
chỉ là tương đối chứ không thể tuyêt đối như trường hợp xâm phạm tài sản. Ngoài ra,
nguyên tắc bồi thường thiệt hại được quy định tại khoản 2 và khoản 4 Điều 585 BLDS
năm 2015, có những mâu thuẫn mà khi áp dụng vào trường hợp cụ thể sẽ khó xác định
được nguyên tắc nào sẽ được áp dụng. Trong đó, khoản 2 xác định các điều kiện để giảm
mức bồi thường thiệt hại, trong đó có trường hợp người bị thiệt hại khơng có lỗi. Khoản 4
lại xác định nguyên tắc bên bị thiệt hại phải chịu phần thiệt hại tương ứng với phần lỗi
của mình. Hai quy định này khi gắn với bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra sẽ có mâu thuẫn. Nếu trong trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thiệt hại
mà người bị thiệt hại hồn tồn có lỗi nhưng là lỗi vơ ý thì việc bồi thường thiệt hại sẽ


theo nguyên tắc ở khoản 2 (người phải bồi thường thiệt hại được giảm mức bồi thường)
hay khoản 4 (người bị thiệt hại không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây
ra) Điều 585 là vấn đề chưa rõ ràng. Tuy nhiên, theo quan điểm của em thì khơng thể áp
dụng khoản 4 thì người bị thiệt hại hồn tồn khơng được bồi thường (vì họ hồn tồn có
lỗi vơ ý), đồng thời với việc chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng sẽ được loại trừ trách
nhiệm bồi thường, điều này mâu thuẫn với điểm a khoản 3 Điều 601 BLDS năm 2015
(chủ sở hữu, người chiếm hữu, người sử dụng chỉ được loại trừ nếu hoàn toàn do lỗi cố ý
của người bị thiệt hại). Do đó, chỉ có thể áp dụng khoản 2 để xem xét việc có giảm mức

bồi thường thiệt hại cho người phải bồi thường hay khơng. Ngồi ra, để đảm bảo sự thống
nhất giữa các quy định với nhau, theo quan điểm của em, khoản 4 Điều 585 phải được
sửa đổi cho phù hợp, cụ thể như sau: “Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại
thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra, trừ trường hợp luật có
quy định khác”.
Trong Điều này, chỉ có nguyên tắc thay đổi mức bồi thường được giữ nguyên như trong
Điều 605 BLDS năm 2005. Theo quy định tại khoản 3 Điều này, mức bồi thường thiệt hại
có thể được thay đổi so với mức bồi thường tại thời điểm Tòa án giải quyết tranh chấp.
Sự thay đổi này có thể là tăng lên hoặc giảm đi so với mức bồi thường ban đầu. Cả bên
bồi thường và bên được bồi thường đều có quyền đưa ra yêu cầu thay đổi mức bồi thường
này. Việc thay đổi mức bồi thường chỉ đặt ra đối với trường hợp người bị thiệt hại mất
hoàn toàn khả năng lao động hoặc người bị thiệt hại chết. Đây là những trường hợp mà
việc bồi thường thiệt hại không được thực hiện một lần mà kéo dài trong một khoảng thời
gian do Tịa án xác định. Ngun tắc này khơng chỉ đảm bảo quyền lợi của các bên, mà
còn bảo đảm phù hợp với các nguyên tắc khác như nguyên tắc thiệt hại phải được bồi
thường tồn bộ (Ví dụ, ban đầu người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả năng lao động nhưng
khơng cần người chăm sóc, sau một thời gian lại cần người chăm sóc thì người bị thiệt
hại có thể yêu cầu mức bồi thường hàng tháng sẽ bao gồm cả chi phí cho người chăm
sóc).


2.2. Bất cập và kiến nghị pháp luật về năng lực bồi thường thiệt hại trong trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo BLDS năm 2015
Trong đời sống hàng ngày, ngồi những người do bị khuyết tật thì cũng có những người
do có một số hạn chế về nhận thức dẫn tới khả năng nhận thức không đầy đủ, thiếu chính
xác, khơng rõ ràng về hành vi của mình nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân
sự để không thể tiếp cận được các quyền dân sự của mình. Chính vì vậy, BLDS năm 2015
đã bổ sung thêm nhóm người này. Theo đó, khi “người có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi” mà gây thiệt hại thì họ cũng sẽ được đối xử giống như trường hợp người
chưa thành niên hoặc người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại. Quy định này

nhằm đảm bảo công bằng cũng như bảo vệ tốt quyền lợi của bên bị thiệt hại.
Tuy nhiên trong nhiều trường hợp cụ thể việc xác định mức độ lỗi, trách nhiệm bồi
thường thiệt hại thuộc về ai đang là một vấn đề nan giải và tương đối khó khăn, bởi lẽ có
nhiều trường hợp có thiệt hại sảy ra nhưng trách nhiệm bồi thường không thuộc về người
gây ra thiệt hại mà thuộc về người giám hộ, đại diện, thuộc về gia đình, nhà trường, bệnh
viên tổ chức y tế quan lý chăm sóc giáo dục người gây thiệt hại trong trường hợp đó là
người chưa thành niên hoặc người mất năng lực hành vi dân sự. Còn một số trường hợp
trách nhiệm bồi thường phát sinh do hành vi gây thiệt hại của người đại điện của pháp
nhân gây ra. Vì thế cho nên trong thời gian gần đây các nhà làm luật đã và đang khơng
ngừng hồn thiện chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do cá nhân gây ra để từ
đó từng bước hồn thiện những thiếu sót của pháp luật trong việc quy định trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do cá nhân gây ra đồng thời đảm bảo được công bằng cho xã hội và
bảo vệ được lợi ích chính đáng của người bị thiệt hại. Bên cạnh đó cần phải nâng cao hơn
nữa trách nhiệm của cha mẹ, nhà trường, bệnh viện, cơ sở y tế trong việc ni dưỡng
chăm sóc, giáo dục. Đồng thời cha mẹ, nhà trường cần phải quan tâm hơn nữa tới công
tác giáo dục, và nhất là chú trọng tới việc đổi mới tư duy của mình về phương pháp quản
lý, chăm sóc giáo dục đối với các cá nhân dưới mười tám tuổi nhất là giáo dục, dạy dỗ
các cá nhân là trẻ em chưa thành niên dưới mười năm tuổi. Để các em có được một trí óc


phát triển, có được suy nghĩ chín chắn để đưa ra nhưng sử sự phù hợp với quy định của
pháp luật để xã hội phát triển, công bằng và văn minh hơn.

Kết luận nội dung 2

Qua việc tìm hiểu về nguyên tắc và năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
cá nhân gây ra ta thấy: không phải bất cứ cá nhân nào khi gây thiệt hại cũng đều phải tự
mình bồi thường thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ thuộc về những người có
đủ năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và phải có khả năng
thực tế để tiến hành để bồi thường thiệt hại xảy ra. Quy định về vấn đề này cũng cho ta

thấy pháp luật luôn coi trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại. Tuy rằng
đã quy định khá chặt chẽ về vấn đề năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi
hợp đồng nhưng trên thực tế vẫn cịn nhiều vướng mắc cần phải có hướng giải quyết
trong thời gian tới.


KẾT LUẬN CHUNG

Chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng quy định tại Bộ luật dân sự
năm 2015 có một số thay đổi quan trọng so với Bộ luật dân sự năm 2005. Tuy nhiên,
trong thực tiễn áp dụng quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của
Bộ luật dân sự năm 2005 vẫn còn một số vướng mắc chưa được Bộ luật dân sự năm 2015
tháo gỡ, đồng thời một số quy định mới của Bộ luật dân sự năm 2015 trong chế định này
khi áp dụng vào thực tiễn công tác giải quyết, xét xử các vụ án dân sự liên quan tại Tòa
án địa phương đã đặt ra các vấn đề cần sớm có hướng dẫn thống nhất. Như vậy có thể nói
vấn đề nguyên tắc và trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một vấn đề có ý nghĩa pháp lý
vô cùng quan trọng trong đời sống xã hội Việt Nam, cũng như trong đời sống dân sự nói
riêng qua đề tài “Nguyên tắc và năng lực bồi thường thiệt hại trong trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo Bộ luật Dân sự năm 2015”. Hiểu được tầm quan
trọng của vấn đề, các nhà làm luật Việt Nam đã khơng ngừng hồn thiện, bổ sung những
thiếu sót trong quy định của pháp luật để bảo vệ được lợi ích chính đáng hợp pháp của
các chủ thể khác trong quan hệ pháp luật dân sự, nhất là quyền lợi của người có lợi ích bị
xâm phạm. Đồng thời tạo điều kiện để xã hội phát triển công bằng văn minh hơn.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Luật Dân sự năm 2015
2. Bộ Luật Dân sự năm 2005
3. Phần này có tham khảo từ một nghiên cứu của cùng tác giả: Trương Hồng Quang,

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Bộ luật Dân sự (năm
2015) và những tình huống thực tế, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội,
2018.
4. Nguyễn Minh Oanh, Khái niệm chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại và phân
loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại,
ngày 05/4/2010.
5. Nguyễn Văn Hợi, Lê Thị Hải Yến, Những điểm mới của Bộ luật Dân sự năm 2015
về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng, Hội thảo “Bình luận một số
điểm mới của Bộ luật Dân sự năm 2015”, Trường Đại học Luật Hà Nội, ngày
15/6/2016.
6. : Bùi Nguyên Khánh, “Góp ý về dự thảo Bộ luật dân sự sửa đổi phần liên quan
đên bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 102010;
7. Trương Hồng Quang, “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong bộ
luật dân sự và những tình huống thực tế, NXB. Chính trị quốc gia sự thật;
8.
9. Phùng Trung Tập, ‘Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng”, NXB.
Cơng an nhân dân
Chú thích: BLDS: Bộ Luật Dân sự



×