Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Định đoạt tài sản chung của vợ chồng những vấn đề lý luận và thực tiễn (luận văn thạc sỹ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (674 KB, 76 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

ĐỊNH ĐOẠT TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
NHỮNG VẦN ĐẾ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

SINH VIÊN THỰC HIỆN: PHẠM MINH THƠ

Khóa: 34 MSSV: 0955020141
GIÁO VIÊN HƢỚNG DẪN: Th.s LÊ VĨNH CHÂU

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, NĂM 2013


LỜI CẢM ƠN

Đầu tiên, tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành đến quý thầy cô Trƣờng Đại học
Luật Thành phố Hồ Chí Minh đã truyền đạt những kiến thức quý báu trong suốt quá
trình học tập tại trƣờng.
Để hồn thành khóa luận tốt nghiệp này, tác giả xin gửi lời cảm ơn đến Thạc sĩ Lê
Vĩnh Châu – Giảng viên Khoa luật Dân sự đã tận tình hƣớng dẫn và giúp tác giả hồn
thiện khóa luận.
Tác giả cũng xin cảm ơn sự giúp đỡ các cơ quan, tổ chức, đặc biệt là Tòa án nhân
dân quận 4, Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Tịa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh
cùng sự động viên của gia đình và bạn bè.
Khóa luận chắc chắn sẽ cịn khiếm khuyết, mong thầy cơ và các bạn đọc đóng góp
để bài viết có thể hồn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn


Thành Phố Hồ Chí Minh, năm 2013


DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT ĐƢỢC SỬ DỤNG TRONG KHĨA LUẬN

BLDS

Bộ luật dân sự nƣớc Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 2005

BLDS Pháp

Bộ Luật dân sự Cộng hịa Pháp

Luật HN & GĐ

Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000

Nghị định 70/2001/NĐ-CP

Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 quy
định chi tiết thi hành Luật Hơn nhân và gia đình năm
2000

SL

Sắc lệnh

TAND


Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

UBND

Uỷ ban nhân dân

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ...................................................................................................................1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH ĐOẠT TÀI SẢN CHUNG CỦA
VỢ CHỒNG
1.1.

Khái niệm ........................................................................................................................ 5

1.1.1.


Khái niệm tài sản .............................................................................................5

1.1.2.

Khái niệm tài sản chung của vợ chồng............................................................5

1.2.

Ý nghĩa của việc định đoạt tài sản chung của vợ chồng ............................................ 7

1.3.

Nghĩa vụ và quyền của vợ chồng trong việc định đoạt tài sản chung.................... 10

1.3.1.

Vợ chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch do một bên thực

hiện……………….. ............................................................................................................10
1.3.2.

Quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc định đoạt tài sản chung của vợ

chồng

.......................................................................................................................16

1.3.3.
Định đoạt tài sản chung của vợ chồng để đáp ứng các nhu cầu chung của gia
đình và thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng .................................................................20

1.3.4.

Định đoạt tài sản chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia

đình, việc dùng tài sản chung để đầu tƣ kinh doanh ...........................................................22
1.4.
Định đoạt tài sản chung của vợ chồng trong lịch sử pháp luật hơn nhân và gia
đình Việt Nam ............................................................................................................................... 25
1.4.1.

Việc định đoạt tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ phong kiến ..........25

1.4.2.

Việc định đoạt tài sản chung của vợ chồng thời Pháp thuộc ........................28

1.4.3.

Việc định đoạt tài sản chung của vợ chồng giai đoạn từ Cách mạng Tháng

Tám 1945 đến nay ...............................................................................................................30
1.5.
1.5.1.

Việc định đoạt tài sản chung của vợ chồng theo pháp luật nƣớc ngoài ................. 33
Định đoạt tài sản chung của vợ chồng theo pháp luật Cộng hòa Pháp .........33


1.5.2.


Định đoạt tài sản chung của vợ chồng theo pháp luật Đài Loan ...................35

1.5.3.

Việc định đoạt tài sản chung của vợ chồng theo pháp luật Thái Lan ...........35

CHƢƠNG 2. NHỮNG BẤT CẬP VÀ HƢỚNG HOÀN THIỆN VIỆC ĐỊNH ĐOẠT TÀI
SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
2.1.

Những bất cập về việc định đoạt tài sản chung của vợ chồng ................................ 37
Thời điểm hình thành tài sản để xác định tài sản chung, quyền định đoạt và

2.1.1.

nghĩa vụ pháp lý của chủ sở hữu .........................................................................................37
2.1.2.
Giao dịch dân sự hợp pháp do một bên vợ, chồng thực hiện nhằm đáp ứng
nhu cầu sinh hoạt thiết yếu ..................................................................................................38
Giải quyết tranh chấp hợp đồng liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn

2.1.3.

của vợ chồng 41
Xác định tài sản chung có giá trị lớn mà vợ chồng đã định đoạt trong các

2.1.4.

giao dịch dân sự ...................................................................................................................47
2.1.5.

kinh doanh

Giao dịch liên quan tới việc định đoạt tài sản chung của vợ chồng để đầu tƣ
49

2.1.6.
Xác định phạm vi điều chỉnh của Điều 25 và Điều 28 Luật Hôn Nhân & Gia
Đình………… .....................................................................................................................51
2.2.

Nguyên nhân tồn tại những bất cập về việc định đoạt tài sản chung của vợ chồng

……………………………………………………………………………………………………53

2.3.

Các giải pháp hoàn thiện việc định đoạt tài sản chung của vợ chồng.................... 55

2.3.1.

Hợp đồng dân sự có định đoạt tài sản chung của vợ chồng .........………….55

2.3.2.

Định đoạt tài sản chung của vợ chồng để đầu tƣ kinh doanh ........................60

2.3.3.

Hôn nhân thực tế và chế độ hôn ƣớc .............................................................61


2.3.4.

Các giải pháp khác ........................................................................................65

KẾT LUẬN ..................................................................................................................................... 1
DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hơn nhân và gia đình – đó là một hiện tƣợng xã hội luôn đƣợc các nhà triết học, xã
hội học, sử học, luật học… quan tâm, nghiên cứu từ khi hình thái hơn nhân đầu tiên xuất
hiện. Nếu gia đình là tế bào của xã hội thì hơn nhân là cơ sở của gia đình trong đó có sự
kết hợp chặt chẽ, hài hịa lợi ích giữa vợ chồng cùng các thành viên khác trong gia đình.
Chế độ tài sản của vợ chồng đƣợc quy định tƣơng đối đầy đủ và cụ thể từ Luật HN & GĐ
năm 1959 đến Luật HN & GĐ năm 1986 và hiện tại Luật HN & GĐ năm 2000.
Tuy Luật HN & GĐ năm 2000 có những quy định hồn chỉnh và tiến bộ nhƣng
quan hệ hơn nhân gia đình đặc biệt là quan hệ tài sản của vợ chồng luôn vận động và phát
triển theo gian, điều đó làm phát sinh nhiều vƣớng mắc, bất cập trong quá trình áp dụng
pháp luật. Quyền sở hữu tài sản của vợ chồng đƣợc điều chỉnh bởi Luật HN & GĐ năm
2000 và cụ thể hóa tại Nghị định 70/2001/NĐ-CP nhƣng số lƣợng các quy định còn ít và
có một số nội dung chƣa rõ ràng, hợp lý. Điều đáng chú ý nhất là trong quá trình xét xử
của Tịa án các cấp có nhiều quan điểm khác nhau trong việc giải quyết vấn đề định đoạt
tài sản chung của vợ chồng. Khi bắt đầu xây dựng gia đình mỗi cặp vợ chồng đều mong
muốn có một gia đình hạnh phúc, sung túc nhƣng khi hơn nhân đổ vỡ họ khơng chỉ muốn
dứt khốt về tình cảm mà còn thể hiện rõ ràng, tách bạch về tài sản. Chính vì vậy, hiện tại
tranh chấp về tài sản chung của vợ chồng ngày càng tăng khi bất đồng quan điểm ai là
ngƣời có quyền định đoạt tài sản.
Trong thời gian qua đã có nhiều tác giả nghiên cứu chế định tài sản chung của vợ
chồng cả về lý luận lẫn thực tiễn. Tuy nhiên, mỗi tác giả có điểm riêng về gốc độ tiếp

cận, mục đích nghiên cứu khác nhau… đến nay vẫn chƣa có cơng trình nghiên cứu
chun sâu, tồn diện và có tính hệ thống.
Với mong muốn góp phần hồn thiện pháp luật hơn nhân và gia đình đồng thời hạn
chế sự thiếu thống nhất trong thực tiễn xét xử của tóa án, tác giả hƣớng đến việc nghiên
cứu các quy định của pháp luật hiện hành về “Định đoạt tài sản chung của vợ chồng –
Những vấn đề lý luận và thực tiễn”. Tác giả hi vọng với phần nghiên cứu của mình góp
phần hồn thiện chế độ tài sản chung của vợ chồng có giá trị áp dụng trên thực tế, đồng
thời bảo vệ quyền lợi của mỗi bên vợ chồng khi thực hiện quyền định đoạt tài sản chung.

1


2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Thơng qua việc tìm hiểu về mặt lý luận cũng nhƣ thực tiễn áp dụng pháp luật liên
quan tới vấn đề định đoạt tài sản chung của vợ chồng tác giả nêu lên những điểm cịn bất
cập và hƣớng hồn thiện pháp luật, góp phần hạn chế sự thiếu thống nhất trong thực tiễn
xét của tịa án. Tác giả tìm hiểu lần lƣợt thông qua các bƣớc với nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, đi sâu nghiên cứu về lý luận bao gồm: tìm hiểu giáo trình, tập bài giảng,
bài viết chun khảo để có kiến thức lý luận cơ bản về pháp luật hôn nhân gia đình. Trên
cơ sở những quy định khái quát về chế độ tài sản của vợ chồng tác giả tập trung tìm hiểu
quyền định đoạt tài sản chung, một phần giúp cho bản thân có thêm hiểu biết, một phần
tái hiện q trình tìm hiểu thơng qua bài viết này.
Thứ hai, mô tả thực trạng: sử dụng các bản án trong tuyển tập bản án, bản án của tòa
án các cấp, Tạp chí Tịa án, Tạp chí Luật học, bản án đã đƣợc các tác giả khác đƣa ra để
nêu lên những điểm còn bất cập trong thực tiễn xét xử của tòa án. Tuy các bất cập mà tác
giả đƣa ra khơng nhiều nhƣng có giá trị thực tiễn và đã ảnh hƣởng đến quyền lợi của vợ
chồng trong thời gian chờ có văn bản hƣớng dẫn thống nhất.
Thứ ba, từ quan hệ tài sản chƣa có quy định điều chỉnh, cá nhân tác giả sẽ đề xuất
những quy định cần bổ sung góp phần tăng thêm quy tắc điều chỉnh và hƣớng đến hoàn
thiện hơn pháp luật hơn nhân gia đình hiện hành.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu: Định đoạt tài sản chung của vợ chồng – Những vấn đề lý
luận và thực tiễn.
Pham vi nghiên cứu: tác giả tập trung nghiên cứu vấn đề định đoạt tài sản chung của
vợ chồng ở gốc độ lý luận và thực tiễn của công dân Việt Nam mà bỏ qua trƣờng hợp hơn
nhân có yếu tố nƣớc ngồi. Bên cạnh đó để thuận tiện cho việc tìm hiểu và đánh giá thực
tiễn xét xử của Tòa án tác giả đã tiến hành khảo sát trên phạm vi Tp. Hồ Chí Minh.
4. Thực trạng nghiên cứu
Chế độ tài sản của vợ chồng là một trong những quy định quan trọng của Luật HN
& GĐ không chỉ có ý nghĩa điều chỉnh mối quan hệ tài sản giữa vợ và chồng mà còn bảo
vệ quyền lợi của các thành viên trong gia đình. Thật tế có đã khơng ít tác giả nghiên cứu
về chế độ tài sản của vợ đồng thời đề cập đến quyền định đoạt tài sản chung của vợ
chồng trong tổng thể các quyền của chủ sở hữu. Vấn đề tài sản của vợ chồng đã đƣợc
2


phân tích, đánh giá tƣơng đối tồn diện, trong đó phải kể đến một số cơng trình nghiên
cứu sau:
Bài viết của Tiến sĩ Đỗ Văn Đại, “Trao đổi về bài: Một số vấn đề trao đổi về di chúc
của một bên vợ chồng định đoạt tài sản chung”, Tạp chí Tòa án nhân dân (số 15/2010).
Luận văn Thạc sĩ của Lê Vĩnh Châu, “Chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật
Hơn nhân và gia đình Việt Nam hiện hành”, năm 2001.
Nguyễn Ngọc Điền, Giáo trình Luật Hơn nhân và gia đình, Tập 2, Nhà xuất bản Trẻ,
năm 2002.
Bài viết của Thạc sĩ Lê Thị Mận, “Thực tiễn giải quyết tranh chấp liên quan tới tài
sản chung có giái trị lớn của vợ chồng: Vƣớng mắc và hƣớng hoàn thiện”, Tạp chí Tịa án
nhân dân (số 12/2010).
Bài viết của Bùi Thủy Nguyên, “Trách nhiệm liên đới của vợ chồng đối với giao
dịch dân sự do một bên thực hiện, pháp luật và thực tiễn”, Tạp chí Tịa án nhân dân (số
02/2002).

Bài viết của Bùi Thủy Nguyên, “Quy định tài sản chung của vợ chồng và hậu quả
pháp lý của chế định”, Tạp chí Tịa án nhân dân (số 12/2001).
Bài viết Trần Thị Huệ, “Trách nhiệm liên đới vợ, chồng theo Điều 25 Luật Hơn
nhân và gia đình năm 2000”, Tạp chí Luật học số 6/2000, tr.22-24
Các cơng trình nghiên cứu theo hƣớng khái quát hoặc phân tích các khía cạnh khác
nhau về chế độ tài sản của vợ chồng. Khi tác giả tìm hiểu các cơng nghiên cứu trƣớc thì
nhóm các đề tài đƣợc quan tâm thƣờng phân tích về: chế độ tài sản của vợ chồng, tài sản
chung của vợ chồng, tài sản riêng của vợ chồng, căn cứ phân chia tài sản chung, chia tài
sản trong thời kỳ hơn nhân… mà chƣa có đề cập, đánh giá chi tiết đến một trong các
quyền năng của vợ chồng khi sở hữu tài sản chung. Hiện tại, chúng ta có ít cơng trình
nghiên cứu chun sâu, tồn diện về quyền năng định đoạt nên tác giả chọn đề tài: Định
đoạt tài sản chung của vợ chồng – Những vấn đề lý luận và thực tiễn.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Thứ nhất, sau khi bài viết hoàn thành sẽ phục vụ những nghiên cứu về vấn đề lý
luận và thực tiễn trong việc định đoạt tài sản chung vợ chồng.

3


Thứ hai, bài viết nêu lên những vấn đề bất cập và vƣớng mắc để phục vụ cho cơng
tác hồn thiện pháp luật hơn nhân gia đình.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu tác giả sử dụng tổng hợp các phƣơng pháp: phân tích, so
sánh, đánh giá, tổng hợp trên nền tảng chủ nghĩa xã hội khoa học và phƣơng pháp luận
duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Các phƣơng pháp phân tích, đánh giá, so sánh đƣợc sử dụng một cách phù hợp, gắn
kết với nhau giúp ngƣời đọc có cái nhìn tồn diện về việc định đoạt tài sản chung của vợ
chồng. Tác giả sử dụng các phƣơng pháp trên nhằm làm rõ các khía cạnh lý luận và thực
tiễn để q trình áp dụng pháp luật đƣợc thống nhất đồng thời kiến nghị các giải pháp
góp phần hồn thiện pháp luật.

7. Bố cục đề tài
Nội dung của khóa luận bao gồm 2 chƣơng:
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về định đoạt tài sản chung của vợ chồng.
Chƣơng 2: Một số bất cập và hƣớng hoàn thiện việc định đoạt tài sản chung của vợ
chồng.

4


CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH ĐOẠT TÀI SẢN CHUNG
CỦA VỢ CHỒNG

1.1. Khái niệm
1.1.1. Khái niệm tài sản
Theo từ điển Luật học: “Tài sản là các vật có giá trị bằng tiền và là đối tượng của
quyền tài sản và các lợi ích vật chất khác” và có sự phân biệt giữa tài sản là bất động sản
và tài sản là động sản, giữa tài sản hữu hình và tài sản vơ hình.
Khái niệm tài sản lần đầu tiên đƣợc quy định tại Điều 172 BLDS năm 1995: “Tài
sản bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản”. Trên
cơ sở kế thừa những quy định của BLDS năm 1995 thì BLDS năm 2005 đã mở rộng đối
tƣợng đƣợc xem là tài sản, khơng chỉ những “vật có thực”mà cả những vật đƣợc hình
thành trong tƣơng lai. Pháp luật dân sự chứa đựng quy phạm pháp luật điều chỉnh về
quan hệ tài sản của cá nhân, tổ chức, pháp nhân trên cơ sở liệt kê các loại tài sản theo
Điều 163 BLDS năm 2005: “Tài sản gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”.
Khác với cách liệt kê tài sản theo ý nghĩa pháp lý thì tài sản đƣợc liệt kê dựa theo ý
nghĩa của từ: Tài sản bao gồm vật có thực, vật đang tồn tại và sẽ có như hoa lợi, lợi tức,
vật sẽ được chế tạo theo mẫu đã được thỏa thuận giữa các bên, tiền và các giấy tờ trị giá
được bằng tiền và quyền tài sản1.
Tuy có nhiều khái niệm về tài sản nhƣng theo quan điểm tác giả thì cần xem xét tài
sản dƣới gốc độ pháp lý theo quy định của pháp luật dân sự hiện hành để chủ sở hữu có

thể thực hiện tốt quyền sở hữu của mình.
1.1.2. Khái niệm tài sản chung của vợ chồng
Trong quá trình chung sống thì vợ chồng sẽ tạo lập một khối tài sản để phục vụ cuộc
sống gia đình và đảm bảo nhu cầu vật chất cho các thành viên. Tài sản chung của vợ
chồng đƣợc liệt kê và xác định căn cứ vào nguồn gốc tài sản dựa theo Điều 27 Luật HN
& GĐ thì tài sản chung của vợ chồng bao gồm:
Tài sản chung do vợ chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh
doanh;
1

Xem thêm “Từ điển Luật học”. NXB Từ điển Bách Khoa và NXB Tƣ pháp.

5


Những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân;
Tài sản mà vợ chồng đƣợc thừa kế chung hoặc đƣợc tặng cho chung;
Những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất có ý nghĩa quan trọng nên đƣợc
ghi nhận tại Khoản 1 Điều 27 Luật HN & GĐ để xác định: “Quyền sử dụng đất mà vợ
chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ
chồng có được trước khi kết hơn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có
thỏa thuận”. Quyền sử dụng đất có thể là quyền sử dụng đất đƣợc giao cho vợ, cho
chồng hoặc cả hai vợ chồng; quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng
đƣợc Nhà nƣớc cho thuê; quyền sử dụng đất mà vợ chồng đƣợc chuyển đổi, chuyển
nhƣợng, thừa kế chung, nhận thế chấp. Với nguyên tắc trên giúp chúng ta xác định quyền
sử dụng đất trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung theo hƣớng trong quá trình tạo lập,
phát triển khối tài sản đều có cơng sức đóng góp của vợ chồng.
Ngun tắc suy đoán pháp lý là cơ sở quan trọng để xác định quyền sử dụng đất
cũng nhƣ các loại tài sản khác hình thành trong thời kỳ hơn nhân là tài sản chung của vợ

chồng. Vợ hoặc chồng vẫn đƣợc đảm bảo quyền lợi với tƣ cách là cá nhân nếu có đƣa ra
yêu cầu xác định tài sản nào đó là tài sản riêng của mình, ngƣợc lại khơng đƣa ra đƣợc
chứng cứ để chứng minh thì tài sản đó là tài sản chung.
Tài sản chung của vợ chồng là một dạng sở hữu chung đƣợc điều chỉnh theo quy
định tại Điều 214 BLDS: “Sở hữu chung là sở hữu của nhiều chủ sở hữu đối với tài sản.
Tài sản thuộc sở hữu chung là tài sản chung”. Trong quan hệ vợ chồng thì quan hệ nhân
thân là nền tảng và quan hệ tài sản khơng mang tính chất đền bù ngang giá khi xem vợ
chồng là chủ sở hữu của khối tài sản chung. Sự thiết lập chế định tài sản chung của vợ
chồng có ý nghĩa thiết thực và quan trọng để giúp thực hiện chức năng gia đình là đáp
ứng các nhu cầu vật chất cho cuộc sống.
Pháp luật dân sự khái quát: Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất,
là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu chung không được
xác định đối với tài sản chung cho nên trong khối tài sản chung của vợ chồng không thể
phân định đƣợc tài sản nào là của ngƣời vợ và tài sản nào là của ngƣời chồng. Tài sản
chung của vợ chồng là thuật ngữ chính xác và cụ thể nhằm xác định khối vật chất mà vợ
chồng đã tạo ra trong thời kỳ hôn nhân.

6


Bộ luật dân sự đƣa ra quy định về hình thức sở hữu tài sản chung của vợ chồng còn
Luật HN & GĐ sử dụng cách liệt kê tài sản chung cho nên hiện tại chúng ta chƣa có khái
niệm về tài sản chung của vợ chồng. Theo quan điểm tác giả thì: Tài sản chung của vợ
chồng là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng, trong đó mỗi người có
quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
Tuy tài sản của vợ chồng là tài sản chung hợp nhất nhƣng quyền chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt tài sản của mỗi bên vợ, chồng với tƣ cách cá nhân vẫn đƣợc đảm bảo khi
căn cứ Khoản 4 Điều 219 BLDS: “Tài sản chung của vợ chồng có thể phân chia theo
thỏa thuận hoặc theo quyết định của Tòa án”. Pháp luật dân sự là ngành luật chung chứa
dựng những quy định điều chỉnh quan hệ tài sản nền tảng và khái quát cho phép vợ chồng

vận dụng để bàn bạc, thỏa thuận hình thái tồn tại của tài sản là tài sản chung hay tài sản
riêng.
Xuất phát từ nguyên tắc cơ bản của Luật HN & GĐ thì vợ chồng có quyền và nghĩa
vụ ngang nhau trong việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung của gia đình.
Tác giả tập trung tìm hiểu về quyền định đoạt tài sản chung của vợ chồng dựa trên cơ sở
vợ chồng có quyền bình đẳng quyết định tài sản chung.
1.2.

Ý nghĩa của việc định đoạt tài sản chung của vợ chồng

Quan hệ hơn nhân gia đình sẽ ổn định khi vợ chồng cùng giúp đỡ nhau, thực hiện
đầy đủ nghĩa vụ đúng với tƣ cách của mình, đảm bảo nguyên tắc nền tảng theo Điều 2
Luật HN & GĐ: “Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng”.
Trong thời kỳ hơn nhân giữa vợ và chồng hình thành quan hệ nhân thân đóng vai trị chủ
đạo, xun suốt, cịn quan hệ tài sản là cơ sở tạo lập cuộc sống gia đình ấm no, sung túc.
Bởi vì khi vợ chồng sử dụng hoặc định đoạt tài sản chung ít nhiều có ảnh hƣởng đến cuộc
sống gia đình cho nên có thể khẳng định việc định đoạt tài sản chung của vợ chồng đem
lại nhiều ý nghĩa quan trọng:
Quyền bình đẳng giữa vợ và chồng khi cùng nhau định đoạt tài sản chung
Pháp luật phong kiến thừa nhận sự bất bình đẳng giữa nam và nữ nên cuộc sống của
mỗi gia đình chịu sự chi phối của ngƣời chồng trong việc định đoạt tài sản chung. Trải
qua thời gian dài áp dụng pháp luật dần hoàn thiện và tiến bộ hơn khi ghi nhận quyền
định đoạt tài sản trong gia đình cho ngƣời vợ nhƣng thực tế chỉ dừng ở mức độ mang ý
nghĩa về hình thức. Sau khi đất nƣớc giành đƣợc độc lập thì dấu ấn lịch sử quan trọng của
nền lập pháp là thừa nhận quyền bình đẳng giữa ngƣời vợ với ngƣời chồng thông qua
7


Điều 6 Sắc lệnh 97/1950: Chồng và vợ có địa vị bình đẳng trong gia đình. Các văn bản
pháp luật về sau đều có sự kế thừa cơ sở pháp lý quan trọng này và quyền bình đẳng giữa

vợ và chồng ngày càng đƣợc đề cao.
Trên cơ sở nguyên tắc chỉ đạo của Hiến pháp năm 1992: “Mọi công dân đều bình
đẳng trước pháp luật” thì pháp luật hơn nhân gia đình qua các giai đoạn sau đều ghi nhận
quyền bình đẳng giữa vợ và chồng. Pháp luật hơn nhân gia đình hiện hành quy định bình
đẳng giữa vợ và chồng là bình đẳng trong mọi phƣơng diện thực hiện nghĩa vụ và hƣởng
quyền lợi. Thông qua chế định tài sản chung thì vợ chồng có thể thực hiện đầy đủ các
quyền: chiếm hữu, sử dụng, định đoạt, đặc biệt quyền định đoạt tài sản chung của vợ
chồng có ý nghĩa pháp lý quan trọng.
Pháp luật hơn nhân gia đình thừa nhận vợ chồng có quyền có tài sản riêng, có quyền
tự do định đoạt đối với khối tài sản riêng này còn việc định đoạt tài sản chung là hồn
tồn bình đẳng. Trong thời kỳ hơn nhân vợ chồng đều có quyền định đoạt tài sản chung
theo ý chí cá nhân mà không bị chi phối bởi bất kỳ ai. Vợ hoặc chồng có quyền xác lập
giao dịch mà không cần phải thông qua ý kiến của bên vợ chồng còn lại khi các giao dịch
hợp pháp và đảm bảo nhu cầu thiết yếu của gia đình. Bên cạnh thừa nhận quyền định đoạt
tài sản của vợ chồng chúng ta cịn buộc vợ chồng có nghĩa vụ ngang nhau khi quy định
trách nhiệm liên đới tại Điều 25 Luật HN & GĐ. Trách nhiệm liên đới phát sinh khi một
bên xác lập giao dịch dân sự hợp pháp và mục đích giao dịch là đáp ứng các nhu cầu
chung nên cả vợ và chồng đều có phần trách nhiệm ngang nhau.
Quy định về định đoạt tài sản chung của vợ chồng góp phần bảo vệ quyền và lợi ích
của các bên giao dịch
Trên cơ sở ý chí của giai cấp thống trị, pháp luật các nƣớc tƣ sản xem hôn nhân nhƣ
một hợp đồng dân sự, một sự thỏa hiệp của hai ngƣời trƣớc khi kết hôn. Các cặp vợ
chồng sẽ xây dựng “Khế ước hôn nhân” để thỏa thuận vấn đề tài sản riêng, tài sản chung,
trách nhiệm liên đới… Pháp luật nƣớc ta là pháp luật của nhà nƣớc pháp quyền xã hội
chủ nghĩa nên vấn đề tài sản của vợ chồng đƣợc quy định vừa có tình, vừa có lý phù hợp
với đạo đức xã hội và nguyện vọng của nhân dân. Việc định đoạt tài sản chung của vợ
chồng mang lại ý nghĩa khi đảm bảo đƣợc nhiệm vụ của Luật HN & GĐ là: “Xây dựng
chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của các thành viên trong gia đình, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp cho các thành viên trong gia đình”.


8


Trong quan hệ giữa vợ và chồng khơng thể có quan niệm là ai sẽ là ngƣời đƣợc lợi
hay đánh mất lợi ích tài sản sau khi kết hơn. Nếu quan niệm nhƣ trên thì chúng ta đã suy
đốn hơn nhân luôn chuyển biến theo chiều hƣớng tốt đẹp, không bao giờ có sóng gió và
quan hệ tài sản giữa vợ chồng sẽ bất biến. Trên thực tế, khi mục đích hơn nhân khơng đạt
đƣợc, quan hệ tình cảm đổ vỡ kéo theo tranh chấp tài sản giữa vợ chồng diễn ra gây gắt.
Hôn nhân là một lĩnh vực vô cùng phức tạp, không phải lúc nào cũng chuyển biến theo
chiều hƣớng ta mong muốn nếu có mâu thuẩn dẫn đến tranh chấp thì vấn đề pháp lý về
tài sản là trở ngại lớn nhất.
Pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam ngày một hồn thiện khi đƣa ra căn cứ xác
định tài sản chung của vợ chồng; vấn đề trách nhiệm liên đới do một bên vợ chồng xác
lập, trƣờng hợp bắt buộc phải có sự đồng ý, thỏa thuận, bàn bạc của vợ chồng khi quyết
định đến tài sản chung có giá trị lớn, tài sản là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc
dùng tài sản chung để đầu tƣ kinh doanh; vợ chồng bình đẳng trong chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt tài sản chung… Các nhà làm luật hạn chế sự tự do xác lập giao dịch với khối
lƣợng tài sản đem ra định đoạt q lớn mà khơng có sự đồng ý của bên vợ chồng còn lại,
tránh trƣờng hợp tài sản bị thất thốt ảnh hƣởng quyền lợi chung của gia đình.
Trong lĩnh vực đầu tƣ kinh doanh không phải lúc nào cũng thu đƣợc lợi nhuận mà
có thể xảy ra nhiều trƣờng hợp rủi ro, đầu tƣ kinh doanh càng lớn thì rủi ro càng cao. Tài
sản của vợ chồng trong thời kỳ hơn nhân sẽ an tồn hơn khi các giao dịch liên quan đến
khối tài sản lớn đều đƣợc làm sáng tỏ, đều có sự đồng ý của vợ chồng. Ngoài ra, khi luật
định vợ chồng phải cùng nhau bàn bạc, thỏa thuận dùng tài sản chung để đầu tƣ kinh
doanh góp phần hạn chế tình trạng vợ chồng lợi dụng tiến hành các giao dịch liên quan
tới tài sản chung để tẩu tán tài sản, thu lợi cho cá nhân họ.
Vợ chồng thực hiện quyền định đoạt đối với tài sản chung có thể làm phát sinh hoặc
chấm đứt quyền sở hữu của họ và hình thành quyền sở hữu cho bên thứ ba tham gia giao
dịch. Thông qua các quy định tại Điều 25 và Điều 28 Luật HN & GĐ góp phần bảo vệ lợi
ích của bên thứ ba khi tiến hành xác lập giao dịch liên quan đến tài chung của vợ chồng.

Ngoài quy định điều kiện chủ thể tiến hành giao dịch, đối tƣợng giao dịch có hợp pháp
hay khơng, bên thứ ba cịn phải thận trọng trong việc định đoạt tài sản chung có cần sự
đồng ý của cả hai vợ chồng hay không? Trách nhiệm pháp lý của vợ chồng đối với bên
thứ ba sẽ đƣợc tăng cƣờng khi giữa họ có sự thống nhất hoặc trách nhiệm liên đới giữa vợ
và chồng mặc nhiên đƣợc hình thành theo Điều 25 Luật HN & GĐ.

9


Định đoạt tài sản chung của vợ chồng đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ
nghĩa
Khoản 1 Điều 4 Luật HN & GĐ có quy định: “Quan hệ hơn nhân và gia đình thực
hiện theo quy định của Luật này được tôn trọng và pháp luật bảo vệ". Công dân có quyền
tự do kết hơn, tự do xây dựng gia đình cho riêng mình nhƣng hành vi của họ không đƣợc
trái pháp luật. Nhà nƣớc và xã hội thừa nhận hôn nhân đƣợc xây dựng trên cơ sở và nền
tảng tình yêu giữa nam nữ, tuân thủ các điều kiện luật định và không rơi vào trƣờng hợp
cấm kết hơn. Pháp luật hơn nhân gia đình điều chỉnh quan hệ vợ chồng trên hai phƣơng
diện: quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản.
Quyền định đoạt tài sản chung của vợ chồng là tự do nhƣng giới hạn của sự tự do đó
là nằm trong khn khổ pháp luật. Vợ chồng đƣợc quyền cùng nhau sở hữu tài sản
chung, có quyền thỏa thuận tài sản riêng, định đoạt tài sản thông qua giao dịch dân sự
hợp pháp… Quy định pháp luật hơn nhân gia đình cho biết khi nào trách nhiệm liên đới
của vợ chồng phát sinh, khi nào giao dịch phải tuân thủ điều kiện ý chí thống nhất của hai
vợ chồng. Do đó, khơng phải mọi trƣờng hợp định đoạt tài sản chung của vợ chồng điều
đƣợc pháp luật công nhận. Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng tạo ra tài sản chung bằng
chính sức lao động của mình thì mặc nhiên họ có quyền định đoạt tài sản chung đó. Pháp
luật khơng có quy định cấm về việc định đoạt tài sản chung của vợ chồng, pháp luật chỉ
điều chỉnh cách thức thực hiện việc định đoạt.
1.3.


Nghĩa vụ và quyền của vợ chồng trong việc định đoạt tài sản chung

1.3.1

Vợ chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch do một bên thực
hiện

Vợ hoặc chồng đã xác lập một giao dịch dân sự hợp pháp
Trách nhiệm liên đới giữa vợ chồng sẽ phát sinh theo Điều 25 Luật HN & GĐ: “Vợ
hoặc chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự hợp pháp do một
trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình”.
Chúng ta có thể xác định một giao dịch dân sự nếu dựa vào Điều 122 BLDS: “Giao dịch
dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm
dứt quyền và nghĩa vụ dân sự”. Giao dịch dân sự do vợ hoặc chồng thực hiện sẽ phát sinh
trách nhiệm liên đới khi đảm bảo tính hợp pháp bao gồm các điều kiện sau:

10


Vợ hoặc chồng tham gia giao dịch phải có năng lực hành vi dân sự. Bản chất của
giao dịch dân sự là sự thống nhất ý chí và bày tỏ ý chí của các chủ thể tham gia giao dịch
nên căn cứ Điều 196 BLDS: “Vệc định đoạt tài sản phải do người có năng lực hành vi
dân sự thực hiện theo quy định của pháp luật”. Ngƣời có năng lực hành vi mới có ý chí
riêng và khả năng nhận thức đƣợc hành vi để tự mình xác lập, thực hiện các quyền, nghĩa
vụ phát sinh từ giao dịch. Giao dịch dân sự chỉ có giá trị khi do một ngƣời có đầy đủ năng
lực pháp luật và năng lực hành vi xác lập, thực hiện. Ngoài ra, giao dịch dân sự do cá
nhân xác lập chỉ có hiệu lực nếu phù hợp với mức độ năng lực hành vi của cá nhân đó từ
Điều 17 đến Điều 23 BLDS.
Giao dịch dân sự có hiệu lực khi mục đích và nội dung của giao dịch do một bên
vợ hoặc chồng xác lập với bên thứ ba không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Vi phạm

điều cấm của pháp luật là vi phạm những quy định pháp luật không cho phép chủ thể
thực hiện những hành vi nhất định và đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung
giữa ngƣời với ngƣời trong đời sống đƣợc cộng đồng thừa nhận và tôn trọng. Chủ thể
muốn đạt đƣợc mong muốn ban đầu khi xác lập giao dịch thì phải cam kết, thỏa thuận về
nội dung giao dịch. Ví dụ: một bên vợ hoặc chồng xác lập hợp đồng mua bán tài sản với
bên thứ ba thì mục đích của các bên hƣớng tới là quyền sở hữu tài sản. Để đạt đƣợc mục
đích này họ phải thỏa thuận về nội dung hợp đồng mua bán, bao gồm: đối tƣợng hợp
đồng, giá cả, thời hạn, địa điểm, phƣơng thức thực hiện hợp đồng. Ngoài ra, đối tƣợng tài
sản để vợ chồng và bên thứ ba xác lập giao dịch là những tài sản đƣợc phép giao dịch,
những công việc đƣợc phép thực hiện không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái
đạo đức xã hội. Nếu giao dịch mà các chủ thể đã xác lập có mục đích và nội dung khơng
hợp pháp nhƣ: nhằm trốn tránh nghĩa vụ dân sự hoặc trái đạo đức xã hội thì khơng làm
phát sinh hiệu lực cho giao dịch.
Ngƣời vợ hoặc chồng xác lập giao dịch và bên thứ ba tham gia giao dịch hoàn toàn
tự nguyện. Nguyên tắc “Tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận” đã đƣợc quy định tại
Điều 4 BLDS, do đó vi phạm sự tự nguyện của chủ thể là vi phạm pháp luật. Bản chất
của giao dịch dân sự là sự thống nhất ý chí và bày tỏ ý chí, cho nên “tự nguyện” bao gồm
các yếu tố cấu thành tự do ý chí và tự do bày tỏ ý chí. Giao dịch thiếu sự tự nguyện
không làm phát sinh hậu quả pháp lý nếu có các yếu tố sau: do giả mạo, do nhầm lẫn, do
bị lừa dối, bị đe dọa, do xác lập tại thời điểm mà không nhận thức và làm chủ đƣợc hành
vi của mình.

11


Hình thức giao dịch dân sự do vợ chồng xác lập phải phù hợp với quy định của
pháp luật. Các bên xác lập giao dịch liên quan định đoạt tài sản chung của vợ chồng cần
tuân thủ điều kiện về hình thức tại Điều 196 BLDS: “Trong trường hợp pháp luật có quy
định trình tự thủ tục định đoạt tài sản thì phải tn theo trình tự, thủ tục đó”. Một giao
dịch để đƣợc cơng nhận là có giá trị pháp lý và sẽ phát sinh hiệu lực nếu giao dịch đó

đƣợc xác lập dƣới hình thức phù hợp với quy định của pháp luật. Trong luật thực định
Việt Nam phần lớn các giao dịch quan trọng đều phải đƣợc lập thành văn bản nhƣ: hợp
đồng mua bán, hợp đồng tặng cho, hợp đồng cầm cố, hợp đồng cho vay, thế chấp… Nội
dung của giao dịch thể hiện bằng văn bản phải có chữ ký xác nhận của các bên chủ thể
cho nên hình thức này là chứng cứ xác định chủ thể tham gia vào một giao dịch dân sự rõ
ràng hơn so với trƣờng hợp giao dịch bằng lời nói. Ngồi ra, một số trƣờng hợp pháp luật
quy đinh giao dịch dân sự bắt buộc hợp đồng phải lập thành văn bản hoặc các bên thỏa
thuận phải có cơng chứng, chứng thực, đăng ký hoặc xin phép thì xác lập giao dịch các
bên phải tuân thủ hình thức, thủ tục đó nhƣ: hợp đồng mua bán nhà, hợp đồng chuyển
quyền sử dụng đất…
Giao dịch dân sự đã được xác lập không thuộc trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu
Về nguyên tắc, chỉ những giao dịch dân sự hợp pháp mới làm phát sinh quyền và
nghĩa vụ của các bên đồng thời đƣợc Nhà nƣớc bảo đảm thực hiện nên các bên cần tránh
các trƣờng hợp giao dịch dân sự vơ hiệu. Pháp luật hơn nhân gia đình khơng có quy định về
giao dịch vơ hiệu do vợ chồng đã xác lập, thực hiện nên căn cứ vào BLDS thì trƣờng hợp
giao dịch dân sự bị vơ hiệu bao gồm:
Giao dịch vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội (Điều
128 BLDS).
Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo (Điều 129 BLDS).
Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm các quy định bắt buộc về hình thức giao dịch
(Điều 134 BLDS).
Giao dịch dân sự do ngƣời chƣa thành niên, ngƣời mất năng lực hành vi dân sự,
ngƣời hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện (Điều 130 BLDS).
Giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn (Điều 131 BLDS).
Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa (Điều 132 BLDS).

12


Giao dịch dân sự vô hiệu do ngƣời xác lập khơng nhận thức và làm chủ đƣợc hành

vi của mình (Điều 133 BLDS).
Giao dịch dân sự mà vợ chồng đã thực hiện phải không thuộc các trƣờng hợp giao
dịch vô hiệu mới phát sinh quyền, nghĩa vụ pháp lý và có khả năng thực hiện trên thực tế.
Nếu vợ chồng xác lập giao dịch nhƣng sau đó là tịa án tun vơ hiệu thì hậu quả pháp lý
đƣợc giải quyết theo Điều 137 BLDS: “không làm phát sinh, thay đổi chấm dứt quyền và
nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập và các bên khôi phục lại tình trạng
ban đầu, hồn trả cho nhau những gì đã nhận”. Việc xác định giao dịch mà vợ chồng đã
xác lập có hợp pháp hay khơng có ý nghĩa quan trọng và đƣợc xem xét đầu tiên để áp dụng
chế định trách nhiệm liên đới giữa vợ và chồng.
Mục đích của giao dịch là đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình
Ngồi đảm bảo điều kiện tiền đề là giao dịch dân sự hợp pháp thì giao dịch cần phải
tuân thủ thêm điều kiện luật định về mục đích giao dịch. Một giao dịch dân sự đƣợc xác
lập và thực hiện chỉ bởi một bên vợ, chồng vẫn có thể ràng buộc bên cịn lại bằng trách
nhiệm liên đới nếu giao dịch đƣợc xác lập vì lợi ích chung của gia đình. Trừ trƣờng hợp
chia tài sản chung trong thời kỳ hơn nhân thì tài sản chung của vợ chồng là một khối
thống nhất do cơng sức đóng góp từ hai bên trong suốt q trình chung sống. Do đó, khi
vợ chồng thực hiện việc định đoạt tài sản chung trong một giao dịch dân sự thì ít nhiều
mục đích cuối cùng nhằm đáp ứng nhu cầu chung của gia đình.
Theo Điều 25 Luật HN & GĐ khi vợ chồng xác lập giao dịch dân sự xuất phát từ
mục đích là “nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình” thì trách nhiệm
liên đới sẽ phát sinh. Mỗi gia đình khác nhau thì nhu cầu sinh hoạt thiết và khơng có một
chuẩn mực chung để xác định nhu cầu sinh hoạt thiết yếu cho tất cả các gia đình.
Quan niệm thơng thƣờng thì nhu cầu sinh hoạt thiết yếu là chi phí cho cuộc sống
hằng ngày, cần thiết và hợp lý, bao gồm: chi phí cho việc ăn, mặc, ở, đi lại, học tập, khám
chữa bệnh, nâng cao nghề nghiệp, nuôi dạy con và các chi phí cho nhu cầu thiết yếu
khác. Nếu hiểu theo nghĩa rộng và dựa vào nguồn gốc chi trả cho nhu cầu sinh hoạt thiết
yếu thì: “việc chi dùng cho những nhu cầu sinh hoạt là hết sức cần thiết để đảm bảo cho
cuộc sống chung của gia đình được diễn ra một cách bình thường và phải được đảm bảo
bằng tài sản chung của vợ chồng”2.
2


Xem thêm Trần Thị Huệ, “Trách nhiệm liên đới vợ, chồng theo Điều 25 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000”, Tạp
chí Luật học số 6, năm 2000, tr.22-24.

13


Vấn đề xác định chi phí cho nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình khơng phải là
điều dễ dàng nên tác giả đƣa ra một vài tiêu chí để thuận tiện cho việc xác định: nguồn
thu nhập hàng tháng của gia đình, tập qn, lối sống và hồn cảnh sống của mỗi gia đình.
Nhu cầu sinh hoạt thiết yếu không phải là hiện bất biến mà sẽ thay đổi theo thời gian, bối
cảnh kinh tế, điều kiện thu nhập và có sự khác nhau giữa gia đình bình thƣờng với gia
đình giàu có.
Mối quan hệ giữa giao dịch dân sự hợp pháp và mục đích giao dịch là đáp ứng nhu
cầu thiết yếu
Giao dịch dân sự đƣợc xác lập đảm bảo điều kiện: giao dịch hợp pháp do một trong
hai bên vợ, chồng thực hiện và nhằm đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của gia đình thì trách
nhiệm liên đới giữa vợ chồng sẽ phát sinh. Giao dịch dân sự hợp pháp là nền tảng cho
việc thể hiện mục đích giao dịch đáp ứng nhu cầu thiết yếu nên hai điều kiện nằm trong
chỉnh thể thống nhất làm phát sinh trách nhiệm liên đới. Nếu thiếu một trong hai thuộc
tính là hợp pháp hoặc khơng đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu sẽ không làm phát sinh
trách nhiệm liên đới giữa vợ và chồng. Trên thực tế, chúng ta khó có thể xác định một
giao dịch dân sự hợp pháp hay mục đích giao dịch có chính đáng hay khơng nên cần phải
căn cứ vào từng trƣờng hợp cụ thể.
Hành vi pháp lý đơn phương
Hành vi pháp lý đơn phƣơng là giao dịch trong đó thể hiện ý chí của một bên nhằm
làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Pháp luật Việt Nam thừa
nhận hành vi pháp lý đơn phƣơng là một căn cứ xác lập nghĩa vụ dân sự và thông thƣờng
do một bên chủ thể tự xác lập. Vợ chồng định đoạt tài sản chung qua hành vi pháp lý đơn
phƣơng có thể làm phát sinh trách nhiệm liên đới giữa vợ và chồng. Trong cuộc sống hôn

nhân, vợ chồng có thể xác lập giao dịch liên quan tới tài sản chung bằng hành vi pháp lý
đơn phƣơng, chẳng hạn nhƣ: vợ chồng lập di chúc để lại tài sản chung cho con 3, vợ hoặc
chồng từ chối hƣởng di sản. Hành vi pháp lý đơn phƣơng của vợ chồng phải có nội dung
và hình thức phù hợp với điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự tại Điều 122 BLDS.
Hợp đồng dân sự
Trong cuộc sống hằng ngày của vợ chồng thì hợp đồng dân sự là giao dịch dân sự
phổ biến nhất, chứa đựng những thỏa thuận để xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền,
3

Xem them bài viết của Tiến sĩ Đỗ Văn Đại, “Trao đổi về bài: Một số vấn đề trao đổi về di chúc của một bên vợ
chồng định đoạt tài sản chung”, Tạp chí Tịa án nhân dân số (15/2010), tr.33-36.

14


nghĩa vụ về tài sản chung. Vợ chồng có thể tham gia vào hợp đồng dân sự có sự thống
nhất ý chí của hai bên tham gia trong một quan hệ cụ thể: hợp đồng mua bán, cho thuê…
hoặc hợp đồng có nhiều bên tham gia. Vợ chồng xác lập hợp đồng có quyền thỏa thuận
với bên thứ ba vì đây vừa là quyền vừa là nguyên tắc đặc trƣng của hợp đồng dân sự
trong tất cả các giai đoạn từ khâu giao kết đến lúc thực hiện hoặc sửa đổi, chấm dứt hợp
đồng. Trách nhiệm liên đới giữa vợ và chồng phát sinh khi các bên đã xác lập hợp đồng
có giá trị pháp lý và nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình.
Nội dung trách nhiệm liên đới giữa vợ và chồng
Pháp luật dân sự có những quy định chung về nghĩa vụ dân sự, thực hiện nghĩa vụ
dân sự và trách nhiệm dân sự còn trách nhiệm liên đới của vợ chồng đƣợc quy định trong
Luật HN & GĐ nhƣng chƣa có khái niệm. Quan điểm cá nhân của tác giả về trách nhiệm
liên đới của vợ chồng là loại trách nhiệm hình thành khi vợ chồng có nghĩa vụ dân sự
liên đới đối với bên thứ ba và khi đó bên thứ ba có quyền yêu cầu buộc vợ chồng phải
thực hiện toàn bộ hoặc một phần nghĩa vụ dân sự liên đới. Ngƣời đã xác lập giao dịch
với vợ chồng có quyền yêu cầu vợ chồng phải chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả

tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện hoặc khơng thực hiện một cơng việc nhất định vì lợi
ích của họ. Khi có yêu cầu trên một bên vợ chồng cịn lại mặc dù khơng tham gia vào
giao dịch nhƣng cũng phải gánh vác một phần trách nhiệm cùng với vợ hoặc chồng của
mình.
Giao dịch dân sự hợp pháp đã đƣợc vợ hoặc chồng xác lập nhƣng nghĩa vụ không
đƣợc thực hiện hoặc thực hiện khơng đầy đủ thì vợ chồng phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ
theo yêu cầu của bên thứ ba. Nghĩa vụ dân sự là quan hệ giữa “bên có quyền” và “bên có
nghĩa vụ” theo đó “bên có nghĩa vụ” phải tiến hành một cơng việc nhất định vì lợi ích
của bên có quyền. Nếu chỉ có một ngƣời có “quyền” hay “nghĩa vụ” mà khơng có ngƣời
có “nghĩa vụ” hay “quyền” tƣơng ứng thì không tồn tại nghĩa vụ dân sự4. Nhƣ vậy, trách
nhiệm liên đới sẽ phát sinh khi đảm bảo điều kiện tại Điều 25 Luật HN & GĐ đồng thời
phải tuân thủ các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự theo Điều 122 BLDS.
Về nguyên tắc, các giao dịch liên quan tới tài sản chung ln địi hỏi sự thống nhất ý
chí của cả hai vợ chồng nhƣng Điều 25 Luật HN & GĐ là một ngoại lệ cho phép một bên
vợ chồng đơn phƣơng xác lập giao dịch phục vụ cho cuộc sống gia đình. Quy định pháp
luật xuất phát từ cuộc sống vợ chồng thì khơng phải lúc nào họ cũng có cơ hội bàn bạc,
4

Xem thêm PGS.TS Đỗ Văn Đại, “Luật nghĩa vụ dân sự và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự - Bản án và bình luận
bản án”, NXB Chính trị quốc gia, Tập 1, tr.23.

15


thỏa thuận cùng với nhau và pháp luật cho rằng trong một số trƣờng hợp giữa vợ và
chồng có sự đồng thuận mặc nhiên. Một bên vợ chồng hoàn toàn có quyền định đoạt tài
sản chung trong các giao dịch hợp pháp với mục đích đáp ứng nhu cầu sinh hoạt hằng
ngày và có quyền yêu cầu vợ hoặc chồng của mình cùng chịu một phần trách nhiệm.
Quy định trên hoàn toàn hợp lý tạo cơ sở để đảm bảo cho cuộc sống gia đình hạnh
phúc, bền vững khi vợ chồng cùng nhau chia sẻ trách nhiệm. Trách nhiệm liên đới giữa

vợ và chồng cịn có ý nghĩa tăng cƣờng việc thực hiện nghĩa vụ của vợ chồng, góp phần
bảo vệ quyền lợi cho bên thứ ba đã xác lập giao dịch.
1.3.2 Quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc định đoạt tài sản chung của vợ
chồng
Căn cứ và nguyên tắc xác lập tài sản chung của vợ chồng
Tài sản chung của vợ chồng rất đa dạng khi đƣợc xác định theo hƣớng tài sản hình
thành trong thời kỳ hơn nhân hoặc theo thỏa thuận của vợ chồng. Thời kỳ hôn nhân của vợ
chồng đƣợc xác định dựa theo Khoản 7 Điều 8 Luật HN & GĐ: “khoảng thời gian tồn tại
quan hệ vợ chồng, tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân”. Tuy nhiên,
đối với ngoại lệ hơn nhân thực tế thì thời kỳ hôn nhân đƣợc quy định tại mục 3 Nghị quyết
35/2000/QH10 ngày 9/6/2000 và mục 1, 2, 3 Thông tƣ liên tịch số 01/2001/TTLTTANDTC-VKSNDTC-BTP và đƣợc tính từ ngày hai bên vợ chồng chung sống với nhau,
nếu việc sống chung này đáp ứng các điều kiện nhất định.
Nguyên tắc suy đoán pháp lý giúp xác định tài sản do vợ chồng tạo ra trong thời kỳ
hôn nhân đƣợc xem là tài sản chung của vợ chồng là cần thiết và hợp lý. Tài sản thƣờng
đƣợc xem là tài sản chung khi thỏa hai điều kiện: tài sản đƣợc hình thành từ con đƣờng hợp
pháp và khoảng thời gian trong thời kỳ hôn nhân. Việc quy định chế độ pháp lý đối với tài
sản chung sẽ giảm bớt tranh chấp tài sản giữa vợ và chồng đồng thời bảo vệ quyền lợi của
hai bên. Quyền sở hữu tài sản của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất mà trong đó phần
quyền của mỗi bên vợ chồng không xác định đƣợc, theo quan điểm tác giả tài sản chung
của vợ chồng là tài sản chung hợp nhất có thể phân chia. Xuất phát từ cơ sở luật định tại
Điều 29 Luật HN & GĐ cho phép vợ chồng chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân và
Khoản 4 Điều 219 BLDS quy định: “Tài sản chung của vợ chồng có thể phân chia theo
thỏa thuận hoặc theo quyết định của Tòa án”. Nhóm các tài sản chung của vợ chồng theo
Điều 27 Luật HN & GĐ bao gồm:
Tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh.
16


Các khoản thu nhập khác do vợ chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân.
Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung.

Những tài sản khác mà vợ, chồng thỏa thuận là tài sản chung.
So với Điều 14 Luật HN & GĐ năm1986 thì Luật HN & GĐ năm 2000 có quy định
thêm nhóm tài sản chung là những tài sản khác mà vợ, chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Với quy định của pháp luật hiện hành thì tài sản chung của vợ chồng đƣợc mở rộng, vợ
chồng có thể chủ động quyết định và đi đến thỏa thuận đâu là tài sản chung, đâu là tài sản
riêng. Pháp luật hơn nhân gia đình tôn trọng sự thỏa thuận giữa vợ chồng giúp quyền định
đoạt tài sản chung của họ trở nên dễ dàng hơn, ít xảy ra tranh chấp sau khi có sự thỏa thuận
thống nhất, rõ ràng.
Việc định đoạt tài sản chung của vợ chồng
Định đoạt tài sản chung của vợ chồng có thể hiểu là ngƣời vợ hoặc ngƣời chồng đã
bằng hành vi thực tế của mình tác động trực tiếp tới số phận pháp lý của vật (vật ở đây
chính là tài sản chung của vợ chồng). Trong việc định đoạt số phận pháp lý của tài sản
chung thì vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng phải thiết lập với chủ thể khác một giao dịch
dân sự để đƣợc hƣởng quyền hay phải thực hiện nghĩa vụ.
Theo quy định của pháp luật dân sự thì việc định đoạt tài sản phải do ngƣời có năng
lực hành vi dân sự thực hiện, nghĩa là vợ và chồng xác lập giao dịch phải có năng lực hành
vi dân sự. Khi vợ hoặc chồng có năng lực pháp luật và năng lực hành vi thì sẽ có tƣ cách
chủ thể tham gia xác lập, thực hiện một giao dịch cụ thể. Trừ ngoại lệ ngƣời vợ chƣa thành
niên thì vợ chồng có năng lực hành vi đầy đủ khi đạt độ tuổi từ đủ 18 tuổi trở lên. Hiện tại,
pháp luật hôn nhân gia đình chỉ cơng nhận ngƣời phụ nữ 17 tuổi 1 ngày có thể kết hơn
nhƣng chƣa có quy định về việc ngƣời này sẽ thực hiện việc định đoạt tài sản nhƣ thế nào.
Cần thiết có quy định bổ sung cho Luật HN & GĐ về trƣờng hợp ngoại lệ cơng nhận ngƣời
vợ 17 tuổi 1 ngày có đầy đủ quyền định đoạt tài sản chung của vợ chồng.
Căn cứ vào giá trị tài sản sẽ định đoạt trong giao dịch dân sự mà vợ hoặc chồng có thể
lựa chọn các phƣơng thức định đoạt tài sản chung khác nhau có thể là phƣơng thức đơn
giản hoặc phƣơng thức phức tạp với trình tự thủ tục luật định. Trong những trƣờng hợp tài
sản có giá trị nhỏ (chủ yếu là động sản) việc thực hiện quyền định đoạt của vợ chồng có thể
bằng phƣơng thức đơn giản: thỏa thuận miệng, chuyển giao ngay tài sản… Trong trƣờng
hợp pháp luật có quy định trình tự thủ tục u cầu giao dịch tuân thủ phƣơng thức và thủ
17



tục nhất định thì các bên giao dịch phải tuân theo những quy định đó. Ví dụ: khi bán một
ngơi nhà là tài sản chung hợp nhất của vợ, chồng phải có sự đồng ý bằng văn bản thể hiện
bằng chữ ký hoặc có ủy quyền của một bên vợ chồng. Pháp luật quy định nhằm bảo đảm
cho vợ, chồng đƣợc bình đẳng trong việc định đoạt tài sản chung, xóa bỏ chế độ gia trƣởng
trong gia đình.
Về ngun tắc, các bên tham gia giao dịch thực hiện quyền định đoạt đối với tài sản
sẽ làm thay đổi hoặc chấm dứt các quan hệ pháp luật có liên quan đến tài sản đó. Ở mức độ
tƣơng ứng về quyền và nghĩa vụ thì việc định đoạt tài sản chung của vợ chồng cũng làm
thay đổi hoặc chấm dứt quyền sở hữu của vợ, chồng đối với tài sản chung. Ví dụ: vợ hoặc
chồng quyết định là tiêu dùng hết tài sản thì sẽ chấm dứt quyền sở hữu đối với tài sản. Còn
nếu bán tài sản chung của vợ, chồng cho bên thứ ba thì chấm dứt quyền sở hữu của vợ,
chồng đối với tài sản chung nhƣng lại phát sinh quyền sở hữu đối với ngƣời ngƣời mua tài
sản đó.
Vợ và chồng ngang nhau về quyền và nghĩa vụ trong việc định đoạt
Trong quan hệ gia đình thì vợ và chồng đều bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ.
Vợ chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong định đoạt tài sản chung có nghĩa là việc
định đoạt tài sản chung do ngƣời vợ hay ngƣời chồng thực hiện đều có giá trị pháp lý nhƣ
nhau và cả hai vợ chồng đều có trách nhiệm ngang nhau. Vợ chồng có tồn quyền định
đoạt đối với tài sản chung mà khơng ai có quyền ngăn cản. Nhƣ vậy, khi hơn nhân cịn
đang tồn tại thì khơng thể xác định đƣợc phần tài sản cụ thể nào của ngƣời vợ hay ngƣời
chồng trong khối tài sản chung nên họ có quyền và nghĩa vụ ngang nhau khi chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt tài sản chung.
Quyền định đoạt tài sản chung của vợ chồng có một số ngoại lệ vì lợi ích chung của
xã hội và để đảm bảo ổn định giao lƣu dân sự trong một số trƣờng hợp nhất định tại Điều
199 BLDS là trƣờng hợp kê biên hoặc tài sản đã đƣợc dùng để bảo đảm cho việc thực hiện
nghĩa vụ dân sự. Nếu các quan hệ đặt cọc, thế chấp chấm dứt, quyết định kê biên tài sản
chung của vợ, chồng đƣợc cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền khơng cịn hiệu lực thì quyền
định đoạt tài sản chung của vợ chồng đƣợc khôi phục. Vợ chồng có thể lựa chọn bên thứ ba

để thực hiện các giao dịch trừ trƣờng hợp tài sản đem bán hoặc đem đổi là cổ vật, di tích
lịch sử, văn hóa thì Nhà nƣớc có quyền ƣu tiên mua.
Ủy quyền định đoạt tài sản chung của vợ, chồng

18


Pháp luật tạo điều kiện thuận lợi cho vợ chồng xác lập giao dịch dân sự thông qua
việc ủy quyền định đoạt Điều 24 Luật HN & GĐ: “Vợ chồng có thể ủy quyền cho nhau xác
lập, thực hiện và chấm dứt các giao dịch mà theo quy định của pháp luật phải có sự đồng ý
của cả vợ chồng; việc ủy quyền phải được lập thành văn bản”. Bên đƣợc ủy quyền có
trách nhiệm thực hiện giao dịch theo cách thức, phƣơng pháp phù hợp với ý chí và lợi ích
của bên ủy quyền. Ngồi ra, bên đƣợc ủy quyền phải thực hiện đầy đủ nội dung đƣợc yêu
cầu, nếu việc định đoạt tài sản chung ngoài phạm vi ủy quyền thì bên đƣợc ủy quyền phải
hồn tồn chịu trách nhiệm.
Nhƣ vậy, một bên vợ chồng hồn tồn có thể xác lập giao dịch mà pháp luật bắt quy
định phải đƣợc thể hiện bằng văn bản và phải có chữ ký của cả hai vợ chồng khi có sự ủy
quyền của bên cịn lại. Quy định vợ chồng có thể ủy quyền cho nhau xác lập, thực hiện,
chấm dứt giao dịch kế thừa tinh thần pháp luật hôn nhân gia đình các giai đoạn trƣớc: Việc
mua bán, cầm cố tài sản mà pháp luật quy định phải có hợp đồng viết, thì vợ chồng đều
phải ký vào hợp đồng và nếu chỉ có một bên ký thì phải có ủy nhiệm của vợ, chồng mình ký
thay5.
Vợ, chồng ngang nhau trong việc định đoạt tài sản chung để lại di sản thừa kế
Xuất phát từ nguyên tắc chung của Luật HN & GĐ là bình đẳng giữa vợ và chồng nên
việc định đoạt tài sản chung trong thừa kế vẫn thể hiện sự bình đẳng. Trong khoảng thời
gian quan hệ hơn nhân đang tồn tại thì vợ chồng có quyền ngang nhau về việc định đoạt để
lại tài sản (di sản) thừa kế từ khối tài sản chung hoặc lập di chúc chung theo Điều 663
BLDS: “Vợ, chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung”.
Trong một số trƣờng hợp vợ hoặc chồng lập di chúc riêng để định đoạt di sản thừa kế
trong tài sản chung thì chỉ định đoạt tài sản thừa kế trong phạm vi tài sản thuộc phần sở

hữu của ngƣời vợ hoặc chồng mà không thể định đoạt hết khối tài sản chung. Bởi lẽ, di
chúc là ý nguyện của ngƣời để lại di sản thừa kế nên mặc dù là vợ chồng nhƣng khơng thể
có cùng chung ý nguyện đến mức tuyệt đối. Hơn nữa, di sản thừa kế có quan hệ mật thiết
với phần tài sản còn lại của bên vợ, chồng cịn sống vì nó đƣợc trích trong khối tài sản
chung nên cần có sự phân định rõ ràng để tránh tranh chấp sau này.

5

Xem thêm Nghị quyết 01/HĐTP-TANDTC ngày 20/1/1988, Hƣớng dẫn thi hành Luật HN & GĐ năm 1986.

19


1.3.3

Định đoạt tài sản chung của vợ chồng để đáp ứng các nhu cầu chung

của gia đình và thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng
Định đoạt tài sản chung để đáp ứng các nhu cầu chung của gia đình
Giữa “nhu cầu sinh hoạt thiết yếu” và “nhu cầu chung” của gia đình có điểm chung
là đều thể hiện những mong muốn, nguyện vọng của các thành viên trong gia đình về vật
chất và tinh thần. Nếu nhƣ nhu cầu sinh hoạt thiết yếu là những đòi hỏi, những điều kiện
cần phải có để đáp ứng cho đời sống hằng ngày về ăn, ở, học hành, khám chữa bệnh cho
các thành viên trong gia đình thì nhu cầu chung của gia đình có nội hàm rộng hơn. Bất cứ
nhu cầu nào đáp ứng những địi hỏi cho cả gia đình thì đƣợc xem là nhu cầu chung bao
gồm: chi phí cho sinh hoạt hằng ngày, đầu tƣ kinh doanh, phát triển kinh tế gia đình, xây
dựng nhà ở... Ngồi ra, các nhu cầu chung trong gia đình thƣờng gặp nhƣ: ăn, ở, mua sắm
đồ dùng sinh hoạt, tƣ liệu sản xuất… phục vụ cho cuộc sống các thành viên trong gia đình
đảm bảo phát triển về thể chất và tinh thần.
Trên thực tế, tài sản chung của vợ chồng đƣợc hình thành từ cơng sức đóng góp của

cả hai vợ, chồng trong suốt thời kỳ hơn nhân. Chính vì vậy, mục đích sử dụng tài sản
chung của vợ chồng, trƣớc hết nhằm để thỏa mãn nhu cầu của chính ngƣời tạo ra tài sản
và sau đó là các thành viên khác trong gia đình.
Định đoạt tài sản chung để thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng
Nghĩa vụ tài sản chung của vợ chồng là bổn phận, trách nhiệm của cả hai vợ chồng
bắt buộc phải thực hiện đối với bên thứ ba thông qua tài sản chung. Vợ, chồng không
đƣợc định đoạt các tài sản chung để thỏa mãn các nhu cầu riêng tƣ của mình hoặc thực
hiện các nghĩa vụ riêng, các bên chỉ có thể thực hiện điều này khi có sự thỏa thuận của cả
hai vợ chồng. Nếu một bên vợ, chồng tự ý dùng tài sản chung để chi trả cho nhu cầu
riêng hay nghĩa vụ riêng phải có trách nhiệm hồn trả vào khối tài sản chung.
Trong thực tế rất khó kiểm sốt hết tính minh bạch trong việc quyết định tài sản
chung của một bên vợ chồng. Sự bất đồng quan điểm phát sinh tranh chấp giữa mục đích
của việc định đoạt tài sản chung là thỏa mãn nhu cầu cá nhân hay đáp ứng nhu cầu chung
của gia đình. Căn cứ để xác định nhu cầu cá nhân hay nhu cầu chung nên dựa vào số
lƣợng thành viên trong gia đình đƣợc lợi ích khi xác lập giao dịch nhƣng cách xác định
này khơng phải lúc nào cũng chính xác mà phải dựa vào từng trƣờng hợp cụ thể.

20


×