Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

THỰC TRẠNG TRẦM CẢM, LO ÂU, STRESS Ở HỌC SINH TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HÀ HUY TẬP, THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN NĂM HỌC 20192020 VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.14 MB, 116 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

TRẦN THỊ HƯƠNG QUỲNH

THỰC TRẠNG TRẦM CẢM, LO ÂU, STRESS
Ở HỌC SINH TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
HÀ HUY TẬP, THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN
NĂM HỌC 2019-2020 VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN

LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC DỰ PHÒNG

HÀ NỘI - 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

TRẦN THỊ HƯƠNG QUỲNH

THỰC TRẠNG TRẦM CẢM, LO ÂU, STRESS
Ở HỌC SINH TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
HÀ HUY TẬP, THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN
NĂM HỌC 2019-2020 VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN
Chuyên ngành : Y học dự phòng


Mã số
: 8720163

LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC DỰ PHÒNG

Người hướng dẫn khoa học:
TS. Trần Quỳnh Anh

HÀ NỘI - 2020


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu trường Đại học Y Hà Nội,
Ban Giám hiệu Viện Đào tạo Y học Dự phịng và Y tế Cơng cộng, Phòng quản
lý đào tạo Sau đại học Trường Đại học Y Hà Nội, Phòng Đào tạo Sau đại học
Viện đào tạo Y học dự phịng và Y tế Cơng cộng, Bộ môn Sức khỏe môi
trường đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và giúp đỡ tơi trong q trình học tập,
nghiên cứu để tơi có thể hồn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc, các đồng nghiệp Trung tâm
Kiểm soát bệnh tật tỉnh Nghệ An đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ trong quá trình
thu thập số liệu để thực hiện luận văn tốt nghiệp.
Tôi xin gửi lời cám ơn Ban giám hiệu, phụ huynh học sinh và toàn thể
các em học sinh trường THPT Hà Huy Tập, TP Vinh, Nghệ An đã tạo điều
kiện giúp tơi hồn thành số liệu nghiên cứu.
Tơi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới TS. Trần Quỳnh Anh - phó trưởng
bộ mơn Sức khỏe mơi trường – Viện đào tạo y học dự phòng và y tế công
cộng, Đại học Y Hà Nội đã dạy dỗ, tận tình chỉ bảo, định hướng và giúp đỡ
tơi hồn thành luận văn này.
Và cuối cùng, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn đối với gia đình, bạn bè đã

ln bên cạnh dành cho tơi mọi sự động viên, khích lệ và hỗ trợ để tơi vượt
qua mọi khó khăn trong quá trình học tập, nghiên cứu.
Hà Nội, ngày 15 tháng 10 năm 2020
Học viên

Trần Thị Hương Quỳnh


LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Trần Thị Hương Quỳnh, học viên lớp Cao học khóa 28 Chuyên ngành Y học dự phòng, Viện đào tạo Y học dự phòng và y tế cơng
cộng, Đại học Y Hà Nội khóa học 2019 - 2020 xin cam đoan:
1. Đây là luận văn do bản thân tôi trực tiếp thực hiện dưới sự hướng
dẫn của TS. Trần Quỳnh Anh
2. Cơng trình này khơng trùng lặp với bất kì nghiên cứu nào khác đã
được cơng bố.
3. Các số liệu và thông tin trong nghiên cứu là hồn tồn trung thực và
khách quan, do tơi thu thập và thực hiện.
Hà Nội, ngày 15 tháng 10 năm 2020
Tác giả luận văn

Trần Thị Hương Quỳnh


DANH MỤC VIẾT TẮT

DASS:

Depression Anxiety Stress Scales

TC-LA-S:


Trầm cảm – Lo âu - Stress

CLB:

Câu lạc bộ

ĐTV:

Điều tra viên

GD&ĐT:

Giáo dục & đào tạo

HKI:

Học kì I

HS:

Học sinh

NIMH:

National Institute of Mental Health
Viện Sức khỏe tâm thần quốc gia của Mỹ

THCS:


Trung học cơ sở

THPT:

Trung học phổ thông

TP:

Thành phố

WHO:

World Health Organization
Tổ chức Y tế thế giới

YHDP

Y học dự phịng

YTCC

Y tế cơng cộng


MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ ............................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ..................................................................... 3
1.1. Một số khái niệm trong nghiên cứu ................................................................... 3
1.1.1. Khái niệm chung ......................................................................................... 3
1.1.2. Trầm cảm .................................................................................................... 3

1.1.3. Lo âu ........................................................................................................... 4
1.1.4. Stress ........................................................................................................... 5
1.2. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh THPT ......................................................... 8
1.2.1. Khái niệm học sinh THPT .......................................................................... 8
1.2.2. Đặc điểm phát triển thể chất của học sinh THPT ....................................... 8
1.2.3. Đặc điểm phát triển tâm lý của học sinh THPT.......................................... 9
1.3. Các nghiên cứu về sức khỏe tâm thần trẻ em và trầm cảm, lo âu, stress và các
yếu tố liên quan ở học sinh THPT trên thế giới và Việt Nam. ........................ 10
1.3.1. Nghiên cứu về trầm cảm và các yếu tố liên quan đến trầm cảm. ............. 10
1.3.2. Nghiên cứu về lo âu và các yếu tố liên quan đến lo âu. ........................... 12
1.3.3. Nghiên cứu về stress và các yếu tố liên quan. .......................................... 13
1.4. Thang đo trầm cảm, lo âu và stress DASS-21 ................................................. 16
1.5. Khung lý thuyết................................................................................................ 18
1.6. Vài nét về địa bàn nghiên cứu.......................................................................... 20
CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ........................ 21
2.1. Địa điểm và thời gian tham gia nghiên cứu ..................................................... 21
2.2. Đối tượng nghiên cứu ...................................................................................... 21
2.3. Thiết kế nghiên cứu ......................................................................................... 21
2.4. Chọn mẫu và cỡ mẫu ....................................................................................... 21
2.4.1. Cỡ mẫu ...................................................................................................... 21
2.4.2. Chọn mẫu .................................................................................................. 22
2.5. Biến số và chỉ số nghiên cứu ........................................................................... 23
2.6. Công cụ và kỹ thuật thu thập thông tin ............................................................ 24
2.6.1. Công cụ thu thập số liệu ........................................................................... 24
2.6.2. Kỹ thuật thu thập số liệu: .......................................................................... 24
2.7. Xử lý và phân tích số liệu ................................................................................ 25


2.8. Sai số và cách khắc phục ................................................................................. 25
2.9. Đạo đức nghiên cứu ......................................................................................... 26

2.10. Hạn chế của nghiên cứu ................................................................................. 27
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ................................................................. 28
3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu. .................................................... 28
3.2. Mô tả thực trạng trầm cảm, lo âu, stress ở học sinh ........................................ 33
3.3. Các yếu tố liên quan đến trầm cảm, lo âu, stress ở học sinh. .......................... 35
CHƯƠNG 4: BÀN LUẬN ........................................................................................ 46
4.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu ..................................................... 46
4.1.1. Đặc điểm về nhân khẩu học ...................................................................... 46
4.1.2. Đặc điểm yếu tố cá nhân và yếu tố học tập .............................................. 47
4.1.3. Đặc điểm về yếu tố gia đình ..................................................................... 47
4.1.4. Thơng tin chung về yếu tố bạn bè, nhà trường, xã hội ............................. 48
4.2. Tỷ lệ học sinh THPT có biểu hiện trầm cảm, lo âu, stress .............................. 50
4.3. Các yếu tố liên quan đến trầm cảm, lo âu, stress ở đối tượng nghiên cứu. ..... 52
4.3.1. Các yếu tố liên quan đến trầm cảm ở học sinh ......................................... 52
4.3.2. Các yếu tố liên quan đến lo âu ở học sinh ................................................ 59
4.3.3. Các yếu tố liên quan đến stress ở học sinh ............................................... 63
4.3.4. Mỗi liên quan trầm cảm, lo âu và stress ở học sinh .................................. 68
KẾT LUẬN ............................................................................................................... 69
KIẾN NGHỊ .............................................................................................................. 71
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC BẢNG
Các câu hỏi đánh giá trầm cảm, lo âu, stress theo DASS-21 ....... 17
Thang điểm mức độ trầm cảm, lo âu, stress theo DASS-21 ........ 17
Số lượng học sinh các khối của trường năm học 2019-2020 ....... 22
Đặc điểm nhân khẩu học của học sinh ......................................... 28
Đặc điểm yếu tố cá nhân và học tập của học sinh ........................ 29
Đặc điểm về yếu tố gia đình của học sinh .................................... 30

Đặc điểm về yếu tố bạn bè, nhà trường của học sinh ................... 31
Đặc điểm yếu tố liên quan đến dịch Covid 19 ............................. 32
Mối liên quan giữa đặc điểm nhân khẩu học với trầm cảm, lo âu,
stress ............................................................................................. 35
Bảng 3.7. Mối liên quan giữa yếu tố cá nhân và yếu tố học tập của học sinh
với trầm cảm, lo âu, stress ............................................................ 37
Bảng 3.8. Mối liên quan giữa yếu tố gia đình và trầm cảm, lo âu, stress ..... 39
Bảng 3.9. Mối liên quan giữa yếu tố bạn bè, nhà trường và trầm cảm, lo âu,
stress.............................................................................................. 41
Bảng 3.10. Mối liên quan giữa yếu tố dịch COVID-19 và trầm cảm, lo âu,
stress ............................................................................................. 43
Bảng 3.11. Mối liên quan giữa trầm cảm, lo âu và stress ............................... 45
Bảng 1.1
Bảng 1.2.
Bảng 2.1.
Bảng 3.1.
Bảng 3.2.
Bảng 3.3.
Bảng 3.4.
Bảng 3.5.
Bảng 3.6


DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 3.1.

Tỷ lệ mắc trầm cảm, lo âu, stress ở học sinh .......................... 33

Biểu đồ 3.2


Tỷ lệ mắc rối loạn kết hợp trầm cảm, lo âu và stress ............. 33

Biểu đồ 3.3:

Sự phân bố các mức độ trầm cảm, lo âu và stress theo thang đo
DASS 21 ................................................................................. 34


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Sức khoẻ là vốn quý của con người và tồn xã hội, trong đó sức khỏe tâm thần
đươc coi là một bộ phận không thể tách rời trong định nghĩa sức khỏe của Tổ chức
y tế thế giới (WHO), sức khỏe tâm thần không chỉ là không bị mắc rối loạn tâm
thần, mà còn bao hàm trạng thái thoải mái, sự tự tin ở năng lực bản thân, tính tự
chủ, năng lực và khả năng nhận biết những tiềm năng của bản thân 1. Vì vậy, bảo vệ
sức khỏe tâm thần, chăm sóc bảo vệ sức khỏe cho vị thành niên là thiết yếu trong
thời đại này. Để có sức khoẻ tốt về mặt thể chất và tinh thần cho lứa tuổi này cần
quan tâm đến nhiều yếu tố trong đó chăm sóc sức khỏe tâm thần cần được chú trọng
đặc biệt.
Trầm cảm, lo âu, stress là những rối loạn tâm lý dễ gặp phải, đặc biệt đối với lứa
tuổi học sinh Trung học phổ thông (THPT). Đây là giai đoạn trẻ vị thành niên có nhiều
thay đổi về tâm sinh lý như nhân cách, tình cảm, và trí tuệ. Đặc biệt ở lứa tuổi này, rất
dễ bị tổn thương do tác động tâm lý từ sự phát triển của bản thân và từ mơi trường bên
ngồi, kết hợp với đặc điểm tâm lý bồng bột, thiếu kinh nghiệm nên nguy cơ bị trầm
cảm, lo âu, stress của đối tượng này ở mức cao 2,3,4,5. Các vấn đề này có thể ảnh hưởng
xấu đến các chức năng về mặt xã hội của các em như công việc học tập, giao tiếp, tuy
nhiên có nhiều nguy cơ và bệnh lí có thể phịng ngừa và điều trị được.
Trên thế giới, theo WHO 2014 trầm cảm là nguyên nhân chính gây ra bệnh

tật, tàn tật ở trẻ vị thành niên và tự tử là một trong ba nguyên nhân gây ra tử
vong hàng đầu ở đối tượng này 6; NIMH (2017) có 31,9% dân số Mỹ từ 13-18 tuổi
mắc các rối loạn lo âu cao hơn so người trên 18 tuổi 7. Tại Việt Nam, theo Samuels
và cộng sự (2016) có khoảng 8% đến 21% trẻ vị thành niên mắc các vấn đề sức
khỏe tâm thần nói chung và khác nhau theo khu vực sống, giới tính, lứa tuổi và
phương pháp nghiên cứu 8. Một khảo sát dịch tễ học về sức khỏe tâm thần ở trẻ em
chọn 10/63 tỉnh/thành cho thấy tỷ lệ trung bình các vấn đề sức khỏe tâm thần trẻ em
chiếm khoảng 12%, nghĩa là hơn 3 triệu trẻ em có nhu cầu về dịch vụ sức khỏe tâm
thần, các vấn đề phổ biến là hướng nội (lo âu, trầm cảm, đơn độc) và hướng ngoại


2
(tăng động, giảm chú ý) 9. Số lượng trẻ vị thành niên chiếm 16,5% tổng dân số cả
nước 10, có khoảng từ 10-20% học sinh có vấn đề về sức khỏe tâm thần trong đó tỉ
lệ trầm cảm, lo âu, stress trong lứa tuổi học sinh THPT có xu hướng gia tăng 11,
12,13,14,15

. Do vậy việc chăm sóc sức khoẻ lứa tuổi học đường đặc biệt đối với học

sinh THPT rất cần có sự quan tâm phối hợp giữa nhà trường, gia đình và ngành y tế
mới đem lại hiệu quả cao nhất cho sự hình thành, phát triển trí tuệ, nhân cách và thể
lực.
Mặc dù đã có một số nghiên cứu đồng thời cả ba yếu tố trầm cảm, lo âu, stress
ở Việt Nam hiện nay, tuy nhiên mục tiêu nghiên cứu về đối tượng là học sinh THPT
hiện nay cịn rất ít. Ở TP Vinh, tỉnh Nghệ An tính đến trước thời điểm năm 2019
chưa thực hiện nghiên cứu nào 16 và năm học 2019-2020 là một năm học đặc biệt do
tác động dịch COVID-19 . Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài nghiên
cứu “Thực trạng trầm cảm, lo âu, stress ở học sinh trường trung học phổ thông
Hà Huy Tập, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An năm học 2019-2020 và một số yếu
tố liên quan” nhằm mục đích cung cấp một cái nhìn tổng thể hơn về vấn đề sức

khỏe tâm thần, tâm lý xã hội ở học sinh THPT tại TP Vinh nói chung, và tại trường
THPT Hà Huy Tập nói riêng. Đó cũng là tiền đề và là cơ sở cho việc đưa ra kế
hoạch cụ thể cho việc chăm sóc sức khỏe lứa tuổi học đường đặc biệt ở lứa tuổi học
sinh THPT. Nghiên cứu được tiến hành với hai mục tiêu cụ thể như sau:
1.

Mô tả tỷ lệ trầm cảm, lo âu và stress ở học sinh trường trung học phổ
thông Hà Huy Tập, Thành phố Vinh, Nghệ An năm học 2019-2020.

2.

Phân tích một số yếu tố liên quan đến trầm cảm, lo âu và stress của
học sinh trường trung học phổ thông Hà Huy Tập, tại thành phố Vinh,
Nghệ An năm 2019-2020.


3

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Một số khái niệm trong nghiên cứu
1.1.1. Khái niệm chung
Năm 2013, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã đưa ra khái niệm sức khỏe tâm
thần: “…là trạng thái khỏe mạnh của mỗi cá nhân để họ nhận biết được các khả
năng của bản thân, có thể đương đầu với những căng thẳng thơng thường trong cuộc
sống, có thể học tập và làm việc một cách hiệu quả và có thể tham gia góp phần vào
các hoạt động của cộng đồng” 1.
1.1.2. Trầm cảm
1.1.2.1. Khái niệm trầm cảm
Trầm cảm là một vấn đề sức khoẻ tâm thần thường gặp, đặc trưng bởi buồn

chán, mất hứng thú hoặc niềm vui, cảm giác tội lỗi hay đánh giá thấp giá trị bản
thân, rối loạn giấc ngủ hoặc chán ăn, cảm giác mệt mỏi và kém tập trung

17

.

1.1.2.2. Nguyên nhân và yếu tố liên quan của trầm cảm ở lứa tuổi THPT.
- Nguyên nhân của trầm cảm: có thể do các yếu tố di truyền, sinh học, môi
trường và các sang chấn về mặt tâm lý 18.
+ Yếu tố di truyền: 46% các cặp sinh đôi cùng trứng cùng bị trầm cảm, trong
khi ở các cặp sinh đôi khác trứng, tỉ lệ này là 20%.
+ Sinh học: Rampello và cộng sự (2000) giải thích rằng khí sắc là kết quả của
sự không cân bằng giữa một số chất dẫn truyền thần kinh, bao gồm serotonin và
norepinephrine, dopamine và acetylcholine. Có thể là serotonin đóng vai trị q lớn
trong việc kiểm soát các cơ quan khác nhau của não và sự giảm chất này đã phá vỡ
hoạt động trong các cơ quan dẫn đến trầm cảm.
+ Môi trường sống: gia đình, đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, áp lực làm
việc, học tập… ảnh hưởng rất lớn tới tâm lý con người. Có thể thấy tỷ lệ mắc trầm
cảm cao hơn ở những học sinh nghèo, dân tộc thiểu số, có bố mẹ thất nghiệp… vì


4
các em thường xuyên phải đối mặt với những khó khăn, tiêu cực khó giải quyết
hoặc khó khăn trong việc hòa nhập với cộng đồng.
+ Sang chấn về mặt tâm lý: những trạng thái cảm xúc tiêu cực tác động lớn tới
tâm lý con người như phải nghỉ học giữa chừng, mâu thuẫn gia đình, gia đình phá
sản hoặc người thân mất đột ngột… là những sang chấn tâm lý nghiêm trọng, để lại
ám ảnh trong một thời gian dài và dễ dẫn đến trầm cảm.
- Một số yếu tố liên quan đến trầm cảm như: giới tính, các hoạt động ngồi

giờ, tiền sử gia đình…Trầm cảm có thể kéo dài hoặc tái phát, gây những hậu quả
khôn lường đối với cá nhân, gia đình và xã hội 19,18:
+ Yếu tố cá nhân: ăn ngủ khơng bình thường, gầy ốm, giảm thể lực và sự minh
mẫn, không tập trung do đó kết quả học tập kém, ở lại lớp, khơng ứng phó được với
khó khăn trong cuộc sống hàng ngày. Nghiêm trọng nhất là trầm cảm có thể dẫn tới
ý tưởng và hành vi tự sát.
+ Yếu tố quan hệ gia đình: khơng vui vẻ, mất hạnh phúc, khơng n tâm học
tập, bố mẹ không quan tâm dạy dỗ, giảm ý chí cầu tiến.
+ Yếu tố liên quan đến học tập: tiếp thu chậm, kém hiệu quả, thiếu tư duy sáng
tạo, khơng hịa hợp với bạn bè thầy cơ, hay giận dỗi, cãi cọ, gây sự, đánh nhau.
Ở mức độ trầm cảm nhẹ có thể điều trị mà khơng cần dùng tới thuốc nhưng
mức độ trầm cảm vừa hoặc tăng nặng thì cần kết hợp điều trị thuốc và phương pháp
tâm lý trị liệu 17.
1.1.3. Lo âu
1.1.3.1. Khái niệm lo âu
Lo âu là phản ứng bình thường để đối phó với sự căng thẳng và có thể có ích
trong một số hoàn cảnh. Tuy nhiên, đối với một số người, sự lo lắng trở thành quá
mức gây ra các biểu hiện run, khó thở, tim đập nhanh, vã mồ hơi, cảm giác khơng
thực… Mặc dù những người lo âu có thể nhận ra họ đang lo âu quá mức cần thiết
cho phép, họ cũng có thể gặp khó khăn trong việc kiểm sốt lo âu và điều đó ít
nhiều ảnh hưởng tiêu cực tới sinh hoạt của họ 7,20.


5
1.1.3.2. Nguyên nhân và yếu tố liên quan của lo âu ở lứa tuổi THPT.
- Nhóm nguyên nhân liên quan đến yếu tố cá nhân: học tập thiếu phương
pháp và kế hoạch chưa hợp lý, cảm giác sợ thua kém bạn bè, cảm giác sợ thất bại,
kết quả học tập không tốt, tăng áp lực học tập, thi cử, khối lượng bài tập nhiều
18


14,


- Nhóm nguyên nhân liên quan đến yếu tố gia đình: lo lắng về kinh tế gia

đình, bố mẹ bất hồ hay có xung đột, gia đình có người thân đau ốm…
- Nhóm nguyên nhân liên quan đến yếu tố mối quan hệ bạn bè, nhà trường,
xã hội: mâu thuẫn với thầy cô, bạn bè, người yêu, người lạ trên mạng xã hội…
- Một số yếu tố liên quan khác: giới tính, trầm cảm, di truyền
24

21,22,23,18,

stress


Rối loạn lo âu khác với cảm giác của sự căng thẳng, nếu khơng được điều trị

kịp thời có thể dẫn đến các tình huống nghiêm trọng hơn về triệu chứng. Rối loạn lo
âu dễ dẫn đến nguy cơ cao mắc trầm cảm và các bệnh lý như tăng huyết áp, tim
mạch, mất ngủ…, người bệnh dễ lạm dụng các loại thức uống có cồn và các chất
kích thích gây nghiện khác để làm giảm nhẹ các triệu chứng mà họ mắc phải. Tình
trạng trên ảnh hưởng tiêu cực đến sức khoẻ, chất lượng cuộc sống và khả năng học
tập, làm việc, hoạt động xã hội của chủ thể 25.
1.1.4. Stress
1.1.4.1. Khái niệm stress
Stress là một thuật ngữ bắt nguồn từ chữ La-tinh “Stringi”, nghĩa là: “bị kéo căng
ra”. Lúc đầu, thuật ngữ stress được dùng trong vật lý học để chỉ một sức nén mà vật
liệu phải chịu đựng. Đến thế kỷ XVII, stress từ nghĩa sức ép trên vật liệu được chuyển
sang dùng cho người với nghĩa một sức ép hay một xâm phạm nào đó tác động vào con

người gây ra một phản ứng căng thẳng, đến nay stress là thuật ngữ được dùng rộng rãi.
Tuy nhiên, nhiều tác giả sử dụng stress với những sắc thái khác nhau.
Là nhà Tâm lý học Richard S.Lazarus (1984) định nghĩa stress như một q
trình tương giao giữa con người và mơi trường, trong đó đương sự nhận định sự
kiện từ mơi trường là có tính chất đe doạ và có hại, đòi hỏi đương sự phải cố gắng
sử dụng các tiềm năng thích ứng của mình 21.


6
Stress là sự tương tác đặc biệt giữa chủ thể và mơi trường sống trong đó chủ
thể nhận thức, đánh giá sự kiện (kích thích) mơi trường (có hại, nặng nhẹ, nguy
hiểm, hụt hẫng…) nhằm huy động các nguồn lực ứng phó đảm bảo sự cân bằng,
thích nghi với mơi trường luôn thay đổi.
1.1.4.2. Nguyên nhân và các yếu tố liên của stress ở lứa tuổi THPT
- Nguyên nhân stress ở lứa tuổi vị thành niên được chia thành nhóm nguyên
nhân bên trong và bên ngoài

14,26

.

Nguyên nhân bên trong:
+ Đặc điểm cá nhân: độ tuổi, giới tính, những vấn đề về cơ thể, sức khỏe như
ốm đau, bệnh tật, cơ thể mệt mỏi, gầy yếu không đủ chất dinh dưỡng…
+ Đặc điểm tâm lý: cách lứa tuổi tự nhìn nhận, đánh giá chính con người
mình, cách suy nghĩ về những điều đã và sẽ xảy đến trong tương lai theo một cách
tiêu cực như tương lai sau này sẽ rất mù mịt, bế tắc…
+ Khả năng ứng phó: khi gặp các trường hợp khơng được thuận lợi, khả năng
ứng phó và giải quyết sự việc tốt hay không, nhanh hay chậm cũng là nguyên nhân
gây ra stress cho học sinh.

Nguyên nhân bên ngồi

27,28

:

+ Mơi trường xã hội: mâu thuẫn, thiếu sự quan tâm từ bạn bè, mẫu thuẫn từ
mạng xã hội; vấn đề tình cảm, tình yêu của trẻ vị thành niên; không tham gia các
hoạt động thể thao, vui chơi lành mạnh mà thường xuyên sử dụng mạng xã hội;
nhìn nhận sai các vấn đề các thơng tin từ mạng xã hội, cũng thường gây ra stress,
ngồi ra mơi trường sống như bụi, ô nhiễm tiếng ồn, thời tiết, giao thông, dịch
bệnh... cũng tác động không nhỏ tới học sinh.
+ Mơi trường gia đình: có thể do tình trạng hôn nhân của bố mẹ không thuận
lợi, bố mẹ thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, điều kiện kinh tế gia đình, khơng sống
cùng bố mẹ, bố mẹ khơng quan tâm, bố mẹ thường xuyên trách mắng, việc mất mát
người thân, sống trong sự kỳ vọng quá lớn từ gia đình…


7
+ Môi trường học tập: áp lực học tập, kiểm tra, cảm thấy quá tải về kiến thức ở
trường, đi học thêm quá nhiều, sự cạnh tranh giữa các thành viên trong lớp, thầy cô
khiển trách, không quan tâm …
Ở một mức độ nào đó stress là cần thiết cho cuộc sống, nó tạo ra động cơ,
thách thức địi hỏi chúng ta phải huy động các nguồn lực để vượt qua và tiếp tục tồn
tại, hoàn thiện bản thân hơn. Tuy nhiên nếu tình trạng stress diễn ra quá mức sẽ ảnh
hưởng chức năng về mặt xã hội như công việc, học tập, giao tiếp; gây giảm khả
năng chống đỡ bệnh tật và tăng nguy cơ mắc bệnh lý tâm thần và thể chất 29. Ngoài
ra theo một số nghiên cứu, stress nhẹ không ảnh hưởng đến học tập của học sinh
nên không phải là bệnh lý


23,30,31

.

- Các yếu tố liên quan đến stress bao gồm yếu tố nguy cơ và yếu tố bảo vệ như sau:
- Các yếu tố nguy cơ bao gồm

32

+ Yếu tố học tập: thành tích học tập, các kì thi, sự cạnh tranh giữa các học sinh...
+ Các yếu tố vật lý: nơi ở chật chội, đông đúc, môi trường sống ô nhiễm, tiếng
ồn thường xuyên gây khó chịu…
+ Yếu tố cảm xúc: quan hệ với bạn bè, thầy cơ ở trường lớp và ngồi xã hội,
chuyện tình cảm…
+ Yếu tố xã hội: kinh tế gia đình, sự hỗ trợ của xã hội, định kiến xã hội…
- Các yếu tố bảo vệ bao gồm 29
+ Yếu tố bạn bè: tâm sự, chia sẻ, hòa đồng bạn bè, giúp đỡ lẫn nhau…
+ Các hoạt động thể dục, chơi mơn thể thao ưa thích, các cách giải trí lành
mạnh, phù hợp với lứa tuổi…
+ Yếu tố vật lý: nơi ở gọn gàng sạch sẽ, môi trường sống trong lành…
+ Phương pháp giảng dạy: đơn giản, dễ hiểu, sinh động, thu hút học sinh…
+ Sở thích cá nhân: thời gian hợp lý, lành mạnh...
+ Sự hỗ trợ của giáo viên: cần quan tâm, khuyến khích, khen thưởng các em…


8
1.2. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh THPT
1.2.1. Khái niệm học sinh THPT
“Học sinh trung học phổ thông” là thuật ngữ để chỉ nhóm học sinh từ 15, 16
tuổi đến 17, 18 tuổi. Theo tâm lý học lứa tuổi, tuổi thanh niên là “giai đoạn phát

triển bắt đầu từ lúc dậy thì và kết thúc khi bước vào tuổi người lớn”. Tuổi thanh
niên được chia làm 2 giai đoạn (đầu tuổi thanh niên từ 15-18 tuổi; tuổi thanh niên
17,18-25 tuổi). Như vậy định nghĩa này đã giới hạn ở hai mặt sinh lý và xã hội.
Tuổi thanh niên với đặc trưng là hoàn thiện cơ thể và giải phẫu sinh lý, đa số thanh
niên là từ thời kỳ 15,16 tuổi đến 25 tuổi.
Lứa tuổi từ 15-18 tuổi phần lớn là đang học THPT từ lớp 10 đến lớp 12 còn
gọi là đầu tuổi thanh niên (thanh niên mới lớn, thanh niên học sinh, vị thành niên).
Do vậy, xét dưới góc độ tâm lý học sư phạm và tâm lý học lứa tuổi có thể gọi là học
sinh THPT

33,29

.

1.2.2. Đặc điểm phát triển thể chất của học sinh THPT
Đặc điểm cơ bản của học sinh THPT về thể chất là cơ thể đã trải qua giai
đoạn phát triển nhiều biến động như chức năng các tuyến sinh dục, tuyến nội tiết
hoạt động mạnh, phát triển về chiều cao, kích cỡ, thể lực. Chức năng vận động phát
triển, các em có thêm sức lực, thêm khả năng phối hợp, khả năng chịu đựng. Và
phần lớn sự biến đổi đều mang nét đặc thù cho từng giới. Mất cân đối đồng thời bắt
đầu bước vào giai đoạn phát triển bình thường. Cơ thể các em có thể đạt tới mức
phát triển của người trưởng thành.
Với sự tăng trưởng nhanh nên nhu cầu năng lượng hàng ngày cao hơn các
giai đoạn khác. Các em cần được cung cấp dinh dưỡng và các chất khoáng đầy đủ
đối để chống đỡ với bệnh tật và stress…Chế độ ăn khơng hợp lý có thể sẽ ảnh
hưởng bất lợi cho sự phát triển cơ thể, tâm thần và hành vi ứng xử, ở những học
sinh gặp tình trạng suy dinh dưỡng hay béo phì.
Thời kỳ trưởng thành về giới tính, đánh dấu sự chấm dứt của thời kỳ khủng
hoảng về biến đổi sinh lý để chuyển sang thời kỳ ổn định, cân bằng hơn. Ở trên cả
các mặt hoạt động hưng phấn, ức chế của hệ thần kinh cũng như các mặt phát triển

của thể chất

3,35,36

.


9
1.2.3. Đặc điểm phát triển tâm lý của học sinh THPT
- Sự phát triển của tự ý thức ở lứa tuổi này đã phát triển mức độ cao, có liên
quan đến nhu cầu tìm hiều và đánh giá những thuộc tính tâm lý theo quan điểm,
mục đích sống, hồi bão. Chính điều này, làm cho các em quan tâm sâu sắc tới đời
sống tâm lý, phẩm chất, nhân cách và năng lực của mình.
Nếu như học sinh trung học cơ sở thường đặt bản thân mình vào hiện tại thì
ngược lại học sinh THPT lại đặt bản thân mình vào tương lai. Vì vậy, các em quan
tâm nhiều đến cuộc sống sau này, tình yêu, gia đình, nghề nghiệp và lựa chọn bạn
đời tương lai

3,34

.

- Sự phát triển thế giới quan học sinh THPT đã có một q trình tích lũy hệ thống
kiến thức, kỹ năng, hành vi, lối sống…trong nhiều năm, nên đã có khả năng đúc kết
những suy nghĩ của mình trong việc nhìn nhận thế giới khách quan. Các em tự xây dựng
được một hệ thống quan điểm riêng dựa trên những điều kiện về mặt trí tuệ và xã hội
hiện có. Tuy nhiên, thế giới quan chưa thể đạt đến mức sâu sắc và bền vững.
- Sự phát triển hoạt động nhận thức: Các giác quan phát triển mạnh tri giác có
mục đích đạt tới mức rất cao, quan sát có chủ định, có hệ thống và tồn diện hơn.
Khả năng tư duy lí luận, tư duy trừu tượng diễn ra một cách độc lập sáng tạo, đồng

thời tư duy của các em cũng chặt chẽ hơn, có căn cứ và nhất qn hơn, tính phê
phán cũng phát triển. Nhìn chung lứa tuổi THPT có những đặc điểm của người
trưởng thành về mặt trí tuệ thơng thường đã được hình thành và vẫn cịn tiếp tục
phát triển.
- Đặc điểm hoạt động giao tiếp: ở lứa tuổi này mang tính chất tập thể, điều
quan trọng đối với các em là được sinh hoạt với những bạn bè cùng trang lứa, cảm
thấy mình cần thiết, có uy tín và vị trí nhất định trong nhóm bạn. Mối quan hệ giao
tiếp được mở rộng cả về phạm vi lẫn chất lượng, đồng thời các em ngày càng được
thể hiện sự bình đẳng, độc lập trong giao tiếp với người lớn và bạn bè.
- Đặc điểm đời sống tình cảm: Tình cảm được nảy sinh trên cơ sở nhận thức
về thế giới quan. Các loại tình cảm đạo đức, trí tuệ, thẫm mỹ đều phát triển mạnh.
Các em có khả năng chủ định phân tích tình cảm của chính mình, có khả năng kiềm


10
chế cảm xúc. Tình bạn sâu sắc, bền chặt, thẳng thắn giúp nhau cùng tiến bộ, được
xây dựng trên cơ sở của sự hiểu biết lẫn nhau, cùng nhau phấn đấu mục đích chung,
cùng hứng thú, sở thích, lí tưởng. Một loại tình cảm rất đặc trưng của lứa tuổi này là
tình bạn khác giới. Tình cảm yêu đương nam nữ là tình cảm đep đẽ, trong sáng có
ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của các em. Tình u của lứa tuổi này có
thể do sự say mê hoặc sự rung cảm nhưng nó có thể được xuất phát từ tình bạn, sự
đồng cảm với hồn cảnh của nhau và sự hòa hợp trong tâm hồn, sự quý mến, cảm
phục đối với nhau… Những biểu hiện của loại tình cảm này, nhìn chung rất phức
tạp, khơng đồng đều

3,35,37

.

Trong thời kỳ này thường xảy ra sự mất ổn định trong các chức năng của hệ

giao cảm – nội tiết, nên thường thấy những rối loạn chức năng của nhiều cơ quan
như hay hồi hộp, tăng huyết áp, những rối loạn về thần kinh: tính tình thay đổi, dễ
lạc quan nhưng cũng dễ bi quan hay có những suy nghĩ bồng bột…Giai đoạn này trẻ
thường ít bệnh tật hơn cả, tuy nhiên ý định tự tử, hành vi tự tử và các bệnh tâm thần
lại xuất hiện nhiều

36

.

1.3. Các nghiên cứu về sức khỏe tâm thần trẻ em và trầm cảm, lo âu, stress và
các yếu tố liên quan ở học sinh THPT trên thế giới và Việt Nam.
1.3.1. Nghiên cứu về trầm cảm và các yếu tố liên quan đến trầm cảm.
Theo một nghiên cứu khảo sát ở Mỹ với những người dân nhập cư của 6 quốc
gia Châu Á, tỷ lệ biểu hiện trầm cảm ở các mức độ nhẹ (30,9%), vừa và nặng
(9,6%). Trong đó tỷ lệ người Việt Nam sống tại Mỹ có trầm cảm nhẹ lên đến 60%
gấp đơi trung bình của cả 6 nước, tuy nhiên trầm cảm vừa và nặng thấp hơn chiếm
4% 37.
Tại Đức, nghiên cứu của tác giả Strydom và cộng sự về trầm cảm và lo âu ở
học sinh lớp 11 và 12 tại các trường trung tâm thành phố Bloemfontein năm 2012
đã đưa ra kết quả có 23,8% học sinh 12 mắc trầm cảm (theo thang đo HADS) 38. Ở
Australia thì tỷ lệ trầm cảm cao hơn một số nước khác trên thế giới (20-30% dân
số), trong đó có 3-4% là trầm cảm vừa và nặng. Ở một số nước Châu Á như Trung
Quốc, theo tác giả ChenR., tỷ lệ trầm cảm ở người già trên 60 tuổi ở khu vực nông
thôn là 6%, ở khu vực thủ đô là 3,6%

39

.



11
Một nghiên cứu của Anita Thapar & cộng sự chỉ ra rằng trầm cảm đơn cực ở
trẻ vị thành niên là phổ biến trên toàn thế giới. Trầm cảm ở tuổi vị thành niên có
liên quan với tỷ lệ mắc bệnh trong tương lai, và làm tăng nguy cơ tự tử 40.
Ở Việt Nam, trong hơn một thập kỷ gần đây vấn đề sức khỏe tâm thần nói
chung và trầm cảm nói riêng được đề cập đến nhiều hơn, các nhà nghiên cứu quan
tâm hơn, và cũng đã có nhiều nghiên cứu khác nhau về dịch tễ học trầm cảm trong
cộng đồng.
Theo Nguyễn Văn Siêm (2010) nghiên cứu tại xã Quất Động, Thường Tín, Hà
Nội cho thấy tỷ lệ mắc trầm cảm ở nhóm từ 15 tuổi trở lên là 8,35%. Tỷ lệ bệnh nhân
nữ/nam là 5/1. Tỷ lệ mới mắc là 0,48%; đa số bệnh nhân (94,24%) mắc bệnh trên 1
năm, (70,3%) mắc trên 4 năm. Tính chất tiến triễn mạn tính rõ rệt (93.6% là trầm cảm
tái diễn). Các yếu tố tâm lý – xã hội theo thứ tự tăng dần: sống độc thân, ly thân, góa
bụa, stress cường độ mạnh, đơng con, stress trung bình, bệnh cơ thể

41

.

Theo nghiên cứu của tác giả Trần Quỳnh Anh trên 450 sinh viên hệ Y học dự
phòng trường Đại học Y Hà Nội bằng thang CES-D điểm cắt là 16 cho thấy tỷ lệ trầm
cảm là 38,9%

42

. Nghiên cứu của Lê Thành Trung về thực trạng stress, trầm cảm, lo âu

và các yếu tố liên quan của sinh viên cử nhân trường Đại học Y tế công cộng năm 2017
cho thấy tỷ lệ có biểu hiện trầm cảm là 35% (thang đo DASS-21) 43.

Tác giả Thái Thanh Trúc & cộng sự (2018) tiến hành nghiên cứu trên 1114 học
sinh 03 THPT tại thành phố Hồ Chí Minh sử dụng thang đo DASS-21 cho thấy có
38,7% học sinh có các biểu hiện trầm cảm

44

. Một nghiên năm 2019 trên 341 học sinh

THPT Nguyễn Thị Minh Khai, Hà Nội theo thang đo PHQ-9 cho thấy có 33,7% biểu
hiện trầm cảm (mức độ nhẹ 60%; mức độ vừa 32,2%; mức độ nặng 7,8%)

45

.

Hơn một nửa bệnh nhân trầm cảm nhập viện bị tái diễn ít nhất 1-2 lần mỗi
năm; nếu khơng được điều trị, số lần xuất hiện của bệnh cũng như độ nặng của các
triệu chứng có khuynh hướng tăng dần theo thời gian. Tỉ lệ tự sát nghiêm trọng:
trầm cảm chiếm 2/3 số trường hợp chết do tự sát. Chi phí chăm sóc trầm cảm rất lớn
và ngày càng tăng. Về gánh nặng bệnh, trầm cảm xếp hàng thứ 5 ở nữ và 7 ở nam
(World Bank, 1990); lo âu và trầm cảm xếp thứ nhất ở cả nam và nữ trưởng thành


12
trên thế giới từ 15 - 34 tuổi (WHO, 2012). Trầm cảm sẽ trở thành nguyên nhân gây
mất sức lao động đứng hàng thứ 2 trên thế giới vào năm 2020.
Theo nghiên cứu Nguyễn Văn Hùng và cộng sự (2017) về mối tương quan
giữa lạm dụng internet với trầm cảm, lo âu, stress ở 634 học sinh THPT tại Huế kết
quả cho thấy có 71,8% học sinh nghiện internet mức độ nhẹ; 13,5% mức độ vừa và
nặng. Nghiên cứu đã xác định có mối liên quan giữa mức độ nghiện Internet với

mức độ trầm cảm (B=2,914; 95%CI: 1,829-3,999; p<0,001); lo âu (B=3,021;
95%CI: 1,963-4,078; p<0,001); stress (B=3,363; 95% CI: 1,963-4,078; p<0,001).
Tác giả kết luận rằng những học sinh nghiện Internet ở mức độ càng cao thì có nguy
cơ mắc các vấn đề sức khỏe tâm thần càng lớn 46.
1.3.2. Nghiên cứu về lo âu và các yếu tố liên quan đến lo âu.
Nhiều cơng trình nghiên cứu được thực hiện và đưa ra những số liệu cảnh báo
cho chính phủ cũng như người dân, đặc biệt là những nghiên cứu về rối loạn lo âu
cho trẻ dưới 18 tuổi

7,20,47

. Theo thống kê của Viện sức khỏe tâm thần Quốc gia

(NIMH) có 31,9% dân số Mỹ từ 13-18 tuổi trở lên mắc các rối loạn lo âu cao hơn so
với người lớn từ 18 tuổi (19,1%) và trong đó có 8,3% ở mức độ nghiêm trọng theo
tiêu chí DMS-IV; rối loạn lo âu ở nữ (38,0%) cao hơn nam (26,1%) 7. Trong một
điều tra phúc lợi trẻ em ở Canada, Lil Tonmyr & các cộng sự cho biết, trong số
4.381 trẻ em từ 10 đến 15 tuổi thì có 25% các em có vấn đề về lo âu, trầm cảm,
trong đó nguyên nhân tiếp xúc với bạo lực gia đình là nguyên nhân ảnh hưởng đến
biểu hiện lo âu nhiều nhất (11%), sau đó mới đến các nguyên nhân khác

47

. Một

nghiên cứu của Toscos, T. & cộng sự trên 2.789 thanh thiếu niên Mỹ (2019) cho
thấy 30,58% và 22,91% có các triệu chứng lo âu và trầm cảm từ vừa đến nặng trong
2 tuần qua; 16,24% có ý định tự tử trong năm qua 48.
Vấn đề lo âu ở học sinh THPT là do: học tập, bạn bè, hình ảnh bản thân hiện
tại và tương lai, tình u đơi lứa và gia đình. Ở Việt Nam, theo nghiên cứu tại các

trường THPT thuộc thành phố Huế (2014) Nguyễn Văn Thanh rối loạn lo âu chiếm
37,2% 22; theo Nguyễn Thị Nhật Hòa (2015) cho thấy học sinh lo âu 59,7%
Thanh Trúc ở TP Hồ Chí Minh (2018) lo âu chiếm 59% 44.

14

; Thái


13
Tác giả Nguyễn Thị Hằng Phương (2009) nghiên cứu trên 600 học sinh THPT
ở Quảng Bình cho biết có 130 học sinh có biểu hiện lo âu. Và một trong bốn nhóm
nguyên nhân ảnh hưởng tới rối loạn lo âu của các em là nguyên nhân gia đình: bạo
lực gia đình là yếu tố ảnh hưởng đến rối loạn lo âu nhiều thứ hai, chỉ xếp sau yếu tố
lo lắng về kinh tế gia đình 49.
1.3.3. Nghiên cứu về stress và các yếu tố liên quan.
Trên thế giới, các nghiên cứu về stress học đường rất đa dạng, tập trung vào
nhiều khía cạnh và lĩnh vực từ thống kê mơ tả các biểu hiện của stress, tìm hiểu
nguyên nhân, tìm hiểu phong cách ứng phó, cho đến những liên quan của stress học
đường với các sự kiện cuộc sống hay sức khỏe tâm thần. Tại Ấn Độ, nghiên cứu
830 học sinh THPT Impal (2017) cho thấy tỷ lệ học sinh biểu hiện trầm cảm, lo âu,
stress chiếm tỷ lệ 19,5%, 24,4% và 21,1% và có tới 34,7% mắc cả ba rối loạn

26

.

Nghiên cứu của Saikia, A. M. & cộng sự (2019) cho thấy có mối liên quan giữa
nghiên mạng Internet (chủ yếu là mạng xã hội) và lo âu (OR=3,3), trầm cảm
(OR=14) và stress (OR=12)


50

. Nghiên cứu của tác giả Najarian, L. R. và cộng sự

(2014) tại Mỹ cho thấy khơng có mối liên quan giữa giới tính của học sinh và tỷ lệ
mắc stress (p>0,05) 26. Tuy nhiên tác giả Leonard, N. R & cộng sự (2015) chỉ ra có
sự liên quan giữa giới tính và stress

51

.

Sức khỏe tâm thần là một phần quan trọng trong sức khỏe tổng thể của thế hệ
trẻ. Ở Việt Nam, nhiều nghiên cứu về sức khỏe tâm thần chỉ ra rằng stress là một
trong những biểu hiện thường gặp của các vấn đề sức khỏe tâm thần ở lứa tuổi học
sinh THPT

22,28

. Tại Hà Nội, theo nghiên cứu của Trịnh Thị Hồng Vân (2014) tại

một trường THPT ở thành phố đưa ra tỷ lệ học sinh có biểu hiện stress là 46,1%,
trong đó stress mức độ vừa chiếm tỷ lệ cao nhất 20,1%; mức độ nhẹ 18,9%; thấp
nhất mức độ rất nặng 2,5%

28

. Tại THPT Đinh Tiên Hoàng, Hà Nội (2018) học sinh


mắc stress lên đến 62,7%, trong đó stress nặng và rất nặng chiếm 18%; theo giới
tính tỷ lệ học sinh nữ stress rất nặng là 6,4%, gấp gần 2 lần học sinh nam; theo khối
học thì khối 12 mắc stress rất nặng cao nhất; yếu tố liên quan học sinh cho rằng
nguyên nhân cơ bản dẫn đến stress do kết quả học tập không như mong muốn với tỷ
lệ cao nhất 49,7%; ngồi ra để ứng phó với stress học sinh lựa chọn nhiều nhất “làm


14
những cơng việc theo sở thích để giải tỏa căng thẳng”, và có tới 41,8% học sinh
“khơng làm gì, tự chịu đựng”

52

. Tại TP Hồ Chí Minh (2018) theo nghiên cứu

Thái Thanh Trúc & cộng sự stress chiếm 35,1%

44

.

Tại TP Huế, nghiên cứu của Nguyễn Văn Thanh (2014) cho kết quả 39,8%
học sinh có stress 22; nghiên cứu của Nguyễn Thị Nhật Hòa (2015) ở học sinh lớp
12 biểu hiện stress 40,8% trong đó mức độ vừa chiếm 14%, mức độ nhẹ chiếm
8,9%, thấp nhất là rất nặng chiếm 4,2% 14. Theo nghiên cứu của Đoàn Vương Diễm
Khánh (2018) trên 420 học sinh THPT theo thang đo DASS-42 biểu hiện stress
chiếm 57,2%, stress theo các mức độ nhẹ, vừa, nặng, rất nặng lần lượt là 17,9%;
29,5%; 7,6%; 2,2%. Các yếu tố liên quan đến tình trạng stress của học sinh bao gồm
tình trạng hơn nhân của bố mẹ khơng thuận lợi, cảm nhận về thời gian tự học quá
nhiều, mức độ áp lực học tập, mức độ khiển trách của giáo viên, mức độ bị bạn bè

trêu chọc, sỉ nhục (p<0,05) 53.
Tại Đà Nẵng, theo kết quả thống kê sơ bộ của dự án nghiên cứu stress thanh
thiếu niên được khảo sát qua mạng và phỏng vấn gián tiếp do Bệnh viện Tâm thần
Đà Nẵng (2014) ở 03 trường THPT trên địa bàn thành phố, có 20% học sinh nam bị
rối loạn tâm lý, 10% ở nữ giới. Nguyên nhân khiến học sinh mắc chứng bệnh này
chủ yếu là áp lực học tập. Gần 58% học sinh được khảo sát cho biết bị bố mẹ la
mắng, khiển trách vì khơng học tốt tại trường, hơn 59% học sinh nói kết quả học tập
không như ý muốn

12

.

Theo nghiên cứu của Ngô Thị Trang khi phân tích một số yếu tố liên quan đến
stress tâm lý ở học sinh THPT ở Thái Ngun cho thấy các yếu tố như tình trạng hơn
nhân của bố mẹ không thuận lợi, bố mẹ mâu thuẫn thường xuyên, bị bố mẹ trách mắng
thường xuyên là những yếu tố liên quan đến stress ở học sinh (p<0,05). Ngoài ra các
yếu tố liên quan đến học tập và trường học như học thêm ở ngoài, cảm thấy quá tải với
lượng kiến thức ở trường, quá nhiều bải tập, áp lực thi cử và thiếu sự quan tâm của bạn
bè là có liên quan đến stress ở học sinh (p<0,05). Các yếu tố về giới tính, dân tiich và
khối học không liên quan đến stress (p>0,05)

27

.


15
- Tác động của dịch COVID-19 lên sức khỏe tâm thần cộng đồng
Đại dịch do coronavirus (COVID-19) năm 2019 là một cuộc khủng hoảng sức

khỏe lớn ảnh hưởng đến nhiều quốc gia, theo báo cáo Bộ Y tế hiện nay trên thế giới
với hơn 32 triệu ca nhiễm và hơn 980 nghìn trường hợp tử vonng (tính đến
24/9/2020). Một nghiên cứu tổng thể các bài báo liên quan đến những ảnh hưởng
tâm lý bởi dịch bệnh cho kết quả các triệu chứng lo âu và trầm cảm (16–28%) và
stress (8%) là những phản ứng tâm lý phổ biến đối với đại dịch COVID-19, và có
thể liên quan đến giấc ngủ bị xáo trộn.
Sợ hãi và lo lắng về một căn bệnh mới với sự lây lan nhanh chóng khó kiểm
sốt được có thể gây chống ngợp và gây ra những cảm xúc tiêu cực đối với cả
người lớn và trẻ em. Các hoạt động y tế dự cần thiết để làm giảm sự lây lan
COVID-19 như là cách ly xã hội có thể khiến mọi người cảm thấy bị cơ lập và có
thể làm tăng sự căng thẳng, lo lắng. Một nghiên cứu tại Trung Quốc trên cộng đồng
với thang DASS-21 cho thấy có 16,5% mắc trầm cảm từ trung bình đến
nặng; 28,8% mắc lo lắng từ trung bình đến nặng; và 8,1% mắc stress từ trung bình
đến nặng. Nhóm tuổi là học sinh có liên quan đến mức độ căng thẳng, lo lắng và
trầm cảm (p<0,05) 54.
Một nghiên cứu tại Philippinies cho thấy có 16,9% cho biết có các triệu chứng
trầm cảm từ trung bình đến nặng; 28,8% có mức độ lo lắng từ trung bình đến
nặng; và 13,4% có mức độ stress từ trung bình đến nặng. Tuổi vị thanh niên có liên
quan đáng kể đến tác động tâm lý lớn hơn của đại dịch và mức độ căng thẳng, lo
lắng và trầm cảm cao hơn (p <0,05) 55.
Năm học 2019 – 2020, là một năm học khá đặc biệt đối với học sinh nhiều
nước trên thế giới do tác động của dịch COVID-19, các em phải nghỉ học, phải
chuyển từ hình thức học trên lớp sang học trực tuyến ở nhà, một số em cố gắng
thích nghi, nhiều em lười biếng, bỏ bê học tập, sa đà vào mạng xã hội, trò chơi
điện tử, một số khác lo sợ kết quả học tập, thi cử không như ý, lo sợ về sự lây


16
lan của dịch bệnh… Tác động của dịch bệnh và xã hội ảnh hưởng khá lớn đến
sức khỏe tâm thần của học sinh.

1.4. Thang đo trầm cảm, lo âu và stress DASS-21
Thang đo tự đánh giá về trầm cảm, lo âu, stress trên đối tượng vị thành niên và
người trưởng thành được phát triển bởi Livibond S.H and Livibond P.E (1995) Depression Anxiety Stress Scales (DASS)

. Ngày nay, DASS được sử dụng ngày

56,57

càng nhiều trong chẩn đoán sàng lọc các vấn đề về sức khỏe tâm thần tại cộng đồng,
đặc biệt là có thể dành cho đối tượng thanh thiếu niên (học sinh, sinh viên…)

58

.

Hiện nay thang đo DASS có 2 phiên bản: phiên bản gốc gồm 42 câu hỏi
(DASS-42) và phiên bản rút ngắn 21 câu hỏi (DASS-21). Chúng tôi sử dụng thang
đo 21 câu DASS-21 trong nghiên cứu này, vì thang đo DASS-21 ngắn hơn DASS42, trong khi độ tin cậy và giá trị của 2 phiên bản là như nhau. Giá trị và độ tin cậy
của thang đo DASS-21 cũng đã được chứng minh trong các nghiên cứu gần đây của
tác giả Nguyễn Văn Hùng 59,60.
Ngoài ra có nhiều thang đo khác để đánh giá về sức khỏe tâm thần như thang
đo đánh giá stress PSS (Perceived Stress Scales), thang đánh giá trầm cảm CES-D
(The Centre for Epidemiological studies- Depression Scale), thang đo lo âu ZUNG,
thang tự đánh giá trầm cảm của Beck (Beck Depression Inventory). Việc sử dụng
thang đo DASS sẽ rất hữu ích khi đo lường tình trạng hiện tại cũng như biến đổi
theo thời gian của cả 3 tình trạng trầm cảm, lo âu và stress. Việc phân biệt được 3
tình trạng liên quan này giúp các nhà nghiên cứu nhận định được tính chất, nguyên
nhân và cơ chế của các rối loạn SKTT. Bên cạnh đó, thang đo DASS thích hợp để
sàng lọc ở người bình thường và có thể được sử dụng bởi các bác sĩ không thuộc
chuyên khoa tâm thần.

Thang đo DASS-21 (Depression Anxiety Stress Scales) là công cụ được các
nhà nghiên cứu tâm lý sử dụng phổ biến trên thế giới 31,32 và các nghiên cứu ở Việt
Nam

30,31

để đo lường sự tự nhận thức về trầm cảm, lo âu và stress.

Thang đo này gồm có 21 câu, nhằm đo lường mức độ trầm cảm, lo âu và stress
mà chủ thể nhận thấy về cuộc sống của họ trong 2 tuần vừa qua. Thang đo được


×