Tải bản đầy đủ (.docx) (88 trang)

Luận văn thạc sĩ tội VI PHẠM QUY ĐỊNH về AN TOÀN THỰC PHẨM từ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ hồ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (353.53 KB, 88 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
-----



-----

ĐỖ THỊ THU THẢO

TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ AN TOÀN THỰC
PHẨM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội, năm 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
-----



-----

ĐỖ THỊ THU THẢO

TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ AN TOÀN THỰC
PHẨM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH



Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN THỊ THANH THÙY

Hà Nội, năm 2021


LỜI CAM ĐOAN

Tơi cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ
theo quy định.
Tơi xin chịu trách nhiệm về luận văn của mình.

Tác giả

Đỗ Thị Thu Thảo


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................................................. 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT
NAM VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ AN TOÀN THỰC PHẨM...................10
1.1. Những vấn đề lý luận về tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm....10
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm quy định về
an toàn thực phẩm................................................................................................................. 17
1.3. Tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm trong luật hình sự một

số nước trên thế giới............................................................................................................ 30
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ AN TỒN THỰC PHẨM TẠI ĐỊA
BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH...................................................................................... 36
2.1. Đặc điểm địa bàn và tình hình tội vi phạm quy định về an toàn thực
phẩm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh................................................................. 36
2.2. Thực tiễn định tội danh tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm
trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh............................................................................. 42
2.3. Thực tiễn quyết định hình phạt tội vi phạm quy định về an toàn thực
phẩm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh................................................................. 49
2.4. Đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi
phạm quy định về an toàn thực phẩm trên địa bàn thành phố Hồ Chí
Minh........................................................................................................................................... 54
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT
NAM ĐỐI VỚI TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ AN TOÀN THỰC PHẨM......58
3.1. Yêu cầu áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm quy
định về an toàn thực phẩm................................................................................................ 58
3.2. Giải pháp áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm qui
định về an toàn thực phẩm................................................................................................ 60
KẾT LUẬN......................................................................................................................................... 76
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................................ 76


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

ATTP

An tồn thực phẩm

BLHS


Bộ luật hình sự

DN

Doanh nghiệp

Nxb

Nhà xuất bản

TAND

Tịa án nhân dân

TNHS

Trách nhiệm hình sự

TpHCM

Thành phố Hồ Chí Minh

UBND

Ủy ban nhân dân

VSTP

Vệ sinh thực phẩm


VSATTP

Vệ sinh an toàn thực phẩm


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1: Phân biệt tội vi phạm quy định về ATTP với tội giết người và tội vô ý
làm chết người theo quy định của BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung
năm 2017 ......................................................................................................
Bảng 2.1: Thống kê tình hình ngộ độ thực phẩm trên địa bàn TpHCM ...................
Bảng 2.2: Tổng hợp tình hình vi phạm ATTP trên địa bàn TpHCM các năm
2018-2020 ....................................................................................................
Bảng 2.3: Tổng hợp tình hình vi phạm ATTP trên địa bàn TpHCM các năm
2018-2020 ....................................................................................................
Bảng 2.4: Tổng số vụ án, bị cáo tòa án nhân dân thành phố xét xử các năm
2018-2020 ....................................................................................................


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
An tồn thực phẩm (ATTP) là vấn đề ảnh hưởng lớn, trực tiếp đến sức khỏe
con người, được xã hội rất quan tâm. Trong thời gian qua, các cấp, các ngành đã có
nhiều cố gắng trong quản lý, bảo đảm ATTP. Tuy nhiên tình trạng vi phạm về ATTP
diễn biến ngày càng phức tạp. Theo thống kê của Cục ATTP – Bộ Y tế, trên tồn
quốc có gần 90.000 cơ sở sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm, dịch vụ ăn
uống. Từ năm 2015 đến tháng 3/2020, cơ quan chức năng đã thanh tra, kiểm tra và
phát hiện 94.768/224.791 lượt cơ sở (chiếm 42,1%) không đạt tiêu chuẩn ATTP; kết
quả xét nghiệm mẫu thực phẩm có 2.109/12.785 mẫu (chiếm 16,4%) khơng đạt tiêu
chuẩn vệ sinh. Trong giai đoạn từ năm 2015 đến tháng 3/2020 trên địa bàn toàn

quốc đã xảy ra 2.213 vụ ngộ độc thực phẩm tại bếp ăn tập thể với 7.653 nạn nhân;
297 vụ ngộ độc thực phẩm tại các khu công nghiệp, khu chế xuất với 4.498 nạn
nhân; 118 vụ ngộ độc thực phẩm trong các trường học với 1.090 học sinh; 238 vụ
ngộ độc thực phẩm do thức ăn đường phố với 4.980 nạn nhân. Qua kiểm tra, cơ
quan chức năng đã xử lý 9.768 vụ vi phạm về an toàn thực phẩm; tiêu hủy trên 180
tấn thực phẩm khơng đảm bảo an tồn thực phẩm [2].
Tình trạng ngộ độc thực phẩm có xu hướng gia tăng và ảnh hưởng không nhỏ
tới sức khoẻ cộng đồng. Để bảo vệ tính mạng, sức khỏe của con người, Nhà nước
luôn chú trọng tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về ATTP, ban hành các văn
bản quy phạm pháp luật nhằm kịp thời điều chỉnh vấn đề ATTP; ban hành các quy
chuẩn về kỹ thuật, chất lượng và các quy chuẩn cần thiết cho công việc sản xuất
thực phẩm an tồn, quy định các hình thức kỷ luật, xử phạt, khen thưởng… hợp lý
làm cơ sở cho người dân thực hiện, cho nhà sản xuất làm theo, đồng thời tạo ra một
hành lang pháp lý vững chắc cho công tác quản lý. Nhằm răn đe và xử lý cũng như
đấu tranh phòng, chống tội vi phạm quy định về ATTP ở nước ta. Pháp luật hình sự
đã sớm quy định và nhiều lần điều chỉnh: Bộ luật Hình sự năm 1985 lần đầu tiên
pháp điển hóa hành vi vi phạm quy định về vệ sinh thực phẩm gây hậu quả nghiêm
trọng tại Điều 197. Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định trực tiếp về tội vi phạm quy

1


định về vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) tại Điều 244. Bộ luật Hình sự năm
2015 sửa đổi, bổ sung Điều 244 trong Bộ luật Hình sự năm 1999 bằng Điều 317 –
Tội vi phạm quy định về VSATTP. Mới đây, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Bộ luật Hình sự năm 2015 đã quy định một số điểm mới, tiến bộ, khả thi, phù hợp
với tình hình mới của xã hội. Các quy định pháp luật hình sự trên là cơ sở cho việc
xét xử và quyết định các biện pháp xử lý hình sự đối với tội vi phạm quy định về
ATTP. Tuy nhiên, trong thực tiễn, các quy định pháp luật hình sự về ATTP còn
những điểm bất cập: một số quy định của Bộ luật Hình sự về tội vi phạm quy định

về ATTP còn chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn xã hội; việc ban hành các
văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật hình sự về tội vi phạm quy định về ATTP cịn
chậm, chưa được hệ thống hóa gây ảnh hưởng tới việc thực thi Luật…
Thành phố Hồ Chí Minh (TpHCM) là thành phố lớn, đơng dân nhất cả nước.
Các năm 2018-2020, tình hình ngộ độc và tình hình mất ATTP diễn biến nghiêm
trọng và phức tạp. Các đoàn thanh tra, kiểm tra liên ngành phát hiện các vi phạm về
điều kiện vệ sinh cơ sở, về trang thiết bị, dụng cụ, về việc ghi nhãn, quảng cáo thực
phẩm, kinh doanh thực phẩm nhập lậu, thực phẩm giả, không đảm bảo chất lượng,
không rõ nguồn gốc, xuất xứ, quá hạn sử dụng, sử dụng hóa chất, phụ gia bị cấm
trong sản xuất, chế biến… Tòa án nhân dân (TAND) TpHCM đã tiến hành xét xử
hình sự các vụ án vi phạm quy định về ATTP. Tuy nhiên, việc thực hiện áp dụng
pháp luật hình sự về tội vi phạm quy định về ATTP trên địa bàn TpHCM các năm
2018-2020 có điểm hạn chế: số vụ án xét xử hình sự về tội vi phạm quy định về
ATTP cịn rất ít; năng lực về áp dụng pháp luật đối với người phạm tội vi phạm quy
định về ATTP chưa cao… Vì vậy, việc nghiên cứu các quy định pháp luật hình sự
Việt Nam về tội vi phạm quy định về ATTP cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật
hình sự Việt Nam về tội phạm này trên địa bàn TpHCM là rất cần thiết nhằm tìm ra
cơ sở lý luận và thực tiễn, những hạn chế, yếu kém trong quá trình thực hiện để đề
xuất các giải pháp khắc phục. Xuất phát từ các lý do trên, tác giả chọn đề tài “Tội vi
phạm quy định về an toàn thực phẩm từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” làm
đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình.

2


2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Tìm hiểu tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài “Tội vi phạm quy
định về an toàn thực phẩm từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” cho thấy đây là
một vấn đề khá mới mẻ nên chưa có ai quan tâm nghiên cứu một cách toàn diện và
chi tiết. Một số tác giả nghiên cứu, tiếp cận các vấn đề liên quan đến ATTP dưới góc

độ chủ yếu là các quy định của pháp luật về ATTP hoặc một số vướng mắc trong xử
lý các vi phạm về ATTP như:
- Hồng Trí Ngọc (2009), Tội vi phạm quy định về vệ sinh an tồn thực phẩm

trong luật hình sự Việt Nam – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ
luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội. Tác giả đã đưa ra khái niệm tội vi phạm quy
định về vệ sinh an toàn thực phẩm; nghiên cứu các dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm
quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm, qua đó làm nổi bật các đặc điểm có tính đặc
thù của loại tội phạm này; phân tích thực trạng vi phạm quy định về vệ sinh an toàn
thực phẩm, thực tiễn xử lý dưới góc độ pháp luật phi hình sự và pháp luật hình sự,
qua đó, nghiên cứu những vấn đề còn đang bất cập, tồn tại đối với quy định về loại
tội này, cũng như làm sáng tỏ sự cần thiết phải hoàn thiện tội vi phạm quy định về
vệ sinh an toàn thực phẩm trong pháp luật hình sự Việt Nam và đưa ra các phương
hướng nhằm hoàn thiện quy định về tội vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực
phẩm tại Bộ Luật hình sự năm 1999. [17]
- Nguyễn Ngân Giang (2012), Trách nhiệm pháp lý đối với các hành vi vi

phạm pháp luật về an toàn thực phẩm, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc Gia
Hà Nội. Tài liệu tổng thuật một số vấn đề lý thuyết và thực tiễn pháp lý về an tồn
thực phẩm. Rà sốt các hành vi vi phạm về điều kiện an toàn thực phẩm. Đánh giá
hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm. Đề xuất một số
giải pháp và kiến nghị để nâng cao hiệu quả trong cơng tác quản lý nhà nước về an
tồn thực phẩm và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến
an toàn thực phẩm. Xác định rõ trách nhiệm pháp lý của các đối tượng trong xã hội
đối với các hành vi vi phạm pháp luật về an toàn thực phẩm. Nâng cao kiến thức về
quản lý an toàn thực phẩm. [12]

3



- Nguyễn Văn Nhật (2013), “Bảo đảm vệ sinh an tồn thực phẩm: khi người

dân mất cảnh giác”, Tạp chí Nơng thơn mới, số 354, tr.26-28. Tác giả trình bày thực
trạng, tình hình vi phạm vệ sinh an tồn thực phẩm trên tồn quốc và địa bàn tỉnh
Quảng Bình vẫn là vấn đề khá phổ biến, việc bảo đảm cho người dân có nguồn thực
phẩm sạch cịn gặp nhiều khó khăn. Trong khi người dân mất cảnh giác trong việc
sử dụng thực phẩm khơng an tồn, đảm bảo cho sức khỏe, đã có nhiều kha bị ngộ
độc do ăn những loại thực phẩm mất vệ sinh này. Phân tích những khó khăn, chồng
lên khó khăn trong việc quản lý ở lĩnh vực này. [18]
- Nguyễn Thùy Dương, Trần Ngọc Tụ, Hồng Đức Hạnh (2015), “Tình hình

ngộ độc thực phẩm tại Hà Nội từ năm 2010 đến năm 2014”, Tạp chí Y tế công cộng,
số 37, tr.33-38. Bài viết hồi cứu số liệu chi tiết toàn bộ các vụ ngộ độc thực phẩm đã
xảy ra trên địa bàn thành phố Hà Nội trong 5 năm liên tục từ tháng 01/2010 đến
tháng 12/2014 được ghi nhận trong báo cáo lưu tại Chi cục An tồn vệ sinh thực
phẩm Hà Nội. Từ đó, bài viết khuyến nghị: tăng cường truyền thơng phịng chống
ngộ độc thực phẩm đến từng gia đình, thơn, xóm; tăng cường kiểm tra giám sát,
thanh tra các cơ sở sản xuất, chế biến thực phẩm; kiểm soát, tuyên truyền thực hiện
kiểm thực 3 bước và lưu mẫu phẩm. [10]
- Lê Thị Hồng Ánh (2017), Giáo trình vệ sinh an tồn thực phẩm, Nxb. Tp.

Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh. Tài liệu trình bày về tầm quan trọng của vệ sinh an
toàn thực phẩm; những mối nguy hiểm trong sản xuất thực phẩm; điều kiện và biện
pháp đảm bảo vệ sinh an tồn thực phẩm; cơng tác quản lý và một số văn bản pháp
luật về vệ sinh an toàn thực phẩm ở Việt Nam. [1]
- Nguyễn Hữu Đại (2018), Những quy định pháp luật về vệ sinh an toàn thực

phẩm và công tác kiểm tra, giám sát, cấp giấy chứng nhận đối với cơ sở kinh doanh
thực phẩm, Nxb. Lao động, Hà Nội. Tài liệu trình bày tồn văn luật an toàn thực
phẩm và các quy định chi tiết thi hành; đẩy mạnh việc thực hiện chính sách pháp

luật và tăng cường quản lý của Nhà nước về an tồn thực phẩm; các quy trình thanh
tra, kiểm tra, giám sát chất lượng an toàn thực phẩm; quy định điều kiện bảo đảm an
toàn thực phẩm đối với một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh… [11]

4


- Đinh Thị Quế (2018), Pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực an toàn

thực phẩm, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Huế. Tài liệu hệ thống hóa những vấn
đề lý luận về pháp luật xử lý vi phạm trong lĩnh vực an toàn thực phẩm; phân tích
thực trạng hệ thống pháp luật về an tồn thực phẩm và tình hình xử lý vi phạm về an
toàn thực phẩm; đề xuất 8 giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực an toàn thực phẩm: hoàn thiện bộ máy quản lý
nhà nước về an toàn thực phẩm; xây dựng và nâng cao trình độ và đạo đức nghề
nghiệp của cán bộ công chức trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm; tuyên
truyền, phổ biến pháp luật về an toàn thực phẩm; yêu cầu cam kết an toàn thực
phẩm; tăng cường kiểm tra, xử lý mọi hành vi vi phạm pháp luật về vệ sinh an tồn
thực phẩm; nân cao vai trị của Hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng; đảm bảo cơ sở vật
chất kỹ thuật, công nghệ trong thực hiện pháp luật an toàn thực phẩm và xử lý
nghiêm minh, kịp thời các vi phạm trong lĩnh vực an toàn thực phẩm. [19]
- Nguyễn Văn Song, Lê Như Trang, Nguyễn Công Tiệp (2018), “Giải pháp

tăng cường quản lý nhà nước về vệ sinh an tồn thực phẩm trên địa bàn huyện Đơng
Anh, Hà Nội”, Tạp chí Tài ngun và mơi trường, số tháng 9, tr. 29-32. Bài viết là
kết quả nghiên cứu thực trạng công tác quản lý nhà nước về VSATTP. Trên cơ sở
phân tích các ngun nhân ảnh hưởng đến cơng tác quản lý nhà nước về VSATTP
trên địa bàn huyện Đông Anh, bài viết đề xuất các giải pháp: 1) tăng cường sự lãnh
đạo của các cấp chính quyền và các bộ phận liên quan đối với công tác bảo đảm
ATTP; 2) nâng cao năng lực và chất lượng quản lý nhà nước về ATTP; 3) đẩy mạnh

công tác vận động, tuyên truyền, giáo dục, tạo sự chuyển biến thực sự về hành vi
ATTP, đẩy mạnh xã hội hóa cơng tác ATTP; 4) tăng cường công tác thanh tra, kiểm
tra xử lý vi phạm pháp luật về ATTP trong sản xuất, kinh doanh thực phẩm; và 5)
nâng cấp cơ sở vật chất, nguồn vốn phục vụ quản lý nhà nước về VSATTP. [26]
- Nguyễn Hoài Nam (2019), Thực thi pháp luật về an toàn thực phẩm trong

kinh doanh thực phẩm tươi sống qua thực tiễn tỉnh Quảng Trị, Luận văn thạc sĩ luật
học, Đại học Huế. Tài liệu nghiên cứu và trình bày những vấn đề lý luận và thực
tiễn về vệ sinh an toàn thực phẩm và vệ sinh an toàn thực phẩm tươi sống trên địa

5


bàn tỉnh Quảng Trị. Tài liệu đưa ra 2 nhóm giải pháp: hoàn thiện pháp luật về vệ
sinh an toàn thực phẩm và tổ chức thực hiện an toàn vệ sinh thực phẩm trong kinh
doanh thực phẩm tươi sống. [16]
- Nguyễn Thị Phi Yến (2020), “Xử lý vi phạm về an toàn thực phẩm tại

thành phố Huế: thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả”, Tạp chí Công
thương, số 4, tr. 18-24. Bài viết làm rõ 6 hạn chế, vướng mắc trong công tác xử lý
vi phạm ATTP tại thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế: tỷ lệ xử phạt vi phạm hành

chính trong lĩnh vực ATTP cịn thấp; cơng tác kiểm tra, xử phạt vi phạm về ATTP ở
cấp cơ sở còn nhiều hạn chế; việc áp dụng chế tài hành chính trong xử phạt chưa
thực sự hợp lý; việc xử lý vi phạm về ATTP vẫn cịn chồng chéo về thẩm quyền; q
trình triển khai xử phạt còn chậm; tỷ lệ kiểm tra, thanh tra trên tổng số đối tượn cần
kiểm tra còn thấp. Từ đó, bài viết đề xuất cần phải hồn thiện một số quy định của
pháp luật về xử phạt vi phạm về ATTP; tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật về VSATTP; đẩy mạnh hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám
sát; quyết liệt áp dụng chế tài xử phạt bằng tiền và kịp thời hơn đối với các vi phạm

về ATTP; kiện toàn Ban Chỉ đạo về ATTP, phát huy vai trò của Ban Chỉ đạo từ tỉnh
đến xã, phường, thị trấn; đầu tư các nguồn lực cho hoạt động xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực VSATTP. [43]
Có thể thấy, khơng có nhiều cơng trình nghiên cứu các vấn đề liên quan đến
tội vi phạm quy định về ATTP, tuy nhiên cũng đã góp phần làm rõ một số vấn đề về
lý luận và thực tiễn có liên quan đến ATTP. Về lý luận, các cơng trình đưa ra khái
niệm, các dấu hiệu pháp lý, đặc điểm, đặc thù, quy định pháp luật về ATTP… Về
thực tiễn, các cơng trình phân tích thực trạng hệ thống pháp luật về ATTP; qui định
về ATTP; vi phạm qui định về ATTP dưới góc độ pháp luật phi hình sự và pháp luật
hình sự; tình hình xử lý vi phạm về ATTP… Các cơng trình đưa ra nhiều giải pháp
khác nhau dựa trên tình hình thực tiễn cụ thể, tuy nhiên, các cơng trình đều thống
nhất 2 nhóm giải pháp về hoàn thiện pháp luật về ATTP và tổ chức thực hiện ATTP.
Mặc dù vậy đến nay, chưa có cơng trình nào nghiên cứu vấn đề ATTP trên

6


địa bàn TpHCM. Các cơng trình khoa học trên là nguồn tài liệu có giá trị cho hướng
nghiên cứu của đề tài, là cơ sở để tác giả kế thừa phục vụ nghiên cứu đề tài.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu:

Luận văn hệ thống những vấn đề lý luận pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi
phạm quy định về ATTP; làm rõ khái niệm và dấu hiệu pháp lý của tội; phân biệt tội
vi phạm quy định về ATTP với một số tội khác; hệ thống quy định của pháp luật
hình sự Việt Nam về tội vi phạm quy định về ATTP; phân tích thực tiễn áp dụng
pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm quy định về ATTP tại TpHCM. Từ đó,
luận văn đề xuất các giải pháp áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm
quy định về ATTP trên địa bàn TpHCM trong thời gian tới.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Luận văn làm rõ các nội dung:

+ Hệ thống những vấn đề lý luận về tội vi phạm quy định về ATTP; Nghiên

cứu, làm rõ quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm quy định về
ATTP.
+ Phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự của Việt Nam về tội vi phạm

quy định về ATTP trên địa bàn TpHCM giai đoạn 2018-2020.
+ Đề xuất một số giải pháp áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi

phạm quy định về ATTP trên địa bàn TpHCM.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Tội vi phạm quy định về ATTP theo Điều 317 của

BLHS năm 2015 và các văn bản pháp luật khác dưới góc độ pháp luật hình sự.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: nghiên cứu trên địa bàn TpHCM.
+ Về thời gian: Luận văn nghiên cứu trong thời gian từ năm 2018 đến năm

2020 và đề xuất các giải pháp cho giai đoạn tới năm 2025.
+ Về chủ thể: Tòa án nhân dân TpHCM.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Cơ sở lý luận:

7


Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác – Lênin, các học thuyết, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan
điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Luận văn đồng thời sử dụng lý thuyết về luật

hình sự và tố tụng hình sự, các lý thuyết về khái niệm, dấu hiệu pháp lý của tội vi
phạm quy định về ATTP theo quy định của BLHS năm 2015.
Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thống kê: sử dụng phương pháp thống kê nhằm làm rõ tình

hình vi phạm ATTP xảy ra trên địa bàn TpHCM cũng như số vụ, số bị cáo đã bị xét
xử về tội phạm này.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: Dựa trên những dữ liệu thống kê, tác

giả tiến hành tổng hợp và phân tích cụ thể để chứng minh cho các luận điểm nêu ra
trong luận văn.
- Phương pháp so sánh: Cùng với phương pháp phân tích và tổng hợp, luận

văn sử dụng phương pháp so sánh để phân tích các thơng số, số liệu về tình hình tội
vi phạm quy định về ATTP trên địa bàn TpHCM từ năm 2018 đến 2020.
- Phương pháp nghiên cứu điển hình: tác giả đưa ra một số vụ án về vi phạm

quy định về ATTP được TAND TpHCM xét xử để làm rõ các nhận định, đánh giá
của mình.
- Phương pháp chuyên gia: được sử dụng trong quá trình điều tra xã hội học

nhằm thu thập số liệu thực tiễn từ các cơ quan chức năng tại thành phố Hồ Chí Minh.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Ý nghĩa lý luận: Luận văn nghiên cứu, hệ thống hóa, làm rõ các nội dung

liên quan đến tội vi phạm quy định về ATTP.
Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn cung cấp hệ thống các quy định của pháp luật


hình sự Việt Nam về tội vi phạm quy định về ATTP và phân tích thực tiễn áp dụng
pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm quy định về ATTP trên địa bàn TpHCM
trong thời gian 3 năm, từ năm 2018 đến năm 2020, đề xuất được một số giải pháp
góp phần quan trọng. Kết quả nghiên cứu của luận văn đồng thời là tài liệu tham

8


khảo có giá trị về tội vi phạm quy định về ATTP có thể được sử dụng trong giảng
dạy và nghiên cứu khoa học.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
kết cấu gồm 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm
quy định về an toàn thực phẩm
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm quy
định về an toàn thực phẩm tại thành phố Hồ Chí Minh
Chương 3: Các giải pháp áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm
quy định về an toàn thực phẩm

9


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ
TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ AN TOÀN THỰC PHẨM
1.1. Những vấn đề lý luận về tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm
1.1.1. Khái niệm và dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm quy định về an toàn thực
phẩm

1.1.1.1. Khái niệm
Theo Pháp lệnh VSATTP năm 2003: “Vệ sinh an toàn thực phẩm là các điều
kiện và biện pháp cần thiết để bảo đảm thực phẩm khơng gây hại cho sức khỏe, tính
mạng của con người.” [41, tr.1]
Theo Luật ATTP năm 2010: “An toàn thực phẩm là việc bảo đảm để thực
phẩm không gây hại đến sức khỏe, tính mạng con người.” [20, tr.1]
Theo BLHS năm 2015: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được
quy định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân
thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế,
nền văn hóa, quốc phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp
của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân,
xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy
định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.” [23]
Điều 317, BLHS năm 2015 quy định các hành vi sau đây là vi phạm các quy
định về ATTP: [23]
- Sử dụng chất cấm trong sản xuất, sơ chế, chế biến, bảo quản thực phẩm

hoặc bán, cung cấp thực phẩm mà biết rõ là thực phẩm có sử dụng chất cấm.
- Sử dụng hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật cấm sử

dụng trong trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, làm muối, sơ chế, chế biến,
bảo quản nông, lâm, thủy sản và muối tạo ra dư lượng vượt ngưỡng cho phép trong
sản phẩm.

10


- Sử dụng các loại hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật,


chất xử lý cải tạo mơi trường ngồi danh mục được phép sử dụng hoặc không rõ
nguồn gốc xuất xứ hoặc không đúng quy định trong sản xuất, sơ chế, chế biến, bảo
quản thực phẩm trong trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, làm muối tạo ra dư
lượng vượt ngưỡng cho phép trong sản phẩm.
- Chế biến, cung cấp hoặc bán thực phẩm mà biết rõ là thực phẩm không bảo

đảm quy chuẩn kỹ thuật, quy định về an toàn thực phẩm; sử dụng hóa chất, phụ gia,
chất hỗ trợ chế biến ngồi danh mục được phép sử dụng hoặc không rõ nguồn gốc
xuất xứ trong sản xuất, sơ chế, chế biến, bảo quản thực phẩm.
Căn cứ vào các khái niệm ATTP, VSATTP, tội phạm và các hành vi vi phạm
quy định về ATTP như trên, có thể đưa ra khái niệm tội vi phạm quy định về ATTP
như sau: Tội vi phạm quy định về ATTP là hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy
định tại Điều 317 BLHS năm 2015, sửa đổ bổ sung năm 2017, do người có năng
lực trách nhiệm hình sự, cố ý hoặc vơ ý sử dụng các chất cấm, hóa chất, kháng
sinh, thuốc… trong sản xuất, sơ chế, chế biến, bảo quản, bán, cung cấp thực phẩm;
vi phạm các quy định về ATTP gây tổn hại cho sức khỏe hoặc tính mạng của người
tiêu dùng. Tội vi phạm quy định về ATTP hiện nay được quy định và phải bị xử lý
hình sự theo BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
1.1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý
Từ khái niệm tội vi phạm quy định về ATTP, dựa vào quy định của Điều 317
BLHS, tội vi phạm quy định về ATTP được thể hiện qua các dấu hiệu pháp lý như
sau:
*Các dấu hiệu thuộc về khách thể
Tội phạm xâm phạm đến những qui định, chế độ quản lý của Nhà nước về
ATTP, đồng thời xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của người khác (người tiêu
dùng). Nhà nước ban hành các quy định về ATTP nhằm bảo vệ sức khỏe, tính mạng
của người dân vì thực phẩm là nhu cầu thiết yếu của người dân, liên quan trực tiếp
đến sức khỏe cộng đồng, tính mạng, sức khỏe của người tiêu dùng.
*Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan


11


Tội vi phạm quy định về ATTP được biểu hiện ở hành vi vi phạm một trong
các quy định về ATTP trong hoạt động sản xuất, bảo quản, sơ chế, chế biến, cung
cấp thực phẩm, cụ thể như sau:
Một là, sử dụng chất, hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực
vật, phụ gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm mà biết là cấm sử dụng
hoặc ngoài danh mục được phép sử dụng trong sản xuất thực phẩm.
Hai là, sử dụng động vật chết do bệnh, dịch bệnh hoặc động vật bị tiêu hủy theo
quy định của pháp luật để chế biến thực phẩm hoặc cung cấp, bán thực phẩm mà biết là
có nguồn gốc từ động vật chết do bệnh, dịch bệnh hoặc động vật bị tiêu hủy.

Hai hành vi trên bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi thuộc một trong hai
trường hợp: thứ nhất, thực phẩm được làm ra có giá trị từ 10 triệu đồng trở lên; thứ
hai, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều
317 BLHS hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà cịn vi phạm.
Ba là, sử dụng chất, hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật,
phụ gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm mà biết là chưa được phép
sử dụng hoặc chưa được phép lưu hành tại Việt Nam trong sản xuất thực phẩm.
Hành vi này bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi thuộc vào một trong hai
trường hợp: thứ nhất là thực phẩm làm ra có giá trị từ 100 triệu đồng trở lên; thứ hai
là thực phẩm làm ra có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 100 triệu đồng nhưng đã bị
xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều 317 BLHS
hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà cịn vi phạm.
Bốn là, nhập khẩu, cung cấp hoặc bán thực phẩm mà biết là có sử
dụng chất, hóa chất, phụ gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực
phẩm cấm sử dụng hoặc ngoài danh mục được phép sử dụng.
Hành vi này bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi thuộc một trong các trường
hợp: thứ nhất là thực phẩm có trị giá từ 100 triệu đồng trở lên; thứ hai là thu lợi

bất chính từ 5 triệu đồng trở lên; thứ ba là đã bị xử phạt vi phạm hành chính về
một trong các hành vi quy định tại Điều 317 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung
năm 2017 hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

12


Năm là, nhập khẩu, cung cấp hoặc bán thực phẩm mà biết là có sử
dụng chất, hóa chất, phụ gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực
phẩm chưa được sử dụng hoặc chưa được lưu hành tại Việt Nam.
Hành vi này bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi thuộc một trong các trường
hợp: thứ nhất là thực phẩm có trị giá từ 100 triệu đồng trở lên; thứ hai là thu lợi bất
chính từ 50 triệu đồng trở lên; thứ ba là thực phẩm trị giá từ 50 triệu đồng đến dưới
100 triệu đồng hoặc thu lợi bất chính từ 20 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng nhưng
đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều 317
BLHS hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà cịn vi phạm.

Sáu là, thực hiện một trong các hành vi nêu trên hoặc chế biến, cung cấp,
bán thực phẩm mà biết là thực phẩm không bảo đảm quy chuẩn kỹ thuật, quy định
về ATTP gây ngộ độc ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của con người.

Hành vi này bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi thuộc một trong các
trường hợp: thứ nhất là gây ngộ độc từ 05 người trở lên; thứ hai là gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 30% trở lên.

*Các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan
Tội phạm được thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý hoặc vơ ý, người phạm tội
nhận thức được thực phẩm không đảm bảo an toàn nhưng do cẩu thả hoặc tin rằng
hậu quả tác hại khơng xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được nên vấn đề chế biến cung
cấp cho người tiêu dùng, gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe của người khác.

*Các dấu hiệu thuộc về chủ thể
Tội phạm được thực hiện bởi những người có đủ năng lực trách nhiệm hình
sự và đạt độ tuổi theo luật định và hoạt động trong lĩnh vực chế biến, cung cấp hoặc
bán thực phẩm. Chủ thể của tội phạm là bất kỳ người nào có đủ năng lực trách
nhiệm hình sự và đạt 16 tuổi trở lên và được thực hiện dưới hình thức lỗi cố
ý hoặc vơ ý.

13


1.1.2. Phân biệt tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm với một số tội khác
Bảng 1.1: Phân biệt tội vi phạm quy định về ATTP với tội giết người và tội vô ý làm chết người theo quy định của
BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017
Tiêu chí
so sánh
Chủ thể

Tội giết người
Điều 123
Theo quy định tại Điều 12 của BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 thì ngườ
năng lực trách nhiệm hình sự về tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiê
chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.

Mặt
khách
quan

Người phạm tội giết người nhận
thức rõ hành vi của mình là nguy
hiểm cho xã hội, thấy trước hậu

quả chết người có thể xảy ra và
mong muốn hậu quả đó xảy ra
hoặc để mặc hậu quả chết người
xảy ra.

Khách
thể

Hành vi của người phạm tội đã
xâm phạm đến tính mạng, sức
khỏe của con người.

Mặt chủ

14
Người phạm tội giết người luôn


quan

thực hiện tội phạm này với lỗi cố
ý (cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián
tiếp).

Hậu quả

Tội giết người yêu cầu phải có
hậu quả chết người xảy ra thì
mới cấu thành tội. Thực tiễn rất
khó xác định yếu tố chủ quan

của người phạm tội. Thông
thường sẽ xác định hậu quả đến
đâu thì người phạm tội phải chịu
trách nhiệm đến đó.

15


Khung
hình phạt

Có 4 khung hình phạt như sau:
- Người nào giết người thuộc
một trong các trường hợp: giết 2
người trở lên; giết người dưới 16
tuổi… (khoản 1 Điều 123) thì bị
phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù
chung thân hoặc tử hình;
- Phạm tội khơng thuộc các
trường hợp nêu trên, thì bị phạt
tù từ 07 năm đến 15 năm;
- Người chuẩn bị phạm tội này,
thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05
năm;
- Người phạm tội cịn có thể bị

cấm hành nghề hoặc làm công
việc nhất định từ 01 năm đến 05
năm, phạt quản chế hoặc cấm cư
trú từ 01 năm đến 05 năm.


16


1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm quy định về an
toàn thực phẩm
1.2.1. Quy định pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm quy định về an toàn
thực phẩm trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm
2017
Năm 1982, tại Pháp lệnh Trừng trị tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh
doanh trái phép được Hội đồng Nhà nước ban hành ngày 30/6/1982 mới có quy
định về tội liên quan đến tội vi phạm quy định về ATTP. Khoản 2 và 3 Điều 5 của
Pháp lệnh quy định phạm tội làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả là lương thực,
thực phẩm, hàng giả có chất độc hại hoặc các chất khác có thể gây nguy hiểm đến
sức khỏe, tính mạng của người tiêu dùng thì bị phạt tù đến chung thân. Quy định
này cho thấy sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các nhà lập pháp trong việc bảo vệ
sức khỏe, tính mạng của người tiêu dùng. Tuy nhiên Pháp lệnh mới chỉ quy định 2
hành vi phạm tội là làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả (chưa đầy đủ các hành vi
phạm tội của tội vi phạm quy định về ATTP), cũng như chưa quy định dấu hiệu gây
nguy hiểm sức khỏe, tính mạng là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm.
Ngày 27/6/1985, Quốc hội ban hành Luật số 17-LCT/HĐNN7 Bộ luật hình sự
của nước Cộng hịa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (BLHS năm 1985), lần đầu tiên pháp
điển hóa hành vi vi phạm quy định về VSTP nếu hành vi phạm tội đã gây hậu quả
nghiêm trọng, rất nghiêm trọng. Điều 197, mục A – Các tội xâm phạm an tồn cơng
cộng, chương VIII – các tội xâm phạm an tồn, trật tự cơng cộng và trật tự quản lý
hành chính. Theo quy định tại các điều trên thì mọi hành vi nguy hiểm cho xã hội được
coi là tội vi phạm các quy định về VSTP gây ra hậu quả nghiêm trọng đều trực tiếp xâm
hại đến tính mạng và sức khỏe của người tiêu dùng, và trong một phạm
vi nhất định thì nó có ảnh hưởng đến sự tin tưởng của người tiêu dùng đối với


ngành công nghiệp thực phẩm.
Ngày 21/12/1999, Quốc hội ban hành BLHS số 15/1999/QH10 (BLHS năm
1999). BLHS năm 1999 đã quy định trực tiếp về tội vi phạm quy định về VSATTP
tại Điều 244 - Tội vi phạm quy định về VSATTP. Theo đó, tội vi phạm quy định về

17


VSATTP tại BLHS năm 1999 đã quy định cụ thể và hoàn thiện hơn so với tội vi
phạm quy định về VSTP trong BLHS năm 1985 như: sửa đổi tên tội danh từ tội vi
phạm các quy định về VSTP gây hậu quả nghiêm trọng thành tội vi phạm quy định
về VSATTP; thay đổi khung hình phạt áp dụng đối với loại tội phạm, tăng thêm một
khung hình phạt quy định việc xác định hậu quả rất nghiêm trọng. Nếu như BLHS
năm 1985 quy định hình phạt bổ sung tại một điều luật riêng thì BLHS năm 1999 đã
quy định hình phạt bổ sung ngay trong nội dung điều luật, đồng thời quy định thêm
hình phạt tiền với mức phạt từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. Tuy nhiên,
BLHS năm 1999 vẫn chưa khắc phục được hạn chế của BLHS năm 1985 đó là: thứ
nhất, quy định dấu hiệu gây thiệt hại nghiêm trọng là dấu hiệu bắt buộc trong cấu
thành tội phạm cơ bản của tội vi phạm quy định về VSATTP; thứ hai, quy định chưa
đầy đủ các hành vi phạm tội so với tình hình tội phạm trên thực tế.
1.2.2. Quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 về tội
vi phạm quy định về an toàn thực phẩm
Ngày 27/11/2015, Quốc hội thông qua Luật số 100/2015/QH13 BLHS
(BLHS năm 2015), sửa đổi, bổ sung Điều 244 trong BLHS năm 1999 bằng Điều
317 - Tội vi phạm quy định về VSATTP. Các quy định tại Điều 317 BLHS năm
2015 cho thấy sự quyết tâm của các nhà làm luật trong công tác xử lý và ngăn ngừa
các hành vi vi phạm quy định về VSATTP. Quy định tại Điều 317 BLHS năm 2015
được đánh giá là một bước tiến mới trong quá trình lập pháp, thể hiện được sự quan
tâm của Đảng và Nhà nước trong việc bảo vệ tính mạng, sức khỏe của người tiêu
dùng. So với Điều 244 BLHS năm 1999, Điều 317 BLHS năm 2015 được sửa đổi,

bổ sung cơ bản sau:
Thứ nhất, quy định 06 nhóm hành vi cấu thành tội phạm, trong đó:
- Bổ sung một số hành vi phạm tội mới (sử dụng, nhập khẩu...);
- Mở rộng đối tượng tác động của tội phạm không chỉ đối với thực phẩm mà

cịn chất, hóa chất, thuốc kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, phụ gia
thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm bị cấm sử dụng hoặc ngoài danh

18


mục được phép sử dụng hoặc chưa được phép sử dụng hoặc chưa được phép lưu
hành, động vật chết do bệnh, dịch hoặc động vật bị tiêu hủy theo quy định;
- Cụ thể hóa dấu hiệu cấu thành tội phạm "gây thiệt hại cho tính mạng hoặc

gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe của người tiêu dùng" theo hướng cụ thể số
lượng người bị hại, mức tỷ lệ tổn thương cơ thể của người bị hại;
- Bổ sung dấu hiệu cấu thành tội phạm là định lượng trị giá của chất, hóa

chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, phụ gia thực phẩm hoặc chất hỗ
trợ chế biến thực phẩm bị cấm sử dụng hoặc ngoài danh mục được phép sử dụng
trong sản xuất thực phẩm; định lượng về trị giá thực phẩm được chế biến, cung cấp
hoặc bán từ việc sử dụng động vật chết do bệnh, dịch bệnh hoặc động vật bị tiêu
hủy theo quy định pháp luật; định lượng về trị giá chất, hóa chất, kháng sinh, thuốc
thú y, thuốc bảo vệ thực vật, phụ gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm
chưa được phép sử dụng hoặc chưa được phép lưu hành tại Việt Nam trong sản xuất
thực phẩm; trị giá thực phẩm nhập khẩu, cung cấp hoặc bán có sử dụng chất, hóa
chất, phụ gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm cấm sử dụng hoặc
ngoài danh mục được phép sử dụng... Cụ thể:
+ Sử dụng chất, hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, phụ

gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm mà biết là cấm sử dụng hoặc
ngoài danh mục được phép sử dụng trong sản xuất thực phẩm mà sản phẩm trị giá
từ 10.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành
chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này,
chưa được xóa án tích mà cịn vi phạm;
+ Sử dụng động vật chết do bệnh, dịch bệnh hoặc động vật bị tiêu hủy theo
quy định của pháp luật để chế biến thực phẩm hoặc cung cấp, bán thực phẩm mà
biết là có nguồn gốc từ động vật chết do bệnh, dịch bệnh hoặc động vật bị tiêu hủy
mà sản phẩm trị giá từ 10.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc đã bị xử
phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị
kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà cịn vi phạm;

19


×