Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

Cơ sở pháp lý đảm bảo sự bình đẳng trong đầu tư giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (553.13 KB, 57 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HCM
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
----------

NGUYỄN THỊ BÍCH LÀNH

CƠ SỞ PHÁP LÝ BẢO ĐẢM SỰ BÌNH
ĐẲNG TRONG ĐẦU TƯ GIỮA NHÀ ĐẦU
TƯ TRONG NƯỚC VÀ NHÀ ĐẦU TƯ
NƯỚC NGỒI TẠI VIỆT NAM

KHỐ LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Chuyên ngành Luật Thương mại

TP HCM – 2011


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HCM
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
-------------

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

CƠ SỞ PHÁP LÝ BẢO ĐẢM SỰ BÌNH
ĐẲNG TRONG ĐẦU TƯ GIỮA NHÀ ĐẦU
TƯ TRONG NƯỚC VÀ NHÀ ĐẦU TƯ
NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM

SINH VIÊN THỰC HIỆN: NGUYỄN THỊ BÍCH LÀNH
Khố: 32



MSSV: 3220092

GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: ThS. NGUYỄN HỒNG THÙY TRANG

TP HỒ CHÍ MINH, NĂM 2011


LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan Khoá luận này là cơng trình nghiên cứu khoa học của
riêng cá nhân tác giả, dưới sự hướng dẫn khoa học của ThS. Nguyễn Hồng Thùy
Trang. Nội dung Khố luận được tác giả nghiên cứu và soạn thảo một cách độc lập,
không sao chép bất kỳ một Khoá luận, Luận văn hay loại văn bản tương tự nào
khác. Các số liệu và thông tin trong Khố luận là hồn tồn trung thực, mọi sự tham
khảo tài liệu của các tác giả nghiên cứu trước đó đều được tác giả ghi chú và trích
dẫn đầy đủ.
Tác giả xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về các cam đoan nêu trên của mình.

TÁC GIẢ

Nguyễn Thị Bích Lành


DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
Trong Khoá luận này, các từ viết tắt là viết tắt của các cụm từ sau đây:
BLDS

Bộ luật dân sự

BLLĐ


Bộ luật lao động

MFN

Nguyên tắc tối huệ quốc

NT

Nguyên tắc đối xử quốc gia

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

UBND

Ủy ban nhân dân

WTO

Tổ chức thương mại thế giới


MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
CHƯƠNG I. CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ CỔ ĐÔNG THIỂU SỐ..... 5

1.1.

Nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài ...................................... 5

1.1.1. Đầu tư ............................................................................................................. 5
1.1.2. Nhà đầu tư ...................................................................................................... 6
1.1.3. Nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài ............................................ 7
1.2.

Sự cần thiết phải bình đẳng trong đầu tư giữa nhà đầu tư trong nước và
nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ............................................................ 9

1.3.

Mục tiêu của việc tạo ra sự bình đẳng trong đầu tư giữa nhà đầu tư
trong nước và nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam .................................... 11

1.3.1. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài........................................................................ 11
1.3.2. Đảm bảo sự tồn tại và phát triển của nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ....... 12
1.3.3. Đảm bảo tạo ra môi trường đầu tư lành mạnh.................................................. 13
Kết luận Chương I ................................................................................................... 14
CHƯƠNG II. NHỮNG VẤN ĐỀ BẤT CẬP TRONG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP
LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN SỰ BÌNH ĐẲNG TRONG ĐẦU TƯ GIỮA NHÀ
ĐẦU TƯ TRONG NƯỚC VÀ NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ...................................................................................... 16
2.1.

Thủ tục gia nhập thị trường ......................................................................... 16

2.1.1. Quyền và thủ tục thành lập.............................................................................. 16

2.1.2. Lĩnh vực đầu tư ............................................................................................... 21
2.1.3. Hình thức đầu tư ............................................................................................. 23
2.1.3.1. Đầu tư trực tiếp ............................................................................................. 23
2.1.3.2. Đầu tư gián tiếp ............................................................................................ 25


2.2.

Hoạt động sản xuất, kinh doanh................................................................... 28

2.2.1. Tổ chức và quản lý doanh nghiệp .................................................................... 28
2.2.2. Chính sách về hoạt động xuất nhập khẩu......................................................... 29
2.2.3. Chính sách đất đai liên quan đến hoạt động đầu tư .......................................... 30
2.2.4. Chính sách về thuế ........................................................................................... 31
2.2.5. Ưu đãi và hỗ trợ đầu tư .................................................................................... 33
2.2.5.1. Quyền sở hữu trí tuệ và quyền chuyển giao cơng nghệ .................................. 33
2.2.5.2. Chi phí đầu tư ............................................................................................... 35
2.2.5.3. Chính sách ưu đãi và hỗ trợ đầu tư ................................................................ 35
2.3.

Rút lui khỏi thị trường .................................................................................. 36

2.4.

Một số kiến nghị hồn thiện pháp luật bảo đảm sự bình đẳng trong đầu
tư giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam .... 37

2.4.1 Hoàn thiện các quy định về mở cửa thị trường .................................................. 37
2.4.2. Bổ sung một số quyền cho nhà đầu tư nước ngoài............................................ 38
2.4.3. Hoàn thiện thủ tục gia nhập thị trường ............................................................. 40

Kết luận Chương II ................................................................................................. 41
KẾT LUẬN CHUNG............................................................................................... 43


LỜI NÓI ĐẦU



Lý do lựa chọn đề tài

Việt Nam với những cải cách mạnh mẽ trong hơn hai mươi năm trở lại đây đã
mang lại cho nền kinh tế những thành quả đáng phấn khởi, được các nước trong khu
vực cũng như thế giới công nhận và đánh giá cao. Việt Nam đang tạo được một mơi
trường kinh doanh có tính cạnh tranh và năng động hơn bao giờ hết, đặc biệt việc
phát triển nền kinh tế thị trường đã tạo nên tính hiệu quả trong việc huy động các
nguồn lực xã hội phục vụ cho tăng trưởng kinh tế nhất là thu hút được nhiều hơn
nữa các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước, mở rộng thị trường, từng bước hòa
nhập với nền kinh tế thế giới.
Cùng với sự phát triển về mặt kinh tế, Việt Nam cũng từng bước tiến hành
hoàn thiện hành lang pháp lý nhằm đảm bảo sự bình đẳng trong đầu tư mà chúng ta
đã cam kết trong khuôn khổ hợp tác đa phương cũng như hợp tác song phương,
từng bước giảm và bãi bỏ các quy định mang nặng tính phân biệt đối xử giữa các
nhà đầu tư trong và ngoài nước, đồng thời tiếp tục tiến hành rà soát các quy định
pháp luật không phù hợp với nguyên tắc MFN và NT để điều chỉnh, hướng đến mục
tiêu xây dựng cho Việt Nam một môi trường đầu tư hấp dẫn hơn. Để thực hiện được
điều đó, pháp luật về đầu tư cần đảm bảo thực hiện nguyên tắc bình đẳng đối với
mọi chủ thể kinh doanh để phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã kí kết,
gia nhập. Luật Đầu tư 2005 và Luật Doanh nghiệp 2005 là những cơ sở pháp lý điển
hình đảm bảo cho sự bình đẳng giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước
ngoài, giữa các nhà đầu tư nước ngoài đến từ các quốc gia, vùng lãnh thổ khác nhau

và là một trong các công cụ hữu hiệu để nội luật hóa nguyên tắc MFN và NT trong
lĩnh vực đầu tư.
Đứng trước các làn sóng đầu tư quốc tế với quy mô ngày càng lớn và số lượng
ngày càng nhiều, cũng như đứng trước vấn đề đảm bảo tuân thủ nguyên tắc MFN và
NT trong lĩnh vực đầu tư thì việc quan tâm hơn nữa đến hệ thống pháp luật đầu tư
nói chung và các cơ sở pháp lý liên quan đến sự bình đẳng trong đầu tư giữa nhà
đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài là điều hết sức cần thiết. Mức độ thể
hiện sự bình đẳng trong đầu tư đóng vai trị quyết định trong việc thu hút vốn của
các nhà đầu tư nước ngoài và sức cạnh tranh về thu hút đầu tư của Việt Nam so với
các nước trong khu vực cũng như trên thế giới. Vì vậy, cụ thể hóa ngun tắc này
sao cho vừa đảm bảo thông lệ quốc tế, các cam kết quốc tế mà Việt Nam gia nhập,
1


kí kết vừa đảm bảo phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội trong nước là một điều
không dễ dàng. Không phủ nhận những kết quả đạt được trong những năm qua
trong việc cải thiện hành lang pháp lý về lĩnh vực đầu tư, tuy nhiên cũng phải thừa
nhận những điểm bất cập, những sự phân biệt không cần thiết thậm chí là bất hợp lý
đối với nhà đầu tư nước ngồi. Do đó, nghiên cứu về “Cơ sở pháp lý đảm bảo sự
bình đẳng trong đầu tư giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngồi tại
Việt Nam” để có thể nhận thấy những hạn chế và xây dựng phương hướng khắc
phục để pháp luật về đầu tư thực sự có hiệu quả trên thực tế cũng như thúc đẩy hoạt
động đầu tư nước ngoài là cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.



Khảo sát quá trình nghiên cứu

Sau khi khảo sát, tác giả nhận thấy: bình đẳng trong đầu tư giữa nhà đầu tư
trong nước và nhà đầu tư nước ngoài là vấn đề được nhiều chuyên gia ở các lĩnh

vực khác nhau nghiên cứu. Tuy nhiên, trong khả năng nghiên cứu của mình, tác giả
chỉ xin đề cập đến một số nghiên cứu trực tiếp về đề tài này dưới góc độ pháp lý, cụ
thể như sau:
- Nguyễn Thanh Sơn (2003), “Chế độ pháp lý về đảm bảo quyền lợi của nhà
đầu tư nước ngoài”, Đề tài tham dự hội nghị nghiên cứu khoa học của sinh
viên lần VIII;
- Lưu Thị Vân Anh (2006), “Cơ sở pháp lý bảo đảm sự bình đẳng trong đầu tư
giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngồi tại Việt Nam”, Khố
luận Cử nhân Luật, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh;
- Đỗ Thị Thanh Vân (2006), “Cơ sở pháp lý bảo đảm sự bình đẳng trong đầu
tư giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam”,
Khoá luận Cử nhân Luật, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh;
- Lê Hồng Nam (2007), “Cơ sở pháp lý bảo đảm sự bình đẳng trong đầu tư
giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngồi tại Việt Nam”, Khố
luận Cử nhân Luật, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh;
- Phạm Thị Kim Phượng (2007), “Thực trạng đầu tư thành lập doanh nghiệp
theo Luật Doanh nghiệp của nhà đầu tư nước ngồi”, Khố luận Cử nhân
Luật, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh;
- Nguyễn Thị Lụa (2009), “Những vấn đề về cấp giấy Chứng nhận đầu tư cho
nhà đầu tư nước ngoài”, Luận văn Thạc sỹ Luật học;

2


- Nguyễn Hữu Phong (2009), “Pháp luật về gia nhập thị trường phân phối
hàng hóa của nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam – Thực trạng và hướng
hoàn thiện”, Luận văn Thạc sỹ Luật học.
Đề tài bình đẳng trong đầu tư giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước
ngoài đã được các tác giả trên tiếp cận và nghiên cứu dưới những khía cạnh khác
nhau. Điển hình như nghiên cứu quyền của nhà đầu tư nước ngoài chủ yếu trong

phạm vi gia nhập thị trường, phân phối hàng hóa của tác giả Nguyễn Hữu Phong,
hay việc tiếp cận đề tài này bằng cách đi sâu nghiên cứu thực trạng đầu tư thành lập
doanh nghiệp của nhà đầu tư nước ngoài của tác giả Phạm Thị Kim Phượng, để từ
đó đưa ra sự so sánh giữa việc đầu tư thành lập doanh nghiệp của nhà đầu tư nước
ngoài và nhà đầu tư trong nước. Cùng nghiên cứu đề tài này cịn có các tác giả Lưu
Thị Vân Anh, Đỗ Thị Thanh Vân, Lê Hoàng Nam nhưng các cơng trình nghiên cứu
này đều được viết trước khi Việt Nam gia nhập WTO do đó giá trị tham khảo và
ứng dụng của chúng cũng giảm đi khá nhiều. Gần đây, tác giả Nguyễn Thị Lụa lại
tiếp cận vấn đề dưới góc độ nghiên cứu việc cấp giấy chứng nhận đầu tư cho nhà
đầu tư nước ngồi, từ đó chỉ ra sự khác biệt quá trình gia nhập thị trường của nhà
đầu tư nước ngoài, nhưng chưa nêu ra các giải pháp hạn chế nhược điểm của các
quy định pháp luật về vấn đề này… Như vậy, đã có nhiều góc độ tiếp cận và nghiên
cứu trước đây về đề tài này, tuy nhiên, trước những thay đổi từ thực tiễn khách
quan, tác giả nhận thấy cần phải tiếp tục nghiên cứu đề tài này trên cơ sở tiếp thu
các thành quả, giá trị khoa học của các đề tài nghiên cứu trước đó, đồng thời đặt vấn
đề nghiên cứu trong mối liên hệ chặt chẽ với yêu cầu của thực tiễn hiện tại nhất là
khi lộ trình cam kết mở cửa với WTO đang được rút ngắn, làm rõ những bất cập
trong việc đảm bảo sự bình đẳng giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước
ngoài dưới cả góc độ lý luận và thực tiễn. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra một số kiến
nghị mang tính tổng quan và cập nhật từ những yêu cầu thực tiễn, nhằm góp phần
hồn thiện hơn nữa cơ chế pháp lý trong đầu tư tại Việt Nam.



Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu trong Khoá luận là các quy định của Luật Doanh nghiệp
2005, Luật Đầu tư 2005 cùng các văn bản hướng dẫn các luật này, các văn bản pháp
luật chuyên ngành có liên quan đến lĩnh vực đầu tư, một số quan điểm của các nhà
nghiên cứu về sự bình đẳng trong đầu tư giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư

nước ngoài trước đây và hiện nay, thực trạng áp dụng các quy định này và một số
3


nội dung bất cập trong các quy định pháp luật thể hiện nội dung phân biệt đối xử
với nhà đầu tư nước ngồi điển hình trong pháp luật đầu tư hiện hành.



Phạm vi nghiên cứu

Trong khả năng nghiên cứu đề tài này, nội dung khố luận khơng bao gồm tất
cả các vấn đề liên quan đến sự bình đẳng trong đầu tư giữa nhà đầu tư trong nước
và nhà đầu tư nước ngồi ở nhiều khía cạnh khác nhau, mà tác giả chỉ tập trung
nghiên cứu dưới góc độ pháp lý, cụ thể là nghiên cứu cơ sở lý luận về sự bình đẳng
trong đầu tư; các quy định của pháp luật đầu tư thể hiện sự bình đẳng giữa nhà đầu
tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài và một số quy định khơng thể hiện sự bình
đẳng đối với nhà đầu tư nước ngồi khơng cịn phù hợp trong hoàn cảnh hiện nay.



Phương pháp nghiên cứu

Để tiếp cận nghiên cứu đề tài này một cách hệ thống và hiệu quả, tác giả sử
dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phân tích, tổng hợp, suy luận logic, so
sánh dựa trên nền tảng tư duy của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy
vật lịch sử theo Chủ nghĩa khoa học Mác - Lê Nin.




Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu đề tài, tác giả muốn giải quyết các vấn đề lý luận chung
về đảm bảo bình đẳng trong đầu tư giữa nhà đầu tư trong và ngoài nước, chỉ ra
những quy định bất bình đẳng khơng hợp lý giữa các nhà đầu tư còn tồn tại trong
các văn bản pháp luật. Đồng thời, tác giả cũng đi vào phân tích một số bất cập trong
các quy định pháp luật thể hiện sự bình đẳng trong đầu tư giữa các nhà đầu tư hiện
nay. Từ đó, đưa ra các kiến nghị góp phần hồn thiện các quy định pháp luật nhằm
rút ngắn khoảng cách giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam.



Kết cấu của đề tài
Nhằm thể hiện nội dung đề tài nghiên cứu một cách có hệ thống và khoa học,
tác giả đã xây dựng cấu trúc của Khố luận theo trình tự như sau:
Lời nói đầu
Chương I. Các vấn đề lý luận về sự bình đẳng trong đầu tư giữa nhà đầu tư
trong nước và nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
4


Chương II. Thực trạng pháp luật về bảo đảm sự bình đẳng trong đầu tư giữa
nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và một số kiến nghị
Kết luận chung
Danh mục tài liệu tham khảo

5



CHƯƠNG I
CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SỰ BÌNH ĐẲNG TRONG ĐẦU TƯ GIỮA NHÀ
ĐẦU TƯ TRONG NƯỚC VÀ NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
1.1.

Nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài
1.1.1 Đầu tư
Ở Việt Nam, trước khi ban hành Luật Đầu tư 2005, khái niệm đầu tư kinh

doanh chưa được định nghĩa một cách thống nhất trong các văn bản pháp luật. Luật
Đầu tư 2005, với phạm vi điều chỉnh là hoạt động đầu tư nhằm mục đích kinh
doanh đã đưa ra định nghĩa về “đầu tư” khá cụ thể tại Điều 3 của luật này: “đầu tư
là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vơ hình để hình thành
tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư”. Căn cứ vào định nghĩa này, chúng ta sẽ có
thể tạm hình dung đầu tư là các hoạt động nhằm mục đích đưa nguồn vốn (từ các
loại tài sản hữu hình và vơ hình) vào hoạt động kinh doanh.
Trong cuộc sống do hoạt động đầu tư rất phong phú nên có rất nhiều cách hiểu
về thuật ngữ này.
Theo Thạc sĩ Phạm Văn Tồn thì “đầu tư là hoạt động sử dụng tiền vốn, tài
nguyên trong một thời gian tương đối dài nhằm thu lợi nhuận hoặc lợi ích kinh tế xã
hội” 1. Cịn PGS.TS Nguyễn Đăng Nam thì cho rằng “đầu tư là hành động bỏ vốn
ngày hôm nay để thu lại lợi ích trong tương lai” 2.
Trong Từ điển Tiếng Việt khái niệm đầu tư được hiểu là hoạt động sử dụng
vốn theo chu trình sản xuất, kinh doanh đã được hoạch định trong một khoảng thời
gian nhất định nhằm thu lợi ích từ hoạt động sản xuất, kinh doanh 3.

1
Phạm Văn Toàn (2005), “Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài tại Việt Nam: thực trạng và giải pháp”, Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2


Nguyễn Đăng Nam (2004), “Môi trường đầu tư cuả Việt Nam: thực trạng và các giải pháp hồn thiện”,
Tạp chí Tài chính tháng 4, trang 29.
3

Từ điển Tiếng Việt (2001), Nxb Văn hóa thơng tin, trang 208.

6


Dù có nhiều cách định nghĩa về thuật ngữ “đầu tư” nhưng về cơ bản nội dung
của đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn và hình thành tài sản để tiến hành hoạt động
đầu tư, là việc bỏ ra những nguồn lực cụ thể (vốn liếng, sức lực, thời gian, trí tuệ…)
nhằm thu lại lợi nhuận lớn hơn trong tương lai sau một quá trình thực hiện việc sản
xuất, kinh doanh.
Dựa vào nguồn vốn đầu tư và địa vị pháp lý của chủ thể đầu tư, hoạt động đầu
tư được chia thành hai loại: đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Theo Luật Đầu
tư 2005, đầu tư trong nước là việc nhà đầu tư trong nước bỏ vốn bằng tiền và các tài
sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư tại Việt Nam4, đầu tư nước ngoài
là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp
pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư 5.
1.1.2

Nhà đầu tư

Nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động đầu tư theo quy định của
pháp luật Việt Nam, bao gồm: a) Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thành
lập theo Luật doanh nghiệp; b) Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành lập theo Luật
hợp tác xã;…6
Hoạt động đầu tư bao gồm tất cả các giai đoạn của việc thực hiện một dự án,

chính vì vậy, khả năng chủ thể thực hiện hoạt động đầu tư sẽ có thể có hai loại đối
tượng: một là, đối tượng bỏ vốn để thực hiện hoạt động đầu tư; hai là, pháp nhân
mới được hình thành để thực hiện dự án đầu tư (trường hợp dự án đầu tư có thành
lập pháp nhân mới).
Theo Khoản 5, Điều 3, Luật Đầu tư 2005: “Nhà đầu tư nước ngoài là tổ chức,
cá nhân nước ngoài bỏ vốn để thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam”. Nếu căn
cứ theo định nghĩa này thì nhóm đối tượng thứ hai đã bị loại bỏ, nếu xem đây là một
lỗi kĩ thuật lập pháp thì khoản 4, Điều 3, Luật Đầu tư 2005 nên được định nghĩa:
“Nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân bỏ vốn để thực hiện hoạt động đầu tư theo quy định
của pháp luật Việt Nam, bao gồm: a) Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế

4

khoản 13, Điều 3, Luật Đầu tư 2005.

5

khoản 12, Điều 3, Luật Đầu tư 2005.

6

khoản 4, Điều 3, Luật Đầu tư 2005.

7


thành lập theo Luật doanh nghiệp; b) Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành lập theo
Luật hợp tác xã;…”. Chúng ta tạm thời chấp nhận khái niệm nhà đầu tư giới hạn ở
các chủ thể bỏ vốn thực hiện hoạt động đầu tư.
Đối với nhóm dự án đầu tư khơng thành lập pháp nhân mới, vai trị của nhà

đầu tư sẽ tồn tại từ khi bắt đầu cho đến khi kết thục dự án đầu tư, nhà đầu tư sẽ trực
tiếp thực hiện và quản lý dự án đầu tư. Đối với trường hợp thứ hai – thành lập pháp
nhân mới, vai trò của nhà đầu tư chỉ biểu hiện rõ nét ở hai giai đoạn, giai đọan đầu
bỏ vốn, xin cấp giấy phép, thẩm định dự án và giai đoạn kết thúc dự án đầu tư, phân
chia lợi nhuận và rút vốn khỏi thị trường. Trong các giai đoạn còn lại, một khi pháp
nhân được thành lập, thì mọi nhiệm vụ liên quan đến thực hiện dự án sẽ được
chuyển giao cho pháp nhân đó, vai trị của nhà đầu tư trong giai đọan này rất mờ
nhạt, nhà đầu tư có thể là chủ doanh nghiệp, cổ đơng, thành viên góp vốn…
Theo quy định của BLDS 2005, pháp nhân là tổ chức có tài sản độc lập, tự
chịu trách nhiệm bằng tài sản đó, tự nhân danh mình khi tham gia các quan hệ pháp
luật một cách độc lập 7. Vậy theo logic thì ta có thể hiểu các quyền và nghĩa vụ của
nhà đầu tư được quy định trong Luật Đầu tư 2005 sẽ không được áp dụng đối với
pháp nhân được thành lập để thực hiện dự án đầu tư.
Những vấn đề được đề cập ở đây chỉ là thiên về mặt kĩ thuật lập pháp, sự
chính xác trong cách thức sử dụng ngơn từ của các văn bản pháp luật. Tuy nhiên, để
đảm bảo tính pháp lí, thống nhất và chính xác của các văn bản pháp luật, tránh các
hành vi lợi dụng sơ hở của pháp luật để “lách luật”, hoặc có sự áp dụng khơng
thống nhất, chúng ta cần thiết có những sửa đổi bổ sung để tạo lập một luận cứ
vững chắc hơn.

7

Điều 84 Bộ Luật Dân Sự 2005

8


1.1.3

Nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài


Khái niệm nhà đầu tư nước ngoài được quy định tại khoản 5, Điều 3, Luật Đầu
tư 2005: “Nhà đầu tư nước ngoài là tổ chức, cá nhân nước ngoài bỏ vốn để thực
hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam”. Với biện pháp loại trừ có thể suy ra nội hàm
của khái niệm nhà đầu tư trong nước từ khái niệm này.
Tiêu chí về quốc tịch là tiêu chí cơ bản nhất để xem xét một tổ chức, cá nhân
là trong nước hay ngoài nước. Theo quy định tại Điều 3, Nghị định số
138/2006/NĐ-CP ngày 15/11/2006 của Chính phủ về Quy định chi tiết thi hành các
quy định của Bộ luật Dân sự về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi:
-

“Người nước ngồi” là người khơng có quốc tịch Việt Nam, bao gồm người
có quốc tịch nước ngồi và người khơng quốc tịch.
“Cơ quan, tổ chức nước ngồi” là các cơ quan, tổ chức khơng phải là cơ
quan, tổ chức Việt Nam được thành lập theo pháp luật nước ngoài, bao gồm
cả cơ quan, tổ chức quốc tế được thành lập theo pháp luật quốc tế.
Theo quy định của Luật Thương mại thì yếu tố nước ngồi lại được xác định:

-

-

“Thương nhân nước ngoài là thương nhân được thành lập, đăng ký kinh
doanh theo quy định của pháp luật nước ngồi hoặc được pháp luật nước
ngồi cơng nhận” 8.
“Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi được thương nhân nước ngoài
thành lập tại Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc điều ước
quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên thì được coi
là thương nhân Việt Nam” 9.


Ngồi ra, tại khoản 20, Điều 4, Luật Doanh nghiệp 2005 quy định: “Quốc
tịch của doanh nghiệp là quốc tịch của nước, vùng lãnh thổ nơi doanh nghiệp thành
lập, đăng kí kinh doanh”. Như vậy, có thể khẳng định, doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngồi là nhà đầu tư Việt Nam. Khái niệm này nhìn chung là khá rõ ràng và
không gây nhiều tranh cãi. Tuy nhiên, trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay
khái niệm này không được sử dụng một cách thống nhất, tại Quyết định số

8

Khoản 1, Điều 16 của Luật Thương mại.

9

Khoản 4, Điều 16 của Luật Thương mại.

9


88/2009/QĐ-TTg vào ngày 18 tháng 06 năm 2009 về việc ban hành quy chế góp
vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp Việt
Nam, Điều 2 trong Quy chế ban hành kèm quyết định này xác định:
Nhà đầu tư nước ngoài quy định tại Quy chế này bao gồm tổ chức và cá nhân nước
ngoài, cụ thể như sau:
a) Tổ chức thành lập và hoạt động theo pháp luật nước ngoài và chi nhánh của các
tổ chức này tại nước ngoài và tại Việt Nam;
b) Tổ chức thành lập và hoạt động ở Việt Nam có tỷ lệ tham gia góp vốn của bên
nước ngồi trên 49%.
c) Quỹ đầu tư, công ty đầu tư chứng khốn có tỷ lệ tham gia góp vốn của bên nước
ngoài trên 49%…
Rõ ràng quy định tại quyết định này mâu thuẫn với Luật Đầu tư 2005 và Luật

Doanh nghiệp 2005 - các căn cứ ban hành ra nó thì hiệu lực pháp lí của quyết định
này cần thiết có sự xem xét. Xét về hiệu lực pháp lí, Quyết định của Thủ tướng
chính phủ khơng có hiệu lực vơ hiệu hóa quy định của văn bản luật do Quốc hội ban
hành. Thiết nghĩ, dù xuất phát từ nguyên nhân nào thì cũng khơng nên đưa ra những
quy định trái với văn bản trên nó. Và cũng để tạo nên sự thống nhất trong cách hiểu
và giải thích pháp luật cần thiết phải có sự sửa đổi các quy định pháp luật này.
Có nhiều cách định nghĩa về nhà đầu tư nước ngoài được quy định trong các
văn bản pháp luật khác nhau cùng có hiệu lực điều chỉnh, sẽ dẫn đến khó khăn trong
cách hiểu cho nhà đầu tư nước ngồi, cũng như cách áp dụng và giải thích pháp luật
tại các cơ quan có thẩm quyền. Sự khơng thống nhất trong cách hiểu về nhà đầu tư
nước ngoài tại các cơ quan có thẩm quyền là điều khó tránh, điều này ắt dẫn đến
tình trạng nhũng nhiễu trong quá trình xin giấy phép hoạt động của các nhà đầu tư
nước ngoài muốn hoạt động tại Việt Nam. Để thơng thống và minh bạch hơn về
thủ tục hành chính cần quy định thống nhất lại khái niệm thế nào là nhà đầu tư nước
ngoài.

10


1.2. Sự cần thiết phải bình đẳng trong đầu tư giữa nhà đầu tư trong nước và
nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
Một nền kinh tế muốn phát triển, tăng trưởng nhanh và bền vững trước hết
phải đáp ứng nhu cầu về vốn đầu tư 10, trong đó, nguồn vốn đầu tư nước ngoài là
nguồn vốn bổ sung quan trọng cho công cuộc phát triển kinh tế của Việt Nam11. Sau
hơn hai mươi năm thực hiện đầu tư nước ngoài, nguồn vốn đầu tư nước ngoài đã
thực sự trở thành nguồn vốn quan trọng cho quá trình đầu tư phát triển đối với Việt
Nam. Thực sự vậy, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi đã góp phần mở
rộng thị trường ngoài nước, nâng cao năng lực xuất khẩu của Việt Nam, thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở ra nhiều
ngành nghề, nhiều sản phẩm mới đa dạng, phong phú, đẩy mạnh xuất khẩu tạo

nguồn dự trữ ngoại tệ cho nhà nước, dẫn nhập khoa học công nghệ và kinh nghiệm
quản lý tiến bộ trên thế giới vào việc phát triển.
Khơng dừng lại ở đó, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi cịn thúc đẩy
phát triển thị trường trong nước và các hoạt động dịch vụ, kim ngạch xuất khẩu khu
vực đầu tư nước ngoài liên tục tăng trưởng. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngồi chiếm tỷ trọng đáng kể đối với một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt
Nam như giày dép, may mặc, hàng điện tử... Chính hoạt động xuất khẩu đã tạo
nguồn dự trữ ngoại tệ ổn định cho Việt Nam, góp phần cải thiện cán cân thanh tốn
của quốc gia.
Cũng thơng qua hoạt động đầu tư nước ngồi, nhiều công nghệ mới được nhập
vào Việt Nam, nhất là các thành tựu áp dụng trong lĩnh vực viễn thông, dầu khí,
điện tử, tin học, sản xuất ơ tơ… Các doanh nghiệp này cũng đã đem lại những mơ
hình quản lý tiên tiến cùng phương thức kinh doanh hiện đại thúc đẩy các doanh
nghiệp trong nước không ngừng đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm,
tạo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp, góp phần chuyển dịch cơ cấu
kinh tế Việt Nam theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.

10
Lê Văn Tề, Nguyễn Văn Hà, Nguyễn Đắc Sinh (2007), Thị trường chứng khoán tại Việt Nam, Nxb Thống
kê, trang 01.
11

Võ Thu Thanh, Ngô Thị Ngọc Huyền (2008), Kỹ thuật đầu tư trực tiếp nước ngoài, Nxb Thống kê, trang
11.

11


Bên cạnh những đóng góp tích cực về mặt kinh tế kể trên, nguồn vốn đầu tư
nước ngồi cịn có vai trò lớn về mặt xã hội trong việc giải quyết việc làm cho

người lao động, phát triển nguồn nhân lực và góp phần thúc đẩy sự phát triển của
thị trường lao động. Bên cạnh đó, khi nhận thức của người lao động được nâng lên,
họ sẽ quan tâm nhiều hơn đến điều kiện lao động, những điều khoản quy định
quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng. Đây là nhân tố quan trọng góp phần
hạn chế những tác động tiêu cực của nhà đầu tư nước ngoài đến thị trường lao động
trong nước.
Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn vốn đầu tư nước ngoài đối với nền
kinh tế quốc gia, các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam đã và đang bằng
các biện pháp khác nhau thu hút nguồn vốn này. Mặc dù những năm gần đây, nguồn
vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam vẫn tiếp tục gia tăng, nhưng nguồn vốn này có
thể suy giảm và có nguy cơ chạy sang các nước khác nếu Việt Nam không nỗ lực
hơn nữa trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài đặc biệt là việc hoàn thiện khung
pháp lý về đầu tư hiện nay.
1.3. Mục tiêu của việc tạo ra sự bình đẳng trong đầu tư giữa nhà đầu tư trong
nước và nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
1.3.1

Thu hút vốn đầu tư nước ngoài

Về nguyên tắc để thu hút được nguồn vốn đầu tư này, trước hết phải chứng
minh được nền kinh tế nội địa là nơi an toàn cho sự vận động của đồng vốn và sau
nữa là nơi có năng lực sinh lợi cao hơn những nơi khác, có điều kiện cần và đủ để
thu hút vốn đầu tư nước ngồi. Do vậy, cần phải tạo lập một mơi trường kinh tế - xã
hội ổn định và thuận lợi cho sự xâm nhập và vận động của dòng vốn đầu tư nước
ngoài. Để đảm bảo tạo lập và duy trì mơi trường kinh tế ổn định, địi hỏi phải giải
quyết nhiều vấn đề cả về thể chế chính trị, môi trường pháp luật cũng như cách vận
hành quản lý nền kinh tế, vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong đó, việc Nhà
nước đảm bảo tạo lập một mơi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng cho mọi
thành phần kinh tế, đẩy mạnh hơn nữa và thực hiện triệt để cơng cuộc cải cách về
thủ tục hành chính, cải thiện môi trường pháp lý cho sự vận động của các dịng vốn

nước ngồi cần được ưu tiên và hết sức cần thiết.
Việc thu hút đầu tư nước ngoài đang trở thành bộ phận chủ yếu của quan hệ
kinh tế thế giới. Nó là nhân tố quan trọng hàng đầu của nhiều nước nhằm hỗ trợ và
12


phát huy lợi thế của mỗi quốc gia phát triển và là địi hỏi khách quan của q
trình phát triển kinh tế, xã hội ở mỗi nước. Đối với các nước đang phát triển, đầu tư
nước ngoài là một trong những nhân tố chủ yếu cho sự tăng trưởng kinh tế, là một
trong những chỉ số căn bản đánh giá khả năng phát triển. Mở rộng hoạt động kinh tế
đối ngoại, phát triển ngoại thương, thực hiện tốt chương trình hàng xuất khẩu thu
hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam là những nhiệm vụ có tầm chiến lược quan
trọng trước mắt, cũng như lâu dài của Đảng và Nhà nước ta. Trong điều kiện hiện
nay, khi mà nguồn vốn đầu tư ngày càng khan hiếm, cuộc cạnh tranh để thu hút vốn
ngày càng trở nên gay gắt, các nước đều nhận thức được vai trị của đầu tư nước
ngồi và ln có những quyết sách thích hợp để cải thiện mơi trường đầu tư. Các
biện pháp khuyến khích đầu tư ngày càng mở rộng phong phú hơn, cùng với nền
tảng bảo hộ pháp chế chắc chắn tạo nên môi trường đầu tư thơng thống, hấp dẫn
hơn đối với các nhà đầu tư.
Việt Nam, sau hơn 10 năm ban hành Luật đầu tư nước ngồi tại Việt Nam
(1987), đã có những đổi mới căn bản trong nhận thức và đường lối, chính sách
khuyến khích đầu tư nước ngồi đã đạt được thành tựu đáng khích lệ, nguồn vốn,
cơng nghệ, kinh nghiệm quản lý đã bước đầu được thu hút, tốc độ tăng trưởng kinh
tế được thúc đẩy theo hướng tích cực. Tuy nhiên, trong một số năm gần đây dòng
vốn đầu tư nước ngồi vào Việt Nam có xu hướng chững lại, gặp nhiều khó khăn.
Vì vậy, để đẩy mạnh hơn nữa việc thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam cần có
những biện pháp khuyến khích và bảo hộ đầu tư nước ngồi vào Việt Nam sao cho
thống hơn nữa, đặc biệt là từng bước xây dựng cho nhà đầu tư nước ngoài địa vị
ngang bằng với nhà đầu tư trong nước nhằm tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn để có
thể cạnh tranh với các nước trên thế giới. Đó là điều hết sức cần thiết và có ý nghĩa

đối với sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tóm lại, cần coi các nhà đầu tư nước ngoài là một bộ phận hữu cơ tồn tại lâu
dài ở Việt Nam, cần tạo môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các nhà đầu tư ở
Việt Nam. Qua nghiên cứu kinh nghiệm của các nước và thực tiễn của Việt Nam, có
thể rút ra bài học kinh nghiệm trong việc thu hút và giữ chân các nhà đầu tư nước
ngồi là cần tạo ra một mơi trường đầu tư lành mạnh, hấp dẫn để thu hút họ lâu dài.

13


1.3.2

Đảm bảo sự tồn tại và phát triển của nhà đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam

Trong thời gian qua, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi đã phát triển
nhanh chóng, trở thành một bộ phận cấu thành năng động và có những đóng góp
quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế trong nước. Vai trị của nhà đầu tư
nước ngồi ngày càng được khẳng định. Đồng thời, đầu tư nước ngồi cũng có
những “mặt trái” nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang hướng tới xây dựng nền
kinh tế thị trường mà cơ sở hạ tầng của chúng ta còn thiếu rất nhiều để duy trì nền
kinh tế trong thời kỳ mở cửa.
Theo các chuyên gia kinh tế, việc trở thành các nhà cung ứng tại chỗ cho các
doanh nghiệp nước ngoài sẽ giúp các doanh nghiệp trong nước kết nối được vào
mạng lưới cung ứng tồn cầu và có cơ hội được làm việc với những tiêu chuẩn chất
lượng và môi trường kinh doanh quốc tế. Đồng thời, sự tồn tại của một mạng lưới
dày đặc các nhà cung ứng địa phương cũng là một nhân tố thúc đẩy thu hút đầu tư
nước ngoài vào Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến thời điểm này, các nhà đầu tư nước
ngoài vẫn phàn nàn rằng các doanh nghiệp trong nước công nghệ quá lạc hậu để có
thể thực hiện vai trị rất quan trọng này. Bởi vậy, cần tiếp tục cải thiện mạnh mẽ môi

trường kinh doanh để thu hút và “giữ chân” các nhà đầu tư nước ngồi chân chính.
Có vậy, về phần mình, các nhà đầu tư nước ngồi sẽ đóng góp được nhiều hơn, hiệu
quả hơn cho nền kinh tế. Qua đó, chất lượng nhà đầu tư nước ngoài sẽ được nâng
cao hơn.
Như vậy, việc thu hút các nhà đầu tư nước ngồi đến đầu tư tại Việt Nam là
cần thiết, thì việc tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài có cơ hội phát triển và có
ý định làm ăn lâu dài tại Việt Nam cũng quan trọng không kém. Nhất là trong bối
cảnh hiện nay quốc gia nào cũng muốn thu hút nhà đầu tư nước ngồi cho mình thì
Việt Nam càng phải coi trọng hơn nữa các quy chế đối với nhà đầu tư nước ngoài
để họ nhận thấy rằng Việt Nam là một mơi trường có thể đầu tư lâu dài. Trong đó,
rút ngắn khoảng cách giữa nhà đầu tư nước ngoài với nhà đầu tư trong nước đóng
vai trị quyết định then chốt. Bản thân nhà đầu tư khi họ cảm nhận được quốc gia
tiếp nhận đầu tư xem họ như nhà đầu tư của quốc gia mình, thì đó sẽ là lợi thế để
quốc gia cạnh tranh với các quốc gia khác trong việc thu hút đầu tư nước ngoài.

14


1.3.3

Đảm bảo tạo ra môi trường đầu tư lành mạnh

Hội nhập quốc tế trong lĩnh vực đầu tư là một trong những giải pháp quan
trọng mà Chính phủ Việt Nam đang thực hiện nhằm cải thiện môi trường đầu tư
nước ngồi. Việt Nam ln chủ động xây dựng và hồn thiện hệ thống pháp luật
quốc gia để từng bước phù hợp với thông lệ, tập quán quốc tế. Cụ thể, hơn 20 năm
qua, Luật Đầu tư nước ngoài đã liên tục được hoàn thiện qua 4 lần sửa đổi, bổ sung
ở các mức độ khác nhau trong các năm 1990, 1992, 1996, 2000 và gần đây nhất là
việc cho ra đời Luật Đầu tư 2005. Trong các lần sửa đổi, bổ sung này, việc đảm bảo
để hệ thống pháp luật, chính sách về đầu tư nước ngồi tương thích với tập quán,

thông lệ quốc tế luôn là một trong những mục tiêu quan trọng nhất. Nhờ vậy, các
quy định của Luật ngày càng được hoàn thiện phù hợp với xu hướng hội nhập kinh
tế quốc tế của Việt Nam, góp phần tạo môi trường đầu tư thuận lợi, minh bạch và
bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế cũng như bình đẳng
giữa các nhà đầu tư.
Chúng ta đã và đang tham gia có hiệu quả vào các cơ chế pháp lý song
phương, khu vực và thế giới điều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài. Việc thực
hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam cùng với những cải thiện tích cực trong hệ
thống pháp luật, chính sách đầu tư nước ngồi thời gian qua là những nhân tố quan
trọng, góp phần củng cố lịng tin của nhà đầu tư nước ngoài về sức hấp dẫn và cạnh
tranh của môi trường đầu tư Việt Nam, mở ra cơ hội mới để thu hút đầu tư nước
ngoài với số lượng nhiều hơn và chất lượng cao hơn. Mặt khác, việc thực hiện các
cam kết nói trên cũng tạo cơ sở pháp lý và điều kiện thuận lợi để Việt Nam tiếp tục
hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về đầu tư nước ngồi phù hợp với thông
lệ và tập quán quốc tế.
Với việc từng bước thu hẹp khoảng cách phân biệt giữa đầu tư trong nước và
đầu tư nước ngoài, Việt Nam đang nhằm tiến tới xây dựng một mặt bằng pháp lý
chung cho các loại hình doanh nghiệp. Trong những năm trước đây, ở Việt Nam
còn tồn tại hai hệ thống pháp luật riêng điều chỉnh hoạt động đầu tư trong nước và
đầu tư nước ngồi, trong đó có một số quy định khác biệt về thành lập, tổ chức quản
lý và hoạt động của doanh nghiệp, về mức độ tham gia thị trường, về giá, phí dịch
vụ, tuyển dụng lao động, về chính sách thuế, tiền thuê đất… Thông qua các lần sửa
đổi, và đến khi ban hành Luật đầu tư 2005, sự “phân biệt” nói trên đã được thu hẹp
đáng kể.
15


Với việc nỗ lực không ngừng trong việc cải thiện hành lang pháp lý trong
những năm qua, Việt Nam đã thực sự xây dựng được môi trường đầu tư lành mạnh,
minh bạch trong mắt các nhà đầu tư nước ngoài trong khu vực cũng như trên thế

giới, thực tế cho thấy trong những năm trở lại đây dòng vốn đầu tư nước ngồi chảy
vào Việt Nam khơng ngừng gia tăng. Tuy nhiên, khơng vì thế mà chúng ta qn đi
việc điều chỉnh các quy định pháp luật đầu tư để thu hút hơn nữa dịng vốn này vì
mơi trường đầu tư không phải là môi trường bất biến, ở đâu thu hút hơn dịng vốn sẽ
chảy về đó. Do đó, Việt Nam phải khơng ngừng chú ý hồn thiện hành lang pháp lý
về đầu tư để luôn là một trong những môi trường đầu tư hấp dẫn đối với các nhà
đầu tư nước ngoài.

Kết luận Chương I
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài thực sự trở thành nguồn vốn quan trọng cho đầu
tư phát triển trong nước, thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng cơng
nghiệp hố, hiện đại hoá; mở ra nhiều ngành nghề, nhiều sản phẩm mới đa dạng,
phong phú, đẩy mạnh xuất khẩu tạo nguồn dự trữ ngoại tệ cho nhà nước; đã dẫn
nhập những công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến vào việc phát triển kinh tế,
tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động.
Chúng ta đang tiến hành công cuộc công nghiệp hố, hiện đại hố, nên cần
phải có một khối lượng vốn rất lớn. Nhận thức được những điều này, cùng với việc
hội nhập về kinh tế, việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài đã trở thành một vấn đề
quan trọng mà Đảng và Nhà nước luôn quan tâm và là mục tiêu hàng đầu trong việc
đẩy nhanh hơn nữa tốc độ tăng trưởng kinh tế, từng bước bắt nhịp với nền kinh tế
trong khu vực và trên thế giới. Nguồn vốn đầu tư nước ngồi có nhiều ưu điểm và
tác động sâu rộng đến nền kinh tế đất nước, đặc biệt trong việc tạo động lực phát
triển kinh tế xã hội trong thời kỳ đổi mới. Thực tế khẳng định sau hơn 10 năm đổi
mới nguồn vốn đầu tư nước ngoài đã trở thành yếu tố quan trọng không thể thiếu
cho sự phát triển kinh tế.

16


CHƯƠNG II

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM SỰ BÌNH ĐẲNG TRONG ĐẦU
TƯ GIỮA NHÀ ĐẦU TƯ TRONG NƯỚC VÀ NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
2.1

Thủ tục gia nhập thị trường

Điều 4, Luật Đầu tư 2005 quy định: “Nhà nước đối xử bình đẳng trước pháp
luật đối với các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế, giữa đầu tư trong nước và
đầu tư nước ngoài”, “Nhà nước cam kết thực hiện các điều ước quốc tế liên quan
đến đầu tư mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”.
Nhằm đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế, chúng ta cố gắng hướng tới xây dựng
một mơi trường đầu tư trong đó nhà đầu tư nước ngồi được đối xử khơng kém
thuận lợi hơn so với sự đối xử dành cho nhà đầu tư trong nước.
Tuy nhiên để phù hợp với tình hình kinh tế xã hội của nước ta và tương đồng
với các nội dung đàm phán của Việt Nam về lộ trình hội nhập WTO nên một số nội
dung trong Luật Đầu tư 2005 vẫn còn bảo lưu một số quy định mang tính áp dụng
riêng đối với nhà đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp sử dụng vốn Nhà nước.
2.1.1

Quyền và thủ tục thành lập

“Tổ chức, cá nhân Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngồi có quyền thành lập
và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam”12 trừ trường hợp bị cấm với những quy định
giống nhau giữa các nhà đầu tư mà không liên quan đến vấn đề quốc tịch. Như vậy,
nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngồi có quyền bình đẳng trong việc
thành lập, quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam theo những quy định chung thống
nhất tại Luật Doanh nghiệp 2005.
Nếu như Luật Doanh nghiệp 2005 mở rộng tối đa sự tự do cho các đối tượng
chủ thể trong việc đăng kí kinh doanh đối với tất cả các loại hình doanh nghiệp,

khơng có bất kì sự phân biệt nào về thủ tục gia nhập thị trường đối với nhà đầu tư
trong nước và ngồi nước. Thì Luật Đầu tư 2005 lại tạo ra sự phân biệt đối xử giữa
nhà đầu tư trong nước và ngoài nước. Thủ tục gia nhập thị trường của các nhà đầu

12

Điều 13 Luật Doanh nghiệp 2005.

17


tư ngồi nước có phần khó khăn hơn so với nhà đầu tư trong nước. Có thể nhận thấy
vấn đề đó rất rõ ràng qua các quy định như, nhà đầu tư nước ngoài dù đầu tư vào thị
trường Việt Nam dưới bất kì hình thức đầu tư trực tiếp nào đều phải đăng kí để
được cấp Giấy chứng nhận đầu tư. Trong khi đó, nhà đầu tư trong nước lại chỉ phải
nộp đơn đăng kí đầu tư đối với các dự án đầu tư có quy mơ từ 15 tỷ đồng trở lên. Sự
khác biệt này dẫn đến hàng loạt những sự phân biệt khác trong hình thức và thủ tục
tiến hành đăng kí, thực hiện dự án đầu tư, ví dụ như việc thành lập doanh nghiệp...
Riêng đối với việc thành lập doanh nghiệp, tại khoản 1 Điều 13 Luật Doanh nghiệp
2005 đã khẳng định mọi tổ chức cá nhân trong và ngồi nước đều có quyền thành
lập doanh nghiệp, góp vốn, mua cổ phần chỉ cần tuân thủ theo đúng các yêu cầu của
Luật Doanh nghiệp là đủ, nhưng Luật Đầu tư 2005 lại ràng buộc thêm nhiều yêu
cầu đối với nhà đầu tư ngoài nước như phải có dự án đầu tư được đăng kí hoặc thẩm
định. Sự phân biệt này xuất phát từ lý do kiểm soát nguồn vốn đầu tư và đảm bảo an
ninh kinh tế.
Bên cạnh những quy định cịn mang tính chất phân biệt đối với nhà đầu tư
nước ngoài, Luật Đầu tư 2005 cũng có nhiều điểm mới đáng lưu ý đối với nhà đầu
tư nước ngoài như:
- Quy định thống nhất về thủ tục đăng ký và thẩm tra dự án đầu tư đối với các
dự án có quy mơ đầu tư dưới 15 tỷ đồng và không thuộc lĩnh vực đầu tư có điều

kiện.
- Xóa bỏ cơ chế “một dự án, một doanh nghiệp”, quy định này góp phần đảm
bảo quyền tự do của nhà đầu tư nước ngoài, trao cho họ quyền được lựa chọn đầu tư
nhiều ngành nghề, lĩnh vực mà không phải thành lập nhiều doanh nghiệp, đồng thời
tiết kiệm được chi phí đầu tư cho nhà đầu tư. Đối với các cơ quan hành chính cũng
góp phần giảm bớt khối lượng cơng việc so với trước đây.
Tuy đã rất cố gắng trong việc tạo hành lang pháp lý đầu tư thống nhất, mang
tính bình đẳng song các nhà đầu tư vẫn còn than phiền về thủ tục đầu tư vì với họ
vẫn cịn phức tạp, thời gian được cấp giấy chứng nhận đầu tư vẫn còn dài, đặc biệt
là đối với thủ tục thẩm tra đầu tư, cụ thể là:

18


- Đối với các dự án đầu tư trong nước có vốn đầu tư từ 15 tỷ đồng đến dưới
300 tỷ đồng và khơng thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện thì phải đăng ký đầu tư13,
dự án thuộc lĩnh vực có điều kiện, dự án có vốn trên 300 tỷ đồng hoặc vừa có quy
mơ trên 300 tỷ đồng vừa thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện thì phải thẩm tra 14. Đây
là một thủ tục mới mẻ đối với các nhà đầu tư trong nước, chính quy định này đã làm
xấu đi môi trường đầu tư trong mắt các nhà đầu tư trong nước. Đối với nhà đầu tư
nước ngồi Giấy chứng nhận đầu tư có ý nghĩa vì nó cũng là Giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh nhưng đối với nhà đầu tư trong nước thì nó khơng có giá trị gì vì các
nhà đầu tư trong nước đã có Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Do vậy, thiết
nghĩ nhà đầu tư trong nước không bắt buộc phải đăng ký đầu tư mà chỉ nên duy trì
thủ tục thẩm tra.
- Quy định các nhà đầu tư nước ngoài lần đầu đầu tư vào Việt Nam thành lập
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi chiếm hơn 49% vốn điều lệ thì phải có dự
án đầu tư và thực hiện đăng ký đầu tư gắn với thành lập doanh nghiệp 15. Cũng là
một quy định mang tính phân biệt theo hướng kém thuận lợi hơn cho nhà đầu tư
nước ngoài.

- Trái lại, với nội dung của quy định trên, nhà đầu tư nước ngoài thành lập
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi dưới 49% vốn điều lệ thì việc thành lập
doanh nghiệp khơng cần phải có dự án đầu tư, chỉ cần thực hiện các thủ tục như đối
với dự án của nhà đầu tư trong nước 16. Đây là một quy định rất thống cho nhà đầu
tư nước ngồi, trên thực tế các nhà đầu tư nước ngoài sử dụng quy định này rất phổ
biến. Đầu tiên, họ sẽ liên doanh với nhà đầu tư trong nước theo quy định của Luật
Doanh nghiệp 2005 trong đó nhà đầu tư nước ngồi sẽ sở hữu dưới 49% vốn điều
lệ, sau đó trong q trình hoạt động sẽ tiến hành các hoạt động như tăng vốn hoặc
chuyển nhượng vốn giữa các nhà đầu tư nhằm làm tăng phần vốn góp của nhà đầu
tư nước ngồi. Theo cách làm này thì thủ tục sẽ dễ dàng hơn rất nhiều mà nhà đầu
tư nước ngoài vẫn sở hữu được tỷ lệ phần vốn góp như mình mong muốn trong
trường hợp muốn sở hữu trên 49% vốn điều lệ.

13

Điều 45, Luật Đầu tư 2005.

14

Điều 46, 46 Luật Đầu tư 2005.

15

Điểm a, Khoản 4, Điều 12, Nghị Định 102/2010/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp 2005.

16

Điểm b, Khoản 4, Điều 12, Nghị Định 102/2010/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp 2005.

19



×