Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Cơ chế pháp lý bảo vệ quyền lợi của chủ nợ trong việc phá sản (2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.37 MB, 73 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HCM
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
-------

TRẦN THỊ THÚY

CƠ CHẾ PHÁP LÝ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA CHỦ NỢ
TRONG VIỆC PHÁ SẢN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

Chuyên ngành Luật Thương mại

TP HCM - 2010


TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HCM
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

CƠ CHẾ PHÁP LÝ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA CHỦ NỢ
TRONG VIỆC PHÁ SẢN

SVTH: TRẦN THỊ THÚY
KHĨA: 31

MSSV: 3120175


GVHD: TS. HÀ THỊ THANH BÌNH

TP HỒ CHÍ MINH, NĂM 2010


Tôi tên là Trần Thị Thúy. Sinh viên khoa Luật Thƣơng Mại. Lớp TM31B. Tôi
xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do chính tơi thực hiện. Những số
liệu đuợc sử dụng trong luận văn là hoàn toàn trung thực.
TRẦN THỊ THÚY


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT


BLDS

Bộ luật dân sự

DN

Doanh nghiệp

HTX

Hợp tác xã

LPSDN 1993

Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993


LPS 2004

Luật phá sản năm 2004


MỤC LỤC
ỜI MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 1
H I QU T VỀ CHỦ NỢ VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI

CHƢƠNG 1.

ẢO VỆ QU ỀN ỢI CỦ CHỦ NỢ TRONG QU TR NH
GIẢI QU ẾT

U CẦU MỞ THỦ TỤC PH SẢN................................ 6

1.1. Chủ nợ ............................................................................................................ 6
1.1.1. Khái niệm chủ nợ ....................................................................................... 6
1.1.2. Phân loại chủ nợ ........................................................................................ 7
1.2. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền lợi của chủ nợ và các nguyên tắc
nhằm bảo vệ quyền lợi của chủ nợ trong quá trình giải quyết yêu cầu
mở thủ tục phá sản ............................................................................................. 11
1.2.1. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền lợi của chủ nợ trong quá trình
giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản ............................................................. 11
1.2.2. Các nguyên tắc nhằm bảo vệ quyền lợi của chủ nợ trong quá
trình giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản ................................................... 12

CHƢƠNG

C C QU ĐỊNH NHẰM ẢO VỆ QU ỀN ỢI


CỦ CHỦ NỢ TH O UẬT PH SẢN

VÀ THỰC

TI N P ỤNG .............................................................................................. 15
2.1. Quyền của chủ nợ trong giai đoạn nộp đơn và thụ lý đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản...................................................................................... 15
2.1.1. Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản: của chủ nợ,
của ngƣời lao động (chủ nợ đặc biệt) ............................................................... 15
2.1.1.1. Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của chủ nợ .................. 15
2.1.1.2. Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của ngƣời lao động .... 16
2.1.2. Quyền khiếu nại việc trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản,
quyết định không mở thủ tục phá sản.............................................................. 19
2.2. Quyền của chủ nợ trong giai đoạn mở thủ tục phá sản .......................... 21
2.2.1. Quyền đƣợc thông báo quyết định mở thủ tục phá sản ....................... 21
2.2.2. Quyền gửi giấy đòi nợ .............................................................................. 22
2.2.3. Quyền khiếu nại danh sách chủ nợ ........................................................ 26


2.2.4. Quyền có đại diện trong Tổ quản lý, thanh lý tài sản .......................... 26
2.2.5. Quyền yêu cầu Tòa án áp dụng các biện pháp cần thiết nhằm bảo
toàn tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản........ 27
2.3. Quyền của chủ nợ trong giai đoạn phục hồi hoạt động kinh doanh ...... 30
2.3.1. Quyền tham gia Hội nghị chủ nợ và biểu quyết những vấn
đề thuộc thẩm quyền của Hội nghị chủ nợ ...................................................... 30
2.3.2. Quyền xây dựng phƣơng án phục hồi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, hợp tác xã trình Hội nghị chủ nợ xem xét, quyết định......... 34
2.3.3. Quyền giám sát việc thực hiện phƣơng án phục hồi hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã ............................................. 36

2.4. Quyền của chủ nợ trong giai đoạn thanh lý tài sản, thanh toán
các khoản nợ ....................................................................................................... 36
2.4.1. Quyền khiếu nại quyết định mở thủ tục thanh lý ................................. 36
2.4.2. Quyền đƣợc thanh toán các khoản nợ từ tài sản của doanh
nghiệp, hợp tác xã .............................................................................................. 38
2.5. Quyền của chủ nợ trong giai đoạn tuyên bố phá sản .............................. 45

CHƢƠNG

NHỮNG

IẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN

PH P UẬT PH SẢN VỀ VIỆC ẢO VỆ QU ỀN ỢI CỦ
CHỦ NỢ TRONG QU TR NH GIẢI QU ẾT

U CẦU MỞ

THỦ TỤC PH SẢN ...................................................................................... 48
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật phá sản nhằm bảo vệ quyền
lợi của chủ nợ trong quá trình giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản ........ 48
3.2. Những kiến nghị hoàn thiện pháp luật phá sản nhằm bảo vệ quyền
lợi của chủ nợ trong quá trình giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản ........ 49
3.2.1. Về các quyền cụ thể của chủ nợ .............................................................. 49
3.2.2. Về tài sản phá sản .................................................................................... 54
3.2.3. Về chế tài trong phá sản .......................................................................... 58
3.2.4. Một số kiến nghị khác .............................................................................. 59

ẾT UẬN ....................................................................................................... 63



LỜI MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Phá sản các doanh nghiệp, hợp tác xã (DN, HTX) trong cơ chế thị trường là
hiện tượng tất yếu của quá trình cạnh tranh, đồng thời cũng là quá trình đào thải tự
nhiên các doanh nghiệp yếu kém ra khỏi nền kinh tế để hình thành các doanh
nghiệp mới hoạt động có hiệu quả hơn. Khi DN, HTX bị phá sản sẽ kéo theo
những hậu quả nhất định như sự xáo trộn trong nền sản xuất, xung đột lợi ích giữa
con nợ mất khả năng thanh tốn với các chủ nợ của nó, ảnh hưởng đến công ăn,
việc làm của người lao động, đến tình hình trật tự trị an tại một địa phương, vùng
lãnh thổ nhất định nào đó, đến lợi ích chung của Nhà nước và xã hội. Để đảm bảo,
duy trì mối quan hệ hài hịa giữa những lợi ích nêu trên, địi hỏi phải có một cơ chế
pháp lý điều chỉnh thống nhất và chặt chẽ, đảm bảo quyền lợi cho các chủ thể có
liên quan trong việc phá sản DN, HTX. Do đó Luật Phá sản doanh nghiệp năm
1993 (LPSDN 1993) đã ra đời nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ
nợ, doanh nghiệp mắc nợ và những chủ thể có liên quan, xác định trách nhiệm của
doanh nghiệp mắc nợ khi phá sản doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy hoạt động kinh
doanh có hiệu quả và bảo đảm trật tự kỷ cương của xã hội.
Cùng với sự phát triển của đất nước, các quan hệ kinh tế thay đổi nhanh chóng
đã kéo theo sự lạc hậu của các quy định pháp luật. Sau 10 năm thực hiện LPSDN
1993 đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết. Theo báo cáo của Tòa án Nhân dân Tối cao
(TANDTC) kể từ khi LPSDN 1993 có hiệu lực từ tháng 7/1994, đến hết năm 2002,
tồn Ngành Tịa án chỉ thụ lý có 151 đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp,
trong đó chỉ tuyên bố được 46 doanh nghiệp bị phá sản. Như vậy, bình qn hàng
năm Tịa án chỉ thụ lý khoảng 17 đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Tính theo tỷ lệ so với tổng số doanh nghiệp thì các doanh nghiệp bị tuyên bố phá
sản chỉ chiếm khoảng 0,02 –0,05%. So với một số quốc gia khác, ví dụ tại Pháp tỷ
lệ này trong năm 1999 là 2,3% (46.000 doanh nghiệp phá sản so với 2 triệu doanh
nghiệp đang hoạt động) thì số lượng doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản ở Việt Nam
là quá thấp và không phản ánh đúng thực trạng tài chính và hiệu quả hoạt động

kinh doanh của các doanh nghiệp 1.

1

Ths. Vũ Thị Hồng Vân (2005), “Quy định của LPS 2004 về nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản”, Tạp chí
TAND (21), tr.8.

-1-


Luật Phá sản năm 2004 (LPS 2004) ra đời tưởng chừng như đã khắc phục
được những hạn chế của LPSDN 1993. Thế nhưng, sau 5 năm thi hành (1/1/2008),
số lượng các vụ việc phá sản được thụ lý trên cả nước vẫn ở mức rất khiêm tốn:
195 vụ phá sản 2. Theo Công văn số 65/KT ngày 21/5/2008 của TANDTC trong
tổng số 30 địa phương có báo cáo thì có đến 09/30 địa phương không thụ lý vụ
việc phá sản nào. Trong số các địa phương có thụ lý vụ việc phá sản thì số lượng
rất khiêm tốn, tập trung ở một số địa phương như Hà Nội (31 vụ), Hồ Chí Minh
(27 vụ), Đà Nẵng (10 vụ), Thừa Thiên Huế (33 vụ), Đắc Lăk (11 vụ), Lâm Đồng
(6 vụ), …3
Tại thành phố Hồ Chí Minh, từ khi LPS 2004 có hiệu lực đến 31/12/2009, Tịa
kinh tế Tịa án Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh thụ lý khoảng 39 vụ phá sản (có
phụ lục kèm theo).
Bên cạnh đó, ngày 11 tháng 01 năm 2007 Việt Nam chính thức trở thành thành
viên của tổ chức thương mại thế giới WTO, chính thức tham gia vào sân chơi
thương mại mang tính toàn cầu. Sự hội nhập với các nền kinh tế lớn cũng sẽ kéo
theo hệ quả không thể tránh khỏi của quy luật cạnh tranh khắc nghiệt, khi các
doanh nghiệp Việt Nam đa phần là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ơng Jan Noether,
Trưởng đại diện Phịng thương mại và cơng nghiệp Đức tại Việt Nam đã phát biểu:
“Vào WTO đồng nghĩa với những vụ phá sản hàng loạt và thất nghiệp trong giai
đoạn đầu”4. Điều này gây ảnh hưởng rất lớn đến quyền lợi của chủ nợ của DN,

HTX lâm vào tình trạng phá sản. Vì chủ nợ là những người bị thiệt hại trực tiếp,
đôi khi sự phá sản của DN, HTX con nợ kéo theo sự nguy cơ phá sản của doanh
nghiệp chủ nợ.
Do vậy, trong phạm vi nghiên cứu hạn hẹp, tác giả sẽ nghiên cứu về “Cơ chế
pháp lý bảo vệ quyền lợi của chủ nợ trong việc phá sản”. Vì đây cũng là vấn đề
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn để từ đó hoàn thiện pháp luật phù hợp với yêu cầu
phát triển kinh tế trong nước và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.

2

/>PGS-TS Dương Đăng Huệ, THS. Nguyễn Thanh Tịnh (2008), “Thực trạng pháp luật phá sản và hồn thiện
mơi trường pháp luật kinh doanh tại Việt Nam”, Hà Nội.
4
/>3

-2-


2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Như đã phân tích ở trên, phá sản là hiện tượng tất yếu của nền kinh tế thị
trường. Do đó, nó là đối tượng được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Bởi vậy,
ngay từ LPSDN 1993 đến khi LPS 2004 ra đời đã có rất nhiều cơng trình khoa học
nghiên cứu về lĩnh vực này. Có những cơng trình nghiên cứu tồn bộ phạm vi của
pháp luật phá sản, cũng có những cơng trình chỉ nghiên cứu một hoặc một số nội
dung của pháp luật phá sản. Có thể kể ra một số cơng trình nghiên cứu sau: sách
của PGS. Hồng Cơng Thi (1993) “Phá sản và xử lý phá sản ở các nước và Việt
Nam”, Nhà xuất bản (NXB) Viện khoa học tài chính; sách của Nguyễn Tấn Hơn
(1995) “Phá sản Doanh nghiệp- một số vấn đề thực tiễn”, NXB Chính trị Quốc gia;
sách của PGS Dương Đăng Huệ (2005) “Pháp luật phá sản của Việt Nam”, NXB
Tư pháp. Những cơng trình này chưa đi vào phân tích sâu từng vấn đề cụ thể mà

chủ yếu cho ta cái nhìn khái quát nhất về pháp luật phá sản. Có những cơng trình
chỉ nghiên cứu về những điểm tiến bộ và hạn chế của LPS nói chung và đưa ra
những định hướng hồn thiện, cụ thể: đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ của
trường Đại học luật TP. Hồ Chí Minh do tiến sỹ Nguyễn Thái Phúc làm chủ nhiệm
(2004) “Một số định hướng hoàn thiện pháp luật phá sản doanh nghiệp”; bài viết
“LPS 2004- Những tiến bộ và hạn chế” của Tiến sĩ Nguyễn Thái Phúc đăng trên
tạp chí Khoa học pháp lý số 6/2005,… Bên cạnh đó cũng có nhiều tác giả đi vào
tìm hiểu, phân tích từng nội dung của pháp luật phá sản, có thể kể đến: bài viết
“Tài sản phá sản và phân chia tài sản của con nợ bị phá sản” của Thạc sĩ Hà Thị
Thanh Bình đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 5/2003; bài viết “Vai trò
của LPS trong việc bảo vệ quyền lợi của người lao động” của Thạc sĩ Vũ Thị Hồng
Vân đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 12/2004; Luận văn Thạc sĩ của Đinh Ngọc Thu
Hương (2006) “Địa vị pháp lý của Tòa án trong thủ tục phá sản theo luật phá sản
2004”,…
Đối với vấn đề bảo vệ quyền lợi của chủ nợ trong việc phá sản thì chưa được
nhiều sự quan tâm của nhiều tác giả khác. Do đó, chưa có nhiều cơng trình đi sâu
nghiên cứu. Theo tác giả tìm hiểu thì chỉ có hai cơng trình nghiên cứu về vấn đề
này, đó là: Luận văn Thạc sỹ luật học của tác giả Lê Thị Đào (2006) và Khóa luận
tốt nghiệp của tác giả Phan Thị Minh Tâm (2008). Tuy nhiên, hai cơng trình
nghiên cứu trên lại tập trung nhiều vào lý luận chung về phá sản, vốn đã được
nhiều người nghiên cứu. Bên cạnh đó các đề tài này lại đi thẳng vào phân tích các
quyền của chủ nợ trong thủ tục phá sản mà không lưu ý đến một hệ quả rất quan
trọng là: chủ nợ biết mình có quyền nhưng lại khơng thể thực hiện hiệu quả do
khơng biết trong từng giai đoạn mình được pháp luật quy định cho những quyền
-3-


gì. Do đó, trong khóa luận này, tác giả sẽ không tiếp tục nghiên cứu phần lý luận
chung về phá sản nữa mà chỉ trình bày những vấn đề khái quát nhất về chủ nợ và
quyền lợi của chủ nợ, đồng thời sẽ nghiên cứu quyền lợi của chủ nợ qua từng giai

đoạn của thủ tục phá sản, cộng với những quy định khác của pháp luật phá sản
nhằm bảo vệ quyền lợi của chủ nợ trong việc phá sản. Song song đó, tác giả sẽ nêu
ra những điểm bất cập của pháp luật phá sản gây ảnh hưởng tới quyền lợi của chủ
nợ cùng với những kiến nghị nhằm bảo vệ quyền lợi của chủ nợ trong việc phá
sản.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Mục đích nghiên cứu:
Khóa luận tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật hiện
hành liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ và
thực tiễn áp dụng chúng. Từ đó đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật
phá sản nhằm bảo vệ quyền và lơi ích hợp pháp của các chủ nợ trong q
trình giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản DN, HTX.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu một cách hệ thống những quy định của pháp luật phá sản
hiện hành bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ; sự cần thiết
phải bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ trong việc phá sản
- Đưa ra những kiến nghị góp phần hồn thiện pháp luật phá sản theo
hướng bảo đảm tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ trong việc
phá sản, qua đó cũng góp phần làm tăng tính khả thi của pháp luật phá sản
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Khóa luận tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật phá sản nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích của của chủ nợ theo trình tự giải quyết phá sản của Luật
Phá sản 2004, có so sánh với pháp luật phá sản doanh nghiệp 1993 và pháp luật
phá sản các nước trên thế giới. Từ đó đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện
pháp luật phá sản về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ trong việc phá
sản.
5. PHƢƠNG PH P NGHI N CỨU
Tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh nhằm làm
rõ thực trạng bảo vệ quyền lợi của chủ nợ trong việc phá sản theo pháp luật phá
sản hiện hành. Đồng thời, trong khóa luận tác giả cũng sử dụng phương pháp

-4-


thống kê kết hợp với việc phân tích các vụ việc phá sản trong thời gian từ khi có sự
ra đời của LPSDN năm 1993 đến nay nhằm làm rõ tính khả thi cũng như thực
trạng của pháp luật phá sản trong việc bảo vệ quyền lợi của chủ nợ trong quá trình
giải quyết phá sản DN, HTX.
6. Ý NGHĨ
HO HỌC VÀ THỰC TI N CỦ ĐỀ TÀI
Tác giả mong muốn rằng đề tài có thể trở thành tài liệu có giá trị tham khảo
cho những người muốn tìm hiểu và tiếp tục phát triển đề tài này. Đồng thời tác giả
cũng mong muốn những kiến nghị mà tác giả đưa ra sẽ có ý nghĩa trong q trình
xem xét và hoàn thiện pháp luật phá sản.
7. BỐ CỤC CỦA KHĨA LUẬN
Nội dung của khóa luận bao gồm 3 chương:
Chương 1. Khái quát về chủ nợ và sự cần thiết phải bảo vệ quyền lợi của
chủ nợ trong quá trình giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản
Chương 2. Các quy định nhằm bảo vệ quyền lợi của chủ nợ theo Luật Phá
sản 2004 và thực tiễn áp dụng
Chương 3. Những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật phá sản về việc bảo
vệ quyền lợi của chủ nợ trong quá trình giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá
sản

-5-


Chƣơng 1 Khái quát về chủ nợ và sự cần thiết phải bảo vệ quyền lợi của chủ
nợ trong quá trình giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản
1.1. Chủ nợ
1.1.1. Khái niệm chủ nợ

Khi DN bị đặt vào tình trạng phá sản thì quyền lợi của chủ nợ sẽ bị ảnh hưởng
đầu tiên. Vì vậy, việc hiểu đúng khái niệm chủ nợ, sự phân chia các loại chủ nợ
theo pháp luật hiện hành cũng nhưng quyền lợi của từng loại chủ nợ có ý nghĩa hết
sức quan trọng. Nó khơng chỉ giúp các chủ nợ cơ chế để tự bảo vệ chính mình mà
cịn tránh được sự tùy tiện từ phía những chủ thể áp dụng pháp luật.
Một chủ thể khi đã được xác định là chủ nợ của DN, HTX lâm vào tình trạng
phá sản sẽ có những quyền và nghĩa vụ nhất định mà những người khơng phải là
chủ nợ của DN, HTX khơng thể có được như: quyền nộp đơn yêu cầu làm khởi
động quá trình phá sản, tham gia hội nghi chủ nợ, quyền được ưu tiên thanh toán
từ tài sản của DN, HTX con nợ…
Theo từ điển tiếng Việt phổ thông (2002): chủ nợ là “người cho vay nợ hoặc
bán chịu hàng hóa trong quan hệ với con nợ”5.
Như vậy, mối quan hệ giữa chủ nợ với con nợ được xác lập dựa trên cơ sở hợp
đồng vay tài sản. Mối quan hệ này cũng có thể được xác lập dựa trên hợp đồng
mua bán khi mà bên bán giao hàng cho bên mua nhưng bên mua chưa thanh tốn
tiền hàng vì một lý do nào đó. Khi đó, bên bán sẽ trở thành chủ nợ đối với số tiền
hàng chưa được thanh tốn. Do đó, chủ nợ sẽ có quyền u cầu con nợ thực hiện
một số nghĩa vụ tài sản nhất định.
Theo từ điển bách khoa Việt Nam (1995): chủ nợ được hiểu là “người cho vay,
cho người khác vay một món nợ (gọi là con nợ) bằng tiền hay hiện vật. Khi đến kỳ
hạn chủ nợ có quyền (gọi là quyền địi nợ) bắt buộc người đi vay phải hồn trả một
số tiền hay một tài sản nhất định hoặc một dịch vụ nào đó…” 6.
Theo từ điển Luật học (2006): Chủ nợ là “người cho tổ chức, cá nhân khác vay
một món nợ bằng tiền hay hiện vật. Khi đến kì hạn, chủ nợ có quyền địi con nợ
phải hoàn trả khoản tiền vay hoặc hiện vật vay, kèm theo lãi. Chủ nợ là người có
quyền trong quan hệ nghĩa vụ dân sự cụ thể là hợp đồng vay” 7.
Theo khái niệm này thì mối quan hệ giữa chủ nợ với con nợ chỉ được xác lập
dựa trên hợp đồng vay tài sản. Nếu hiểu theo nghĩa này thì khái niệm chủ nợ vẫn
chưa đầy đủ như khái niệm chủ nợ mà từ điển tiếng Việt (2002) đưa ra.


5

Viện ngôn ngữ học (2002), Từ điển tiếng Việt phổ thông, NXB TP. Hồ Chí Minh, tr.161.
Trung tâm biên soạn từ điển bách khoa (1995), Từ điển bách khoa Việt Nam (tập 1), Hà Nội 1995, tr.519.
7
Bộ tư pháp (Viện Khoa học pháp lý), Từ điển Luật học, NXB từ điển bách khoa và NXB tư pháp, tr.146.
6

-6-


Trong LPS của nhiều nước, chủ nợ được hiểu là các đối tượng (thể nhân hay
pháp nhân) có các khoản nợ không được đảm bảo trả đúng hạn, kể cả chủ nợ có
bảo đảm, nhưng chỉ đối với phần nợ vượt quá vật bảo đảm đang nằm trong tay
mình (tay chủ nợ) 8.
Tuy nhiên, LPS 2004 chỉ đưa ra khái niệm về các loại chủ nợ. Điều này ảnh
hưởng rất lớn đến quyền lợi của chủ nợ.
Theo tác giả, khái niệm chủ nợ của LPS cần phải được quy định mang tính chất
khái qt để vừa khơng bỏ sót các các khoản nợ, vừa dễ dàng trong cách tiếp cận.
Theo đó, thay vì xây dựng khái niệm chủ nợ cũng như khái niệm các loại chủ nợ,
LPS nên xây dựng khái niệm thế nào là khoản nợ được bảo đảm, thế nào là khoản
nợ khơng được bảo đảm. Từ đó sẽ có hai loại chủ nợ, đó là chủ nợ có khoản nợ
được bảo đảm và chủ nợ có khoản nợ không được bảo đảm.
Theo ý kiến của tác giả, khoản nợ được bảo đảm là khoản nợ được bảo đảm
bằng tài sản của DN, HTX hoặc của người thứ ba; khoản nợ không được bảo đảm
là khoản nợ không được bảo đảm bằng tài sản của DN, HTX hoặc của người thứ
ba. Thời điểm xác định khoản nợ đó là khoản nợ được bảo đảm hay khoản nợ
không được bảo đảm là tại thời điểm chủ nợ gửi giấy đòi nợ hoặc tại thời điểm
khoản nợ đến hạn.
1.1.2. Phân loại chủ nợ

Trong thủ tục phá sản, các chủ nợ đều bình đẳng với nhau về quyền lợi. Tuy
nhiên khơng phải chủ nợ nào cũng có quyền lợi giống nhau. Việc xác định chủ nợ
nào là chủ nợ có bảo đảm, chủ nợ nào là chủ nợ có bảo đảm một phần có ý nghĩa
vơ cùng quan trọng bởi vì ở mỗi giai đoạn của thủ tục giải quyết phá sản DN,
HTX, các chủ nợ khác nhau sẽ có quyền lợi khác nhau. Ví dụ như chủ nợ có bảo
đảm khơng có quyền nộp đơn u cầu mở thủ tục phá sản DN, HTX nhưng lại
được quyền ưu tiên thanh tốn các khoản nợ bằng tài sản bảo đảm. Cịn nếu là chủ
nợ có bảo đảm một phần tuy ở thứ tự thanh toán sau cùng đối với phần nợ khơng
được bảo đảm nhưng lại có quyền nộp đơn u cầu mở thủ tục phá sản. Do đó,
việc phân chia ra thành các loại chủ nợ có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác
định quyền và nghĩa vụ của họ.
Khác với LPS của các nước trên thế giới, LPS của Việt Nam chia chủ nợ thành
3 loại: chủ nợ có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần, và chủ nợ khơng có bảo
đảm.Cụ thể, tại Điều 6 LPS 2004 quy định:
8

PGS. Hồng Cơng Thi (1993), Phá sản và xử lý phá sản ở các nước và Việt Nam, Viện khoa học tài
chính.

-7-


Chủ nợ có bảo đảm là chủ nợ có khoản nợ được đảm bảo bằng tài sản của DN,
HTX hoặc của người thứ ba.
Theo LPS của nhiều nước thì chủ nợ có bảo đảm được hiểu là chủ nợ giữ vật
cầm cố (tài sản thế chấp) của DN hoặc (của con nợ) hoặc có các khoản nợ được
bảo đảm bằng tài sản của người đi vay (doanh nghiệp).
Tài sản thế chấp có thể là động sản hoặc bất động sản. Khi dùng làm vật thế
chấp, giá trị tài sản thế chấp ở các nước đều được tính theo giá thị trường. Còn tiền
được vay thường là thấp hơn giá trị tài sản thế chấp. LPS của Thụy Điển cho

không cho phép dùng các loại động sản như cố phiếu, trái phiếu,… làm tài sản thế
chấp để vay nợ. Tuy nhiên, một số nước lại cho phép dùng chứng khoán làm vật
thế chấp nhưng giá trị chứng khoán trong trường hợp này bị chiết giảm chỉ còn 80
– 90% trị giá, nếu là chứng khốn dài hạn có bảo lãnh thì cịn 80%, các chứng
khốn dài hạn khác cịn 50 – 70 % giá trị 9.
Về vấn đề này, pháp luật Việt Nam có quy định khác: tại Điều 4 và 5 Nghi định
163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 thì tài sản bảo đảm do các bên thoả thuận và
thuộc sở hữu của bên có nghĩa vụ hoặc thuộc sở hữu của người thứ ba mà người
này cam kết dùng tài sản đó để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ
đối với bên có quyền. Tài sản bảo đảm có thể là tài sản hiện có, tài sản hình thành
trong tương lai và được phép giao dịch. Đồng thời theo Điều 5 của nghị định này
cũng cho phép một tài sản được dùng để đảm bảo thực hiện nhiều nghĩa vụ và giá
trị tài sản được dùng để đảm bảo có thể lớn, bằng hoặc nhỏ hơn tổng giá trị các
nghĩa vụ.
Chủ nợ có bảo đảm một phần là chủ nợ có khoản nợ được bảo đảm bằng tài
sản của DN, HTX hoặc của người thứ ba mà giá trị tài sản bảo đảm ít hơn khoản
nợ đó. Quy định này dẫn đến có hai cách hiểu:
Cách hiểu thứ nhất: thông qua việc xác định giá trị tài sản bảo đảm, nếu
giá trị tài sản bảo đảm lớn hơn hoặc bằng khoản nợ thì chủ nợ đó là chủ nợ có bảo
đảm. Cịn nếu giá trị tài sản bảo đảm nhỏ hơn khoản nợ thì chủ nợ đó được coi là
chủ nợ có bảo đảm một phần.
Cách hiểu thứ hai: việc xác định chủ nợ có bảo đảm hay chủ nợ có bảo
đảm một phần phải căn cứ vào ý chí của hai bên tại thời điểm xác lập quan hệ bảo

9

Nguyền Thanh Bình, Nguyền Chí Hịa (1994), Tìm hiểu các quy định hỏi đáp về LPS doanh nghiệp, NXB
TP.HCM, tr.20.

-8-



đảm đó chứ khơng căn cứ vào tính chính xác trong việc xác định giá trị tài sản bảo
đảm hoặc sự lên xuống của giá cả thị trường của loại tài sản bảo đảm đó10.
Nếu hiểu theo cách thứ nhất thì tư cách chủ nợ có bảo đảm hay khơng có bảo đảm
phụ thuộc vào việc xác định giá trị tài sản bảo đảm tại thời điểm Tổ quản lý, thanh
lý tài sản kiểm kê tài sản của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản mà khơng cần
biết tại thời điểm giao kết hợp đồng các bên thoả thuận bảo đảm một phần hay
toàn bộ. Cách hiểu này dẫn đến mâu thuẫn với BLDS 2005 bởi vì vi phạm sự tự
nguyện của các bên trong việc xác định tài sản được dùng để đảm bảo thực hiên
nghĩa vụ của mình là tài sản đó được dùng để đảm bảo toàn bộ hay chỉ đảm bảo
một phần nghĩa vụ. Mặt khác, nếu hiểu như vậy thì việc xác định giá trị tài sản bảo
đảm sẽ khó khăn do giá cả thị trường luôn biến động lên xuống thất thường sẽ kéo
theo sự thay đổi địa vị pháp lý của chủ nợ từ có bảo đảm sang có bảo đảm một
phần và ngược lại.
Nếu hiểu theo cách thứ hai, trước tiên nó phù hợp với ý chí của các bên tại thời
điểm xác lập quan hệ bảo đảm, kế đến là giúp cho Tổ quản lý, thanh lý tài sản dễ
dàng hơn trong việc quản lý và xác định đâu là chủ nợ có bảo đảm có bảo đảm,
đâu là chủ nợ có bảo đảm một phần và cuối cùng là điều rất quan trọng, cách hiểu
này phù hợp với quy định tại điều 35 LPS 2004: “…nếu giá trị tài sản thế chấp
hoặc cầm cố khơng đủ thanh tốn nợ thì phần nợ cịn lại sẽ được thanh tốn trong
q trình thanh lý tài sản của DN, HTX, nếu giá trị tài sản thế chấp hoặc cầm cố
lớn hơn số nợ thì phần chênh lệch sẽ được nhập vào giá trị tài sản còn lại của DN,
HTX”.
Cách hiểu này là hợp lý hơn cả. Tuy nhiên khi xác định chủ nợ có bảo đảm hoặc
chủ nợ có bảo một phần căn cứ vào ý chí của các bên sẽ ảnh hưởng đến tư cách
nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản vì theo LPS 2004, chủ nợ có bảo đảm khơng
có quyền nộp đơn u cầu mở thủ phá sản.
Khác với pháp luật phá sản Việt nam, pháp luật phá sản của các nước trên thế
giới không phân biệt giữa chủ nợ có bảo đảm một phần và chủ nợ có bảo đảm mà

hầu như chỉ có chủ nợ có bảo đảm và chủ nợ khơng có bảo đảm. Tại hội thảo pháp
luật về phá sản doanh nghiệp, ông De Frémont đã phát biểu: “Định nghĩa về “chủ
nợ có bảo đảm một phần” mà các bạn đưa ra là tương đối khó hiểu đối với tơi.

10

Kỷ yếu toạ đàm về LPSDN (từ 19/11/2000) và phiên làm với tổ biên tập LPS sửa đổi (26, 27/6/2000),
tr.12.

-9-


Thật vậy, định nghĩa đó khơng dựa trên tài sản bảo đảm mà chủ nợ nắm giữ mà lại
dựa trên giá trị của tài sản bảo đảm so với khoản nợ”11.
Chủ nợ khơng có bảo đảm là chủ nợ có khoản nợ không được bảo đảm bằng
tài sản của DN, HTX hoặc của người thứ ba. Điều đó có nghĩa là ngay từ đầu giữa
các bên không hề tồn tại một quan hệ tài sản nào khác ngoài quyền và nghĩa vụ của
các bên đã được xác lập trong quan hệ ban đầu. Theo đó, nếu DN, HTX có “thiện
chí” trả nợ thì chủ nợ khơng có bảo đảm chỉ có thể thu hồi lại được nhiều nhất là
số tiền đã cho DN, HTX vay mượn (cộng với lãi nếu có). Trong trường hợp DN,
HTX cố tình khơng trả nợ thì chủ nợ chủ nợ chỉ cịn cách là thơng qua các thủ tục
tố tụng tại tịa án để có thê thu hồi được nợ. Như vậy rõ ràng, chủ nợ khơng có bảo
đảm chỉ có thể thu hồi vốn một cách “bị động” khi DN, HTX lâm vào tình trạng
phá sản. Tuy nhiên, LPS 2004 đã mở rộng phạm vi chủ nợ khơng có bảo đảm bao
gồm cả người lao động và nhưng người bảo lãnh sau khi đã thực hiện nghĩa vụ trả
nợ thay cho DN, HTX con nợ.
Theo quy định tại khoản 4 Điều 14 và khoản 2 Điều 62 LPS 2004 thì: người lao
động là một chủ nợ đặc biệt khơng có bảo đảm. Bời vì người lao động đã đem sức
lực của mình làm hàng hóa để trao đổi với doanh nghiệp và tiền lương chính là
nguồn sống chính của bản thân họ và gia đình họ. Do đó, khi DN lâm vào tình

trạng phá sản thì họ là một trong những người bị thiệt hại nhiều nhất, khơng có
lương, nguy cơ thất nghiệp đe dọa. Chính vì thế, pháp luật phá sản quy định: Sau
khi nộp đơn, đại diện cho người lao động hoặc đại diện cơng đồn được coi là chủ
nợ.
Để bảo vệ quyền lợi cho người bảo lãnh sau khi đã trả nợ thay cho DN, HTX
lâm vào tình trạng phá sản thì tại khoản 3 Điều 62 LPS 2004 quy định: Người bảo
lãnh sau khi đã trả nợ thay cho DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản có quyền
tham gia Hội nghị chủ nợ. Trong trường hợp này họ trở thành chủ nợ khơng có bảo
đảm. Thiết nghĩ quy định này là hợp lý, bởi khi DN đã lâm vào tình trạng phá sản
thì khả năng thu hồi lại khoản nợ của người bảo lãnh là rất khó khăn. LPS quy
định cho họ một địa vị pháp lý như vậy là nhằm bảo đảm quyền thu hồi nợ của họ.
Theo tác giả, việc phân loại chủ nợ theo LPS là rất cần thiết vì việc phân loại
này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ nợ thực hiện quyền của mình, giúp cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền giải quyết có hiệu quả, nhanh chóng, đảm bảo sự
cơng bằng trong quyền lợi của các chủ nợ.

Nhà pháp luật Viêt Pháp (2002), Hội thảo pháp luật về phá sản doanh nghiệp, Tài liệu tham khảo_lưu
hành nội bộ, Hà Nội 16,17, ngày 18/4/2002.
11

-10-


Tuy nhiên, theo phân tích tại mục 1.1.1, để có cách hiểu đúng nhất, hợp lý nhất về
các loại chủ nợ đồng thời tạo nên tính đồng nhất thì LPS nên phân loại chủ nợ ra
thành chủ nợ có khoản nợ được bảo đảm và chủ nợ có khoản nợ không được bảo
đảm.

1.2. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền lợi của chủ nợ và các nguyên tắc nhằm
bảo vệ quyền lợi của chủ nợ trong quá trình giải quyết yêu cầu mở thủ tục

phá sản
1.2.1. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền lợi của chủ nợ trong quá trình giải
quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản
Trong nền kinh tế thị trường, pháp luật về phá sản có vai trò rất quan trọng, là
một trong những yếu tố đảm bảo cho nền kinh tế được vận hành một cách trôi
chảy. Đối với các DN làm ăn kém hiệu quả, LPS đem lại những cơ hội thuận lợi để
khôi phục hoạt động kinh doanh hoặc rút lui ra khỏi thương trường một cách trật
tự. Đối với các chủ nợ của DN, LPS tạo cơ chế cho phép họ lựa chọn phương án
tốt nhất để có thể bảo tồn nguồn vốn của mình. Đối với cơng nhân trong DN, LPS
cũng góp phần bảo vệ quyền lợi của họ khi DN lâm vào tình trạng phá sản.
Thật vậy, khi một DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản, chủ nợ là những người
đầu tiên có nguy cơ mất trắng những khoản tín dụng mà trước đây họ đã cung cấp
cho con nợ. Mặt khác, phá sản thường mang tính dây chuyền, sự đổ vỡ của doanh
nghiệp này có thể kéo theo sự đổ vỡ của nhiều doanh nghiệp khác. Vì vậy, bảo vệ
lợi ích của chủ nợ cũng gắn liền với việc bảo vệ và duy trì sự ổn định của nền kinh
tế.
Bên cạnh đó, nhiều DN thực hiện nhiều hành vi kinh doanh quá mạo hiểm hoặc
chiếm dụng vốn của chủ nợ để thực hiện những hành vi phục vụ cho lợi ích của
bản thân chủ DN. Như vậy, mục đích đầu tư để thu lợi nhuận của chủ nợ khơng
cịn mà chủ nợ cịn có nguy cơ khơng thu hồi được cả vốn ban đầu. Bởi vì khơng
có ai muốn bỏ vốn ra để đầu tư mà sau đó những khoản thu hồi lại thì lại ít hơn
vốn đã bỏ ra hoặc mất trắng vốn đầu tư.
Nếu cứ để tình trạng này xảy ra thì sẽ dẫn đến việc những nhà đầu tư lớn không
dám bỏ vốn vào các DN, làm cho tình hình kinh tế của cả nước kém phát triển.
Do đó, pháp luật phá sản ngay từ khi ra đời đã đặt lợi ích của chủ nợ là mục
tiêu đầu tiên cần bảo vệ. Khi DN mất khả năng thanh toán nợ đến hạn, pháp luật
phá sản trao cho chủ nợ quyền khởi động thủ tục phá sản như là một biệp pháp đòi
-11-



nợ đặc biệt. Trong quá trình giải quyết, pháp luật phá sản đưa ra các cơ chế cho
phép các chủ nợ có khả năng bảo vệ tối đa lợi ích của mình như: kiểm tra, giám sát
các hoạt động, hành vi của con nợ, tham gia giải quyết những vấn đề liên quan trực
tiếp tới quyền lợi của mình, khiếu nại các quyết định của Tòa án,… Tất cả nhằm
mục đích tối đa hóa khả năng thu hồi nợ của chủ nợ.

1.2.2. Các nguyên tắc nhằm bảo vệ quyền lợi của chủ nợ trong quá trình giải
quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ là vấn đề đã được đề cập trong
LPSDN 1993 đến LPS hiện hành.Tuy nhiên việc bảo vệ này hồn tồn khơng
mang tính ngẫu nhiên, nhất thời nhằm giải quyết các vấn đề xung đột trước mắt mà
nó đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt các quy định của pháp luật phá sản nhằm bảo
vệ một cách có hiệu quả nhất, thiết thực nhất quyền và lợi ích hợp pháp của các
chủ nợ. Kế thừa tư tưởng bảo vệ quyền của chủ nợ trong LPSDN 1993, mặc dù
LPS 2004 chưa cụ thể hóa tư tưởng ấy thành hệ thống những nguyên tắc cụ thể,
nhưng theo tác giả nhận thấy từ các điều luật nằm rải rác trong Luật đều thể hiện
quan điểm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ. Việc quy định như vậy
vừa tránh được sự vận dụng một cách tuy tiện từ phía các cơ quan chấp hành pháp
luật, vừa làm cho các chủ nợ có cơ chế hữu hiệu để tự bảo vệ mình. Các nguyên
tắc này bao gồm:
Một là, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
Điều 12 Hiến pháp 1992 quy định: Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và
không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Đây là nguyên tắc có ý
nghĩa nền tảng của hệ thống pháp luật Việt Nam. Tất cả mọi chủ thể khi tham gia
quan hệ pháp luật đều phải tuân thủ nguyên tắc này.
Việc tuân thủ nguyên tắc này có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nó là cơ sở, nền
tảng cho việc bảo vệ quyền lợi của chủ nợ và các chủ thể có liên quan khác, đảm
bảo cơng bằng, bình đẳng giữa các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật phá sản.
Tóm lại, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa có vai trị rất quan trọng trong hệ
thống pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật phá sản nói riêng. Thực hiện tốt

nguyên tắc này sẽ tạo điều kiện để thực hiện tốt các nguyên tắc khác.
Hai là, nguyên tắc bình đẳng giữa các chủ nợ
Điều 52 Hiến pháp 1992 quy định: “Mọi cơng dân đều có quyền đẳng trước
pháp luật”.

-12-


Tuân thủ theo Hiến pháp, pháp luật phá sản đã cụ thể hóa nguyên tắc này bằng
cách thừa nhận quyền bình đẳng giữa các chủ nợ, đặc biệt là giữa các chủ nợ cùng
loại. Luật pháp nước ta không thừa nhận bất cứ một sự đặc quyền, đặc lợi của bất
kỳ đối tượng nào. Các chủ nợ đều bình đẳng về quyền đòi nợ, quyền khiếu nại các
quyết định của Tịa án, tổ quản lý, thanh lý tài sản có ảnh hưởng tới quyền lợi của
mình.
Bên cạnh sự bình đẳng về quyền thì chủ nợ cịn bình đẳng về nghĩa vụ. Đó là,
nghĩa vụ tuân thủ pháp luật phá sản nói riêng và pháp luật phá sản nói chung.
Tuy nhiên, sự bình đẳng giữa các chủ nợ phải được hiểu là không phải trong mọi
trường hợp đều giống nhau mà tùy theo từng tư cách chủ thể sẽ có những khác biệt
nhất định. Ví dụ như, chỉ có chủ nợ khơng có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần
mới có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với DN, HTX khi nhận thấy
DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản, cịn chủ nợ có bảo đảm thì khơng có quyền
này (sẽ lý giải điều này ở chương sau). Hay quy định về thứ tự thanh toán, LPS ưu
tiên thanh toán cho người lao động trước. Xuất phát từ vị trí của người lao động
trong DN, HTX. Họ chỉ là người lao động làm công ăn lương nên việc ưu tiên
thanh toán cho họ là hợp lý.
Tóm lại, đây là một nguyên tắc quan trọng, mang bản chất của pháp luật phá sản.
Vì vậy nó cần phải được tuân thủ.
Ba là, nguyên tắc hòa giải
Xuất phát từ quyền tự do hoạt động sản xuất, kinh doanh của các chủ thể, pháp
luật phá sản đã đặt ra vấn đề hòa giải trong mối quan hệ giữa chủ nợ và con nợ khi

có sự xung đột về lợi ích. Chỉ khi nào khơng cần thiết phải hịa giải (như biết chắc
nếu tiến hành hịa giải cũng khơng mang lại kết quả và việc tiến hành hòa giải là
mất thời gian và tiền bạc của các bên liên quan…) hoặc hịa giải khơng thành thì
mới cần đến sự can thiệp từ phía các cơ quan Nhà nước. Nguyên tắc này thể hiện
rõ nhất trong Hội nghị chủ nợ. Nếu trong Hội nghị chủ nợ, các bên thỏa thuận
thành công về phương án phục hồi thì DN, HTX con nợ có khả năng tránh được
hậu quả bị tuyên bố phá sản. Đây là điều mà các bên mong muốn, tránh được
những thiệt hại cho chủ nợ, con nợ nói riêng và cho xã hội nói chung. Và đây cũng
chính là sự hịa giải thành cơng. Cịn nếu khơng thơng qua được phương án phục
hồi, các bên khơng hịa gải được thì sự phá sản DN, HTX con nợ chỉ là vấn đề tất
yếu.
Tóm lại, nguyên tắc này cũng hướng tới bảo vệ quyền lợi của chủ nợ. Việc thực
hiện tốt nguyên tắc này sẽ đảm bảo sự khách quan, công bằng trong quá trình giải
quyết yêu cầu tuyên bố phá sản DN, HTX.
-13-


Bốn là, nguyên tắc làm việc tập thể
Đây là một nguyên tắc đặc trưng của pháp luật phá sản. Nét đặc trưng này thể
hiện tính chất đặc biệt của quá trình giải quyết phá sản. Đây là một thủ tục thanh
tốn nợ đặc biệt. Q trình địi nợ trong thủ tục phá sản là q trình địi nợ tập thể.
Để đảm bảo tính cơng bằng giữa các chủ nợ, trong quá trình giải quyết phá sản,
hầu hết các giao dịch liên quan đến thanh toán nợ riêng lẻ đều bị hạn chế. Việc
thanh toán nợ cho các chủ nợ chỉ diễn ra cùng lúc khi có quyết định mở thủ tục
thanh lý tài sản của DN, HTX con nợ.
Nguyên tắc này thể hiện rõ nhất, đầy đủ nhất trong quy định về Hội nghị chủ
nợ. Mục đích của Hội nghị chủ nợ là nhằm đảm bảo tính bình đẳng giữa các chủ
nợ. Nguyên tắc làm việc của Hội nghị chủ nợ là nguyên tắc tập thể. Các vấn đề
đưa ra thảo luận tại Hội nghị chủ nợ phải được biểu quyết thơng qua.
Tính tập thể cũng thể hiện trong quy định về tổ quản lý thanh lý tài sản. Tổ

quản lý, thanh lý tài sản cũng làm việc trên nguyên tắc tấp thể. Thành phần của tổ
gồm: một chấp hành viên của cơ quan thi hành án, một cán bộ của Tòa án, một đại
diện của chủ nợ, đại diện hợp pháp của DN, HTX bị mở thủ tục phá sản, đại diện
cơng đồn, đại diện người lao động (trong trường hợp cần thiết).
Tóm lại, việc tuân thủ triệt để nguyên tắc này vừa đảm bảo quyền lợi của chủ nợ
cũng như các chủ thể có liên quan, vừa đảm bảo cho quá trình giải quyết phá sản
theo đúng quy định của pháp luật.

-14-


Chƣơng 2. Các quy định nhằm bảo vệ quyền lợi của chủ nợ theo Luật Phá sản
2004 và thực tiễn áp dụng
2.1. Quyền của chủ nợ trong giai đoạn nộp đơn và thụ lý đơn yêu cầu mở thủ
tục phá sản
2.1.1. Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản: của chủ nợ, của ngƣời lao
động (chủ nợ đặc biệt)
2.1.1.1. Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của chủ nợ
Việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là khởi động cho quá trình giải quyết
phá sản. Pháp luật phá sản vì thế mà đã quy định rất cụ thể đối tượng có quyền và
nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu này. Thực chất của quá trình giải quyết phá sản là giải
quyết mối quan hệ tài sản giữa chủ nợ và DN, HTX mắc nợ. Do đó, chỉ có những
người có quyền lợi liên quan trực tiếp mới có quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá
sản DN. Hơn nữa, xét về bản chất, cơ chế phá sản trước tiên là bảo vệ quyền lợi
của các chủ nợ. Chính vì vậy, chủ nợ là người đầu tiên có quyền này.
Khoản 1 Điều 7 LPSDN 1993 quy định: “sau thời hạn ba mươi ngày, kể từ
ngày gửi giấy địi nợ đến hạn mà khơng được doanh nghiệp thanh tốn nợ, chủ nợ
khơng có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần có quyền nộp đơn đến Tồ án
nơi đặt trụ sở chính của DN yêu cầu giải quyết việc tuyên bố phá sản DN”.
Nhìn lại hơn 9 năm thực hiện nhiệm vụ giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản

doanh nghiệp theo LPSDN 1993, các Tịa án trên tồn quốc chỉ thụ lý 151 đơn,
trong đó chỉ ra quyết định tuyên bố phá sản 46 doanh nghiệp12. Tuy nhiên, số liệu
này không phản ánh đúng thực trạng của nền kinh tế vì trên thực tế số lượng DN
lâm vào tình trạng phá sản lớn hơn rất nhiều nhưng không thể tuyên bố phá sản các
DN đó. Những số liệu này cũng cho thấy việc thụ lý và giải quyết yêu cầu tuyên bố
phá sản DN ở các Tịa án so với tình hình thực tế còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng
yêu cầu của việc giải quyết phá sản đối với DN ở nước ta.
Có thể lý giải ngun nhân của tình trạng này trước hết là do LPSDN 1993 (đặc
biệt là quy định về nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản DN) cịn nhiều bất cập
khơng phù hợp với thực tế khách quan. Điều 7 LPSDN 1993 quy định kèm theo
đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với DN thì chủ nợ còn phải cung cấp cho Tòa
án các giấy tờ, tài liệu chứng minh DN mắc nợ đã mất khả năng thanh toán nợ đến
hạn. Việc thu thập được những tài liệu chứng minh DN mắc nợ lâm vào tình trạng
mất khả năng thanh tốn là rất khó khăn đối với chủ nợ. Những vấn đề này chỉ có
thể xác định trên sổ sách kế toán của DN mắc nợ, chủ nợ không thể biết được.
12

Ths. Vũ Thị Hồng Vân (2005), “Quy định của LPS 2004 về nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản”, Tạp
chí TAND (21), tr.8.

-15-


Khắc phục những hạn chế của LPSDN 1993, LPS 2004 đã quy định rõ, đầy đủ
và hợp lý hơn về các đối tượng có quyền, nghĩa vụ nộp đơn cũng như thủ tục, trình
tự và hồ sơ yêu cầu mở thủ tục phá sản, cụ thể là: Điều 13 LPS 2004 quy định
“Khi nhận thấy DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản thì các chủ nợ khơng có bảo
đảm hoặc có bảo đảm một phần đều có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
đối với DN, HTX”. Theo đó, khơng bắt chủ nợ phải cung cấp cho Toà án các giấy
tờ, tài liệu để chứng minh rằng, DN mắc nợ đã mất khả năng thanh toán nợ đến

hạn mà chỉ cần chứng minh chủ nợ đã địi nợ nhưng khơng được DN mắc nợ thanh
tốn nợ đến hạn.
Một vấn đề đáng lưu ý là LPSDN 1993 cũng như LPS 2004 quy định không
cho phép chủ nợ có bảo đảm được quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.
Nhiều ý kiến cho rằng, quy định chủ nợ có bảo đảm khơng được nộp đơn u cầu
giải quyết phá sản là khơng hợp lý, bất bình đẳng giữa các chủ nợ. Tuy nhiên, theo
tác giả, việc LPS khơng quy định chủ nơ có bảo đảm được quyền nộp đơn yêu cầu
mở thủ tục phá sản là hợp lý. Bởi những lẽ sau:
Thứ nhất, đối với chủ nợ có bảo đảm thì lợi ích của họ đã được bảo đảm
đầy đủ bằng tài sản thế chấp, cầm cố của DN hay của người thứ ba. Khi DN, HTX
mắc nợ bị tiến hành thủ tục phá sản thì những chủ nợ này được ưu tiên thanh toán
bằng tài sản cầm cố, thế chấp đó (Điều 35 LPS 2004).
Thứ hai, nếu quy định cho chủ nợ có bảo đảm có quyền nộp đơn yêu cầu
mở thủ tục phá sản thì liệu họ có thực hiện quyền này khơng bởi thực tế quyền lợi
của họ đã được bảo đảm bằng tài sản bảo đảm rồi. Quyền lợi của chủ nợ có bảo
đảm chỉ mất an tồn khi giá trị tài sản giảm sút. Nhưng khi đó, họ lại trở thành chủ
nợ có bảo đảm một phần và họ có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản DN,
HTX mắc nợ.
Chính vì vậy, trong mọi trường hợp, lợi ích của chủ nợ có bảo đảm cũng được
bảo vệ. Do đó, việc quy định cho họ có quyền nộp đơn là không cần thiết.
2.1.1.2. Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của ngƣời lao động
Theo Điều 8 LPSDN 1993 quy định: “Trong trường hợp doanh nghiệp
không trả được lương người lao động ba tháng liên tiếp, thì đại diện cơng đồn
hoặc đại diện người lao động nơi chưa có tổ chức cơng đồn có quyền nộp đơn đến
Tồ án nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính u cầu giải quyết việc tuyên bố phá sản
doanh nghiệp. Sau khi nộp đơn, đại diện cơng đồn hoặc đại diện người lao động
nơi chưa có tổ chức cơng đồn được coi là chủ nợ và không phải nộp tiền tạm ứng

-16-



lệ phí”.Tuy nhiên, việc quy định như vậy là khơng phù hợp và gây nhiều khó khăn
trong khi thực hiện.
Khắc phục hạn chế của LPSDN 1993 và để bảo vệ quyền lợi cho người lao
động - một chủ nợ đặc biệt của DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản trong việc
nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản DN, HTX, Khoản 1 Điều 14 LPS 2004 quy
định: “trong trường hợp DN, HTX không trả được lương, các khoản nợ khác cho
người lao động và nhận thấy DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản thì người lao
động cử người đại diện hoặc thơng qua đại diện cơng đồn nộp đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản đối với DN, HTX đó”.
Như vậy, LPS 2004 đã xố bỏ thời hạn nợ lương của DN, HTX đối với người
lao động như một điều kiện để nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Người lao
động có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với DN, HTX khi họ
không được trả lương cũng như các khoản nợ khác và trên cơ sở đó, họ cho rằng,
DN, HTX đã thực sự lâm vào tình trạng phá sản.
Tuy LPS 2004 đã khẳng định người lao động là chủ nợ của DN, HTX mắc nợ
họ (Khoản 2 Điều 62 LPS 2004: “…Trong trường hợp này đại diện cho người lao
động, đại diện cơng đồn có quyền, nghĩa vụ như chủ nợ”) nhưng LPS hiện hành
lại quy định người lao động không được tự nộp đơn mà phải phải cử người đại
diện hoặc thơng qua đại diện cơng đồn để nộp đơn. Thủ tục cử người đại diện cho
người lao động được quy định trong LPS rất phức tạp và khó thực thi. Do vậy,
LPS hiện hành vơ hình chung đã hạn chế và gần như vơ hiệu hóa quyền nộp đơn
của người lao động trong DN.
Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của chủ nợ là rất quan trọng vì nó
khởi động q trình giải quyết phá sản. Vì vậy, pháp luật phá sản phải được hồn
thiện về vấn đề này để bảo vệ tốt hơn quyền của các chủ nợ.
Ngoài việc quy định cho chủ nợ, người lao động (chủ nợ đặc biệt) được quyền
nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, trong giai đoạn này, nhằm bảo vệ quyền lợi
của chủ nợ, LPS 2004 còn quy định nghĩa vụ phải nộp đơn yêu cầu mở thủ tục
giải quyết phá sản của chính DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản:

Cũng như quy định tại Điều 9 LPSDN 1993, Điều 15 LPS 2004 quy định:
khi nhận thấy DN của mình lâm vào tình trạng phá sản thì chủ DN hoặc đại diện
hợp pháp của DN, HTX phải nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Như vậy việc
nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là nghĩa vụ của DN, HTX lâm vào tình trạng
phá sản. Đây cũng là một quy định của LPS 2004 nhằm bảo vệ quyền lợi của chủ
nợ. Vì như đã phân tích ở phần trên, khi DN, HTX có dấu hiệu lâm vào tình trạng
phá sản thì người biết rõ điều đó nhất là DN, HTX đó dựa trên sổ sách kế toán của
-17-


mình. Do đó, quy định việc nộp đơn u cầu tuyên bố phá sản của DN, HTX là
nghĩa vụ của con nợ đã góp phần bảo vệ quyền lợi của chủ nợ, tránh tình trạng
DN, HTX cố tình che dấu tình trạng phá sản của mình để tẩu tán tài sản.
Tuy nhiên, LPS 2004 chỉ quy định trong trường hợp chủ DN hoặc đại diện
hợp pháp của DN, HTX không nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì phải chịu
trách nhiệm theo quy định của pháp luật (khoản 5 Điều 15 LPS 2004) mà không
quy định cụ thể chế tài nên trách nhiệm này không được con nợ nghiêm chỉnh chấp
hành, và vì vậy đã ảnh hưởng đến quyền lợi của chủ nợ cũng như đến tính hiệu lực
của LPS trong thực tiễn.
Một thực tế mà ai cũng nhận thấy rằng, khi DN, HTX lâm vào tình trạng
phá sản thì đa số họ đều khơng tự nguyện nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, bởi
vì: thứ nhất, họ không nhận thức được rằng việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản sẽ giúp DN, HTX giảm bớt khó khăn về tài chính, tạo cơ hội cho họ tổ chức lại
hoạt động kinh doanh để trở lại hoạt động bình thường; thứ hai, đó là tâm lý e ngại
rằng nếu DN của mình bị đưa ra Tòa án để giải quyết theo thủ tục phá sản thì uy
tín trên thương trường của mình sẽ khơng cịn; thứ ba, do bệnh thành tích mà
nhiều người có trách nhiệm đã không làm đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi
nhận thấy DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản. Điều này phổ biến trong các
doanh nghiệp Nhà nước; thứ tư, do sự tác động của cơ quan Nhà nước cũng làm
ảnh hưởng đến việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp. Đối với

DN Nhà nước, việc phá sản hay không phụ thuộc rất nhiều vào ý chí của đại diện
chủ sở hữu, tức là Bộ hoặc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Thực tế cho thấy, DN Nhà
nước không thể nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản DN nếu như chưa có ý kiến
đồng ý của các cơ quan chủ quản này. Mặt khác, theo quy định hiện hành thì một
số DN Nhà nước tuy đã lâm vào tình trạng phá sản nhưng không được đưa ra giải
quyết theo LPS mà lại được sắp xếp, tổ chức lại theo các hình thức bán, khoán
kinh doanh, cho thuê ...; chỉ khi nào khơng chuyển đổi được thì các DN này mới
chuyển sang thủ tục phá sản. Trong q trình đó, tài sản của DN bị điều động qua
lại, gây nhiều khó khăn cho việc xác minh tài sản của DN. Khi tiến hành thủ tục
phá sản, Tòa án, Tổ quản lý và thanh lý tài sản hầu như đã khơng cịn khả năng
thực thi những biện pháp thu hồi tài sản cho DN nên đã gây bức xúc cho các chủ
nợ.
Bên cạnh đó, để bảo vệ quyền lợi của chủ nợ, LPS 2004 cũng quy định về
nhiệm vụ thông báo DN, HTX lâm vào tình trạng phá sản của một số chủ thể
như Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thanh tra, cơ quan quản lý vốn, tổ chức

-18-


kiểm toán hoặc cơ quan quyết định thành lập doanh nghiệp mà không phải là
chủ sở hữu nhà nước của doanh nghiệp:
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở thủ tục phá sản, LPS 2004 đã bổ
sung quy định, theo đó một số cơ quan, tổ chức phải có trách nhiệm thơng báo về
việc DN lâm vào tình trạng phá sản. Cụ thể, Điều 20 LPS 2004 quy định trong quá
trình thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình mà phát hiện DN, HTX lâm vào tình
trạng phá sản thì Tịa án, Viện kiểm sát, Thanh tra Chính phủ, cơ quan quản lý
vốn, tổ chức kiểm tốn… có nghĩa vụ thơng báo bằng văn bản cho những người có
quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản để họ xem xét việc có nộp hay khơng
nộp đơn u cầu mở thủ tục phá sản đối với DN, HTX đó.
Đây là một quy định mang tính dự báo cao, và cũng có ý nghĩa trong việc đảm

bảo quyền lợi của chủ nợ. Bởi vì trong nhiều trường hợp, việc chủ nợ khơng biết
được DN, HTX đang mắc nợ mình lâm vào tình trạng phá sản rất dễ xảy ra.
Tóm lại, từ các quy định trên cho thấy LPS 2004 đã dành nhiều“ ưu tiên” để bảo
vệ quyền lợi của chủ nợ và người lao động. Đó khơng chỉ là các biện pháp để chủ
nợ, người lao động tự bảo vệ mình mà cịn xác định rõ trách nhiệm của DN, HTX
con nợ và những cơ quan hữu quan trong việc bảo vệ quyền lợi của chủ nợ một
cách thiết thực nhất.
2.1.2. Quyền khiếu nại việc trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, quyết định
không mở thủ tục phá sản
Đối với các chủ nợ thì thủ tục phá sản không phải là con đường lựa chọn
hấp dẫn, chỉ được họ sử dụng như một phương thức đòi nợ khi khơng cịn giải
pháp nào khác vì trong phần lớn các trường hợp lợi ích mà các chủ nợ nhận lại
được từ thủ tục này khá “khiêm tốn” so với khoản nợ của DN. Khi đã nhờ tới pháp
luật can thiệp thì chủ nợ mong muốn quyền lợi của mình sẽ được đảm bảo. Tuy
nhiên, vì một lý do nào đó mà đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản bị Tòa án trả lại
hoặc Tòa án ra quyết định khơng mở thủ tục phá sản thì chủ nợ khơng cịn cách
nào nữa để thu hồi nợ. Để bảo vệ quyền của chủ nợ, pháp luật phá sản quy định
cho chủ nợ có quyền khiếu nại việc trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và khiếu
nại quyết định không mở thủ tục phá sản.
Nhằm giải quyết những khúc mắc của chủ nợ khi nộp đơn yêu cầu mà bị trả lại,
LPS 2004 đã quy định người làm đơn yêu cầu có quyền khiếu nại với Chánh án
Tịa án đó. Khi nhận được khiếu nại của người làm đơn, trong thời hạn năm ngày,
kể từ ngày nhận được khiếu nại trên, Chánh án Tòa án phải ra một trong hai quyết
định: hoặc là giữ nguyên quyết định không mở thủ tục phá sản; hoặc là hủy quyết
-19-


×