Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực thi hành án dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (983.56 KB, 91 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN ÁNH DƢƠNG

KHIẾU NẠI VÀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI
TRONG LĨNH VỰC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2011


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN ÁNH DƢƠNG

KHIẾU NẠI VÀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI
TRONG LĨNH VỰC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Hành Chính
Mã số: 60.38.20

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
TS. NGUYỄN THỊ THƢƠNG HUYỀN

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2011



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là một cơng trình nghiên cứu của riêng tơi,
các số liệu trong luận văn trung thực Tác giả đã thu thập và sàng lọc trong quá
trình học tập, tham khảo, nghiên cứu tài liệu; là kết quả của sự phân tích, tổng
hợp các báo cáo tổng kết của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cũng như
kinh nghiệm của bản thân qua thực tiễn công tác tại tỉnh Tây Ninh và dưới sự
hướng dẫn, gợi ý của TS Nguyễn Thị Thương Huyền. Những nội dung của tác
giả khác đã được trích dẫn, ghi chú theo đúng quy định.
Tác giả cam đoan

Nguyễn Ánh Dương


MỤC LỤC
Trang

PHẦN MỞ ĐẦU……………………………………………………..

1

PHẦN NỘI DUNG

5

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN – PHÁP LÝ VỀ KHIẾU NẠI
VÀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI TRONG LĨNH VỰC THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ ………………………………………………
1.1. Khái niệm, đặc điểm khiếu nại trong lĩnh vực Thi hành án
dân sự …………………………………………………………...

1.1.1. Khái niệm khiếu nại trong lĩnh vực Thi hành án dân sự ……….
1.1.2. Đặc điểm khiếu nại trong lĩnh vực Thi hành án dân sự………...
1.1.3. Hình thức và thời hạn khiếu nại trong lĩnh vực Thi hành án
dân sự ………………………………………………………………….
1.2. Quyền và nghĩa vụ của ngƣời khiếu nại, ngƣời bị khiếu nại
trong lĩnh vực Thi hành án dân sự ………………………….
1.2.1. Quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại trong lĩnh vực Thi
hànhán dân sự…………………………………………………………
1.2.2. Quyền và nghĩa vụ của người bị khiếu nại trong lĩnh vực Thi
hành án dân sự ………………………………………………………..
1.3. Cơ sở pháp lý của giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực Thi
hành án dân sự ………………………………………………...
1.3.1. Khái niệm giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực Thi hành án dân
sự………………………………………………………………………..
1.3.2. Nguyên tắc giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực Thi hành án
dân sự…………………………………………………………………..
1.3.3. Thời hạn giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực Thi hành án dân
sự ………………………………………………………………………..
1.3.4. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực Thi hành án
dân sự……………………………………………………………………
1.3.5. Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực Thi hành

5
5
5
8
12
14
14
17

18
18
19
21
22
24


án dân sự……………………………………………………………….
1.3.6. Thi hành quyết định giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực Thi
hành án dân sự………………………………………………………....
Kết luận chƣơng 1…………………………………………………….
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG KHIẾU NẠI, HOẠT ĐỘNG GIẢI
QUYẾT KHIẾU NẠI TRONG LĨNH VỰC THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC
GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI TRONG LĨNH VỰC THI HÀNH
ÁN DÂN SỰ…………………………………………………………
2.1. Thực trạng khiếu nại trong lĩnh vực Thi hành án dân sự……

33
36

37
37

2.1.1. Tình hình khiếu nại trong lĩnh vực Thi hành án dân sự………..

37

2.1.2. Nguyên nhân dẫn đến phát sinh khiếu nại trong lĩnh vực Thi

hành án dân sự………………………………………………………..
2.2. Thực trạng giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực Thi hành án

45

dân sự…………………………………………………………
2.2.1. . Kết quả công tác giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực Thi hành
án dân sự……………………………………………………………...
2.2.2. Thực trạng hoạt động giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực Thi
hành án dân sự……………………………………………………..
2.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại trong lĩnh
vực Thi hành án dân sự………………………………………
2.3.1. Yêu cầu nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực
Thi hành án dân sự…………………………………………………..

48
48
51

58

58

2.3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giải quyết khiếu
nại trong lĩnh vực thi hành án dân sự……………………………..
Kết luận chƣơng II …………………………………………………..

61

PHẦN KẾT LUẬN…………………………………………………...


79

Danh mục tài liệu tham khảo

78


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:

Công tác Thi hành án dân sự giữ vai trò quan trọng trong việc bảo đảm hiệu lực
của các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định của cơ quan có thẩm quyền
khác, góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân, giữ gìn trật tự an tồn xã hội. Theo Điều 136 Hiến pháp 1992 quy định “Các bản
án và quyết định của Tịa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan
Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công
dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”.
Thi hành án dân sự là công tác phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực trong đời
sống xã hội, trực tiếp ảnh hưởng đến quyền về tài sản, nhân thân của các bên đương sự
và những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Việc tổ chức thi hành bản án,
quyết định của Tòa án sẽ làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ về
tài sản của các bên đương sự. Do tính chất phức tạp trong hoạt động thi hành án nên
việc khiếu nại trong quá trình tổ chức thi hành án dân sự là điều khó tránh khỏi.
Trong thực tiễn Thi hành án dân sự công tác giải quyết khiếu nại về Thi hành án
dân sự được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm nhằm bảo đảm tính minh
bạch của hệ thống các cơ quan Thi hành án dân sự và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của các bên. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn và nhằm hoàn thiện pháp luật về Thi hành

án dân sự, đặc biệt là các quy định về khiếu nại và giải quyết kiếu nại trong hoạt động
Thi hành án dân sự. Chính vì vậy, tác giả chọn đề tài: “Khiếu nại và giải quyết khiếu
nại trong lĩnh vực Thi hành án dân sự” để làm luận văn tốt nghiệp cao học luật của
mình. Vì trong quá trình tổ chức thi hành án cho thấy, nhiều đương sự có điều kiện thi
hành án nhưng vẫn cố tình chây ỳ, khơng tự nguyện thi hành án, thậm chí có trường
hợp cịn chống đối quyết liệt, nhiều trường hợp khơng hiểu trình tự, thủ tục thi hành án
hoặc lợi dụng quyền tự do dân chủ của công dân làm đơn khiếu nại khơng đúng quy
định của pháp luật, nhằm mục đích trì hỗn việc thi hành án. Hoặc có những trường
hợp quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực thi hành theo quy định pháp luật nhưng
đương sự vẫn cố tình khơng thi hành và cịn khiếu nại tiếp gởi đến nhiều nơi, nhiều
cấp, nhiều ngành thậm chí cịn gởi đến các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, tập
trung nhiều người . . . làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của cơ quan Thi hành
án dân sự và gây rối trật tự cơng cộng, an tồn trật tự xã hội, an ninh chính trị ở địa
phương.
Do vậy, việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung đặc biệt hồn
chỉnh các quy định pháp luật về Thi hành án dân sự nói riêng và các quy định về khiếu
nại và giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực Thi hành án dân sự là hết sức quan trọng, góp
phần vào việc thượng tơn pháp luật, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
Nhà nước của dân, do dân, vì dân đúng theo khẩu hiệu mà Đảng và Nhà nước ta đề ra
“Sống và làm việc theo pháp luật”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:


2

Khiếu nại và giải quyết khiếu nại là một vấn đề nóng, mang tính thời sự trong
giai đoạn hiện nay. Trong thời gian qua đã có nhiều tác giả nghiên cứu về các đề tài
liên quan đến khiếu nại ở những góc độ và các lĩnh vực khác nhau như: “Cơ chế giải
quyết khiếu nại – thực trạng và giải pháp” của Viện nghiên cứu chính sách pháp luật
và phát triển do tiến sĩ Hoàng Ngọc Giao chủ biên; “Một số vấn đề đổi mới cơ chế giải

quyết khiếu kiện hành chính” của tác giả Nguyễn Văn Thành-Đinh Văn Minh, Nhà
xuất bản Tư pháp năm 2005; “Công tác dân vận trong giải quyết khiếu nại của cơng
dân” Tạp chí cộng sản số 27/2002; “Thực trạng áp dụng Luật Thi hành án dân sự để
giải quyết khiếu nại, tố cáo” của Nguyễn Anh Dũng đăng trên Tạp chí dân chủ và pháp
luật số chuyên đề tháng 7 năm 2011; “Giải quyết khiếu nại, tố cáo nhìn từ thực tế” của
Nguyễn Văn Hiệp đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 13(150) tháng 7/2009;
“Thực hiện cải cách Tư pháp trong lĩnh vực Thi hành án dân sự” của Nguyễn Văn
Nghĩa đăng trên Tạp chí dân chủ và Pháp luật số 7, năm 2009 . . . Luận văn thạc sĩ của
tác giả Nguyễn Thiện Thành với đề tài “Giải quyết tranh chấp, khiếu nại trong lĩnh
vực đất đai tại Thành phố Hồ Chí Minh”; Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Ngọc
Thiên Kim với đề tài “Khiếu nại hành chính và cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính
của cơng dân – Từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai” . . .
Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu trên chủ yếu nghiên cứu về một vấn đề và
lĩnh vực cụ thể nhất định. Qua tìm hiểu, những luận án, luận văn khoa học, sách
chuyên khảo, các bài viết thì hiện nay học viên chưa tìm thấy cơng trình nào nghiên
cứu một cách tồn diện và có hệ thống vấn đề “Khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong
lĩnh vực Thi hành hành án dân sự” như tác giả đã chọn. Do vậy, việc nghiên cứu các
vấn đề về thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, tình hình giải quyết khiếu
nại và nguyên nhân khiếu nại cũng như đánh giá khái quát kết quả giải quyết khiếu nại
trong lĩnh vực Thi hành án dân sự, để từ đó đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện các
quy định về khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực Thi hành án dân sự là cần
thiết để góp phần đưa các quy định pháp luật vào thực tiễn cuộc sống.
3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
+ Về mục đích nghiên cứu:

Mục đích nghiên cứu của đề tài trên cơ sở nghiên cứu lý luận và cơ sở pháp lý
liên quan. Tác giả làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, những quy định pháp luật về
khiếu nại trong hoạt động thi hành án dân sự cũng như về thực tiễn áp dụng pháp luật
trong việc giải quyết khiếu nại thi hành án dân sự để chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến
khiếu nại và những bất cập, hạn chế của việc giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực thi

hành án dân sự.
+ Về đối tƣợng nghiên cứu của đề tài:

Đề tài nghiên cứu về những nguyên nhân dẫn đến khiếu nại và các quy định của
pháp luật về việc giải quyết khiếu nại trong hoạt động thi hành án dân sự.
+ Về phạm vi nghiên cứu:


3

Đề tài chỉ nghiên cứu về khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực thi
hành án dân sự. Đề tài không nghiên cứu về hoạt động tố cáo và giải quyết tố cáo trong
lĩnh vực này.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu:

Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Leenin, tư tưởng
Hồ Chí Minh; dựa trên đường lối, chủ trương của Đảng, Pháp luật của Nhà nước nhằm
đảm bảo tính khoa học của đề tài. Ngồi ra, trong q trình nghiên cứu,tác giả đã sử
dụng các phương pháp như: phương pháp lịch sử, so sánh, hệ thống hóa, tổng hợp,
phân tích để từ đó rút ra những kết luận cần thiết phục vụ cho đề tài.
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài:

Đề tài tập hợp, hệ thống đầy đủ các quy định pháp luật liên quan đến việc khiếu
nại và giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực thi hành án dân sự như: quyền và nghĩa vụ
của người khiếu nại; quyền và nghĩa vụ của người bị khiếu nại cũng như đặc điểm, tính
chất, mục đích, nguyên nhân và các trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực
thi hành án. Đưa ra các phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về khiếu
nại và giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực thi hành án dân sự.
Về giá trị ứng dụng của đề tài: Đề tài nêu lên và chỉ ra những bất cập, hạn chế
và đề ra những giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế với mục tiêu hoàn thiện các

quy định pháp luật về khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong hoạt động thi hành án dân
sự. Do vậy, đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho các sinh viên luật,
học viên học viện Tư pháp học về nghiệp vụ thi hành án cũng như cho cán bộ, công
chức trong các cơ quan Thi hành án dân sự nghiên cứu trong quá trình tổ chức thi hành
án.
6. Những đóng góp mới của đề tài:

Đề tài tổng hợp, hệ thống các quy định của pháp luật về khiếu nại và giải quyết
khiếu nại trong lĩnh vực thi hành án dân sự. Đưa ra các nguyên nhân dẫn đến khiếu nại
cũng như đề ra các phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật
về giải quyết khiếu nại trong hoạt động thi hành án dân sự.
Qua đó góp phần vào q trình hồn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam với mục
đích xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà nước của dân, do dân, vì
dân. Các quy định pháp luật đi vào thực tiễn cuộc sống.
7. Bố cục của đề tài:

Đề tài gồm phần mở đầu, phần nội dung, phần kết luận và danh mục tài liệu
tham khảo.
Phần nội dung gồm 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận – pháp lý về khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong
lĩnh vực thi hành án dân sự.


4

Chương 2: thực trạng khiếu nại, hoạt động giải quyết khiếu nại trong lĩnh
vực thi hành án dân sự và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu
nại trong lĩnh vực thi hành án dân sự.



5

CHƢƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN - PHÁP LÝ VỀ KHIẾU NẠI
VÀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI TRONG LĨNH VỰC
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm khiếu nại trong lĩnh vực Thi hành án dân sự
1.1.1. Khái niệm khiếu nại trong lĩnh vực Thi hành án dân sự
1.1.1.1. Khái niệm khiếu nại
Theo Từ điển tiếng Việt năm 2005 của Viện Ngơn ngữ: “Khiếu nại là đề nghị cơ
quan có thẩm quyền xét một việc làm mà mình khơng đồng ý, cho là trái phép và
không hợp lý”. Đây là khái niệm rộng, theo đó, việc khiếu nại diễn ra trên nhiều lĩnh
vực khác nhau: khiếu nại trong lĩnh vực quản lý hành chính, khiếu nại trong lĩnh vực
bầu cử, khiếu nại trong lao động, khiếu nại trong lĩnh vực tư pháp1 …
Dưới góc độ dân chủ thì khiếu nại là hình thức dân chủ trực tiếp để nhân dân
tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và công dân. Nhận thức được tầm quan trọng của
vấn đề này, Đảng và Nhà nước luôn coi trọng công tác giải quyết khiếu nại, tạo điều
kiện thuận lợi để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền khiếu nại của mình và tham gia
giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước.
Quyền khiếu nại là một trong những quyền cơ bản của công dân, được ghi nhận
lần đầu tiên trong Hiến pháp năm 1959 và lần lượt qua Hiến pháp 1980, Hiến pháp
năm 1992, được sửa đổi, bổ sung năm 2001 (sau đây gọi chung là Hiến pháp năm
1992) đều quy định quyền khiếu nại của cơng dân2. Cụ thể hóa, quy định của Hiến
pháp về quyền khiếu nại, tố cáo của công dân Quốc hội đã ban hành pháp lệnh khiếu
nại, tố cáo năm 1981, 1991 và Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 (được sửa đổi, bổ sung
năm 2004, 2005). Trên cơ sở quy định của Luật khiếu nại, tố cáo, Chính phủ đã ban
hành các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật khiếu nại, tố cáo như: Nghị định số
67/1999/NĐ-CP ngày 07/8/1999 của Chính phủ; Nghị định số 62/2002/NĐ-CP ngày
14/6/2002 của Chính phủ; Nghị định số 53/2005/NĐ-CP ngày 19/4/2005 của Chính

phủ và Nghị định số 136/2006/NĐ-CP ngày 14/11/2006... Ngoài ra, hầu hết các luật,
pháp lệnh điều chỉnh các quan hệ khác nhau trong các lĩnh vực của đời sống xã hội
cũng có quy định về khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đó như: Luật đất
đai, Luật bảo vệ rừng, Luật chứng khoán, Luật thi hành án dân sự . . .
Do đó, có thể coi khiếu nại là một hình thức phản kháng của cá nhân, cơ quan,
tổ chức trước quyết định, hành vi của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xâm
1

Dẫn theo Nguyễn Văn Thạch, Tập bài giảng Thanh tra và Khiếu nại, tố cáo, Trường đại học Luật Thành phố
Hồ Chí Minh, tr. 78.
2
Điều 29 Hiến pháp 1959, Điều 73 Hiến pháp năm 1980 và Điều 74 Hiến pháp năm 1992.


6

phạm đến quyền, lợi ích của mình thơng qua việc yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đó
xem xét lại quyết định, hành vi của họ.
Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân là một quyền quan trọng và có ý nghĩa
kép (Điều 74 Hiến pháp năm 1992; Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998, sửa đổi, bổ sung
năm 2004, 2005), vì quyền này khơng chỉ là phương tiện để đảm bảo các quyền, tự do
cá nhân không bị xâm hại, mà cịn góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện, nâng cao
chất lượng hoạt động của bộ máy Nhà nước3. Do vậy, có thể khẳng định rằng quyền
khiếu nại chính là một trong những quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong
Hiến pháp và là quyền có tính chất chính trị, pháp lý của cơng dân. Là một hình thức
biểu hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Khiếu nại là “Sự phản ứng tự giác của con người trước một quyết định, một
hành vi nào đó mà người khiếu nại cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật,
không phù hợp với các quy tắc chuẩn mực trong đời sống cộng đồng, xâm phạm tới
quyền và lợi ích hợp pháp của mình”4.

Từ những quy định trên Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán
bộ, công chức đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định
hành chính, hành vi hành chính khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là
trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình (Khoản 1 Điều 2 Luật
khiếu nại, tố cáo sửa đổi, bổ sung năm 2005).
1.1.1.2. Khái niệm khiếu nại trong lĩnh vực Thi hành án dân sự
Thi hành án dân sự là một lĩnh vực hết sức nhạy cảm, việc thi hành án nhằm
đảm bảo cho bản án, quyết định của Tòa án được tổ chức thi hành trên thực tế, quyết
định kết quả của quá trình xét xử, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của cơng dân.
Đồng thời, đây còn là một khâu đụng chạm trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của người
được thi hành án và người phải thi hành án (gọi chung là đương sự). Do vậy, việc
đương sự luôn cảm thấy bức xúc trước những quyết định, hành vi của thủ trưởng, chấp
hành viên, cán bộ làm công tác thi hành án dân sự. Tất cả các thủ tục của cơ quan Thi
hành án dân sự tổ chức thực hiện đều có thể bị khiếu nại từ giai đoạn ban đầu là nhận
đơn yêu cầu thi hành án cho đến giai đoạn cuối là kết thúc việc thi hành án vẫn có thể
bị khiếu nại.
Quyền khiếu nại của công dân trong lĩnh vực thi hành án dân sự, được quy định
lần đầu trong Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 19895. Ngày 06 tháng 10 năm 1992
Quốc hội ban hành Nghị quyết về việc bàn giao công tác Thi hành án dân sự từ Tòa án
nhân dân các cấp sang các cơ quan của Chính phủ. Theo đó, Chính phủ thống nhất
3

Trường Đại học luật Thành phố Hồ Chí Minh (2010), Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Nhà xuất bản Đại
học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 408.
4
Dẫn theo Nguyễn Thiện Thành (2007), “Giải quyết tranh chấp, khiếu nại trong lĩnh vực đất đai theo thủ tục
hành chính (Từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh)”, Luận văn thạc sĩ Luật học.
5
Điều 38 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1989.



7

quản lý công tác Thi hành án dân sự trong phạm vi cả nước. Bộ tư pháp giúp Chính
phủ quản lý Nhà nước về công tác Thi hành án dân sự và tổ chức việc Thi hành án dân
sự. Cùng với việc ngày 21-4-1993, Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Thi hành án dân
sự 1993. Ngày 14 tháng 01 năm 2004 Quốc hội ban hành Pháp lệnh thi hành án dân sự
năm 2004 thay thế pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993. Theo đó, Pháp lệnh thi
hành án dân sự năm 1993 và 2004 đều quy định về quyền khiếu nại của công dân trong
lĩnh vực thi hành án dân sự6.
Những năm gần đây, các quy định của pháp luật về khiếu nại thường xuyên
được sửa đổi, bổ sung. Điều đó, thể hiện việc cố gắng hồn thiện cơ chế pháp luật để
tạo điều kiện thuận lợi cho cơng dân thực hiện quyền khiếu nại của mình. Khiếu nại và
giải quyết khiếu nại nói chung và trong lĩnh vực Thi hành án dân sự nói riêng có vai trò
quan trọng trong việc bảo đảm quyền khiếu nại của công dân, kịp thời phát hiện, khắc
phục những sai sót trong q trình thi hành án của các chủ thể có thẩm quyền và nhằm
mục đích ngày càng hồn thiện về hệ thống pháp luật thi hành án dân sự. Ngày 14
tháng 11 năm 2008, Quốc hội thông qua Luật thi hành án dân sự năm 2008 có hiệu lực
kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2009. Tại Khoản 1 Điều 140 Luật thi hành án dân sự năm
2008 quy định: “Đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền khiếu nại
đối với quyết định, hành vi của thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự, chấp hành viên
nếu có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi
ích hợp pháp của mình”.
Cụ thể hóa Luật thi hành án dân sự năm 2008 về khiếu nại và giải quyết khiếu
nại. Ngày 01 tháng 6 năm 2010, Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự đã ký
quyết định số 1420/QĐ-GQKNTC ban hành quy chế giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi
hành án dân sự. Tại Khoản 1 Điều 3 Quy chế quy định: “Khiếu nại về thi hành án dân
sự là việc đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án đề
nghị xem xét lại quyết định, hành vi của Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự, Chấp
hành viên khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm

quyền, lợi ích hợp pháp của chính họ”.
Như vậy, khiếu nại trong lĩnh vực thi hành án dân sự một mặt phải thực hiện
theo quy định của Luật khiếu nại, tố cáo nói chung. Mặt khác, phải chấp hành các quy
định của Luật thi hành án dân sự và các văn bản pháp luật khác về khiếu nại. Tuy
nhiên, so với Luật khiếu nại, tố cáo có một số khác biệt nhất định.
Luật khiếu nại, tố cáo quy định: Công dân, cơ quan, tổ chức có quyền đề nghị
cơ quan Nhà nước, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong cơ quan Nhà nước xem xét
lại quyết định hành chính, hành vi hành chính khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành
vi đó là trái pháp luật, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ7.

6
7

khoản 1 Điều 44 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993 và Điều 59 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004.
khoản 1 Điều 2 Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998, Luật sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005.


8

Khiếu nại trong lĩnh vực thi hành án dân sự: Khơng chỉ có người được thi hành
án, người phải thi hành án mà cịn cả những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến
việc thi hành án cũng có quyền khiếu nại đối với quyết định, hành vi của Thủ trưởng
cơ quan Thi hành án dân sự và Chấp hành viên.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án có thể là cá nhân,
cơ quan, tổ chức tuy không phải là người được thi hành án, người phải thi hành án
nhưng việc thi hành án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ. Theo đó, người có
quyền lợi, nghĩa vụ có thể là:

Người đang quản lý, sử dụng tài sản của người phải thi
hành án bị tác động trực tiếp bởi quyết định, hành vi của cơ quan thi hành

án dân sự trong quá trình tổ chức thi hành án làm ảnh hưởng đến quyền
và lợi ích của họ.

Người có tài sản chung với người phải thi hành án bị tác
động trực tiếp bởi quyết định, hành vi của cơ quan thi hành án dân sự
trong quá trình tổ chức thi hành án làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích
của họ.

Người đang có tranh chấp hoặc nhận chuyển nhượng tài
sản của người phải thi hành án bị tác động trực tiếp bởi quyết định, hành
vi của cơ quan thi hành án dân sự trong quá trình tổ chức thi hành án làm
ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của họ.
Từ những phân tích trên, khiếu nại trong lĩnh vực thi hành án dân sự: Là việc
đương sự (người được thi hành án, người phải thi hành án), người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan đến việc thi hành án đề nghị xem xét lại quyết định, hành vi của Thủ
trưởng cơ quan thi hành án, Chấp hành viên khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành
vi đó là trái pháp luật, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của chính họ.
1.1.2. Đặc điểm khiếu nại trong lĩnh vực Thi hành án dân sự
1.1.2.1. Chủ thể khiếu nại: Là đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đến việc thi hành án8. Theo quy định của Luật thi hành án dân sự chúng ta có thể hiểu
chủ thể khiếu nại trong lĩnh vực thi hành án dân sự như sau:
Đương sự: Là người được thi hành án và người phải thi hành án trong đó:
* Người được thi hành án: Là cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng quyền, lợi
ích trong bản án, quyết định được thi hành9.
* Người phải thi hành án: Là cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện nghĩa vụ
trong bản án, quyết định được thi hành10.
8

khoản 1 Điều 140 Luật thi hành án dân sự năm 2008.
khoản 2 Điều 3 Luật thi hành án dân sự năm 2008.

10
khoản 3 Điều 3 Luật thi hành án dân sự năm 2008.
9


9

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Là cá nhân, cơ quan, tổ chức có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ thi hành án
của đương sự11.
Như vậy: Chủ thể khiếu nại nói chung theo quy định của Luật khiếu nại, tố cáo
hiện hành và Chủ thể khiếu nại trong lĩnh vực thi hành án dân sự có những điểm khác
nhau cơ bản sau:
Chủ thể của khiếu nại nói chung là: Cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Chủ thể của khiếu nại trong lĩnh vực thi hành án dân sự là: Người được thi hành
án, người phải thi hành án và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến việc
thi hành án12.
Chủ thể khiếu nại nói chung rất rộng: Bất kỳ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào cũng
có quyền khiếu nại khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm
phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Chủ thể khiếu nại trong lĩnh vực thi hành án dân sự hẹp hơn: Chỉ bao gồm
những người liên quan đến việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án.
1.1.2.2. Đối tượng khiếu nại: Là quyết định, hành vi của Thủ trưởng cơ quan Thi
hành án dân sự, Chấp hành viên.
Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự: Phải là Chấp hành viên và là người
được giao nhiệm vụ quản lý, chỉ đạo hoạt động thi hành án dân sự của cơ quan thi hành
án dân sự. Được quyền ra quyết định về thi hành án theo thẩm quyền như: Quyết định
thi hành án, quyết định cưỡng chế, quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án

Chấp hành viên: Chấp hành viên là người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi

hành các bản án, quyết định theo quy định pháp luật. Chấp hành viên được quyền ra
các loại quyết định như: Quyết áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, quyết định áp
dụng biện pháp cưỡng chế, quyết định thu phí thi hành án, quyết định xử phạt vi phạm
hành chính …
Luật thi hành án dân sự năm 2008 quy định đối tượng khiếu nại rộng hơn so với
Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004. Đối tượng bị khiếu nại theo luật ngồi quyết
định thì các hành vi sau đây có thể bị khiếu nại như: khơng xác minh điều kiện thi hành
án theo đơn yêu cầu của người được thi hành án, không triệu tập người phải thi hành án
để thực hiện việc thi hành án, không chứng kiến việc thỏa thuận của các đương sự khi
luật yêu cầu Chấp hành viên phải chứng kiến việc thỏa thuận của đương sự, khơng
thơng báo cho bên có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án…

11
12

khoản 4 Điều 3 Luật thi hành án dân sự năm 2008.
Phần 1.1.1.2 Chương 1 Luận văn.


10

Như vậy, theo quy định của pháp luật chủ thể có thẩm quyền ra quyết định thi
hành án và thực hiện các hành vi trong lĩnh vực thi hành án dân sự chỉ là Thủ trưởng cơ
quan thi hành án dân sự và Chấp hành viên.
Ngoài ra, Luật thi hành án dân sự năm 2008 phân các quyết định, hành vi bị
khiếu nại thành các nhóm khác nhau, tùy thuộc vào tính chất và giai đoạn thi hành án
cụ thể như sau:
Đối với nhóm quyết định, hành vi về thi hành án trước khi áp dụng biện pháp
bảo đảm, biện pháp cưỡng chế: Đó là tất cả các quyết định, hành vi mà Thủ trưởng
hoặc Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự đã ban hành hoặc thực hiện hành vi

trước khi áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế như: Quyết định thi hành
án theo đơn, quyết định thi hành án chủ động, Quyết định xử phạt vi phạm hành chính,
Quyết định trả đơn, Quyết định đình chỉ thi hành án … hoặc những hành vi như không
thông báo, triệu tập, xác minh, làm việc với các bên thi hành án …
Các biện pháp bảo đảm gồm: 1. Phong tỏa tài khoản. 2. Tạm giữ tài sản, giấy
tờ. 3. Tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản13.
Các biện pháp cưỡng chế gồm: 1. Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý
tiền, giấy tờ có giá của người phải thi hành án. 2. Trừ vào thu nhập của người phải thi
hành án. 3. Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do
người thứ ba giữ. 4. Khai thác tài sản của người phải thi hành án. 5. Buộc chuyển giao
vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ. 6. Buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc
không được thực hiện cơng việc nhất định14.
Đối với nhóm quyết định, hành vi về áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản và
biện pháp bảo đảm khác: Đó là những quyết định, hành vi của Thủ trưởng hoặc Chấp
hành viên cơ quan thi hành án dân sự khi thực hiện áp dụng biện pháp bảo đảm thi
hành án như: Quyết định phong toản tài khoản; Quyết định tạm giữ tài sản, giấy tờ;
Quyết định tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản hoặc là
những hành vi như: hành vi thông báo hoặc không thông báo về áp dụng các biện pháp
bảo đảm trên…
Đối với nhóm quyết định, hành vi về áp dụng biện pháp cưỡng chế: Là khi Thủ
trưởng hoặc Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định áp dụng biện
pháp cưỡng chế hoặc thực hiện hành vi liên quan đến việc cưỡng chế thi hành án như:
Quyết định kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án; Quyết định trừ vào thu
nhập của người phải thi hành án … hoặc thực hiện hành vi như không thông báo việc
áp dụng biện pháp cưỡng chế; buộc thực hiện cơng việc nhất định theo bản án …
Đối với nhóm quyết định, hành vi sau khi áp dụng biện pháp cưỡng chế: Là các
quyết định, hành vi sau khi Thủ trưởng, Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự áp
13
14


khoản 3 Điều 66 Luật thi hành án dân sự năm 2008.
Điều 71 Luật thi hành án dân sự năm 2008.


11

dụng các biện pháp cưỡng chế như: Quyết định giảm giá tài sản; Quyết định trả lại tài
sản … hoặc hành vi như: Không thực hiện việc định giá tài sản, không bán tài sản kê
biên, buộc họ phải giao trả tài sản…
Tóm lại: Đối tượng khiếu nại theo Luật thi hành án dân sự có những điểm khác
biệt so với Luật khiếu nại, tố cáo ở những điểm sau:
 Đối tượng khiếu nại theo Luật khiếu nại. tố cáo rộng hơn:
Bao gồm các quyết định, hành vi của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Còn
trong lĩnh vực thi hành án dân sự thì đối tượng hẹp hơn chỉ bao gồm
quyết định, hành vi của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự và Chấp
hành viên.
 Theo Luật thi hành án dân sự thì đối tượng khiếu nại chia
ra thành các nhóm đối tượng khiếu nại khác nhau tùy thuộc đó là quyết
định gì? hành vi gì? áp dụng vào thời điểm nào?...
Về nội dung khiếu nại trong lĩnh vực thi hành án dân sự: Trong công tác thi
hành án dân sự, thì các khiếu nại về thi hành án thường liên quan đến các quyết định,
hành vi của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên trong quá trình tổ
chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định của cơ quan có thẩm
quyền khác. Do đó, nội dung khiếu nại về thi hành án dân sự thường rất đa dạng. Tuy
nhiên, trên thực tế khiếu nại về thi hành án dân sự thường tập trung ở những nội dung
như: Chậm ra quyết định thi hành án, chậm tổ chức thi hành án hoặc không tổ chức thi
hành dứt điểm bản án mặc dù người phải thi hành án có điều kiện thi hành; khiếu nại
về thanh toán tiền thi hành án. Kê biên sai đối tượng, kê biên tài sản đã chuyển nhượng
hợp pháp…
1.1.2.3. Mục đích của khiếu nại trong lĩnh vực Thi hành án dân sự

Mục đích của khiếu nại nhằm khôi phục và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
người khiếu nại. Điều đó, cũng có nghĩa việc khiếu nại là công cụ để đương sự tự bảo
vệ mình, dùng quyền khiếu nại để đấu tranh trực tiếp với những quyết định, hành vi
của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên mà họ cho rằng nó xâm
phạm đến lợi ích của họ. Đồng thời, thể hiện tính nghiêm minh, kỷ cương, công bằng
của pháp luật.
Thông qua quyền khiếu nại, người dân tham gia vào việc giám sát hoạt động của
các cơ quan Thi hành án dân sự, Chấp hành viên, cán bộ làm cơng tác thi hành án dân
sự từ đó buộc các cơ quan Thi hành án dân sự, Chấp hành viên, cán bộ phải tự soi xét
lại mình, áp dụng đúng các quy định về trình tự, thủ tục, nội dung thi hành án để ln
hồn thiện khơng có sai sót trong q trình thực thi cơng vụ.
Tuy nhiên, một số nhỏ người dân cố tình lợi dụng chính sách pháp luật của Nhà
nước ta trong việc thực hiện quyền dân chủ của công dân, lợi dụng quyền khiếu nại để
thực hiện việc khiếu nại nhằm mục đích trì hoãn, kéo dài thời gian thi hành án, hoặc


12

khiếu nại vượt cấp, gởi nhiều nơi gây mất ổn định tình hình an ninh, chính trị tại địa
phương, cũng như gây khó khăn, cản trở trong việc tổ chức thi hành án của các cơ quan
Thi hành án dân sự trong khi thi hành nhiệm vụ.
1.1.3. Hình thức và thời hạn khiếu nại trong lĩnh vực Thi hành án dân sự
1.1.3.1. Về hình thức khiếu nại: Là cách thức mà người khiếu nại thực hiện việc
khiếu nại của mình. Cũng như Luật khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực thi hành án dân sự
người khiếu nại có thể thực hiện việc khiếu nại của mình bằng ba hình thức15:
Thứ nhất: Có thể gửi đơn khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu
nại. Yêu cầu đơn khiếu nại phải thể hiện những nội dung: Phải ghi rõ ngày, tháng, năm
khiếu nại; họ, tên, địa chỉ của người khiếu nại; họ, tên, địa chỉ của người bị khiếu nại;
nội dung khiếu nại, lý do khiếu nại và yêu cầu giải quyết. Đơn khiếu nại phải do người
khiếu nại ký tên hoặc điểm chỉ.

Thứ hai: Có thể trình bày trực tiếp về nội dung khiếu nại tại cơ quan có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại. Người có trách nhiệm tiếp nhận việc khiếu nại phải hướng
dẫn người khiếu nại viết thành đơn hoặc ghi lại nội dung của người khiếu nại theo
đúng quy định pháp luật.
Thứ ba: Có thể thơng qua người đại diện. Người đại diện phải có giấy tờ chứng
minh tính hợp pháp của việc đại diện và khiếu nại phải thực hiện đúng theo thủ tục quy
định.
1.1.3.2. Về thời hiệu khiếu nại: Thời hiệu khiếu nại là khoảng thời gian pháp luật
cho phép người khiếu nại thực hiện quyền khiếu nại của mình. Nếu hết thời gian pháp
luật quy định thì người khiếu nại mất đi quyền khiếu nại của mình. Tuy nhiên, đối với
thời gian do trở ngại khách quan mà người khiếu nại không thực hiện được quyền
khiếu nại của mình trong thời gian này, thì pháp luật quy định thời gian có trở ngại
khách quan khơng tính vào thời hiệu khiếu nại.
Như vậy, thời hiệu khiếu nại trong lĩnh vực Thi hành án dân sự là khoảng thời
gian đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền khiếu nại đối với
quyết định, hành vi của Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự, Chấp hành viên.
Về thời hiệu khiếu nại trong lĩnh vực Thi hành án dân sự được quy định cụ thể
tại Khoản 2 Điều 140 như sau:
- Đối với quyết định, hành vi về thi hành án trƣớc khi áp dụng biện pháp bảo
đảm, biện pháp cƣỡng chế là 15 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hoặc biết
được hành vi đó.
- Đối với quyết định về áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản là 03 ngày
làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định.

15

Điều 147 Luật thi hành án dân sự năm 2008.


13


- Đối với quyết định, hành vi về áp dụng biện pháp bảo đảm khác là 10 ngày,
kể từ ngày nhận được quyết định hoặc biết được hành vi đó.
- Đối với quyết định, hành vi về áp dụng biện pháp cƣỡng chế là 30 ngày, kể
từ ngày nhận được quyết định hoặc biết được hành vi đó.
- Đối với quyết định, hành vi sau khi áp dụng biện pháp cƣỡng chế là 30
ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hoặc biết được hành vi đó.
Trường hợp do trở ngại khách quan hoặc do sự kiện bất khả kháng mà người
khiếu nại không thực hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời hạn thì thời gian có trở
ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng khơng tính vào thời hạn khiếu nại.
Lần khiếu nại tiếp theo, thời hiệu là 15 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định
giải quyết khiếu nại của người có thẩm quyền.
Từ những quy định của Luật thi hành án dân sự năm 2008 về thời hiệu khiếu
nại, so sánh với Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 và Luật khiếu nại, tố cáo năm
1998 (sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005) thì quy định của Luật thi hành án dân sự cụ
thể, rõ ràng hơn và có sự phân định về thời gian thực hiện giữa các nhóm quyết định,
hành vi để ấn định thời hiệu khiếu nại với việc quy định này có những ưu điểm và hạn
chế:
Về ưu điểm: Hạn chế việc khiếu nại tràn lan hoặc đương sự lợi dụng quyền
khiếu nại để kéo dài việc thi hành án, gây khó khăn, cản trở cho việc thi hành nhiệm vụ
trong quá trình giải quyết việc thi hành án. Ngồi ra, góp phần vào việc ngày càng
hồn thiện hơn pháp luật về thi hành án dân sự.
Về hạn chế: Tuy nhiên, với việc quy định thời hiệu khiếu nại như trên nó cũng
có những hạn chế nhất định như thời gian khiếu nại quá ngắn, có những trường hợp chỉ
có 03 ngày hoặc 10 ngày dẫn đến việc đương sự rất khó thực hiện quyền khiếu nại của
mình. Đối với cơ quan Thi hành án dân sự, đòi hỏi cán bộ phụ trách giải quyết khiếu
nại và Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự phải nghiên cứu kỹ các quy định pháp
luật, bởi vì mỗi quyết định, hành vi thực hiện ở những thời điểm khác nhau thì thời
hiệu khiếu nại khác nhau. Do vậy, dễ dẫn đến nhầm lẫn trong việc xác định thời hạn
khiếu nại.

Còn thời hiệu khiếu nại theo quy định của Pháp lệnh thi hành án dân sự năm
2004 là 90 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hoặc biết được hành vi trái pháp luật
của Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự, Chấp hành viên (90 ngày được áp dụng
cho tất cả các quyết định và hành vi)16.

16

Điều 59 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004.


14

Theo quy định của Luật khiếu nại, tố cáo thời hiệu khiếu nại lần đầu là 90, kề từ
ngày nhận được quyết định hành chính hoặc biết được có hành vi hành chính 17. Thời
hiệu khiếu nại lần hai là 30 ngày hoặc có thể kéo dài nhưng khơng được quá 45 ngày18.
1.2. Quyền và nghĩa vụ của ngƣời khiếu nại, ngƣời bị khiếu nại trong lĩnh vực
Thi hành án dân sự
1.2.1. Quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại trong lĩnh vực Thi hành án dân sự
Người khiếu nại: Người khiếu nại trong thi hành án dân sự là người được thi hành
án, người phải thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án
có quyền khiếu nại đối với quyết định, hành vi của Thủ trưởng cơ quan Thi hành án
dân sự, Chấp hành viên khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật,
xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của chính họ.
* Về quyền của người khiếu nại: Quyền khiếu nại là quyền hiến định của công
dân, được quy định trong Hiến pháp và được cụ thể hóa trong Luật khiếu nại, tố cáo và
các văn bản hướng dẫn thi hành luật khiếu nại, tố cáo19.
Để đảm bảo cho người khiếu nại được thực hiện quyền khiếu nại của mình một
cách có hiệu quả, Luật thi hành án dân sự năm 2008 quy định người khiếu nại cũng có
các quyền như Luật khiếu nại, tố cáo cụ thể: Tự mình khiếu nại hoặc thơng qua người
đại diện hợp pháp để khiếu nại; Nhờ luật sư giúp đỡ về pháp luật trong quá trình giải

quyết khiếu nại; Được biết các bằng chứng để làm căn cứ giải quyết khiếu nại, đưa ra
bằng chứng về việc khiếu nại và giải trình ý kiến của mình về bằng chứng đó; Được
khơi phục quyền, lợi ích hợp pháp của mình đã bị xâm phạm và được bồi thường thiệt
nếu có; Được quyền khiếu nại tiếp nếu khơng đồng ý với quyết định giải quyết khiếu
nại lần đầu của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại…20
Trong các quyền nêu trên của người khiếu nại thì quyền nhờ luật sư giúp đỡ về
pháp luật trong quá trình giải quyết khiếu nại là một quyền mới được quy định trong
Luật khiếu nại, tố cáo sửa đổi năm 2005 và Luật thi hành án dân sự năm 2008 kế thừa,
ghi nhận trong luật nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người khiếu nại, cũng như cùng
với quá trình mở rộng và phát huy dân chủ trong đời sống xã hội và để hồn thiện hơn
nữa về pháp luật, thì luật sư có vai trò quan trọng trong việc tham gia bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp nói chung và quyền khiếu nại nói riêng của người dân. Tuy nhiên,
việc giải quyết khiếu nại được coi là “chuyện trong nhà” của các cơ quan Nhà nước.
Chính do vậy, mà việc tham gia của luật sư vào quá trình giải quyết khiếu nại rất ít và
chỉ mang tính chất là tư vấn, hướng dẫn, viết đơn khiếu nại hoặc kiến nghị …
17

Điều 31 Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 (được sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005). Và Điều 4 Nghị định
136/2006/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật khiếu
nại, tố cáo và các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật khiếu nại, tố cáo.
18
Điều 39 Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 (được sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005).
19
Điều 74 Hiến pháp 1992 và Điều 1 Luật khiếu nại, tố cáo 1998 đươc sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005.
20
khoản 1 Điều 17 Luật khiếu nại, tố cáo và Khoản 1 Điều 143 Luật thi hành án dân sự năm 2008.


15


Theo báo cáo số liệu thống kê trong tổng số gần 41.000 vụ việc khiếu nại được
thống kê thì chỉ có 158 vụ có luật sư tham gia, chủ yếu chỉ là tư vấn và viết đơn giúp
người khiếu nại21.
Ngoài ra, người khiếu nại cịn có quyền tự mình khiếu nại hoặc thông qua người
đại diện hợp pháp để khiếu nại như: Cha, mẹ, vợ, chồng, anh chị em ruột, con đã thành
niên với điều kiện người đại diện phải là người có năng lực pháp luật và năng lực hành
vi theo quy định pháp luật.
Như vậy, với việc quy định này giúp cho việc áp dụng pháp luật được thống
nhất, không chồng chéo, mâu thuẫn nhau giữa các quy định pháp luật. Tuy nhiên, trong
lĩnh vực Thi hành án dân sự thì đương sự có thể khiếu nại đối với bất cứ hành vi nào
của Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự, Chấp hành viên trong quá trình tổ chức thi
hành án mà đương sự cho là trái pháp luật, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của
họ. Nhưng pháp luật khơng có quy định cụ thể như thế nào là có căn cứ cho rằng quyết
định, hành vi đó là trái pháp luật và thế nào là khơng có căn cứ. Vì vậy, người khiếu
nại lợi dụng vào việc quy định thiếu chặt chẽ này của pháp luật mà khiếu nại tràn lan,
khiếu nại liên tục, gởi nhiều nơi, nhiều cấp gây khó khăn, cản trở cho quá trình thực thi
nhiệm vụ của các cơ quan Thi hành án dân sự.
Mặt khác, quyền của người khiếu theo quy định của Luật thi hành án dân sự
năm 2008 và quyền của người khiếu nại theo Luật khiếu nại, tố cáo hiện hành có
những điểm khác nhau đó là:

Luật khiếu nại, tố cáo quy định người khiếu nại có quyền
khiếu nại tiếp hoặc khởi kiện ra Tịa án nếu không đồng ý với quyết định
giải quyết khiếu nại lần đầu. Trong khi Luật thi hành án dân sự năm 2008
quy định người khiếu nại nếu không đồng ý thì chỉ có quyền khiếu nại
tiếp lên cấp trên trực tiếp, khơng có quyền khởi kiện tại Tịa án. Như vậy,
có thể khẳng định trong lĩnh vực Thi hành án dân sự thì người khiếu nại
khơng có quyền khởi kiện.

Luật thi hành án dân sự quy định người khiếu nại có quyền

tự mình khiếu nại hoặc thơng qua người đại diện hợp pháp, với quy định
này thì hẹp hơn so với Luật khiếu nại, tố cáo. Bởi vì, nếu chỉ thơng qua
người đại diện hợp pháp thì chỉ có là: Cha, mẹ, vợ, chồng, anh chị em
ruột, con đã thành niên cịn theo Luật khiếu nại, tố cáo thì ngồi người
đại diện hợp pháp trên thì có thể ủy quyền cho người khác để khiếu nại22.
* Về nghĩa vụ của người khiếu nại: Là việc người khiếu nại phải chấp hành và
thực hiện những công việc nhất định. Cũng như Luật khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực
Thi hành án dân sự cũng quy định người khiếu nại có các nghĩa vụ sau: Khiếu nại đến
21

Lê Kiên (2008), “Giải quyết khiếu nại, tố cáo: Ta tự xử ta, luật gia ngồi cuộc”, Báo pháp luật Thành phố Hồ
Chí Minh, ( />22
điểm a khoản 1 Điều 17 Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 được sửa đổn, bổ sung năm 2005.


16

đúng người có thẩm quyền giải quyết; Chấp hành nghiêm chỉnh quyết định giải quyết
khiếu nại có hiệu lực thi hành và quyết định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Trình bày
trung thực sự việc, cung cấp thơng tin, tài liệu cho người giải quyết khiếu nại; chịu
trách nhiệm trước pháp luật về nội dung trình bày và cung cấp thông tin, tài liệu liên
quan đến việc khiếu nại của mình23.
Theo đó, người khiếu nại có nghĩa vụ khiếu nại đến đúng người có thẩm quyền
giải quyết mục đích của nghĩa vụ này nhằm hạn chế tình trạng khiếu nại tràn lan, vượt
cấp, gởi nhiều nơi gây bất ổn đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội.
Đồng thời, để cơng dân cân nhắc đưa đơn đến đúng nơi có thẩm quyền giải quyết,
tránh làm mất thời gian. Tuy nhiên, thực tế việc quy định nghĩa vụ này đối với người
khiếu nại có một số vấn đề sau:

Nếu người khiếu nại gởi đơn khiếu nại khơng đúng người

có thẩm quyền giải quyết thì người tiếp nhận vẫn phải có trách nhiệm
chuyển đến nơi có thẩm quyền giải quyết theo quy định pháp luật. Như
vậy, vô hình chung với quy định nghĩa vụ này của người khiếu nại chỉ
mang tính hình thức, khơng có giá trị thực tiễn trong quá trình áp dụng.

Với việc quy định nghĩa vụ phải khiếu nại đúng người có
thẩm quyền giải quyết gây khó khăn cho cơng dân, đồng thời cũng tạo ra
nguy cơ việc khiếu nại của công dân không được tiếp nhận với lý do
không thuộc thẩm quyền và trách nhiệm giải quyết.
Luật thi hành án dân sự năm 2008 quy định: Đương sự có quyền khiếu nại bất
cứ quyết định, hành vi nào của Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự, Chấp hành
viên trong quá trình tổ chức thi hành án. Luật không quy định trách nhiệm của người
khiếu nại nếu khiếu nại sai, khơng có căn cứ. Đây có thể là thiếu sót, là kẽ hở của pháp
luật. Như chúng ta đã biết, tâm lý của người phải thi hành án luôn cảm thấy quyền, lợi
ích của họ bị xâm phạm. Cho nên, họ ln mong muốn trì hỗn việc thi hành án, tìm đủ
mọi cách, mọi biện pháp để kéo dài thời gian thi hành án mà một trong những cách hữu
hiệu nhất là khiếu nại liên tục, khiếu nại nhiều nơi, nhiều cấp . . . để đạt được mục đích
của bản thân mình. Tuy nhiên, theo quy định của Luật thi hành án dân sự thì người
phải thi hành án chỉ có nghĩa vụ duy nhất trong quá trình tổ chức thi hành án là phải tự
nguyện thi hành án. Trong khi đó, nếu cơ quan Thi hành án dân sự chậm trễ thì giá trị
tài sản có thể sẽ thay đổi, dẫn đến thiệt thòi quyền lợi cho người được thi hành án,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án và khi có khiếu nại của
đương sự về thiệt hại của sự chậm thi hành án thì phải có nghĩa vụ bồi thường theo quy
định.
1.2.2. Quyền và nghĩa vụ của người bị khiếu nại trong lĩnh vực Thi hành án dân
sự

23

khoản 2 Điều 143 Luật thi hành án dân sự năm 2008.



17

Người bị khiếu nại trong lĩnh vực thi hành án dân sự: Là Thủ trưởng cơ quan
Thi hành án dân sự, Chấp hành viên đã ra quyết định hoặc có hành vi nếu có căn cứ
cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Người bị khiếu nại trong lĩnh vực Thi hành án dân sự hẹp hơn so với Luật khiếu
nại, tố cáo năm 1998 (được sửa đổi bổ sung năm 2004 và năm 2005) 24. Chính vì điều
này, mà dẫn đến việc hạn chế thực hiện quyền khiếu nại của cơng dân. Bởi vì, trong
lĩnh vực Thi hành án dân sự ngồi các chủ thể trên cịn thẩm tra viên, thư ký, chuyên
viên, kế toán, thủ quỹ . . . họ là những người được pháp luật giao trách nhiệm phụ trách
một số lĩnh vực nhất định, mà chính đội ngũ những người này là lực lượng chủ yếu
trong việc giải quyết công việc hàng ngày. Mặc dù, họ không được ra các quyết định
nhưng họ được quyền thực hiện những hành vi trong quá trình thi hành nhiệm vụ như:
tiếp đương sự, phụ việc Chấp hành viên, Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự trong
một số công việc. Do vậy, đây cũng là một hạn chế cần bổ sung để hoàn thiện pháp
luật về Thi hành án dân sự.
Như vậy, so với Luật khiếu nại, tố cáo thì người bị khiếu nại theo Luật thi hành
án dân sự năm 2008 có những điểm khác nhau sau:

Người bị khiếu nại hẹp hơn so với Luật khiếu nại, tố cáo
trong lĩnh vực Thi hành án dân sự người bị khiếu nại chỉ bao gồm: Thủ
trưởng cơ quan Thi hành án dân sự và Chấp hành viên.

Trong lĩnh vực Thi hành án dân sự chỉ có thể khiếu nại cá
nhân còn theo quy định của Luật khiếu nại, tố cáo thì có thể khiếu nại cả
cá nhân, cơ quan, tổ chức.
* Về quyền của người bị khiếu nại: So với Luật khiếu nại, tố cáo thì Luật thi

hành án dân sự năm 2008 cũng quy định người bị khiếu nại có các quyền: Quyền được
biết các căn cứ khiếu nại của người khiếu nại; đưa ra bằng chứng về tính hợp pháp của
quyết định, hành vi bị khiếu nại; Quyền được nhận quyết định giải quyết khiếu nại25.
* Về nghĩa vụ của người bị khiếu nại: Cũng giống như quy định của Luật khiếu
nại, tố cáo trong lĩnh vực thi hành án dân sự người bị khiếu nại có các nghĩa vụ: Giải
trình về quyết định, hành vi bị khiếu nại, cung cấp các thông tin, tài liệu liên quan khi
người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại yêu cầu; Chấp hành nghiêm chỉnh quyết định
giải quyết khiếu nại có hiệu lực thi hành và quyết định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp; Bồi
thường, bồi hoàn, khắc phục hậu quả do quyết định, hành vi trái pháp luật của mình
gây ra theo qui định của pháp luật26.

24

khoản 6 Điều 2 Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 (được sửa đổi, bổ sung năm 2004, 2005).
khoản 1 Điều 144 Luật thi hành án dân sự năm 2008.
26
khoản 2 Điều 144 Luật thi hành án dân sự năm 2008.
25


18

Cũng như quy định của Luật khiếu nại, tố cáo. Luật thi hành án dân sự quy định
người bị khiếu nại có nghĩa vụ bồi thường. Trong đó, Thi hành án là hoạt động có khả
năng gây thiệt hại tương đối phổ biến trong quá trình tổ chức thi hành án, việc áp dụng
các quyết định cũng như thực hiện hành vi của người có thẩm quyền đều có nguy cơ
gây ra thiệt hại cho cá nhân, tổ chức có liên quan27. Như vậy, đây là một quy định chưa
tạo ra sự bình đẳng28 trước pháp luật giữa đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan với người có trách nhiệm, quyền hạn tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tịa
án. Bởi vì, một bên có quyền khiếu nại, mặc dù khiếu nại đó có hay khơng có căn cứ

cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật. Khi tiến hành giải quyết khiếu nại nếu
có căn cứ về quyết định, hành vi đó là trái pháp luật thì người bị khiếu nại phải có
nghĩa vụ bồi thường, cịn khiếu nại khơng có căn cứ thì khơng có chế tài để xử lý hành
vi khiếu nại sai và người khiếu nại cũng không bị một trách nhiệm gì về việc khiếu nại
của mình, cho dù việc khiếu nại của mình có thể gây ra những tổn thất mà người bị
khiếu nại phải gánh chịu như: về danh dự, nhân phẩm, uy tín …
1.3. Cơ sở pháp lý giải quyết khiếu nại trong Thi hành án dân sự
1.3.1. Khái niệm giải quyết khiếu nại trong Thi hành án dân sự
Theo quy định tại Điều 2 Luật khiếu nại, tố cáo 1998 đã được sửa đổi, bổ sung
năm 2004 và 2005 thì giải quyết khiếu nại là: “Việc xác minh, kết luận và ra quyết
định giải quyết của người giải quyết khiếu nại”. Từ khái niệm, chúng ta hiểu rằng giải
quyết khiếu nại là một quy trình bao gồm nhiều cơng đoạn, theo đó người giải quyết
khiếu nại phải thực hiện các hoạt động xác minh để làm rõ sự việc, đi đến kết luận việc
khiếu nại đúng hay sai, và ra quyết định chính thức để giải quyết yêu cầu của người
khiếu nại theo đơn khiếu nại.
Do đó, việc giải quyết khiếu nại có ý nghĩa quan trọng là giải quyết khiếu nại
đúng pháp luật sẽ đảm bảo được quyền lợi của Nhà nước, quyền lợi chính đáng của
người dân. Đồng thời, xử lý nghiêm minh những hành vi sai phạm và củng cố niềm tin
cho nhân dân.
Giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực Thi hành án dân sự, giúp người được người
được thi hành án, người phải thi hành án và người có quyền, lợi ích liên quan bảo vệ
được các lợi ích chính đáng của mình. Đồng thời, việc giải quyết tốt các khiếu nại
trong lĩnh vực Thi hành án dân sự, cũng là một trong những nhân tố quan trọng, thúc
đẩy việc thi hành các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được thi
hành trên thực tế, nhằm đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và pháp chế xã hội
chủ nghĩa.

27

Nguyễn Công Long (2009), “Trách nhiệm bồi thường Nhà nước trong hoạt động thi hành án”, Tạp chí nghiên

cứu lập pháp, (số 141), tr. 38.
28
Nguyễn Anh Dũng (2011), “Thực tiễn áp dụng pháp luật Thi hành án dân sự để giải quyết khiếu nại, tố cáo”,
Tạp chí dân chủ và pháp luật, (Số chuyên đề về thi hành án dân sự), tr.28.


19

Ngồi ra, giải quyết khiếu nại cũng góp phần bảo vệ danh dự, uy tín của cán bộ,
Chấp hành viên, các cơ quan Nhà nước nói chung và cơ quan Thi hành án dân sự nói
riêng khi người khiếu nại cố tình xúc phạm đến danh dự, uy tín, nhân phẩm của Chấp
hành viên và cơ quan Thi hành án dân sự nhằm mục đích là chống đối, cản trở, kéo dài
việc thi hành án.
Đồng thời, cùng với việc ban hành quy chế giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi
hành án dân sự, đã giúp cho người khiếu nại thực hiện quyền khiếu nại của mình, khiếu
nại đến đúng cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Cũng như buộc các cơ quan Thi hành
án dân sự giải quyết khiếu nại phải tuân thủ đúng trình tự, thủ tục và thời hạn giải
quyết khiếu nại, điều đó sẽ đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của người khiếu
nại.
Từ những phân tích và nhận định trên, theo tác giả khái niệm giải quyết khiếu
nại trong lĩnh vực Thi hành án dân sự: Là việc người có thẩm quyền giải quyết khiếu
nại, tiến hành xác minh, yêu cầu người bị khiếu nại giải trình, trong những trường hợp
cần thiết, có thể trưng cầu giám định hoặc tổ chức đối thoại, để làm rõ nội dung khiếu
nại, yêu cầu của người khiếu nại và hướng giải quyết khiếu nại để ra quyết định giải
quyết khiếu nại.
1.3.2. Nguyên tắc giải quyết khiếu nại trong Thi hành án dân sự
Nguyên tắc giải quyết khiếu nại là những tư tưởng chỉ đạo, buộc người giải
quyết khiếu nại phải tuân theo trong quá trình giải quyết khiếu nại.
Hoạt động giải quyết khiếu nại là hoạt động mang tính quyên lực Nhà nước, chỉ
được thực hiện bởi người có thẩm quyền trong cơ quan Nhà nước theo một trình tự, thủ

tục do pháp luật quy định. Quá trình giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực Thi hành án
dân sự địi hỏi chủ thể có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, phải tuân thủ một số nguyên
tắc sau:
Thứ nhất: Giải quyết khiếu nại phải đảm bảo tuân thủ các quy định của pháp
luật về thi hành án dân sự và pháp luật về khiếu nại, tố cáo. Thể hiện của nguyên tắc:
Nguyên tắc này yêu cầu với người khiếu nại phải thực hiện đúng quy định của
Luật thi hành án dân sự, Luật khiếu nại, tố cáo và các văn bản pháp luật về khiếu nại.
Theo đó, phải giải giải quyết khiếu nại trong thời hạn luật định và đúng những quy
định của pháp luật. Ngoài ra, người khiếu nại phải chấp hành nghiêm chỉnh quyết định
giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật. Địi hỏi chủ thể có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại, phải căn cứ quy định của Luật thi hành án dân sự, quy chế giải quyết khiếu
nại về thi hành án dân sự và những quy định của pháp luật hiện hành, cùng với những
tình tiết của vụ việc đánh giá vấn đề một cách khách quan, công minh, đưa ra quyết
định giải quyết khiếu nại chính xác, đúng luật để bảo vệ quyền lợi của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự theo quy định pháp luật. Đồng thời,
yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan đến việc giải quyết khiếu nại có nghĩa


20

vụ hỗ trợ, phối hợp và cung cấp thông tin, tài liệu nhằm góp phần vào việc giải quyết
khiếu nại có hiệu quả.
Thứ hai: Mọi khiếu nại phải được xem xét, xử lý, giải quyết đúng pháp luật,
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức và người có quyền, nghĩa
vụ liên quan đến việc thi hành án dân sự. Trong quá trình giải quyết, nếu người khiếu
nại có đơn xin rút khiếu nại thì người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại ra thơng báo
về việc đình chỉ giải quyết khiếu nại.
Theo nội dung nguyên tắc khi cơ quan Thi hành án dân sự nhận được đơn khiếu
nại hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành
án yêu cầu cơ quan Thi hành án dân sự phải tiến hành xem xét và giải quyết đúng quy

định pháp luật như: Về thời hạn giải quyết, trình tự, thủ tục cũng như các tình tiết, tài
liệu liên quan đến việc khiếu nại phải được xem xét một cách kỹ lưỡng, khoa học và
công minh, khách quan nhằm giải quyết một cách “hợp tình, hợp lý” để bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của người khiếu nại. Mặt khác, trong quá trình giải quyết đơn khiếu
nại của đương sự, phải tơn trọng quyền của họ. Cụ thể, họ có quyền được rút lại đơn
khiếu nại của mình trong bất kỳ giai đoạn nào của quá trình giải quyết khiếu nại29.
Thứ ba: Không xem xét, giải quyết đơn khiếu nại giấu tên, mạo tên, không rõ
địa chỉ, nhân danh tập thể, khơng có chữ ký, sao chụp chữ ký.
Nội dung của nguyên tắc nhằm mục đích bảo đảm tính nghiêm minh của pháp
luật, đồng thời bảo vệ danh dự, uy tín, nhân phẩm của Chấp hành viên và cơ quan Thi
hành án dân sự, tránh trường hợp khiếu nại không đúng sự thật, khiếu nại tràn lan hoặc
nhằm mục đích kéo dài, trốn tránh và cản trở quá trình thi hành án của đương sự.
Thứ tư: Khi thực hiện việc xem xét, giải quyết các khiếu nại thuộc thẩm quyền
giải quyết của mình, Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự có thể xin ý kiến chỉ đạo
nghiệp vụ của cơ quan cấp trên trực tiếp. Trường hợp Thủ trưởng cơ quan Thi hành án
dân sự đã thực hiện hành vi, ban hành quyết định về thi hành án mà sau đó bị khiếu nại
thì khơng được xin ý kiến chỉ đạo nghiệp vụ về nội dung liên quan đến quyết định,
hành vi bị khiếu nại của chính mình mà phải hướng dẫn người có đơn khiếu nại gửi
đơn đến người có thẩm quyền để giải quyết khiếu nại theo quy định.
Nội dung nguyên tắc đảm bảo mọi khiếu nại của công dân phải được xem xét
một cách công bằng, nghiêm minh, đúng pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người khiếu nại.
Mặt khác, nguyên tắc cịn thể hiện tính khách quan của quyết định giải quyết
khiếu nại, tránh trường hợp chủ thể có thẩm quyền ban hành quyết định, thực hiện
hành vi lại giải quyết khiếu nại đối với quyết định, hành vi do chính mình ban hành,
thực hiện dễ dẫn đến tình trạng thiếu minh bạch và mất niềm tin của nhân dân vào các

29

điểm g khoản 1 Điều 143 Luật thi hành án dân sự năm 2008.



×