VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------
ĐỖ THỊ THU THẢO
TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ AN TOÀN THỰC PHẨM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN THỊ THANH THÙY
Hà Nội, năm 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ
theo quy định.
Tơi xin chịu trách nhiệm về luận văn của mình.
Tác giả
Đỗ Thị Thu Thảo
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT
NAM VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ AN TOÀN THỰC PHẨM .............. 10
1.1. Những vấn đề lý luận về tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm ... 10
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm quy định về
an toàn thực phẩm .......................................................................................... 17
1.3. Tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm trong luật hình sự một
số nước trên thế giới ....................................................................................... 30
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ AN TOÀN THỰC PHẨM TẠI ĐỊA
BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ..................................................................... 36
2.1. Đặc điểm địa bàn và tình hình tội vi phạm quy định về an toàn thực
phẩm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh .................................................... 36
2.2. Thực tiễn định tội danh tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm
trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh .............................................................. 42
2.3. Thực tiễn quyết định hình phạt tội vi phạm quy định về an toàn thực
phẩm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh .................................................... 49
2.4. Đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi
phạm quy định về an toàn thực phẩm trên địa bàn thành phố Hồ Chí
Minh ............................................................................................................... 54
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT
NAM ĐỐI VỚI TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ AN TOÀN THỰC PHẨM ... 58
3.1. Yêu cầu áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm quy
định về an toàn thực phẩm ............................................................................. 58
3.2. Giải pháp áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm qui
định về an toàn thực phẩm ............................................................................. 60
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 76
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 76
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ
TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ AN TOÀN THỰC PHẨM
1.1. Những vấn đề lý luận về tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm
1.1.1. Khái niệm và dấu hiệu pháp lý của tội vi phạm quy định về an toàn thực
phẩm
1.1.1.1. Khái niệm
Theo Pháp lệnh VSATTP năm 2003: “Vệ sinh an toàn thực phẩm là các điều
kiện và biện pháp cần thiết để bảo đảm thực phẩm khơng gây hại cho sức khỏe, tính
mạng của con người.” [41, tr.1]
Theo Luật ATTP năm 2010: “An toàn thực phẩm là việc bảo đảm để thực
phẩm không gây hại đến sức khỏe, tính mạng con người.” [20, tr.1]
Theo BLHS năm 2015: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy
định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân
thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn
hóa, quốc phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ
chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm
những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của
Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.” [23]
Điều 317, BLHS năm 2015 quy định các hành vi sau đây là vi phạm các quy
định về ATTP: [23]
- Sử dụng chất cấm trong sản xuất, sơ chế, chế biến, bảo quản thực phẩm
hoặc bán, cung cấp thực phẩm mà biết rõ là thực phẩm có sử dụng chất cấm.
- Sử dụng hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật cấm sử
dụng trong trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, làm muối, sơ chế, chế biến,
bảo quản nông, lâm, thủy sản và muối tạo ra dư lượng vượt ngưỡng cho phép trong
sản phẩm.
10
- Sử dụng các loại hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật,
chất xử lý cải tạo mơi trường ngồi danh mục được phép sử dụng hoặc không rõ
nguồn gốc xuất xứ hoặc không đúng quy định trong sản xuất, sơ chế, chế biến, bảo
quản thực phẩm trong trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, làm muối tạo ra dư
lượng vượt ngưỡng cho phép trong sản phẩm.
- Chế biến, cung cấp hoặc bán thực phẩm mà biết rõ là thực phẩm không bảo
đảm quy chuẩn kỹ thuật, quy định về an toàn thực phẩm; sử dụng hóa chất, phụ gia,
chất hỗ trợ chế biến ngồi danh mục được phép sử dụng hoặc không rõ nguồn gốc
xuất xứ trong sản xuất, sơ chế, chế biến, bảo quản thực phẩm.
Căn cứ vào các khái niệm ATTP, VSATTP, tội phạm và các hành vi vi phạm
quy định về ATTP như trên, có thể đưa ra khái niệm tội vi phạm quy định về ATTP
như sau: Tội vi phạm quy định về ATTP là hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy
định tại Điều 317 BLHS năm 2015, sửa đổ bổ sung năm 2017, do người có năng lực
trách nhiệm hình sự, cố ý hoặc vơ ý sử dụng các chất cấm, hóa chất, kháng sinh,
thuốc… trong sản xuất, sơ chế, chế biến, bảo quản, bán, cung cấp thực phẩm; vi
phạm các quy định về ATTP gây tổn hại cho sức khỏe hoặc tính mạng của người
tiêu dùng. Tội vi phạm quy định về ATTP hiện nay được quy định và phải bị xử lý
hình sự theo BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
1.1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý
Từ khái niệm tội vi phạm quy định về ATTP, dựa vào quy định của Điều 317
BLHS, tội vi phạm quy định về ATTP được thể hiện qua các dấu hiệu pháp lý như
sau:
*Các dấu hiệu thuộc về khách thể
Tội phạm xâm phạm đến những qui định, chế độ quản lý của Nhà nước về
ATTP, đồng thời xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của người khác (người tiêu
dùng). Nhà nước ban hành các quy định về ATTP nhằm bảo vệ sức khỏe, tính mạng
của người dân vì thực phẩm là nhu cầu thiết yếu của người dân, liên quan trực tiếp
đến sức khỏe cộng đồng, tính mạng, sức khỏe của người tiêu dùng.
*Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan
11
Tội vi phạm quy định về ATTP được biểu hiện ở hành vi vi phạm một trong
các quy định về ATTP trong hoạt động sản xuất, bảo quản, sơ chế, chế biến, cung
cấp thực phẩm, cụ thể như sau:
Một là, sử dụng chất, hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực
vật, phụ gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm mà biết là cấm sử dụng
hoặc ngoài danh mục được phép sử dụng trong sản xuất thực phẩm.
Hai là, sử dụng động vật chết do bệnh, dịch bệnh hoặc động vật bị tiêu hủy theo
quy định của pháp luật để chế biến thực phẩm hoặc cung cấp, bán thực phẩm mà biết là
có nguồn gốc từ động vật chết do bệnh, dịch bệnh hoặc động vật bị tiêu hủy.
Hai hành vi trên bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi thuộc một trong hai
trường hợp: thứ nhất, thực phẩm được làm ra có giá trị từ 10 triệu đồng trở lên; thứ
hai, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều
317 BLHS hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà cịn vi phạm.
Ba là, sử dụng chất, hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật,
phụ gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm mà biết là chưa được phép
sử dụng hoặc chưa được phép lưu hành tại Việt Nam trong sản xuất thực phẩm.
Hành vi này bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi thuộc vào một trong hai
trường hợp: thứ nhất là thực phẩm làm ra có giá trị từ 100 triệu đồng trở lên; thứ hai
là thực phẩm làm ra có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 100 triệu đồng nhưng đã bị
xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều 317 BLHS
hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà cịn vi phạm.
Bốn là, nhập khẩu, cung cấp hoặc bán thực phẩm mà biết là có sử dụng chất,
hóa chất, phụ gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm cấm sử dụng hoặc
ngoài danh mục được phép sử dụng.
Hành vi này bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi thuộc một trong các trường
hợp: thứ nhất là thực phẩm có trị giá từ 100 triệu đồng trở lên; thứ hai là thu lợi bất
chính từ 5 triệu đồng trở lên; thứ ba là đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một
trong các hành vi quy định tại Điều 317 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm
2017 hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
12
Năm là, nhập khẩu, cung cấp hoặc bán thực phẩm mà biết là có sử dụng
chất, hóa chất, phụ gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm chưa được
sử dụng hoặc chưa được lưu hành tại Việt Nam.
Hành vi này bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi thuộc một trong các trường
hợp: thứ nhất là thực phẩm có trị giá từ 100 triệu đồng trở lên; thứ hai là thu lợi bất
chính từ 50 triệu đồng trở lên; thứ ba là thực phẩm trị giá từ 50 triệu đồng đến dưới
100 triệu đồng hoặc thu lợi bất chính từ 20 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng nhưng
đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều 317
BLHS hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà cịn vi phạm.
Sáu là, thực hiện một trong các hành vi nêu trên hoặc chế biến, cung cấp,
bán thực phẩm mà biết là thực phẩm không bảo đảm quy chuẩn kỹ thuật, quy định
về ATTP gây ngộ độc ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của con người.
Hành vi này bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi thuộc một trong các trường
hợp: thứ nhất là gây ngộ độc từ 05 người trở lên; thứ hai là gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 30% trở lên.
*Các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan
Tội phạm được thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý hoặc vơ ý, người phạm tội
nhận thức được thực phẩm không đảm bảo an toàn nhưng do cẩu thả hoặc tin rằng
hậu quả tác hại khơng xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được nên vấn đề chế biến cung
cấp cho người tiêu dùng, gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe của người khác.
*Các dấu hiệu thuộc về chủ thể
Tội phạm được thực hiện bởi những người có đủ năng lực trách nhiệm hình
sự và đạt độ tuổi theo luật định và hoạt động trong lĩnh vực chế biến, cung cấp hoặc
bán thực phẩm. Chủ thể của tội phạm là bất kỳ người nào có đủ năng lực trách
nhiệm hình sự và đạt 16 tuổi trở lên và được thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý hoặc
vơ ý.
13
1.1.2. Phân biệt tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm với một số tội khác
Bảng 1.1: Phân biệt tội vi phạm quy định về ATTP với tội giết người và tội vô ý làm chết người theo quy định của
BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017
Tiêu chí
so sánh
Chủ thể
Tội giết người
Điều 123
Tội vi phạm quy định về ATTP
Điều 317
Tội vô ý làm chết người
Điều 128
Theo quy định tại Điều 12 của BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 thì người từ đủ 14 tuổi trở lên có
năng lực trách nhiệm hình sự về tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng. Từ 16 tuổi trở lên
chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
Mặt
Người phạm tội giết người nhận Người phạm tội vi phạm quy định về Người phạm tội vô ý làm chết người
khách
quan
thức rõ hành vi của mình là nguy ATTP biểu hiện ở hành vi vi phạm tuy thấy chính hành vi của mình có thể
hiểm cho xã hội, thấy trước hậu một trong các quy định về ATTP gây ra hậu quả chết người nhưng cho
quả chết người có thể xảy ra và trong sản xuất, bảo quản, sơ chế, chế rằng hậu quả đó sẽ khơng xảy ra cịn
mong muốn hậu quả đó xảy ra biến, cung cấp thực phẩm.
hoặc để mặc hậu quả chết người
xảy ra.
có thể ngăn ngừa được hoặc người
phạm tội khơng thấy hành vi của mình
có thể gây ra hậu quả chết người mặc
dù phải thấy trước và có thể thấy trước
hậu quả đó.
Khách
Hành vi của người phạm tội đã Hành vi của người phạm tội đã xâm Tội vô ý làm chết người là quan hệ
thể
xâm phạm đến tính mạng, sức phạm vào những quy định của Nhà nhân thân mà nội dung là quyền sống
khỏe của con người.
nước về ATTP, đồng thời xâm phạm của con người. Đối tượng tác động của
đến tính mạng, sức khỏe con người. tội phạm này là con người.
14
Mặt chủ Người phạm tội giết người luôn Người phạm tội vi phạm quy định về Người phạm tội vô ý làm chết người là
quan
thực hiện tội phạm này với lỗi cố ATTP thực hiện tội phạm này dưới hành vi phạm tội của mình dưới hình
ý (cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián hình thức lỗi cố ý (cố ý trực tiếp: thức lỗi do vô ý bao gồm cả vô ý do
tiếp).
nhận thức rõ hành vi trái pháp luật, cẩu thả và vô ý do quá tự tin.
thấy trước được hậu quả của hành vi
và mong muốn cho hậu quả xảy ra)
hoặc vô ý (người phạm tội nhận thức
được thực phẩm khơng đảm bảo an
tồn nhưng do cẩu thả hoặc tin rằng
hâu quả tác hại không xảy ra hoặc có
thể ngăn ngừa được).
Hậu quả
Tội giết người yêu cầu phải có Hậu quả nghiêm trọnglà dấu hiệu bắt Tội vô ý làm chết người yêu cầu phải
hậu quả chết người xảy ra thì buộc trong cấu thành tội phạm, cụ có hậu quả chết người xảy ra thì mới
mới cấu thành tội. Thực tiễn rất
khó xác định yếu tố chủ quan
của người phạm tội. Thông
thường sẽ xác định hậu quả đến
thể đối với hành vi chê biến, cung
cấp hoặc bán thực phẩm theo quy
định ở điểm d, khoản 1, đó là gây
tổn hại cho sức khoẻ của 01 người
cấu thành tội. Thực tiễn rất khó xác
định yếu tố chủ quan của người phạm
tội.
Thông thường sẽ xác định hậu quả đến
đâu thì người phạm tội phải chịu mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đâu thì người phạm tội phải chịu trách
trách nhiệm đến đó.
đến 60% hoặc gây tổn hại cho sức nhiệm đến đó.
khoẻ của 02 người trở lên mà tổng tỷ
lệ tổn thương cơ thể của những
người này từ 31% đến 60% hoặc thu
15
lợi bất chính từ 50.000.000 đồng đến
100.000.000 đồng.
Khung
hình phạt
Có 4 khung hình phạt như sau:
- Người nào giết người thuộc
một trong các trường hợp: giết 2
người trở lên; giết người dưới 16
Có 4 khung hình phạt như sau:
- Người phạm tội có thể bị phạt tiền
từ 50 triệu đồng đến 200 triệu đồng
hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
Có 2 khung hình phạt đối với tội vơ ý
làm chết người được quy định tại Điều
128 BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung
năm 2017 như sau:
tuổi… (khoản 1 Điều 123) thì bị - Người phạm tội có thể bị phạt tiền - Vơ ý làm chết một người thì bị phạt
phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù từ 50 triệu đồng đến 200 triệu đồng cải tạo khơng giam giữ đến 3 năm
chung thân hoặc tử hình;
hoặc phạt tù từ 03 năm đến 07 năm. hoặc phạt tù từ 1 đến 5 năm
- Phạm tội không thuộc các - Người phạm tội có thể bị phạt tù từ - Vô ý làm chết hai người trở lên thì bị
trường hợp nêu trên, thì bị phạt 07 đến 15 năm.
phạt tù từ 3 đến 10 năm.
tù từ 07 năm đến 15 năm;
- Người phạm tội có thể bị phạt tù từ
- Người chuẩn bị phạm tội này, 12 đến 20 năm.
thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05
năm;
- Người phạm tội cịn có thể bị
cấm hành nghề hoặc làm công
việc nhất định từ 01 năm đến 05
năm, phạt quản chế hoặc cấm cư
trú từ 01 năm đến 05 năm.
16
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm quy định về an
toàn thực phẩm
1.2.1. Quy định pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm quy định về an toàn
thực phẩm trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm
2017
Năm 1982, tại Pháp lệnh Trừng trị tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh
doanh trái phép được Hội đồng Nhà nước ban hành ngày 30/6/1982 mới có quy
định về tội liên quan đến tội vi phạm quy định về ATTP. Khoản 2 và 3 Điều 5 của
Pháp lệnh quy định phạm tội làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả là lương thực,
thực phẩm, hàng giả có chất độc hại hoặc các chất khác có thể gây nguy hiểm đến
sức khỏe, tính mạng của người tiêu dùng thì bị phạt tù đến chung thân. Quy định
này cho thấy sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các nhà lập pháp trong việc bảo vệ
sức khỏe, tính mạng của người tiêu dùng. Tuy nhiên Pháp lệnh mới chỉ quy định 2
hành vi phạm tội là làm hàng giả hoặc buôn bán hàng giả (chưa đầy đủ các hành vi
phạm tội của tội vi phạm quy định về ATTP), cũng như chưa quy định dấu hiệu gây
nguy hiểm sức khỏe, tính mạng là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm.
Ngày 27/6/1985, Quốc hội ban hành Luật số 17-LCT/HĐNN7 Bộ luật hình
sự của nước Cộng hịa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (BLHS năm 1985), lần đầu tiên
pháp điển hóa hành vi vi phạm quy định về VSTP nếu hành vi phạm tội đã gây hậu
quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng. Điều 197, mục A – Các tội xâm phạm an tồn
cơng cộng, chương VIII – các tội xâm phạm an tồn, trật tự cơng cộng và trật tự
quản lý hành chính. Theo quy định tại các điều trên thì mọi hành vi nguy hiểm cho xã
hội được coi là tội vi phạm các quy định về VSTP gây ra hậu quả nghiêm trọng đều
trực tiếp xâm hại đến tính mạng và sức khỏe của người tiêu dùng, và trong một phạm
vi nhất định thì nó có ảnh hưởng đến sự tin tưởng của người tiêu dùng đối với ngành
công nghiệp thực phẩm.
Ngày 21/12/1999, Quốc hội ban hành BLHS số 15/1999/QH10 (BLHS năm
1999). BLHS năm 1999 đã quy định trực tiếp về tội vi phạm quy định về VSATTP
tại Điều 244 - Tội vi phạm quy định về VSATTP. Theo đó, tội vi phạm quy định về
17
VSATTP tại BLHS năm 1999 đã quy định cụ thể và hoàn thiện hơn so với tội vi
phạm quy định về VSTP trong BLHS năm 1985 như: sửa đổi tên tội danh từ tội vi
phạm các quy định về VSTP gây hậu quả nghiêm trọng thành tội vi phạm quy định
về VSATTP; thay đổi khung hình phạt áp dụng đối với loại tội phạm, tăng thêm
một khung hình phạt quy định việc xác định hậu quả rất nghiêm trọng. Nếu như
BLHS năm 1985 quy định hình phạt bổ sung tại một điều luật riêng thì BLHS năm
1999 đã quy định hình phạt bổ sung ngay trong nội dung điều luật, đồng thời quy
định thêm hình phạt tiền với mức phạt từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. Tuy
nhiên, BLHS năm 1999 vẫn chưa khắc phục được hạn chế của BLHS năm 1985 đó
là: thứ nhất, quy định dấu hiệu gây thiệt hại nghiêm trọng là dấu hiệu bắt buộc trong
cấu thành tội phạm cơ bản của tội vi phạm quy định về VSATTP; thứ hai, quy định
chưa đầy đủ các hành vi phạm tội so với tình hình tội phạm trên thực tế.
1.2.2. Quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 về tội
vi phạm quy định về an toàn thực phẩm
Ngày 27/11/2015, Quốc hội thông qua Luật số 100/2015/QH13 BLHS
(BLHS năm 2015), sửa đổi, bổ sung Điều 244 trong BLHS năm 1999 bằng Điều
317 - Tội vi phạm quy định về VSATTP. Các quy định tại Điều 317 BLHS năm
2015 cho thấy sự quyết tâm của các nhà làm luật trong công tác xử lý và ngăn ngừa
các hành vi vi phạm quy định về VSATTP. Quy định tại Điều 317 BLHS năm
2015 được đánh giá là một bước tiến mới trong quá trình lập pháp, thể hiện được sự
quan tâm của Đảng và Nhà nước trong việc bảo vệ tính mạng, sức khỏe của người
tiêu dùng. So với Điều 244 BLHS năm 1999, Điều 317 BLHS năm 2015 được sửa
đổi, bổ sung cơ bản sau:
Thứ nhất, quy định 06 nhóm hành vi cấu thành tội phạm, trong đó:
- Bổ sung một số hành vi phạm tội mới (sử dụng, nhập khẩu...);
- Mở rộng đối tượng tác động của tội phạm không chỉ đối với thực phẩm mà
cịn chất, hóa chất, thuốc kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, phụ gia
thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm bị cấm sử dụng hoặc ngoài danh
18
mục được phép sử dụng hoặc chưa được phép sử dụng hoặc chưa được phép lưu
hành, động vật chết do bệnh, dịch hoặc động vật bị tiêu hủy theo quy định;
- Cụ thể hóa dấu hiệu cấu thành tội phạm "gây thiệt hại cho tính mạng hoặc
gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe của người tiêu dùng" theo hướng cụ thể số
lượng người bị hại, mức tỷ lệ tổn thương cơ thể của người bị hại;
- Bổ sung dấu hiệu cấu thành tội phạm là định lượng trị giá của chất, hóa
chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, phụ gia thực phẩm hoặc chất
hỗ trợ chế biến thực phẩm bị cấm sử dụng hoặc ngoài danh mục được phép sử dụng
trong sản xuất thực phẩm; định lượng về trị giá thực phẩm được chế biến, cung cấp
hoặc bán từ việc sử dụng động vật chết do bệnh, dịch bệnh hoặc động vật bị tiêu
hủy theo quy định pháp luật; định lượng về trị giá chất, hóa chất, kháng sinh, thuốc
thú y, thuốc bảo vệ thực vật, phụ gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực
phẩm chưa được phép sử dụng hoặc chưa được phép lưu hành tại Việt Nam trong
sản xuất thực phẩm; trị giá thực phẩm nhập khẩu, cung cấp hoặc bán có sử dụng
chất, hóa chất, phụ gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm cấm sử dụng
hoặc ngoài danh mục được phép sử dụng... Cụ thể:
+ Sử dụng chất, hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, phụ
gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm mà biết là cấm sử dụng hoặc
ngoài danh mục được phép sử dụng trong sản xuất thực phẩm mà sản phẩm trị giá
từ 10.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành
chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này,
chưa được xóa án tích mà cịn vi phạm;
+ Sử dụng động vật chết do bệnh, dịch bệnh hoặc động vật bị tiêu hủy theo
quy định của pháp luật để chế biến thực phẩm hoặc cung cấp, bán thực phẩm mà
biết là có nguồn gốc từ động vật chết do bệnh, dịch bệnh hoặc động vật bị tiêu hủy
mà sản phẩm trị giá từ 10.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc đã bị xử
phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị
kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà cịn vi phạm;
19
+ Sử dụng chất, hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, phụ
gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm mà biết là chưa được phép sử
dụng hoặc chưa được phép lưu hành tại Việt Nam trong sản xuất thực phẩm mà sản
phẩm trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc sản phẩm trị giá
từ 50.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành
chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này,
chưa được xóa án tích mà cịn vi phạm;
+ Nhập khẩu, cung cấp hoặc bán thực phẩm mà biết là có sử dụng chất, hóa
chất, phụ gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm cấm sử dụng hoặc
ngoài danh mục được phép sử dụng trị giá từ 10.000.000 đồng đến dưới
100.000.000 đồng hoặc thu lợi bất chính từ 5.000.000 đồng đến dưới 20.000.000
đồng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại
Điều này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà cịn vi phạm;
+ Nhập khẩu, cung cấp hoặc bán thực phẩm mà biết là có sử dụng chất, hóa
chất, phụ gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm chưa được phép sử
dụng hoặc chưa được phép lưu hành tại Việt Nam trị giá từ 100.000.000 đồng đến
dưới 300.000.000 đồng hoặc thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng đến dưới
100.000.000 đồng; thực phẩm trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 100.000.000
đồng hoặc thu lợi bất chính từ 20.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng
đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này
hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà cịn vi phạm;
+ Thực hiện một trong các hành vi nêu trên hoặc chế biến, cung cấp, bán
thực phẩm mà biết là thực phẩm không bảo đảm quy chuẩn kỹ thuật, quy định về an
toàn thực phẩm gây ngộ độc ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của từ 05 người
đến 20 người hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ
thể từ 31% đến 60%.
Thứ hai, cụ thể hóa tình tiết định tính (gây hậu quả rất nghiêm trọng, hậu
quả đặc biệt nghiêm trọng) bằng các mức thiệt hại cụ thể về tính mạng, sức khỏe ở
từng khoản của điều luật.
20
Thứ ba, về hình phạt: bổ sung hình phạt tiền là hình phạt chính từ 50 triệu
đến 200 triệu tại khoản 1; từ 200 triệu đến 500 triệu tại khoản 2; nâng mức phạt tiền
của hình phạt bổ sung từ 5 triệu đến 50 triệu thành từ 20 triệu đến 100 triệu.
Ngày 20/6/2017, Quốc hội thông qua Luật số 12/2017/QH14 Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 (Luật sửa đổi, bổ sung
năm 2017), sửa đổi, bổ sung Điều 317 một số điểm mới, tiến bộ, hợp lý, khả thi,
khắc phục được những hạn chế, bất cập của quy định trước đó về tội vi phạm pháp
luật về ATTP như sau:
Thứ nhất, tội phạm hóa 5 nhóm hành vi phạm tội mới về an tồn thực phẩm:
– Sử dụng chất, hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, phụ
gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm mà biết rõ là cấm sử dụng hoặc
ngoài danh mục được phép sử dụng trong sản xuất thực phẩm;
– Sử dụng động vật chết do bệnh, dịch bệnh hoặc động vật bị tiêu hủy để chế
biến thực phẩm hoặc cung cấp, bán thực phẩm chế biến từ động vật chết do bệnh,
dịch bệnh hoặc động vật bị tiêu hủy;
– Sử dụng chất, hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, phụ
gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm mà biết rõ là chưa được phép sử
dụng hoặc chưa được phép lưu hành tại Việt Nam trong sản xuất thực phẩm;
– Nhập khẩu, cung cấp hoặc bán thực phẩm mà biết rõ là có sử dụng chất,
hóa chất, phụ gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm cấm sử dụng hoặc
ngoài danh mục được phép sử dụng;
– Nhập khẩu, cung cấp hoặc bán thực phẩm mà biết rõ là có sử dụng chất,
hóa chất, phụ gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế biến thực phẩm chưa được phép
lưu hành, chưa được phép sử dụng tại Việt Nam.
Những sửa đổi, bổ sung này góp phần bảo vệ tốt hơn quyền được sống trong
một môi trường an lành của người dân, đồng thời đáp ứng yêu cầu đấu tranh chống
các hành vi của một số người vì lợi ích cá nhân mà bất chấp đến an nguy về tính
mạng, sức khỏe của người khác đã thực hiện các hành vi sản xuất, kinh doanh thực
phẩm khơng đảm bảo an tồn. Điểm mới này, một mặt thúc đẩy sự phát triển của
21
nền kinh tế cũng như hiệu quả của công tác đấu tranh phịng, chống tội phạm nói
chung và tội vi phạm các quy định về ATTP nói riêng.
Thứ hai, cụ thể các quy định mang tính định tính, chung chung, không rõ
ràng trong BLHS năm 1999 như “chế biến, cung cấp hoặc bán thực phẩm mà biết
rõ là thực phẩm khơng bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh an tồn gây thiệt hại cho tính
mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ của người tiêu dùng; gây hậu
quả rất nghiêm trọng; gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” sang quy định mang tính
định lượng, cụ thể, rõ ràng như: Gây ngộ độc cho từ 05 người đến 20 người hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến
60% hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại
Điều này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà cịn vi phạm; làm
chết người; gây ngộ độc cho từ 21 người đến 100 người; gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên… Việc sửa đổi các quy định
mang tính định tính trong BLHS năm 1999 sang các quy định mang tính định lượng
trong BLHS năm 2015 là bước tiến mới, góp phần khắc phục hạn chế, bất cập của
quy định về tội vi phạm quy định về ATTP trong BLHS năm 1999, bởi lẽ: Nếu
BLHS càng quy định tội vi phạm quy định về ATTP cụ thể bao nhiêu thì bản thân
mọi cá nhân, doanh nghiệp, mọi tổ chức, đơn vị, cơ quan càng có điều kiện để nhận
thức rõ hành vi nào bị coi là tội phạm vi phạm quy định về ATTP. Vì vậy, họ sẽ
tránh không đi vào con đường phạm tội và điều này có tác dụng rất tốt trong đấu
tranh phịng, chống tội phạm. Quy định cụ thể trong BLHS càng rõ thì càng dễ nhận
biết để dừng lại kịp thời, khơng vi phạm pháp luật và không gây hậu quả xấu cho xã
hội; có điều kiện để nhắc nhở, giáo dục, ngăn chặn người thân của mình và những
cá nhân khác trong xã hội; ngăn chặn những thành viên trong doanh nghiệp, tổ
chức, đơn vị, cơ quan mình tránh đi vào con đường phạm tội; đáp ứng tốt yêu cầu
ngày càng cao của việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Thêm vào đó,
quy định về tội vi phạm quy định về ATTP trong BLHS càng cụ thể bao nhiêu thì
càng chống oan, sai tốt bấy nhiêu và nhờ vậy, càng nâng cao hiệu quả đấu tranh
phòng, chống tội phạm. Nhận định này hoàn toàn phù hợp với đánh giá của Ủy ban
22
thường vụ Quốc hội khóa XIII về nguyên nhân dẫn đến tình hình oan, sai trong việc
áp dụng pháp luật về hình sự, đó là: “Một số quy định của BLHS cịn bất cập, thiếu
hướng dẫn các tình tiết định tính như: Hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng; số
lượng lớn, rất lớn, đặc biệt lớn; vấn đề định lượng tài sản trong một số tội
phạm” chính là nguyên nhân của tình hình oan, sai trong hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử ở nước ta trong thời gian qua.
Thứ ba, quy định cụ thể, khoa học, hợp lý các dấu hiệu định tội, vừa giúp
phân biệt rõ tội phạm với vi phạm quy định về ATTP; vừa không xử lý tràn lan
người nông dân nghèo, lạc hậu, ở vùng sâu, vùng xa; vừa không bỏ lọt tội phạm;
vừa trừng trị nghiêm minh mọi hành vi phạm tội. Cụ thể: Điều 317 của BLHS năm
2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã quy định rõ 4 dấu hiệu định tội tương ứng
với 4 trường hợp bị coi là tội phạm, đó là: Người nào sử dụng chất, hóa chất, kháng
sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, phụ gia thực phẩm hoặc chất hỗ trợ chế
biến thực phẩm 1) mà biết rõ là cấm sử dụng hoặc ngoài danh mục được phép sử
dụng trong sản xuất thực phẩm mà sản phẩm có giá trị từ 10.000.000 đồng đến dưới
100.000.000 đồng hoặc 2) gây ngộ độc cho từ 05 người đến 20 người hoặc 3) gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%
hoặc 4) đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại
Điều này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà cịn vi phạm. Việc
định lượng để làm căn cứ xử lý hình sự đối với hành vi vi phạm quy định về ATTP
là cần thiết, khả thi, tránh việc mở rộng phạm vi về đối tượng xử lý hình sự, trong
đó có nhiều hộ nông dân, cá nhân sản xuất nông nghiệp, chế biến và kinh doanh
thực phẩm nhỏ, lẻ. BLHS chỉ nên xử lý các trường hợp vi phạm quy định về ATTP
mà thực phẩm có giá trị lớn, thu lợi bất chính lớn, hậu quả gây ngộ độc cho nhiều
người, gây tổn hại nghiêm trọng cho sức khỏe của người khác… Các trường hợp
khác chưa đến mức xử lý hình sự thì cần tăng cường cơng tác quản lý nhà nước,
nhất là xử lý hành chính nghiêm cũng đủ răn đe, phịng ngừa và hạn chế đáng kể
tình trạng vi phạm về ATTP.
23
Thứ tư, ngồi hình phạt bổ sung được nâng mức hình phạt tiền “Người
phạm tội cịn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm
đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05
năm” cịn quy định hình phạt chính trong một khung và hình phạt trong các khung
có sự gối nhau hoặc nối tiếp nhau, với khoảng cách phù hợp giữa mức tối thiểu và
mức tối đa của từng khung hình phạt. Điểm mới này giúp các cơ quan tiến hành tố
tụng áp dụng hình phạt được dễ dàng, thống nhất, phù hợp với tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và tránh tùy tiện, tiêu cực trong quyết
định hình phạt. Cụ thể là: Khoản 1 quy định người nào thực hiện một trong các
hành vi sau đây vi phạm quy định về an tồn thực phẩm, thì bị phạt tiền từ
50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm; Khoản
2 quy định phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ
200.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 03 năm đến 07 năm;
Khoản 3 quy định phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù
từ 07 năm đến 15 năm; Khoản 4 quy định phạm tội thuộc một trong các trường hợp
sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.
Những điểm mới này đã thể chế hoá được quan điểm, chủ trương mới của
Đảng về cải cách tư pháp. BLHS bảo đảm xử lý nghiêm các hành vi xâm hại các
quyền con người, quyền cơ bản của công dân; đồng thời đề cao hiệu quả phịng
ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội; giúp người dân cảm thấy
an tồn về mơi trường sống, n tâm phát huy tính sáng tạo trong hoạt động sản
xuất kinh doanh cũng như tích cực, chủ động tham gia phịng, chống tội phạm và
các vi phạm pháp luật; ngăn chặn tình trạng mất ATTP đã đến mức báo động như
hiện nay; khắc phục bất cập về mặt kỹ thuật lập pháp liên quan đến các quy định
mang tính định tính; bảo đảm thống nhất giữa các dấu hiệu định tội, định khung.
Cách thiết kế khung hình phạt cũng như khoảng cách khung hình phạt… tạo điều
kiện thuận lợi trong áp dụng các quy định của BLHS trên thực tế; tăng cường hiệu
lực và hiệu quả cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm vi phạm các quy định về
ATTP; tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho sự phát triển kinh tế – xã hội và hội
24
nhập quốc tế của đất nước cũng như cho việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo
đảm các quyền của người dân.
1.2.3. Những hạn chế, thiếu sót của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung
năm 2017 trong quy định về tội vi phạm quy định về an tồn thực phẩm
Có thể thấy quy định về ATTP trong quá trình lập pháp đã tiến thêm một
bước mới, thể hiện được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước trong việc bảo vệ tính
mạng, sức khỏe của người tiêu dùng. Tuy nhiên, mặc dù đã có nhiều lần điều chỉnh
quy định xử lý đối với hành vi vi phạm quy định ATTP nhưng số lượng người chế
biến, cung cấp, bn bán thực phẩm bẩn, khơng an tồn trên thị trường rất nhiều.
Việc đó cho thấy quy định về ATTP vẫn chưa phát huy tối đa hiệu quả trong việc
xử lý, răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội. Khơng có nhiều trường hợp người
bán thực phẩm khơng an tồn bị xử lý hình sự. Sở dĩ như vậy là do BLHS năm
2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 trong quy định về tội vi phạm quy định về ATTP
cịn bộc lộ một số hạn chế, thiếu sót như sau:
Thứ nhất, xét về mặt ý thức chủ quan thì quy định như trong Điều 317 trong
BLHS năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì người phạm tội phải biết rõ
thực phẩm mà họ chế biến, cung cấp hoặc bán là: 1) có sử dụng chất cấm sử dụng
hoặc ngoài danh mục được phép sử dụng (điểm a, khoản 1); 2) có nguồn gốc từ
động vật chết do bệnh, dịch bệnh hoặc động vật bị tiêu hủy (điểm b, khoản1); 3) có
sử dụng chất chưa được phép sử dụng hoặc chưa được phép lưu hành tại Việt Nam
trong sản xuất thực phẩm (điểm c, khoản 1); 4) không bảo đảm quy chuẩn kỹ thuật,
quy định về ATTP và phải gây tổn hại cho sức khỏe của người khác với một tỷ lệ
phần trăm nhất định hoặc thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng trở lên thì mới bị xử
lý hình sự. Theo Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về phụ gia thực phẩm – chất làm
bóng QCVN 4-20:2011/BYT, ban hành theo Thông tư số 01/2011/TT-BYT ngày
13/01/2011 của Bộ Y tế: “chất làm bóng là phụ gia thực phẩm được cho thêm vào
bề mặt phía ngồi của thực phẩm nhằm tạo độ bóng hoặc tạo lớp bảo vệ”. Yêu cầu
chỉ số acid 17 – 24; chỉ số peroxyd không được q 5,0 ; chỉ số xà phịng hóa 87 –
104; chì khơng được q 2 mg/kg (xác định bằng kỹ thuật quang phổ hấp thụ
25
nguyên tử thích hợp cho hàm lượng quy định)… Theo Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia
về phụ gia thực phẩm – chất tạo bọt QCVN 4-23:2011/BYT, ban hành theo Thông
tư số 01/2011/TT-BYT ngày 13/01/2011 của Bộ Y tế: “chất tạo bọt là phụ gia thực
phẩm được cho vào thực phẩm nhằm tạo ra hoặc duy trì sự phân tán đồng nhất của
pha khí trong thực phẩm dạng lỏng hoặc dạng rắn”. Yêu cầu kỹ thuật: pH 3,7 – 5,5
(đối với nồng độ dung dịch 4%); Tamin không được quá 8% theo chế phẩm khơ;
chì khơng được q 2,0 mg/kg. Đây mới chỉ là 2 trong rất nhiều Quy chuẩn kỹ thuật
quốc gia về phụ gia thực phẩm mà Bộ Y tế đã ban hành theo Thông tư số
01/2011/TT-BYT, như vậy, với những người làm công tác nghiên cứu về lĩnh vực
này hoặc người có trình độ chun mơn trực tiếp pha chế nguyên liệu tại cơ sở sản
xuất thì mới có thể biết được những quy định về quy chuẩn kỹ thuật. Với quy định
như vậy thì đối với những người buôn bán nhỏ lẻ, các cửa hàng đại lý, thậm chí các
siêu thị lớn buộc họ phải biết sản phẩm nào có sử dụng chất cấm, khơng đảm bảo
quy chuẩn kỹ thuật về ATTP là một điều rất khó khăn, rất xa rời thực tiễn, vì khơng
ai lại nói rằng thực phẩm của mình bán ra khơng đảm bảo ATTP. Nhưng từ thực tế
cho thấy thì hành vi “biết rõ” đó có thể nhận biết được bằng trực quan thông qua
mắt, mũi để nhận biết về màu sắc, mùi vị của thực phẩm hoặc từ việc thông qua các
phương tiện kỹ thuật chuyên ngành. Do đó, đối với các thực phẩm cần có những
phương tiện kỹ thuật chuyên ngành mới đánh giá được tiêu chuẩn ATTP thì để truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với nhóm người bn bán nhỏ, đại lý phân phối đòi hỏi
phải chứng minh được rằng, ý thức chủ quan của những người này là biết rõ sản
phẩm mà họ đang trưng bày, bán cho người tiêu dùng, phân phối cho tiệm tạp hóa,
các đầu mối là vi phạm quy chuẩn kỹ thuật phụ gia thực phẩm. Nên đây thật sự là
điều khó đối với các cơ quan tiến hành tố tụng. Như vậy, một số lượng lớn hành vi
vi phạm có thể sẽ khơng thể truy cứu trách nhiệm hình sự được, và tác dụng răn đe,
giáo dục, phịng ngừa chung sẽ khơng đạt được mục đích, yêu cầu đặt ra. Hơn nữa,
với quy định mức thu lợi bất chính từ 5.000.000 đồng trở lên mới bị xử lý hình sự là
bỏ lọt một số lượng người phạm tội khi họ là những người sản xuất, sơ chế, cung
cấp các loại thực phẩm có quy mô nhỏ lẻ, len lỏi ở các vùng nông thôn, vùng núi
26
cao, ven biển khi mà mọi giao dịch mua bán với nhau bằng miệng, hầu như khơng
thể hiện trên hóa đơn chứng từ, thì liệu rằng cơ quan điều tra có xác định được số
tiền thu lợi bất chính của họ khơng, trong khi hồn tồn phía người bán khơng có sổ
sách ghi chép việc nhập hàng, xuất hàng, doanh thu...
Thứ hai, xét về hành vi khách quan theo quy định tại Điều 317 trong BLHS
năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017: việc quyết định các hành vi tại Điều 317
BLHS như hiện nay là vơ hình chung đã phi tội phạm hóa các hành vi sản xuất,
ni trồng thực phẩm mà người vi phạm biết rõ là không bảo đảm tiêu chuẩn
ATTP. Đó là các hành vi sử dụng chất tạo nạc, thuốc tăng trọng đã bị cấm trong
chăn nuôi; hành vi sử dụng các loại thuốc tăng trưởng, thuốc bảo vệ thực vật bị cấm
trong trồng trọt, hay những hành vi sản xuất, nuôi trồng là tiền đề, làm cơ sở cho hành vi
chế biến, cung cấp hoặc bán thực phẩm không bảo đảm tiêu chuẩn ATTP. Tính nguy
hiểm cho xã hội của những hành vi này không khác các hành vi được quy định tại Điều
317, tuy nhiên lại không bị xác định là những hành vi phạm tội.
- Người sử dụng hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật bị
cấm sử dụng trong trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, làm muối, sơ chế, chế
biến, bảo quản nông, lâm, thủy sản và muối tạo ra dư lượng vượt ngưỡng cho phép
trong sản phẩm. Theo quy định hiện hành, danh mục hóa chất, kháng sinh cấm nhập
khẩu, sản xuất, kinh doanh và sử dụng trong thức ăn chăn nuôi gia súc, gia cầm tại
Việt Nam - Ban hành kèm theo Thông tư số 28/2014/TT-BNNPTNT ngày
04/9/2014 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, bao gồm:
Carbuterol; Cimaterol; Clenbuterol; Chloramphenicol; Diethylstilbestrol (DES);….
Danh mục thuốc bảo vệ thực vật cấm sử dụng ở Việt Nam – Ban hành kèm theo
Thông tư 34/2015/TT-BNNPTNT ngày 12/10/2015 của Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn (sửa đổi Thông tư 03/2015/TT-BNNPTNT), gồm: thuốc trừ sâu,
thuốc bảo quản lâm sản: 21 hoạt chất; thuốc trừ bệnh: 6 hoạt chất; thuốc trừ chuột: 1
hoạt chất; thuốc trừ cỏ: 1 hoạt chất. Vấn đề đặt ra, làm rõ căn cứ bảo đảm rằng, loại
hóa chất bị cấm, thuốc bảo vệ thực vật… mà người sử dụng biết rõ là bị cấm sử
27
dụng, bởi thực tế hiện nay, những loại thuốc, hóa chất đó người dân mua rất dễ
dàng tại các đại lý thuốc bảo vệ thực vật hoặc được bày bán công khai ở các chợ.
- Người sử dụng các loại hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực
vật, chất xử lý cải tạo mơi trường ngồi danh mục được phép sử dụng hoặc không
rõ nguồn gốc xuất xứ hoặc không đúng quy định trong sản xuất, sơ chế, chế biến,
bảo quản thực phẩm. Cụ thể, những chất này sử dụng trong trồng trọt, chăn nuôi,
nuôi trồng thủy sản, làm muối tạo ra dư lượng vượt ngưỡng cho phép trong sản
phẩm hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi tại điểm này
hoặc điểm a khoản 1 Điều 317 BLHS năm 2015 mà cịn vi phạm. Gần đây, thơng
tin gây xơn xao dư luận, người nông dân sử dụng thần dược siêu tăng trưởng HVP
Ga3 để rau nhanh được thu hoạch. Loại thuốc siêu tăng trưởng HVP Ga3 khơng có
trong danh mục thuốc bảo vệ thực vật được phép sử dụng tại Việt Nam. GA3 là một
loại chất kích thích mọc mầm cho cây. Từ năm 1995, Cục Bảo vệ Môi trường Hoa
Kỳ (nơi cấp phép cho các hóa chất được sử dụng trong nơng nghiệp) đã xếp GA3
nằm ở nhóm chất độc nhóm 3 và nhóm 4, nghĩa là nhóm có độc tính nhẹ. Vấn đề
đặt ra, theo quy định tại Điều 317 BLHS năm 2015 để cấu thành tội phạm này, chỉ
cần người thực hiện hành vi phạm tội thỏa mãn mặt khách quan là đủ, nhà làm luật
không “định lượng” cụ thể trọng lượng chất cấm được sử dụng là bao nhiêu; dư
lượng kháng sinh vượt đến ngưỡng nào… là có thể truy cứu trách nhiệm hình sự về
tội phạm này. Trong khi đó, Nghị định 115/2018/NĐ-CP ngày 04/9/2018 quy định
xử phạt vi phạm hành chính về ATTP; Nghị định 64/2018/NĐ-CP ngày 07/05/2018
quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giống vật ni, thức ăn chăn
ni, thủy sản. Vậy, ranh giới nào để cơ quan thực thi nhiệm vụ áp dụng để xử phạt
vi phạm hành chính mà khơng xử lý bằng pháp luật hình sự? Nếu không quy định
rõ, sẽ bị lạm dụng hoặc tùy tiện trong áp dụng.
Thứ ba, khoản 2, Điều 317 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy
định phải có hậu quả làm chết 1 người hoặc gây tổn hại sức khỏe cho 1 người với tỉ
lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên. Theo đó, mức phạt tiền từ 200 triệu đồng đến 500
triệu đồng hoặc phạt tù từ 3 - 7 năm. Tuy nhiên, việc xác định tỉ lệ thương tổn ngay
28
khi sử dụng loại thực phẩm đó là chưa phù hợp với đặc thù của lĩnh vực ATTP. Để
chứng minh hậu quả này thật sự khó đối với các cơ quan điều tra, bởi phải chứng
minh làm rõ mối quan hệ nhân – quả giữa việc sử dụng thực phẩm do dùng hóa
chất, phụ gia, chất hỗ trợ chế biến ngoài danh mục tuy được phép sử dụng nhưng
lạm dụng q mức hoặc khơng rõ nguồn gốc xuất xứ chính là nguyên nhân dẫn đến
tình trạng sức khỏe của người bị hại bị tổn thương theo tỉ lệ quy định. Bên cạnh đó,
việc xác định hậu quả nghiêm trọng hầu như chỉ dựa vào việc có chết người, trong
khi những chất cấm sử dụng trong chế biến thực phẩm không gây chết người ngay
lập tức mà qua thời gian dài tích tụ trong cơ thể mới gây ra hậu quả.
Thứ tư, ranh giới nhận biết hành vi vi phạm hành chính với trách nhiệm
hình sự đối với người vi phạm quy định về ATTP không rõ ràng. Theo Nghị định
115/2018/NĐ/CP ngày 4/9/2018 quy định xử phạt vi phạm hành chính về ATTP,
mà theo đó, mức phạt tiền tối đa đối với mỗi hành vi vi phạm hành chính về ATTP
là 100.000.000 đồng đối với cá nhân và 200.000.000 đồng đối với tổ chức. Chẳng
hạn, tại Điều 6 của Nghị định này quy định hành vi vi phạm về sử dụng chất, hóa
chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật trong sản xuất, chế biến thực
phẩm, mức phạt tiền thấp nhất 10 triệu đồng và cao nhất 100 triệu đồng, đối với các
hành vi: Hành vi sử dụng chất, hóa chất, kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực
vật được phép sử dụng trong hoạt động sản xuất, chế biến thực phẩm nhưng quá
thời hạn sử dụng hoặc khơng có thời hạn sử dụng; sử dụng chất, hóa chất, kháng
sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật cấm sử dụng hoặc ngoài danh mục được
phép sử dụng,hoặc chưa được phép lưu hành tại Việt Nam. Nhưng nghiên cứu quy
định cấu thành cơ bản của tội phạm quy định tại Điều 317 BLHS năm 2015, sửa
đổi, bổ sung năm 2017 thì chỉ cần người vi phạm thực hiện hành vi theo mô tả tại
các điểm a, b, c, d là có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự, mà khơng phụ thuộc
bất kỳ điều kiện nào. Do vậy, để tránh việc lạm dụng quy định của pháp luật hình sự
trong đấu tranh ngăn chặn loại tội phạm này, sẽ tốt hơn, nếu được các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền nghiên cứu hướng dẫn cụ thể nhằm tạo sự thống nhất về nhận
thức và áp dụng có hiệu quả quy định trên.
29
Thứ năm, cho đến nay vẫn chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ thể thế nào là
gây ngộ độc ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của người tiêu dùng. Chính vì
thiếu những hướng dẫn nên các vi phạm về ATTP có dấu hiệu vi phạm trên phạm vi
rộng như hiện nay, các cơ quan chức năng chỉ có thể xử phạt hành chính, mà khơng
có cơ sở pháp lý để truy cứu trách nhiệm hình sự.
Từ những phân tích trên cho thấy Điều 317 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ
sung năm 2017 còn bộc lộ nhiều bất cập cần tiếp tục được sửa đổi, bổ sung kịp thời
nhằm nâng cao hiệu quả cơng tác đấu tranh, phịng ngừa vi phạm quy định về ATTP
hiện nay và trong thời gian tới.
1.3. Tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm trong luật hình sự một số
nước trên thế giới
1.3.1. Tội vi phạm quy định về an toàn thực phẩm trong BLHS Anh
Bộ luật Hình sự Anh khơng quy định về tội vi phạm quy định về ATTP, thay
vào đó tại Điều 7, chương 13 của BLHS Anh quy định về tội lan truyền chất độc
hoặc lan truyền dịch bệnh như sau:
“Người nào gây nguy hiểm đối với tính mạng và sức khỏe của người dân
bằng việc đầu độc hoặc gây nhiễm độc thực phẩm, nguồn nước hoặc các đối tượng
khác hoặc bằng việc lan truyền chất độc, truyền hoặc làm lây lan dịch bệnh nguy
hiểm thì bị phạt tù đến 6 tháng về tội lan truyền chất độc hoặc lan truyền dịch bệnh.
Phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 4 năm đến 10 năm
hoặc tù chung thân. Để xác định tính chất nghiêm trọng của tội phạm phải xem xét
hành vi tội phạm đó được thực hiện có cố ý gây nguy hiểm cho tính mạng hoặc sức
khỏe của người khác, hay có biểu hiện gây nguy hiểm cho nhiều người hay không.”
Mặt khách quan của tội phạm chính là hành vi đầu độc hoặc gây nhiễu độc
thực phẩm, nguồn nước, các đối tượng tương tự khác và hành vi lan truyền chất
độc, truyền hoặc làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm gây nguy hiểm đối với tính mạng
và sức khỏe của người dân.
Hình phạt được áp dụng cho các hành vi tội phạm là hình phạt tù, gồm 2
khung: 1) phạt tù đến 6 tháng đối với trường hợp phạm tội có đủ dấu hiệu cấu thành
30
cơ bản của tội phạm ở mặt khách quan; 2) phạt tù từ 4 năm đến 10 năm hoặc tù
chung thân, áp dụng đối với hành vi phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng.
1.3.2. Tội vi phạm quy định về an tồn thực phẩm của Thái Lan
Thái Lan khơng quy định tội vi phạm quy định về ATTP trong Bộ luật Hình
sự. Đạo luật thực phẩm 1979 của Thái Lan quy định các hành vi vi phạm quy định
về ATTP tại một số điều trong chương II, chương III và chương IV, hình phạt áp
dụng đối với các hành vi vi phạm này được quy định tại chương VIII từ Điều 47
đến 75. Các hành vi vi phạm và hình phạt áp dụng cụ thể như sau:
1) Hành vi vi phạm quy định về tỷ lệ của các thành phần được sử dụng trong
sản xuất thực phẩm; vi phạm quy định về nguyên tắc, điều kiện và phương pháp bảo
quản, phương pháp sử dụng chất bảo quản, phụ gia hoặc chất khác trong thực phẩm
được sản xuất để bán ra thị trường hoặc để xuất khẩu thì bị phạt tiền không quá
20.000 bạt [Điều 47]
2) Hành vi vi phạm các quy định về phương pháp sản xuất, công cụ và dụng
cụ sử dụng trong sản xuất và bảo quản thực phẩm thì bị phạt tiền khơng q 10.000
bạt [Điều 49]
3) Hành vi vi phạm quy định về những thực phẩm bị cấm sản xuất, nhập
khẩu hoặc bán ra thị trường thì có thể bị phạt tù từ 6 tháng đến 2 năm hoặc từ 5.000
đến 20.000 bạt [Điều 50]
4) Hành vi sản xuất thực phẩm để bán mà khơng có giấy phép bị phạt tù dưới
3 năm hoặc phạt tiền dưới 30.000 bạt hoặc bị áp dụng cả hai hình phạt này [Điều
53]
5) Hành vi sản xuất thực phẩm không sạch, sản xuất đóng gói, tàng trữ thực
phẩm khơng bảo đảm vệ sinh thì có thể phạt tù dưới 2 năm và bị phạt tiền từ 5.000
đến 20.000 bạt [Điều 58]
6) Hành vi sản xuất, nhập khẩu và phân phối các loại thực phẩm khác với
thực phẩm đã được Bộ Y tế qu định thì bị phạt tù khơng q 5 năm hoặc bị phạt tiền
không quá 50.000 bạt hoặc bị áp dụng cả hai hình phạt này [Điều 61]
31