Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Hình phạt tiền trong pháp luật hình sự việt nam dƣới góc độ so sánh với quy định của pháp luật một số nƣớc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.35 MB, 119 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÌNH SỰ
****0O0****

LÊ THỊ DUNG

HÌNH PHẠT TIỀN TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
DƢỚI GĨC ĐỘ SO SÁNH VỚI QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT MỘT SỐ NƢỚC

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Chuyên ngành Luật Hình sự

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÌNH SỰ
****0O0****

Ƣ

LÊ THỊ DUNG
MSSV: 1155030027

HÌNH PHẠT TIỀN TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
DƢỚI GĨC ĐỘ SO SÁNH VỚI QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT MỘT SỐ NƢỚC


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Niên khóa: 2011 - 2015

Giảng viên hƣớng dẫn:
ThS. NGUYỄN THỊ ÁNH HỒNG

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên là Lê Thị Dung – sinh viên Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh,
Khoa Luật Hình sự, Khóa 36 (2011 – 2015), là tác giả của khóa luận tốt nghiệp Cử
nhân Luật – Chuyên ngành Luật hình sự – Đề tài: “Hình phạt tiền trong pháp luật
hình sự Việt Nam dƣới góc độ so sánh với quy định của pháp luật một số nƣớc”
được trình bày trong tài liệu này (say đây gọi là “Khóa luận”).
Tơi xin cam đoan tất cả nội dung trong khóa luận này hồn tồn được hình
thành và phát triển từ những quan điểm cá nhân của tôi, dưới sự hướng dẫn khoa
học của ThS. Nguyễn Thị Ánh Hồng – Giảng viên Khoa Luật Hình sự, Trường Đại
học Luật Tp. Hồ Chí Minh.
Trong khóa luận có trích dẫn, sử dụng một số ý kiến, quan điểm khoa học của
một số tác giả. Sự trích dẫn được thể hiện trong danh mục tài liệu tham khảo và tuân
thủ các quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ. Các kết quả có được trong khóa luận
này là hồn tồn trung thực.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày

tháng

Sinh viên thực hiện

Lê Thị Dung


năm 2015


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành khóa luận tốt ngiệp của mình, ngồi sự cố gắng nỗ lực của bản
thân, tác giả đã nhận được nhiều sự giúp đỡ, ủng hộ từ quý Thầy Cô và các bạn.
Trước tiên, tác giả gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Giảng viên – ThS. Nguyễn Thị
Ánh Hồng, Cô đã giành nhiều thời gian, cơng sức và hết lịng tận tụy giúp đỡ tác
giả trong suốt q trình làm khóa luận.
Tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành đến quý Thầy Cô Trường Đại học Luật
Tp. Hồ Chí Minh đã dạy dỗ truyền đạt kiến thức cho tác giả cũng như các bạn sinh
viên. Đồng thời, tác giả xin cảm ơn sự giúp đỡ, ủng hộ của gia đình, bạn bè trong
thời gian làm khóa luận.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện đề tài một các hồn chỉnh nhất, song
khơng thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định mà bản thân chưa thấy được, tác giả
mong nhận được sự góp ý từ Thầy Cơ và các bạn để khóa luận được hoàn chỉnh
hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT

NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT

BLHS

Bộ luật hình sự


CHLB

Cộng hịa liên bang


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ HÌNH PHẠT TIỀN ......................................... 1
1.1 Những vấn đề lý luận về hình phạt tiền ........................................................ 1
1.1.1 Khái quát chung về hình phạt ................................................................. 1
1.1.1.1 Khái niệm hình phạt ............................................................................. 1
1.1.1.2 Khái niệm hệ thống hình phạt .............................................................. 9
1.1.2 Lý luận chung về hình phạt tiền ............................................................ 11
1.1.2.1 Định nghĩa hình phạt tiền .................................................................. 11
1.1.2.2 Đặc điểm của hình phạt tiền .............................................................. 12
1.1.2.3 Vị trí, ý nghĩa của hình phạt tiền........................................................ 13
1.1.2.4 Mục đích của hình phạt tiền ............................................................... 14
1.2 Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về hình phạt tiền ................... 15
1.2.1 Quy định về hình phạt tiền từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến
trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 ............................................... 15
1.2.2 Quy định về hình phạt tiền trong Bộ luật hình sự 1985 ........................ 19
1.2.3 Quy định về hình phạt tiền trong Bộ luật hình sự 1999 ........................ 21
1.2.3.1 Điều kiện và phạm vi áp dụng hình phạt tiền .................................... 21
1.2.3.2 Mức phạt tiền và cách thức nộp phạt ................................................. 32
1.2.3.3 Các quy định khác trong Phần chung của Bộ luật hình sự liên quan
đến hình phạt tiền ........................................................................................... 34
CHƢƠNG 2: HÌNH PHẠT TIỀN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ MỘT SỐ NƢỚC – KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM DƢỚI GÓC

ĐỘ SO SÁNH .......................................................................................................... 39
2.1 Hình phạt tiền trong pháp luật hình sự Hoa Kỳ ........................................ 39
2.1.1 Khái quát chung về hình phạt tiền trong pháp luật hình sự Hoa Kỳ .... 39
2.1.2 Những điểm tương đồng và khác biệt về hình phạt tiền ....................... 40
2.2 Hình phạt tiền trong pháp luật hình sự Cộng hịa Pháp ........................... 41


2.2.1 Khái quát chung về hình phạt tiền trong pháp luật hình sự Cộng hịa
Pháp ............................................................................................................... 41
2.2.2 Những điểm tương đồng và khác biệt về hình phạt tiền ....................... 41
2.3 Hình phạt tiền trong pháp luật hình sự Cộng hịa liên bang Đức ............ 42
2.3.1 Khái quát chung về hình phạt tiền trong pháp luật hình sự Cộng hịa
liên bang Đức ................................................................................................. 42
2.3.2 Những điểm tương đồng và khác biệt về hình phạt tiền ....................... 43
2.4 Hình phạt tiền trong pháp luật hình sự Liên bang Nga ............................ 45
2.4.1 Khái quát chung về hình phạt tiền trong pháp luật hình sự Liên bang
Nga ................................................................................................................. 45
2.4.2 Những điểm tương đồng và khác biệt về hình phạt tiền ....................... 45
2.5 Hình phạt tiền trong pháp luật hình sự Trung Quốc ................................ 47
2.5.1 Khái quát chung về hình phạt tiền trong pháp luật hình sự Trung Quốc47
2.5.2 Những điểm tương đồng và khác biệt về hình phạt tiền ....................... 47
2.6 Hình phạt tiền trong pháp luật hình sự một số nƣớc khác ....................... 48
2.6.1 Trong pháp luật hình sự Thụy Điển ...................................................... 48
2.6.2 Trong pháp luật hình sự Vương quốc Anh ............................................ 50
2.6.3 Trong pháp luật hình sự Tây Ban Nha .................................................. 51
2.6.4 Trong pháp luật hình sự Singapore ...................................................... 53
2.7 Đánh giá so sánh tổng quát .......................................................................... 54
CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM
HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA HÌNH PHẠT TIỀN ............................................ 59

3.1 Thực tiễn áp dụng các quy định về hình phạt tiền và những hạn chế,
vƣớng mắc............................................................................................................ 59
3.1.1 Thực tiễn áp dụng các quy định về hình phạt tiền từ năm 2010 đến năm
2014 trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh ................................................... 59
3.1.2 Những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng hình phạt tiền .... 61
3.2 Một số kiến nghị nhằm hồn thiện quy định về hình phạt tiền ................ 66
3.2.1 Hồn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về hình phạt
tiền .................................................................................................................. 66


3.2.2 Các giải pháp nâng cao hiệu quả của pháp luật về hình phạt tiền....... 71
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tội phạm là một hiện tượng xã hội tiêu cực có tính nguy hiểm cao cho xã hội,
mang tính lịch sử và bản chất giai cấp sâu sắc. Đấu tranh phòng chống tội phạm, ổn
định trật tự xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân là nhiệm vụ của
bất kỳ nhà nước nào trong bất kỳ xã hội nào. Chính sách hình sự của Nhà nước ta
đối với tội phạm là trừng trị kết hợp với cải tạo, giáo dục cảm hóa; thơng qua hình
phạt để răn đe, giáo dục, cảm hóa cải tạo người phạm tội trở thành người lương
thiện; qua đó bồi dưỡng mọi cơng dân tinh thần, ý thức làm chủ xã hội, ý thức tuân
thủ pháp luật, chủ động tích cực tham gia đấu tranh phòng và chống tội phạm.
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị đã đề ra một
trong những phương hướng, nhiệm vụ quan trọng của Chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020 là “Hồn thiện chính sách, pháp luật hình sự và dân sự phù hợp với
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân... hoàn thiện các
thủ tục tố tụng tư pháp”. Để thực hiện được nhiệm vụ trên, Nghị quyết xác định:
“Sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp phù hợp mục
tiêu của chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Coi trọng việc hồn
thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phịng ngừa và
tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng áp
dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm.
Hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hướng chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng...”. Một trong những quan điểm của Đảng và Nhà nước
ta về cải cách tư pháp được thể hiện rõ trong Nghị quyết: “Cải cách tư pháp phải kế
thừa truyền thống pháp lý dân tộc, những thành tựu đã đạt được của nền tư pháp xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của nước ngoài
phù hợp với hoàn cảnh nước ta và yêu cầu chủ động hội nhập quốc tế; đáp ứng được
xu thế phát triển của xã hội trong tương lai”. Xuất phát từ phương hướng, nhiệm vụ
và quan điểm có tính chất chỉ đạo chiến lược đó đã đặt ra yêu cầu và đòi hỏi phải
nghiên cứu khơng chỉ ở trong nước mà cịn có thể chọn lọc, tiếp thu những kinh
nghiệm của pháp luật hình sự nước ngồi để góp phần hồn thiện hệ thống hình
phạt trong pháp luật hình sự Việt Nam cũng như xây dựng nền tư pháp dân chủ,
nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ
quốc.


Hình phạt tiền được quy định khá sớm trong pháp luật hình sự Việt Nam,
khơng chỉ thể hiện bản chất nhân đạo của pháp luật hình sự mà cịn có vai trị rất
quan trọng trong hệ thống hình phạt, góp phần tạo nên tính đa dạng, thống nhất và
hồn thiện của hệ thống hình phạt. BLHS năm 1999 có những quy định tiến bộ và
mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt tiền so với BLHS trước đó. Đặc biệt, Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2009 đã có những bổ sung nhất định nhằm
hồn thiện quy định về hình phạt này.
Mặc dù mang bản chất nhân đạo cao cả, khả năng cải tạo, giáo dục người

phạm tội cao, có vị trí quan trọng trong hệ thống hình phạt, hình phạt tiền vẫn chưa
được quan tâm đúng mức trong pháp luật hình sự nước ta. Trong quy định của pháp
luật còn nhiều vướng mắc, hạn chế: những quan điểm về hình phạt tiền chưa thật sự
thống nhất, chưa đưa ra giải pháp bảo đảm khả năng thực thi hình phạt này, vị trí và
vai trị của nó chưa được đánh giá đúng; trong thực tiễn xét xử, hình phạt tiền cịn ít
được Tịa án áp dụng, việc thi hành còn nhiều bất cập, thiếu hiệu quả chưa tương
xứng với vị trí, vai trị của hình phạt tiền trong hệ thống hình phạt.
Vì vậy, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về hình phạt tiền, tiến hành so
sánh với quy định của pháp luật hình sự một số nước trên thế giới và đồng thời đánh
giá việc áp dụng hình phạt tiền trong thực tiễn để đưa ra những giải pháp góp phần
hồn thiện BLHS và nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt tiền, khơng những có ý
nghĩa lý luận – thực tiễn và pháp lý quan trọng mà cịn là vấn đề mang tính cấp
thiết.
Những phân tích trên lý giải cho việc tác giả quyết định lựa chọn đề tài “Hình
phạt tiền trong pháp luật hình sự Việt Nam dƣới góc độ so sánh với quy định
của pháp luật một số nƣớc” làm khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong khoa học luật hình sự đã có một số cơng trình nghiên cứu về hình phạt
tiền như: Tìm hiểu tội phạm và hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam, NXB
Phương Đông, năm 2010 của tác giả Đinh Văn Quế – Thạc sĩ Luật học, Thành viên
Hội đồng Thẩm phán, Chánh tịa Tịa hình sự Tịa án nhân dân tối cao; Hình phạt bổ
sung trong luật hình sự Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, năm 2011, của Tiến sĩ
Trịnh Quốc Toản; Hình phạt tiền trong Luật hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ
Luật học, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, năm 2008, của tác giả Nguyễn
Hồng Lâm; Các hình phạt khơng tước tự do trong luật hình sự Việt Nam, Luận văn
Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2010, của tác giả Lê


Khánh Hưng; “So sánh quy định về hệ thống hình phạt trong luật hình sự Việt Nam
và luật hình sự Trung Quốc” của tác giả Phạm Văn Báu, Tạp chí Luật học, số 08,

năm 2013; Thạc sĩ Dỗn Trung Đồn với “Hồn thiện các quy định về hình phạt
tiền của Bộ luật hình sự Việt Nam”, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 18, năm 2013...
Các cơng trình khoa học nói trên đã gợi mở cho tác giả nhiều ý tưởng khoa học, là
những tài liệu rất bổ ích và giá trị được tác giả sử dụng trong quá trình nghiên cứu
đề tài.
Tuy nhiên, hình phạt tiền vẫn chưa được quan tâm đúng mức, các nghiên cứu
về hình phạt tiền mới chỉ đề cập, tập trung nghiên cứu chung hoặc có nghiên cứu
dưới góc độ so sánh với các nước khác trên thế giới nhưng còn khái quát và chưa
thật đầy đủ. Cho đến nay chưa có cơng trình nào nghiên cứu tồn diện, có hệ thống
và so sánh với quy định của pháp luật hình sự nước ngồi về hình phạt tiền để trên
cơ sở đó rút ra những kinh nghiệm, học hỏi cho pháp luật hình sự nước ta và đưa ra
được những giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật cũng như nâng cao hiệu
quả áp dụng hình phạt này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là trên cơ sở nghiên cứu và nhận thức toàn
diện các vấn đề lý luận, phân tích các quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng
hình phạt tiền; so sánh quy định của pháp luật hình sự nước ta với quy định của
pháp luật hình sự nước ngồi về hình phạt này. Từ đó, học hỏi, tham khảo chọn lọc
quy định của pháp luật hình sự nước ngồi nhằm góp phần hồn thiện quy định của
luật hình sự nước ta về hình phạt tiền và đề xuất một số kiến nghị, giải pháp hoàn
thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng trên thực tiễn. Mặt khác, nhằm đáp ứng yêu cầu
của cải cách tư pháp của nước ta cũng như phù hợp với xu thế thế giới khi quy định
và áp dụng hình phạt tiền.
Để đạt được mục đích đó, nhiệm vụ nghiên cứu khóa luận đặt ra: nghiên cứu,
làm rõ cơ sở lý luận và phân tích, đánh giá các quy định của BLHS về hình phạt
tiền. Tiến hành so sánh các quy định của pháp luật hình sự nước ta với quy định của
pháp luật hình sự nước ngồi; nghiên cứu thực tiễn áp dụng hình phạt tiền. Qua đó,
tác giả đưa ra một số kiến nghị và giải pháp nhằm hồn thiện hơn nữa quy định về
hình phạt này.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của khóa luận tốt nghiệp là nghiên cứu hình phạt tiền
trong pháp luật hình sự Việt Nam dưới góc độ so sánh với quy định của pháp luật
một số nước trên thế giới.


Phạm vi nghiên cứu là khái quát những vấn đề lý luận về hình phạt tiền, tiến
hành so sánh quy định của pháp luật hình sự nước ta với quy định của pháp luật
hình sự một số nước về hình phạt này và khảo sát, đánh giá thực tiễn áp dụng trên
địa bàn Tp. Hồ Chí Minh trong những năm 2010 – 2014.
5. Các phƣơng pháp tiến hành nghiên cứu
Để thực hiện đề tài khóa luận này, tác giả dựa trên cơ sở phương pháp luận
của Chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngoài ra,
việc nghiên cứu đề tài cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên
ngành như phương pháp phân tích, so sánh, lịch sử, thống kê, tổng hợp. Phương
pháp lịch sử được tác giả sử dụng chủ yếu ở Chương 1, đặc biệt là phần nói về q
trình phát triển các quy định về hình phạt tiền trong pháp luật hình sự Việt Nam.
Trong Chương 2, phương pháp phân tích và phương pháp so sánh được tác giả sử
dụng chủ yếu để nói về quy định về hình phạt tiền trong pháp luật hình sự một số
nước và so sánh với quy định của pháp luật Việt Nam, từ góc độ so sánh đó rút ra
kinh nghiệm cho Việt Nam. Ở Chương 3, tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp
thống kê, tổng hợp để thấy được thực trạng áp dụng hình phạt tiền và phương pháp
phân tích để phân tích những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng hình phạt
tiền, trên cơ sở đó đưa ra kiến nghị, giải pháp để hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp
dụng hình phạt tiền.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận
Nghiên cứu hình phạt tiền một cách tồn diện và có hệ thống trên cơ sở lý luận
và thực tiễn công tác xét xử trong những năm qua. Từ đó đưa ra những giải pháp
nhằm hồn thiện chế định hình phạt tiền và nâng cao hiệu quả áp dụng của hình
phạt này. Vì vậy, khi đề tài khóa luận này được hồn thành sẽ có ý nghĩa cả về lý
luận và thực tiễn:

Ý nghĩa lý luận: khóa luận góp phần làm cơ sở cho các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền tham khảo trong việc sửa đổi, bổ sung BLHS trong thời gian tới.
Ý nghĩa thực tiễn: khóa luận sẽ là nguồn tài liệu tham khảo có giá trị thuyết
phục cho hoạt động học tập, nghiên cứu và giảng dạy các môn học liên quan đến
pháp luật hình sự về hình phạt tiền.
7. Bố cục tổng qt của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
khóa luận tốt nghiệp gồm 3 chương:


Chương 1: Những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật hình sự Việt Nam
về hình phạt tiền;
Chương 2: Hình phạt tiền theo quy định của pháp luật hình sự một số nước –
kinh nghiệm cho Việt Nam dưới góc độ so sánh;
Chương 3: Thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định
của pháp luật hình sự Việt Nam và nâng cao hiệu quả của hình phạt tiền.
Mặc dù tác giả đã rất cố gắng để hồn thành tốt khóa luận này với mong muốn
đề tài mà mình nghiên cứu sẽ mang lại nhiều ý nghĩa trong khoa học pháp lý cũng
như trong thực tiễn nhưng với trình độ nghiên cứu, khả năng lý luận chưa thật vững
chắc, do đó khóa luận sẽ cịn nhiều hạn chế, thiếu sót. Tác giả mong nhận được
những ý kiến đánh giá, nhận xét và góp ý từ phía Thầy Cơ và các bạn sinh viên để
tác giả có thể chỉnh sửa, khắc phục những sai sót, rút ra được những kinh nghiệm
quý báu trong nghiên cứu chuyên môn và thực tiễn công tác sau này.


Chƣơng1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM VỀ HÌNH PHẠT TIỀN
1.1 Những vấn đề lý luận về hình phạt tiền
1.1.1 Khái quát chung về hình phạt

1.1.1.1 Khái niệm hình phạt
 Định nghĩa hình phạt
Hình phạt cùng với tội phạm là hai chế định cơ bản và quan trọng nhất trong
BLHS. Trong khoa học luật hình sự nước ngồi và Việt Nam xung quanh khái niệm
hình phạt, giữa các nhà hình sự học vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau.
Trong khoa học luật hình sự nước ngồi, cụ thể là trong khoa học luật hình sự
Liên bang Nga có những quan điểm: i) Hình phạt – Biện pháp cưỡng chế của Nhà
nước do Tòa án nhân danh áp dụng đối với người có lỗi trong việc thực hiện tội
phạm nhằm mục đích ngăn ngừa chung và ngăn ngừa riêng (Natasev A.E.,
Xtruchoov H.A., Nơi I.X., Bêlaev N.A); ii) Hình phạt – Sự trừng trị, tức là gây cho
người có tội những sự đau đớn và những sự tước đoạt do luật định mà người đó
phải chịu (Đementre X.I.); iii) Hình phạt – Một trong những biện pháp đấu tranh
chống tội phạm mà nội dung của nó là kết hợp thuyết phục với cưỡng chế (Karpetx
I.I.)1.
Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, về khái niệm hình phạt: i) GS. TS. Đỗ
Ngọc Quang có quan điểm hình phạt là biện pháp cưỡng chế rất nghiêm khắc của
Nhà nước được quy định trong luật hình sự do Tòa án áp dụng đối với người phạm
tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế những quyền và mục đích nhất định với mục đích
cải tạo giáo dục người phạm tội và ngăn ngừa tội phạm, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; ii) PGS. TS. Võ Khánh
Vinh cho rằng, hình phạt là biện pháp cưỡng chế do Tịa án quyết định trong bản án
đối với người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm và được thể hiện ở việc tước đoạt
hoặc hạn chế quyền và lợi ích do pháp luật quy định đối với người bị kết án và iii)
hình phạt là biện pháp cưỡng chế Nhà nước được luật hình sự quy định và do Tịa
án áp dụng có nội dung tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội
nhằm trừng trị, giáo dục họ, cũng như nhằm giáo dục người khác tơn trọng pháp

1

Lê Cảm (2007), “Hình phạt và Hệ thống hình phạt”, Tạp chí Tịa án nhân dân, (14), tr. 10.


1


luật, đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm – quan điểm của PGS. TS. Nguyễn
Ngọc Hòa và TS. Lê Thị Sơn2.
Như vậy, trước khi BLHS năm 1999 ra đời, khái niệm hình phạt chỉ được
nghiên cứu như một khái niệm có tính chất khoa học, trên các tạp chí chuyên ngành
hoặc trong các giáo trình của các trường đại học với một số quan điểm nổi bật đã
nêu ở trên. Phải đến Luật hình sự Việt Nam năm 1999, lần đầu tiên BLHS nước ta
mới ghi nhận khái niệm hình phạt tại Điều 26 BLHS:
“Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm
tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Hình phạt được quy định
trong Bộ luật hình sự và do Toà án quyết định”.
BLHS hiện hành đã nêu tương đối đầy đủ nội dung, bản chất của hình phạt.
Tuy nhiên, việc mở rộng phạm vi chủ thể của tội phạm là rất cần thiết, bên cạnh chủ
thể của tội phạm là cá nhân, pháp nhân đã được đưa vào khái niệm hình phạt trong
Dự thảo BLHS (12/01/2015). Quy định này là điểm tiến bộ của pháp luật hình sự
bởi định nghĩa được Dự thảo BLHS đưa ra không chỉ bao quát được nội dung bản
chất của hình phạt mà còn ghi nhận pháp nhân là chủ thể của tội phạm; phù hợp với
xu thế pháp luật hình sự nước ngồi là thừa nhận trách nhiệm hình sự của chủ thể
này. Theo Đại biểu Trần Văn Độ cho biết hiện nay đã có 120 quốc gia đã quy định
trách nhiệm hình sự của pháp nhân3. Do đó, theo tác giả nên đưa chủ thể này vào
khái niệm hình phạt, cụ thể như sau:
“Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy
định trong Bộ luật này, do Toà án quyết định áp dụng đối với cá nhân hoặc pháp
nhân là các tổ chức kinh tế phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của
cá nhân, pháp nhân đó”.
 Đặc điểm của hình phạt
Theo định nghĩa pháp lý về hình phạt trong BLHS năm 1999, có thể rút ra

những đặc điểm cơ bản của hình phạt như sau:
Thứ nhất, hình phạt là biện pháp cưỡng chế về hình sự nghiêm khắc nhất so
với tất cả các biện pháp cưỡng chế về hình sự khác của Nhà nước.
2

Lê Cảm, tlđd (1), tr. 10.
Báo Công lý, “Xung quanh vấn đề giảm hình phạt tử hình trong Bộ luật Hình sự”,
(truy cập ngày 27/5/2015).
3

2


Trong tất cả các biện pháp đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, hình phạt
là biện pháp nghiêm khắc nhất được áp dụng phổ biến nhất và có lịch sử lâu đời.
Nhà nước sử dụng hình phạt đối với người phạm tội là để bảo vệ mình, bảo vệ xã
hội chống lại sự vi phạm các điều kiện tồn tại của nó 4. Hình phạt là biện pháp tước
bỏ hoặc hạn chế một số quyền và lợi ích thiết thân của người bị kết án. Là biện pháp
cưỡng chế nghiêm khắc hơn các chế tài khác (chế tài hành chính, chế tài dân sự
hoặc kinh tế), cho dù có mức phạt cao hơn, bởi vì các chế tài khác khơng bị coi là
có án tích, cịn chế tài hình sự, người bị kết án khi bị áp dụng hình phạt sẽ đưa đến
hậu quả pháp lí là người đó bị coi là có án tích5 và làm cho họ phải mang án tích
trong một thời gian nhất định. Chịu hình phạt, người bị kết án có thể bị bắt, bị hạn
chế hoặc tước bỏ quyền tự do, quyền tài sản, thậm chí bị tước bỏ cả quyền sống nếu
họ bị kết án tử hình.
Thứ hai, hình phạt – với tính chất là một dạng của trách nhiệm hình sự và một
hình thức để thực hiện trách nhiệm hình sự, hình phạt chỉ có thể xuất hiện khi có sự
việc phạm tội.
Hình phạt được Tịa án tun đối với người phạm tội, thể hiện sự lên án của
Nhà nước đối với họ và hành vi họ gây ra. Sự trừng phạt bằng hình phạt đối với

người có hành vi phạm tội là hậu quả thực tế của việc phạm tội. C. Mác đã viết:
“dưới con mắt của kẻ phạm tội, sự trừng phạt phải là kết quả tất yếu của hành vi
của chính người đó, do đó phải là hành vi của chính người đó”6.
Thứ ba, hình phạt phải và chỉ do một cơ quan tư pháp hình sự duy nhất của
Nhà nước có thẩm quyền áp dụng hình phạt là Tịa án.
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế do Tòa án nhân danh Nhà nước quyết định
áp dụng đối với người phạm tội và chỉ có Tịa án mới có quyền này ngồi ra khơng
một cơ quan nào có quyền quyết định hình phạt. Vấn đề này được ghi nhận tại các
cơ sở pháp lý: Điều 127 Hiến pháp năm 1992 “Toà án nhân dân tối cao, các Toà án
nhân dân địa phương, các Toà án quân sự và các Toà án khác do luật định là
những cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”7; nay là Điều
102 Hiến pháp năm 2013 “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hồ

4

Đinh Thế Hưng, Trần Văn Biên (2010), Bình luận Bộ luật Hình sự của nước Cộng hịa xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam, đã sửa đổi, bổ sung 2009, NXB Lao động, Viện nhà nước và pháp luật, tr. 56.
5
Đinh Văn Quế (2010), Tìm hiểu tội phạm và hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam, NXB Phương Đơng,
tr. 241.
6
Đinh Thế Hưng, Trần Văn Biên, tlđd (4), tr. 57.
7
Điều 127 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992.

3


xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”8; khoản 2 Điều 2 Luật Tổ
chức Tòa nhân dân 2014 “Tòa án nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương
mại, lao động, hành chính và giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật”9
và tại Điều 26 BLHS hiện hành “Hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự và
do Tồ án quyết định”. Do đó, hình phạt phải và chỉ do cơ quan duy nhất có thẩm
quyền áp dụng là Tòa án. Tòa án là cơ quan quyết định một người có phải chịu hình
phạt hay khơng và nếu phải chịu thì loại và mức phạt cụ thể áp dụng như thế nào.
Tòa án áp dụng hình phạt theo một trình tự, thủ tục đặc biệt do Bộ luật Tố tụng hình
sự quy định.
Thứ tư, hình phạt phải và chỉ được quy định trong pháp luật hình sự.
Trong BLHS Việt Nam, hình phạt được quy định ở cả Phần chung và Phần các
tội phạm. Phần chung của BLHS quy định những vấn đề có tính ngun tắc liên
quan đến hình phạt như: Mục đích của hình phạt (Điều 27), Các hình phạt (Điều
28), Căn cứ quyết định hình phạt (Điều 45), Quyết định hình phạt trong trường hợp
phạm nhiều tội (Điều 50), Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án (Điều 51), Miễn
chấp hành hình phạt (Điều 57), Giảm hình phạt đã tuyên (Điều 58)... Phần các tội
phạm quy định các hình phạt và mức phạt cho từng loại tội cụ thể... Bởi hình phạt là
của Nhà nước, do đó chỉ có Nhà nước mà cơ quan thay mặt cho Nhà nước là Quốc
hội mới được đặt ra hình phạt thơng qua hình thức quy định trong BLHS. Ngồi
BLHS ra khơng có một đạo luật nào được quy định tội phạm và hình phạt, chỉ
người nào phạm một tội đã được BLHS quy định mới phải chịu trách nhiệm hình
sự. Nhà nước coi hành vi này hay hành vi khác là tội phạm nhưng nếu không quy
định biện pháp cưỡng chế (chế tài) đối với người thực hiện hành vi đó thì khơng
khác gì nhìn thấy kẻ trộm vào nhà mà khơng có biện pháp tự vệ. Khi nói đến hình
phạt, C. Mác viết: “Hình phạt chẳng qua là thủ đoạn tự vệ của xã hội đối với những
hành vi xâm phạm điều kiện tồn tại của nó, khơng kể nó là những điều kiện như thế
nào”10.
Thứ năm, hình phạt chỉ mang tính chất cá nhân.
Cho đến thời điểm hiện nay, luật hình sự nước ta quy định chỉ cá nhân mới là
chủ thể của tội phạm. Xuất phát từ một trong những nguyên tắc cơ bản của luật hình
8


Điều 102 Hiến pháp nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Khoản 2 Điều 2 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (Luật số 62/2014/QH13) ngày 24/11/2014.
10
Đinh Văn Quế, tlđd (5), tr. 242.
9

4


sự Việt Nam là trách nhiệm hình sự chỉ đặt ra với cá nhân người phạm tội, do đó
hình phạt chỉ có thể áp dụng đối với người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội bị coi là tội phạm và chỉ áp dụng với riêng bản thân người bị kết án mà thơi. Sự
trừng phạt bằng hình phạt đối với người phạm tội là hậu quả thực tế của việc phạm
tội. Dựa trên nguyên tắc đó, có thể khẳng định rằng hình phạt khơng thể được áp
dụng đối với tập thể, với các thành viên trong gia đình cũng như những người thân
khác của người phạm tội, luật hình sự cũng khơng cho phép việc chấp hành hình
phạt thay cho người phạm tội cho dù sự chấp hành thay này là hoàn toàn tự nguyện.
Mặc dù, trong cả hai lần phát điển hóa với việc ban hành BLHS 1985 và BLHS
1999, nhà làm luật vẫn chưa thừa nhận nguyên tắc trách nhiệm hình sự của pháp
nhân. Tuy nhiên, khi pháp nhân được ghi nhận trong BLHS như một chủ thể của tội
phạm thì pháp nhân được hiểu là một thực thể có ý chí, có mong muốn riêng của
mình, được xử sự tự do và hưởng quyền tự chủ của chủ thể có thể so sánh với quyền
tự chủ của cá nhân. Vì vậy, nó có năng lực thực hiện tội phạm một cách có lỗi và
đương nhiên có thể bị xử lý về hình sự11. Khi pháp nhân thực hiện một hành vi bị
coi là tội phạm theo quy định của pháp luật hình sự thì pháp nhân đó sẽ phải chịu
một số hình phạt nhất định của Nhà nước như phạt tiền, giải thể, đình chỉ hoặc tạm
đình chỉ lĩnh vực hoạt động nào đó. Bởi khả năng phạm tội phải gắn liền với khả
năng chịu hình phạt hình sự. Sự cần thiết áp dụng hình phạt với chủ thể của tội
phạm (pháp nhân phạm tội) và giữa tội phạm với chế tài hình sự có mối quan hệ

logic khó có thể phản bác. Việc quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân cịn
thể hiện ngun tắc cơng bằng và bình đẳng, ngun tắc mọi hành vi phạm tội
khơng thốt khỏi sự trừng trị của pháp luật hình sự được củng cố12. Đối với cá nhân,
người phạm tội chính là người phải chịu trách nhiệm hình sự; đối với pháp nhân
phạm tội, ngồi việc truy cứu trách nhiệm hình sự của cá nhân trực tiếp thực hiện
tội phạm trong pháp nhân thì pháp nhân đó cịn là chủ thể chịu trách nhiệm hình sự.
 Mục đích của hình phạt
Cơ sở pháp lý cho sự tồn tại của hình phạt là sự tồn tại của tội phạm, khơng có
tội phạm thì khơng thể có hình phạt. Hình phạt là hậu quả pháp lý của hành vi phạm
tội, là thức đo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Tội
phạm và hình phạt có mối quan hệ mật thiết, chặt chẽ với nhau, đó là quan hệ nhân
quả. Việc xác định tội phạm không chỉ là cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật bị coi là tội phạm, mà nó có ý nghĩa
11

Trịnh Quốc Toản (2013), “Vấn đề trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong điều kiện phát triển của nền
kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học, Tập 29, (01), tr. 63.
12
Trịnh Quốc Toản (2013), tlđd (11), tr. 64.

5


rất quan trọng trong việc quy định, áp dụng hình phạt đối với người phạm tội. Hình
phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước, Nhà nước xây dựng
nên hệ thống hình phạt nhằm giúp luật hình sự thực thi nhiệm vụ đấu tranh phòng
chống tội phạm cũng như bảo vệ các quan hệ xã hội khỏi sự xâm phạm của tội
phạm. Trước nhiệm vụ đó, đặt ra một vấn đề cơ bản là hệ thống hình phạt được quy
định và sử dụng như thế nào, sử dụng hình phạt vào mục đích gì.
Luật hình sự Việt Nam đã có quan điểm chính thức của Nhà nước về mục đích

của hình phạt, thể hiện trong BLHS 1985 tại Điều 20 và BLHS 1999 tại Điều 27.
Theo đó, mục đích của hình phạt là:
“Hình phạt khơng chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn nhằm cải tạo trở
thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của
cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt cịn nhằm giáo
dục người khác tơn trọng pháp luật, đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm”.
Nhà làm luật đã thể hiện rõ quan điểm về mục đích của hình phạt trong BLHS
nhưng khoa học luật hình sự Việt Nam còn tồn tại nhiều quan điểm xoay quanh vấn
đề này.
Quan điểm thứ nhất, nghiêng về đạo đức, xem mục đích của hình phạt là giáo
dục, cải tạo và ngăn ngừa người bị kết án phạm tội mới cũng như nhằm giáo dục
phòng ngừa chung, đồng thời khẳng định trừng trị khơng phải là mục đích của hình
phạt mà là nội dung, là thuộc tính, là cách thức để thực hiện hình phạt13.
Quan điểm thứ hai, khẳng định mục đích cuối cùng của hình phạt là đảm bảo
cơng bằng xã hội và phòng ngừa tội phạm14.
Quan điểm thứ ba, xem mục đích cuối cùng và chủ yếu của hình phạt là giáo
dục, cải tạo người phạm tội, giáo dục người khác tơn trọng pháp luật, đấu tranh
phịng và chống tội phạm, mặt khác xem trừng trị là mục đích nhưng đồng thời
cũng là phương tiện để đạt được mục đích cuối cùng đó15.
Quan điểm thứ tư cho rằng mục đích của hình phạt vừa trừng trị, vừa giáo dục
cải tạo người phạm tội16.
13

Viện nghiên cứu Khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp) (1995), Hình phạt trong luật Hình sự Việt Nam, NXB
Chính trị quốc gia năm 1995, Hà Nội, tr. 25.
14
Nguyễn Mạnh Khánh (2000), “Hình phạt: Một số vấn đề lý luận”, Tạp chí Nhà nước và phát luật, (10), tr.
24.
15
Dương Tuyết Miên (2000), “Bàn về mục đích của hình phạt”, Tạp chí Luật học, (03), tr. 29.

16
Lê Cảm (2005), “Về các mục đích của hình phạt và hệ thống hình phạt”, Tạp chí Kiểm sát, (17), tr. 27.

6


Quan điểm thứ năm lại xem hình phạt được áp dụng nhằm mục đích giáo dục
và cải tạo người bị kết án trở thành người có ích cho xã hội. Và xem trừng trị là bản
chất, là thuộc tính tất yếu của hình phạt chứ khơng phải là mục đích của hình phạt17.
Từ những quan điểm trên, có thể thấy rằng phần lớn đều thống nhất xem mục
đích chung của hình phạt trong luật hình sự nước ta là giáo dục, cải tạo người phạm
tội và phòng ngừa chung. Bên cạnh đó, một trong những vấn đề hình phạt trong luật
hình sự nước ta có mục đích trừng trị hay trừng trị chỉ là bản chất, là thuộc tính tất
yếu của hình phạt, được các nhà nghiên cứu quan tâm hơn cả. Theo quy định của
pháp luật hình sự hiện hành, mục đích của hình phạt gồm mục đích phịng ngừa
riêng và mục đích phịng ngừa chung.
- Mục đích phịng ngừa riêng
Mục đích của hình phạt trước hết được thể hiện là hình phạt tác động trực tiếp
đến người phạm tội, khơng chỉ nhằm trừng trị mà cịn giáo dục họ trở thành người
có ích cho xã hội, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Trong lý luận, mục đích này của
hình phạt được thể hiện bằng thuật ngữ phịng ngừa riêng.
Nội dung cơ bản của phịng ngừa riêng chính là sự tước bỏ, hạn chế những
quyền, lợi ích theo quy định của BLHS đối với người bị áp dụng hình phạt, “hình
phạt trước hết thể hiện sự lên án, sự phạt của Nhà nước, của xã hội đối với người
phạm tội. Nhưng đó khơng phải là lên án, sự phạt đơn thuần mà là biện pháp đặc
biệt để răn đe (răn đe bằng tác động cưỡng chế Nhà nước), để giáo dục, cải tạo
(giáo dục, cải tạo bằng tác động cưỡng chế Nhà nước) người bị kết án, ngăn ngừa
họ phạm tội lại. Hình phạt cũng cịn là biện pháp đặc biệt để hạn chế (có thể đến
loại trừ) điều kiện phạm tội lại của người bị kết án”18. Mức độ của việc tước bỏ và
hạn chế những quyền và lợi ích này phụ thuộc vào tính chất và mức độ nguy hiểm

cho xã hội của hành vi, nhân thân người phạm tội và những tình tiết giảm nhẹ, tăng
nặng trách nhiệm hình sự (Điều 45 BLHS). Về nguyên tắc, hình phạt đã tun phải
tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Do
đó, tội phạm càng nguy hiểm thì mức độ trừng trị người phạm tội càng nghiêm
khắc. Tuy nhiên, theo luật hình sự Việt Nam, trừng trị khơng được coi là mục đích
chủ yếu của hình phạt. Mục đích chủ yếu trong phịng ngừa riêng của hình phạt
chính là cải tạo, giáo dục người phạm tội để họ “trở thành người có ích cho xã hội,

17

Đào Trí Úc (1995), Tội phạm học, luật Hình sự, luật Tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia
năm 1995, Hà Nội, tr. 193.
18
Nguyễn Ngọc Hịa (1999), “Mục đích của hình phạt”, Tạp chí Luật học, (01), tr. 10.

7


có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn
ngừa họ phạm tội mới” (Điều 27 BLHS).
Trong phòng ngừa riêng, giữa trừng trị, cải tạo, giáo dục người phạm tội và
ngăn ngừa họ phạm tội mới là mục đích cùng tồn tại, có quan hệ tương tác qua lại
với nhau rất chặt chẽ; chỉ có thể đạt được mục đích cuối cùng và chủ yếu là cải tạo
giáo dục người phạm tội nếu hình phạt trừng trị tương xứng với tội phạm đã gây ra.
Bởi vì, hình phạt trước hết là hậu quả pháp lý của tội phạm, là thức đo thái độ lên án
của Nhà nước đối với cá nhân người phạm tội, là tiêu chí của cơng lý và công bằng
xã hội. Trừng trị một cách công minh là yếu tố tiên quyết quan trọng để đảm bảo
mục đích giáo dục. Như vậy, trong mối quan hệ giữa mặt trừng trị và giáo dục của
hình phạt thì trừng trị là mục đích (khơng là mục đích chủ yếu, khơng phải sự trả
thù người phạm tội theo nguyên tắc ngang bằng – nguyên tắc Talion – nguyên tắc

“mắt đền mắt, răng đền răng”) và cũng là phương tiện để đạt được mục đích cuối
cùng và chủ yếu của hình phạt đối với người phạm tội là giáo dục và cải tạo.
- Mục đích phịng ngừa chung
Ngồi mục đích phịng ngừa riêng nêu trên, theo Điều 27 BLHS hình phạt cịn
có mục đích phịng ngừa chung là “giáo dục người khác tơn trọng pháp luật, đấu
tranh phịng ngừa và chống tội phạm”.
Việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội, trong từng trường hợp cụ thể
không chỉ tác động trực tiếp đến bản thân người phạm tội mà còn tác động, ảnh
hưởng đến các thành viên khác trong xã hội. Đối với một bộ phận những người dân
“không vững vàng” hình phạt có tác dụng răn đe, kiềm chế, ngăn ngừa họ phạm tội.
Bởi hình phạt làm cho họ thấy trước được hậu quả pháp lý mà họ phải chịu khi họ
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm. Bên cạnh đó, hình phạt
cịn có mục đích giáo dục và nâng cao ý thức pháp luật cho các thành viên khác
cũng như động viên khuyến khích đơng đảo quần chúng nhân dân tích cực tham gia
vào đấu tranh ngăn ngừa và chống tội phạm.
Để đạt được mục đích phịng ngừa chung của hình phạt, cần phải thực hiện
đồng bộ nhiều biện pháp như: biện pháp kinh tế, chính trị, tư tưởng, tổ chức, pháp
lý, văn hóa, giáo dục. Trong đó, biện pháp tuyên truyền, giáo dục pháp luật và nâng
cao ý thức pháp luật trong nhân dân có ý nghĩa to lớn. Mục đích phịng ngừa chung
của hình phạt chỉ thực sự đạt được hiệu quả tốt khi quần chúng nhân dân hiểu biết
pháp luật, thấy được sự cần thiết của việc tuân thủ pháp luật cũng như ý nghĩa xã
hội của hình phạt.
8


Như vậy, có thể thấy mục đích phịng ngừa riêng và phịng ngừa chung là hai
mặt khơng thể tách rời của hình phạt, chúng ảnh hưởng qua lại lẫn nhau trong thể
thống nhất (hình phạt). Khi hình phạt được áp dụng tương xứng với tính chất và
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và làm cho những người khác
tơn trọng pháp luật thì mục đích của hình phạt mới có thể đạt được.

1.1.1.2 Khái niệm hệ thống hình phạt
Hệ thống hình phạt trong BLHS nước ta tương đối phong phú và đa dạng,
được phân chia thành hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Hình phạt phải tương
xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi do người phạm tội
thực hiện, do đó nhà làm luật quy định các loại hình phạt khác nhau để áp dụng cho
từng trường hợp cụ thể. Hệ thống hình phạt được ra đời để đáp ứng yêu cầu đó.
Trong khoa học pháp lý hình sự Việt Nam khơng ghi nhận khái niệm hệ thống
hình phạt, tuy nhiên căn cứ vào hệ thống các hình phạt (hình phạt chính và hình
phạt bổ sung) được quy định trong BLHS Việt Nam hiện hành (Điều 28 BLHS
1999), có thể đưa ra khái niệm khoa học về hệ thống hình phạt như sau:
“Hệ thống hình phạt là tổng hợp các biện pháp cưỡng chế về hình sự nghiêm
khắc nhất của Nhà nước được quy định trong pháp luật Hình sự, căn cứ vào mức độ
nghiêm khắc của mỗi loại được sắp xếp thành một danh mục cụ thể theo trình tự
nhất định từ nhẹ đến nặng (hay ngược lại) và chỉ do Tòa án quyết định trong bản án
kết tội đối với bị cáo vì đã thực hiện tội phạm”19.
Khái niệm khoa học về hệ thống hình phạt đã chỉ ra nội dung và đặc điểm cơ
bản của một hệ thống hình phạt. Hình phạt được quy định đều mong muốn đạt được
hiệu quả cao trong thực tiễn áp dụng nó. Tính khả thi của hình phạt nói riêng và hệ
thống hình phạt nói chung sẽ góp phần đạt được hiệu quả đó khi nhà làm luật quy
định nó trong BLHS. Với việc xem xét các tiêu chí của hệ thống hình phạt khả thi
cũng làm nổi bật những đặc điểm của nó.
Tiêu chí thứ nhất, trong hệ thống hình phạt quy định một cách cụ thể, rõ ràng
và chính xác trình tự, các căn cứ và những điều kiện áp dụng của từng loại hình phạt
nói chung, cũng như các giới hạn tối thiểu và tối đa của các loại hình phạt có thời
hạn nói riêng20. Hệ thống hình phạt theo luật hình sự Việt Nam hiện hành được quy
định tại 15 điều của Chương V, một chương độc lập với tên gọi – “Hình phạt” trong
19
20

Lê Cảm, tlđd (1), tr. 10.

Lê Cảm, tlđd (1), tr. 11.

9


BLHS năm 1999 (từ Điều 26 đến Điều 40) bằng các quy phạm riêng biệt, chặt chẽ
và chính xác với trình tự, các căn cứ và những điều kiện áp dụng cụ thể 12 loại hình
phạt (từ Điều 29 đến Điều 40) có tính chất bắt buộc với Tịa án và mức phạt giới
hạn của mỗi loại, có thể là mức tối thiểu và tối đa, có thể là dựa vào giá trị hàng
phạm pháp hoặc số lợi bất chính, hoặc cả hai. Việc quy định này tạo điều kiện thuận
lợi trong quá trình áp dụng được thống nhất, nhanh chóng và có hiệu quả, tránh
được tình trạng tùy tiện khi quyết định hình phạt.
Tiêu chí thứ hai, hệ thống hình phạt trong Phần chung phải được xây dựng
một cách khoa học, cân đối và hợp lý để làm cơ sở cho việc quy định một cách
chính xác các chế tài cụ thể đối với các tội phạm tương ứng trong Phần riêng của
BLHS21. Hệ thống hình phạt theo BLHS năm 1999 gồm: 1) Cảnh cáo; 2) Cải tạo
không giam giữ; 3) Tù có thời hạn; 4) Tù chung thân; 5) Tử hình; 6) Cấm đảm
nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; 7) Cấm cư trú; 8)
Quản chế; 9) Tước một số quyền công dân; 10) Tịch thu tài sản; 11) Phạt tiền và 12)
Trục xuất. Trong đó, năm loại hình phạt đầu tiên là hình phạt chính; năm loại hình
phạt tiếp theo là hình phạt bổ sung; hai loại hình phạt cuối cùng là hình phạt có thể
tùy từng trường hợp cụ thể tương ứng mà được áp dụng với tính chất là hình phạt
chính hoặc hình phạt bổ sung; đối với người bị kết án là người chưa thành niên
phạm tội – nhà làm luật quy định là Tòa án chỉ được áp dụng ba loại hình phạt
chính ít nghiêm khắc đầu tiên mà khơng được phép áp dụng hai hình phạt cuối cùng
nghiêm khắc hơn và tất cả các loại hình phạt bổ sung. Một loại hình phạt được quy
định với tính chất là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung và chỉ áp dụng với
người nước ngoài phạm tội – Trục xuất.
Tiêu chí thứ ba, việc quy định trình tự áp dụng của các loại hình phạt trong hệ
thống hình phạt tương ứng (phù hợp) với sự phân chia tội phạm thành các loại

(nhóm) nhất định trong Phần chung BLHS22. Mỗi loại hình phạt, nhà làm luật quy
định khi nào được áp dụng là hình phạt chính, khi nào áp dụng là hình phạt bổ sung
cũng như được và khơng được áp dụng cùng loại hình phạt nào. Do đó, trong mỗi
tội phạm cụ thể phải tuân thủ quy định này.
Tiêu chí thứ tư, trong hệ thống hình phạt thể hiện rõ được tính chất và mức độ
nghiêm khắc khác nhau của các loại hình phạt tương ứng với tính chất mức độ cho
xã hội của các loại (nhóm) tội phạm được quy định trong BLHS 23. Các loại hình
21

Lê Cảm, tlđd (1), tr. 11.
Lê Cảm, tlđd (1), tr. 11.
23
Lê Cảm, tlđd (1), tr. 11.
22

10


phạt có tính liên tục từ hình phạt từ nhẹ đến nặng, đồng thời cũng thể hiện được sự
nghiêm khắc của nó. Mỗi loại hình phạt khác nhau được áp dụng tùy thuộc vào tính
chất cho mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Trong đó, hình phạt tử
hình sẽ tước bỏ quyền sống của người bị kết án, là hình phạt nghiêm khắc nhất
trong hệ thống hình phạt.
Như vậy, hệ thống hình phạt trong BLHS 1999 được nhà làm luật quy định rất
cụ thể, rõ ràng, về cơ bản đáp ứng được yêu cầu của hệ thống hình phạt có tính khả
thi. Tuy nhiên, nhằm hoàn thiện BLHS và đạt được hiệu quả cao nhất mà nhà làm
luật mong muốn khi đặt ra hệ thống hình phạt, cần tiếp tục tiến hành nghiên cứu
pháp luật hình sự trong nước cũng như pháp luật hình sự nước ngồi trong đó có
hình phạt tiền.
1.1.2 Lý luận chung về hình phạt tiền

1.1.2.1 Định nghĩa hình phạt tiền
Hình phạt tiền được quy định trong cả hệ thống hình phạt của BLHS 1985 và
BLHS 1999. Cho đến thời điểm hiện nay vẫn chưa có một khái niệm chính thức nào
về hình phạt tiền được quy định trong BLHS, mặc dù hình phạt tiền được ghi nhận
khá sớm. Khái niệm hình phạt tiền mới chỉ dừng lại ở việc ghi nhận trong các giáo
trình, sách báo pháp lý chuyên ngành. Xung quanh khái niệm hình phạt tiền trong
giới nghiên cứu lý luận hình sự có những quan điểm sau:
“Phạt tiền là hình phạt tước của người phạm tội khoản tiền nhất định sung
cơng quỹ Nhà nước”24.
“Phạt tiền là hình phạt tước của người bị kết án một khoản tiền nhất định để
sung cơng quỹ Nhà nước”25.
“Phạt tiền là Tịa án buộc người phạm tội phải nộp một số tiền theo quy định
của pháp luật để sung quỹ Nhà nước”26.
“Phạt tiền là hình phạt tước ở người phạm tội một khoản tiền nhất định để
sung quỹ Nhà nước, tác động đến tình trạng kinh tế, tài sản của người phạm tội và
qua đó tác động đến ý thức của người phạm tội”27.
24

Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội,
tr. 238.
25
Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, NXB Hồng Đức – Hội
luật gia Việt Nam, tr. 278.
26
Đinh Văn Quế, tlđd (5), tr. 250.

11


Qua các quan điểm trên, về cơ bản những dấu hiệu pháp lý đặc trưng của hình

phạt tiền đã được chỉ ra, tuy nhiên từ góc độ một khái niệm pháp lý tác giả đồng
tình với quan điểm: “Phạt tiền là hình phạt tước của người bị kết án một khoản tiền
nhất định sung công quỹ Nhà nước”28 của ThS. Đinh Thế Hưng, TS. Trần Văn Biên
và cũng là quan điểm của nhà nghiên cứu khoa học luật hình sự Lý Văn Tầm29 cùng
một số nhà nghiên cứu khác. Đây là khái niệm ngắn gọn, phản ánh tương đối đầy đủ
các dấu hiệu pháp lý đặc trưng cũng như nội dung của hình phạt tiền. Hơn nữa, khái
niệm trên sử dụng thuật ngữ pháp lý “người bị kết án” thay cho thuật ngữ “người
phạm tội” là rất hợp lý, chính xác. Bởi vì, nếu “người phạm tội” tuy có thực hiện
hành vi phạm tội nhưng được miễn trách nhiệm hình sự (kể cả trước hoặc thậm chí
sau khi bị xét xử) thì đều khơng thể bị áp dụng hình phạt; trên thực tế chỉ có “người
bị kết án” – người đã bị Tòa án xét xử và tuyên bản án kết tội có hiệu lực pháp luật
– mới bị áp dụng hình phạt (nếu khơng được miễn)30.
1.1.2.2 Đặc điểm của hình phạt tiền
Hình phạt tiền là hình phạt trong hệ thống hình phạt được quy định trong
BLHS. Do đó, ngồi những đặc điểm chung của hình phạt trong hệ thống các loại
hình phạt, nó cịn có những đặc trưng riêng.
Thứ nhất, hình phạt tiền với tính chất là chế tài hình sự trong tương quan với
các chế tài khác như chế tài hành chính, dân sự hoặc kinh tế là biện pháp cưỡng chế
nghiêm khắc nhất mặc dù mức phạt chỉ 1.000.000 đồng. Bởi vì các chế tài khác
khơng bị coi là có án tích, cịn chế tài hình phạt tiền ngoài tước đi ở người bị kết án
một khoản tiền nhất định, nghĩa là trực tiếp làm hạn chế về mặt lợi ích vật chất, hơn
hết để lại hậu quả án tích cho người bị kết án. Khi bị mang án tích sẽ là đặc điểm về
nhân thân bất lợi cho người có đặc điểm đó trong nhiều hoạt động của đời sống xã
hội cũng như khi có hành vi vi phạm pháp luật hay phạm tội...31
Thứ hai, như đã đề cập về khái niệm hình phạt tiền, nội dung của hình phạt
tiền là sự tước đi của người bị kết án một khoản tiền nhất định sung công quỹ Nhà
nước. Hình phạt tiền có khả năng tác động một cách trực tiếp và có hiệu quả về mặt
27

Nguyễn Hồng Lâm (2008), Hình phạt tiền trong Luật hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học,

Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, tr. 6.
28
Đinh Thế Hưng, Trần Văn Biên, tlđd (4), tr. 62.
29
Lý Văn Tầm (2013), “Một số ý kiến về hình phạt tiền theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999”, Tạp
chí Kiểm sát, (04), tr. 23.
30
Lê Văn Cảm, Trịnh Tiến Việt (2008), “Thực trạng các quyđịnh của pháp luật hình sự Việt Nam về hệ
thống hình phạt và phương hướng hồn thiện”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế – Luật, (24), tr. 212.
31
Trịnh Quốc Toản (2011), Hình phạt bổ sung trong luật hình sự Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, tr. 23.

12


×