Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Khởi kiện vụ án hành chính ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.69 MB, 77 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
----------------------------------------

KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH - NHÀ NƯỚC

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP
CỬ NHÂN LUẬT

KHỞI KIỆN VỤ ÁN HÀNH CHÍNH Ở VIỆT NAM
Giảng viên hướng dẫn : ThS. NGUYỄN HOÀNG YẾN
Người thực hiện

: TRẦN THỊ LAN

MSSV

: 1253801010161

Lớp

: 29DS37-2

Tp.Hồ Chí Minh Năm 2016


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành khóa luận này, tơi xin chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô


Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh đã tận tình truyền đạt kiến thức cho
tôi trong những năm học tập tại trường. Với tồn bộ những kiến thức tơi đã tiếp thu
được trong suốt q trình học tập khơng chỉ là nền tảng để nghiên cứu và hồn
thành khóa luận này mà đó cịn là hành trang tơi cần mang theo trong những năm
tháng sắp tới.
Xin chân thành cảm ơn Giảng viên hướng dẫn ThS. Nguyễn Hồng Yến đã
tận tình hướng dẫn cả về nội dung và hình thức để tơi thực hiện khóa luận này.
Xin chân thành cảm ơn các cán bộ, cơng chức trong cơ quan Tịa án nhân
dân thành phố Hồ Chí Minh, Tịa án nhân dân tỉnh Bình Phước đã tạo điều kiện để
tơi hồn thành khóa luận.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện khóa luận này được tốt nhất. Song
do còn nhiều bỡ ngỡ nên khơng thể tránh khỏi những thiết sót mà bản thân chưa
thấy được. Tơi rất mong được sự góp ý từ q Thầy, Cơ để khóa luận này được
hồn thiện hơn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 19 tháng 07 năm 2016
Sinh viên

TRẦN THỊ LAN


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Luật Tố tụng hành chính

: Luật TTHC

Pháp luật tố tụng hành chính

: Pháp luật TTHC


Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính

: Pháp lệnh

TTGQCVAHC
Vụ án hành chính

: VAHC

Quyết định hành chính

: QĐHC

Hành vi hành chính

: HVHC

Tịa án nhân dân

: TAND


DANH SÁCH CÁC BIỂU ĐỒ
1. Tình hình khởi kiện vụ án hành chính qua các năm theo số liệu thống kê của
Tịa án nhân dân Tối cao
2. Tình hình khởi kiện vụ án hành chính của Tịa án nhân dân tỉnh Bình Phước
trong các năm 2013, 2014, 2015


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ KHỞI KIỆN ....................... 4
1.1.

Cơ sở lý luận về khởi kiện vụ án hành chính ............................................4

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm vụ án hành chính ...................................................4
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của khởi kiện vụ án hành chính ...............8
1.2.

Quy định pháp luật về khởi kiện vụ án hành chính ...............................16

1.2.1. Quyền khởi kiện vụ án hành chính ........................................................16
1.2.2. Điều kiện khởi kiện vụ án hành chính ...................................................18
1.2.3. Hình thức, thủ tục khởi kiện vụ án hành chính......................................33
1.2.4. Khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện .................................36
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG KHỞI KIỆN VỤ ÁN HÀNH CHÍNH ............... 38
2.1.

Thực trạng khởi kiện vụ án hành chính ..................................................38

2.1.1. Thực trạng hoạt động khởi kiện vụ án hành chính ................................38
2.1.2. ........ Một số bất cập trong quy định của pháp luật về khởi kiện vụ án hành
chính ...................................................................................................................43
2.2.

Giải pháp hoàn thiện về khởi kiện vụ án hành chính ............................53

2.2.1. Giải pháp hồn thiện quy định của pháp luật .......................................54
2.2.2. Các giải pháp khác ................................................................................60

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 65


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xuất phát từ thực trạng quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân
trong xã hội bị xâm phạm từ các quyết định hành chính (QĐHC), hành vi hành chính
(HVHC) trong hoạt động quản lý nhà nước ngày càng phổ biến và phức tạp. Do đó,
vấn đề bảo vệ quyền, lợi ích của chính họ là nhu cầu cấp thiết mà mỗi người dân đều
mong muốn có được. Khởi kiện vụ án hành chính (VAHC) ra Tịa án là phương thức
hữu hiệu để bảo vệ mỗi cá nhân khi bị xâm phạm, chính vì thế pháp luật tố tụng hành
chính(pháp luật TTHC) ngày càng hồn thiện nhằm tạo điều kiện cho cá nhân, cơ
quan, tổ chức thực hiện khởi kiện VAHC. Tuy nhiên, pháp luật TTHC vẫn còn một số
bất cập khi quy định về khởi kiện nên cần được nghiên cứu để hoàn thiện hơn.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là các quy định về tố tụng là một bước quan
trọng để đưa đất nước ta hội nhập và theo kịp nền kinh tế thế giới. Khởi kiện VAHC là
tiền đề của quá trình tố tụng hành chính. Nghị quyết số 49/NQ-TW, ngày 02/6/2005
của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” đã xác định: “mở
rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với các khiếu kiện hành chính; đổi mới mạnh
mẽ thủ tục giải quyết các khiếu kiện hành chính tại Tòa án; tạo điều kiện thuận lợi cho
người dân tham gia tố tụng, bảo đảm sự bình đẳng giữa cơng dân và cơ quan cơng
quyền trước Tịa án…”. Trong điều kiện mục tiêu của cải cách tư pháp, cải cách hành
chính hiện nay ở nước ta để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ
chức. Bên cạnh đó, việc xây dựng hồn thiện pháp luật cần phải minh bạch, phù hợp
với quyền lợi của toàn thể nhân dân. Trên cơ sở này, pháp luật mới tạo được mơi
trường pháp lý bình đẳng cho các đối tượng bị điều chỉnh, đặc biệt là đối tượng điều
chỉnh của Luật Tố tụng hành chính (Luật TTHC).
Khởi kiện vụ án hành chính là giai đoạn tiền đề, là cơ sở cho các giai đoạn khác

phát sinh như thụ lý và xét xử, Luật TTHC năm 2010 có hiệu lực và sau một thời gian
áp dụng đã bộc lộ nhiều bất cập cần phải sửa đổi khi quy định về hoạt động khởi kiện
VAHC của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong xã hội. Nghiên cứu hoạt động khởi kiện
VAHC trên thực tế vẫn còn nhiều vướng mắt và khi Luật TTHC năm 2015 ra đời, cần
xem xét Luật này quy định về khởi kiện VAHC đã giải quyết được những hạn chế và
bất cấp trên thực tế hay chưa, từ đó đưa ra những giải pháp để hoàn thiện pháp luật về
khởi kiện và hoàn thiện hoạt động khởi kiện trên thực tế. Hoạt động khởi kiện VAHC
có ý nghĩa rất quan trọng, là cơ sở để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể
trong xã hội nên cần được nghiên cứu để tiếp tục hoàn thiện về hoạt động này cả về
pháp luật và thực tế. Do vậy, tác giả đã chọn nghiên cứu đề tài này.
2. Tình hình nghiên cứu


2

Khởi kiện VAHC là đề tài không quá mới mẻ, nhiều tác giả đã nghiên cứu về
vấn đề này. “Một số vấn đề đổi mới cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính ở Việt
Nam” của Ts. Nguyễn Văn Thanh và Luật gia Đinh Văn Minh năm 2004, “Thủ tục
khiếu kiện và giải quyết vụ án hành chính tại Tịa án” do Nhà xuất bản Lao động phát
hành năm 2006, “Giải quyết tiến hành tố tụng hành chính và vấn đề bảo đảm thực hiện
quyền khởi kiện vụ án hành chính của cá nhân, tổ chức tại Tịa án nhân dân của
Nguyễn Văn Quang đăng trên Tạp chí Luật học số 10/2002. Một số bài đã được công
bố trên các tạp chí chuyên ngành như: “Một số nội dung cơ bản của Luật Tố tụng hành
chính” của Trần Huy Lộc, Viện khoa học xét xử - Tòa án nhân dân tối cao, quyển số
13, năm 2010, “Những vướng mắt qua mười ba năm thực hiện Pháp lệnh Thủ tục giải
quyết các vụ án hành chính” của tác giả Hồng Quỳnh Chi, Tạp chí Kiểm sát, quyển
số 11, năm 2010,… Luận văn Thạc sĩ: “Khởi kiện và thụ lý vụ án hành chính (từ thực
tiễn Thành phố Hồ Chí Minh)” của Nguyễn Thanh Phương năm 2012; Luận văn Thạc
sĩ: “Bảo đảm pháp lý về quyền khởi kiện vụ án hành chính ở Việt Nam của Nguyễn
Hồng Yến năm 2011. Khóa luận tốt nghiệp: “Khởi kiện và thụ lý vụ án hành chính,

thực trạng và phương hướng giải quyết” của Bùi Thị Ngọc Mai năm 2009, “Khởi kiện
và thụ lý vụ án hành chính” của Bùi Thị Ngọc Quỳnh năm 2007, “Khởi kiện và thụ lý
vụ án hành chính trong lĩnh vực đất đai” của Nguyễn Thị Mến năm 2013, “Bảo đảm
quyền khởi kiện vụ án hành chính theo quy định của pháp luật tố tụng hành chính Việt
Nam” của Nguyễn Ngọc Trà My năm 2011, Khởi kiện vụ án hành chính ở Việt Nam –
thực trạng và giải pháp hoàn thiện của Trương Thị Hạ năm 2012,…
Các tác giả trên đã nghiên cứu tương đối cụ thể. Tuy nhiên, các công trình
nghiên cứu trên tìm hiểu trên cơ sở quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ
án hành chính (Pháp lệnh TTGQCVAHC), Luật TTHC năm 2010 mà chưa có tác giả
nào nghiên cứu dựa trên Luật TTHC năm 2015. Khởi kiện VAHC ở Việt Nam không
là vấn đề mới nhưng việc nghiên cứu trên cơ sở Luật TTHC năm 2015 là hồn tồn
mới.
3. Mục đích, ý nghĩa nghiên cứu
* Mục đích: Tác giả nghiên cứu đề tài Khởi kiện VAHC ở Việt Nam để làm rõ
các quy định pháp luật về khởi kiện, đánh giá hoạt động khởi kiện trên thực tế. Tìm
những bất cập, hạn chế trong quy định pháp luật và trên cơ sở đó đề xuất một số giải
pháp để hoạt động khởi kiện VAHC ln là phương thức bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp hữu hiệu cho người dân khi phát sinh tranh chấp trong lĩnh vực hành chính.
* Ý nghĩa: Hồn thiện quy định pháp luật về hoạt động khởi kiện VAHC, góp
phần bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích của người dân khi có sự xâm phạm từ hoạt
động quản lý hành chính nhà nước. Là tài liệu tham khảo cho việc hoàn thiện
pháp luật trong thời gian tới.


3

4. Phạm vi, đối tƣợng nghiên cứu
* Phạm vi nghiên cứu: Tác giả nghiên cứu theo quy định của Luật TTHC năm
2015 có sự so sánh, đối chiếu với các quy định của Luật TTHC năm 2010. Nghiên cứu
trên cơ sở Báo cáo tổng kết hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân (TAND) tối cao và

một số tỉnh, ngồi ra tác giả cịn tìm hiểu các VAHC trên thực tế trong các năm vừa
qua.
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề khởi kiện VAHC ở Việt Nam. Bao
gồm: cơ sở lý luận, quy định của pháp luật, thực trạng và hướng giải quyết.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khóa luận được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử Mác- LêNin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Các phương pháp cụ thể sử dụng là: phương pháp phân tích, phương pháp đối chiếu,
so sánh, thống kê, tổng kết thực tiễn.
6. Kết cấu của đề tài
Khóa luận gồm:
Lời mở đầu
Phần nội dung
Trong đó, phần nội dung gồm hai chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý về khởi kiện vụ án hành chính
Chương 2: Thực trạng khởi kiện vụ án hành chính và giải pháp
hồn thiện
Kết luận


4

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ KHỞI KIỆN
VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
1.1. Cơ sở lý luận về khởi kiện vụ án hành chính
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm vụ án hành chính
Trong q trình thực hiện chức năng quản lý, cơ quan hành chính nhà nước, cơ
quan, tổ chức được giao nhiệm vụ thực hiện quản lý hành chính nhà nước hoặc người
có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành các QĐHC, thực hiện các HVHC

để áp dụng đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể. Khi đối tượng quản lý khơng
đồng tình với những hình thức của hoạt động quản lý sẽ phát sinh các tranh chấp hành
chính.
Trước ngày 01/7/1996, việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân,
cơ quan, tổ chức bị xâm phạm bởi các QĐHC, HVHC được thực hiện bằng cách thức
giải quyết khiếu nại hành chính theo quy định pháp luật về khiếu nại, tố cáo. Ngày
01/7/1996 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Tổ chức Tịa án nhân nhân có hiệu
lực thi hành. Đồng thời, ngày 21/7/1996 Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp
lệnh TTGQCVAHC, tranh chấp hành chính từ đây chính thức được giải quyết bằng
quy trình tố tụng bởi TAND. Đây là sự kiện pháp lý quan trọng bởi người dân sẽ bắt
đầu có thêm một phương thức để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho mình. Tiếp đến,
Luật TTHC năm 20101 được ban hành thay thế Pháp lệnh TTGQCVAHC, Luật này đã
mở rộng việc bảo vệ quyền và lợi ích của cơ quan, tổ chức, cá nhân bị xâm hại và đến
hiện nay Luật TTHC năm 20152 tiếp tục khẳng định, củng cố và hồn thiện pháp luật
về tố tụng hành chính.
Như vậy, khi phát sinh tranh chấp hành chính, người dân có hai phương thức để
giải quyết tranh chấp, đó là khiếu nại đến cơ quan, cá nhân có thẩm quyền như trước
đây và quyền khởi kiện VAHC ra Tòa án để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Khi cơ quan, tổ chức, cá nhân cho rằng có quyền, lợi ích bị xâm phạm trực tiếp bởi
QĐHC, HVHC lựa chọn con đường khởi kiện ra Tịa án thì VAHC có thể phát sinh.
Luật TTHC năm 2010 và Luật TTHC năm 2015 đều không đưa ra định nghĩa
thế nào là VAHC. Do vậy, để hiểu rõ hơn về VAHC, cần làm sáng tỏ những thuật ngữ
pháp lý có liên quan. Theo từ điển tiếng Việt thì “vụ” là “sự việc khơng hay, rắc rối
cần phải giải quyết” và “án” là “tranh chấp quyền lợi cần được xét xử trước Tòa án”3.
Như vậy, có thể hiểu “vụ án” là những tranh chấp phát sinh giữa các bên được giải
quyết bởi Tòa án.

1

Được Quốc hội thơng qua ngày 24 tháng 11 năm 2010, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2011.

Được Quốc hội thông qua ngày 25 tháng 11 năm 2015, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2016.
3
Trung tâm từ điển học – Viện ngôn ngữ học (2002), Từ điển tiếng việt, NXB Đà Nẵng, tr. 1130.
2


5

Ngồi ra, cũng có rất nhiều quan điểm khác nhau về VAHC. Từ điển giải thích
thuật ngữ Luật học cũng đưa ra định nghĩa tương tự như vậy: “VAHC là vụ án phát
sinh tại Tịa hành chính do cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức khởi kiện ra Tòa án
yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”4. Tác giả nhận thấy khái niệm
này chưa đầy đủ và đúng với bản chất của tố tụng hành chính. Bởi chỉ có việc khởi
kiện thì chưa thể làm phát sinh VAHC.
Theo giáo trình Luật TTHC (2012) của Trường Đại học Luật Hà Nội: “VAHC
là vụ việc tranh chấp hành chính được Tịa án có thẩm quyền thụ lý theo yêu cầu khởi
kiện của cá nhân, tổ chức đối với QĐHC, HVHC để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của họ”5. Khái niệm này tương đối đầy đủ và đã thể hiện đủ hai điều kiện để làm phát
sinh VAHC, đó là: có việc khởi kiện của cơ quan, tổ chức, cá nhân và đơn khởi kiện
được Tòa án thụ lý để giải quyết.
Từ những khái niệm VAHC, có thể thấy VAHC gồm những đặc điểm sau:
Thứ nhất, đối tượng tranh chấp trực tiếp trong VAHC là tính hợp pháp của
QĐHC, HVHC, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về
quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri
Tranh chấp hành chính phát sinh từ các khiếu kiện trong hoạt động quản lý
hành chính nhà nước – đây là hoạt động rất đa dạng, phức tạp diễn ra thường xuyên
trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Về nguyên tắc, các QĐHC, HVHC phải được
ban hành, thực hiện đúng pháp luật, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện hoạt động quản lý do nhiều nguyên nhân khác
nhau mà có những QĐHC, HVHC được ban hành, thực hiện không đúng pháp luật,

xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc QĐHC,
HVHC được ban hành hợp pháp nhưng các chủ thể là đối tượng quản lý cho rằng
QĐHC, HVHC đó đã xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Chính vì vậy, sẽ
làm phát sinh tranh chấp giữa đối tượng quản lý nhà nước với chủ thể quản lý nhà
nước và khi có đơn khởi kiện VAHC ra Tòa án đòi hỏi Tòa án phải xem xét tính hợp
pháp của các QĐHC, HVHC nêu trên. Xét tính hợp pháp của QĐHC, HVHC là Tịa án
xem xét về chủ thể có thẩm quyền ban hành, thực hiện QĐHC, HVHC, nội dung, hình
thức có phù hợp với quy định của pháp luật, việc ban hành hoặc thực hiện có tn thủ
đúng trình tự, thủ tục,…
Mỗi ngành, lĩnh vực khác nhau đều có các văn bản quy phạm pháp luật quy
định về chủ thể có thẩm quyền ban hành, thực hiện QĐHC, HVHC. Khi QĐHC được
ban hành hoặc HVHC được thực hiện vượt quá thẩm quyền mà pháp luật quy định cho
4

Trường đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, NXB Cơng an nhân dân, tr. 132.
Trường đại học Luật Hà Nội (2012,), Giáo trình Luật tố tụng hành chính Việt Nam, NXB Công an nhân dân, tr.
217.
5


6

chủ thể đó hoặc khơng thuộc lĩnh vực mà chủ thể được giao quản lý thì sẽ vi phạm về
điều kiện thẩm quyền. Bên cạnh yếu tố về thẩm quyền thì yếu tố về trình tự, thủ tục và
hình thức cũng là tiêu chí quan trọng để đánh giá tính hợp pháp của QĐHC, HVHC.
Do đó, chỉ cần vi phạm một trong các yếu tố trên thì đã khơng đáp ứng về điều kiện
mà pháp luật quy định và đương nhiên việc ban hành QĐHC, việc thực hiện HVHC
này là không hợp pháp. Một yếu tố đặc biệt quan trọng và xâm phạm trực tiếp đến
quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong xã hội là nội dung của
QĐHC, HVHC. QĐHC, HVHC cần phải có nội dung phù hợp với quy định của pháp

luật, không trái với Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh và các quy định của cơ quan nhà nước
cấp trên. Trong xét xử án hành chính, tính hợp pháp của QĐHC được xác định là căn
cứ để Tòa án đưa ra phán quyết của mình, là cơ sở để Hội đồng xét xử quyết định chấp
nhận yêu cầu khởi kiện, hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ QĐHC hoặc là căn cứ để Hội
đồng xét xử bác đơn khởi kiện.
Một QĐHC, HVHC ngoài tính hợp pháp cịn phải đảm bảo về tính hợp lý, tuy
nhiên Tịa án khơng xem xét tính hợp lý của QĐHC, HVHC là đối tượng khởi kiện.
Việc đánh giá tính hợp pháp của QĐHC đơn giản hơn yêu cầu về tính hợp lý vì tính
hợp pháp có những tiêu chí rõ ràng, được pháp luật quy định cụ thể. Trong khi đó, tính
hợp lý lại tùy thuộc vào từng lĩnh vực, để đánh giá về tính hợp lý cần phải có kiến thức
chun mơn và đây thuộc nhiệm vụ của cơ quan có thẩm quyền ban hành, thực hiện
QĐHC, HVHC – cơ quan hành pháp. Do đó, nếu quy định Tịa án phải xem xét cả tính
hợp lý của QĐHC, HVHC sẽ dẫn đến việc đánh giá khơng chính xác bởi Tòa án là cơ
quan tư pháp. Nếu cho rằng Tịa án có quyền xem xét tính hợp lý thì vơ hình chung
thừa nhận cho Tịa án có thể lấn sân vào hoạt động quản lý của cơ quan nhà nước và
Tịa án có thể lợi dụng quy định này để hủy bỏ các QĐHC được ban hành trong hoạt
động quản lý nhà nước.
Ngồi ra, trong q trình giải quyết vụ án, người khởi kiện, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan trong VAHC có thể đồng thời yêu cầu bồi thường thiệt hại. Theo
Điều 7 Luật TTHC năm 2015 thì u cầu bồi thường thiệt hại chỉ có thể đưa ra kèm
với việc khởi kiện các đối tượng khởi kiện được pháp Luật TTHC quy định và khi yêu
cầu này được giải quyết cùng với việc giải quyết VAHC thì sẽ được giải quyết theo
pháp luật tố tụng dân sự. Đối tượng khởi kiện VAHC chỉ có thể là các đối tượng được
quy định tại Điều 30 Luật TTHC năm 2015, bồi thường thiệt hại không thể là yêu cầu
độc lập để có thể khởi kiện VAHC.
Như vậy, quyền tài sản và quyền nhân thân không phải là đối tượng tranh chấp
trực tiếp của VAHC.


7


Thứ hai, người bị kiện trong VAHC là cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan,
tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền
trong cơ quan, tổ chức đó
Xuất phát từ đối tượng khởi kiện của VAHC là các QĐHC, HVHC, quyết định
kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc
cạnh tranh, danh sách cử tri đều được ban hành hoặc được thực hiện bởi những chủ thể
có thẩm quyền là cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức được giao thực hiện
quản lý hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó.
Việc xác định người bị kiện đối với đối tượng khởi kiện VAHC phải căn cứ vào
thẩm quyền theo quy định của pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ đó. Nếu
nhiệm vụ, cơng vụ đó pháp luật quy định cho cơ quan hành chính nhà nước thì chủ thể
thực hiện hoặc khơng thực hiện HVHC là cơ quan hành chính nhà nước; nếu nhiệm
vụ, cơng vụ đó pháp luật quy định cho người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính
nhà nước thì chủ thể thực hiện hoặc khơng thực hiện HVHC là người có thẩm quyền
trong cơ quan hành chính nhà nước; và nếu nhiệm vụ, cơng vụ mà pháp luật quy định
cho cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước thì chủ thể thực
hiện hay không thực hiện HVHC là cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành
chính nhà nước. Xác định HVHC của cơ quan nhà nước hay của người có thẩm quyền
trong cơ quan nhà nước có ý nghĩa rất quan trọng, trường hợp HVHC do người có
thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước thực hiện theo nhiệm vụ, cơng vụ
được giao thì việc thực hiện HVHC đó nhân danh chức danh, chức vụ mà người đó
đang đảm nhiệm mà khơng phải thực hiện với danh nghĩa là cá nhân họ. Do đó, người
bị kiện phải là người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật mà khơng quan trọng
đó là cá nhân nào hay ai được ủy quyền, ủy nhiệm thực hiện.
Khoản 9 Điều 3 Luật TTHC năm 2015 quy định: “Người bị kiện là cơ quan, tổ
chức, cá nhân có QĐHC, HVHC, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải
quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri bị khởi kiện”.
Như vậy, Luật TTHC năm 2015 cũng đã khẳng định người bị kiện trong VAHC là cơ
quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính

nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó.
Thứ ba, người khởi kiện VAHC phải là cơ quan, tổ chức, cá nhân cho rằng
quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm trực tiếp bởi QĐHC, HVHC
Pháp Luật TTHC quy định chỉ có cơ quan, tổ chức, cá nhân khi cho rằng quyền,
lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm trực tiếp bởi QĐHC, HVHC mới có quyền
khởi kiện VAHC.
Điều 5 Luật TTHC năm 2015 quy định: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền
khởi kiện VAHC để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo


8

quy định của Luật này”. Tuy nhiên, định nghĩa về người khởi kiện theo Luật này có
thể gây khó khăn trong việc xác định tư cách tố tụng, cần phân biệt thuật ngữ “người
khởi kiện” với thuật ngữ “chủ thể khởi kiện”. Người khởi kiện là người cho rằng có
quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm trực tiếp bởi các QĐHC, HVHC và
người khởi kiện sẽ tham gia tố tụng với tư cách là người khởi kiện trong VAHC. Cịn
chủ thể khởi kiện có thể là người có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm trực tiếp bởi
QĐHC, HVHC hoặc là người đại diện theo pháp luật của người có quyền khởi kiện mà
khơng thể tự mình thực hiện việc khởi kiện như trong trường hợp người có quyền khởi
kiện là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Trường
hợp chủ thể khởi kiện đồng thời là người có quyền khởi kiện thì họ sẽ tham gia tố tụng
với tư cách là người khởi kiện VAHC. Trường hợp chủ thể khởi kiện chỉ thực hiện
việc khởi kiện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người mà họ đại diện thì người
thực hiện việc khởi kiện sẽ là người đại diện theo pháp luật và người có quyền khởi
kiện sẽ tham gia tố tụng với tư cách là người khởi kiện.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân khi cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị tác
động trực tiếp bởi các QĐHC, HVHC mới có thể có quyền khởi kiện VAHC.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của khởi kiện vụ án hành chính

* Khái niệm
Khởi kiện VAHC là quyền mà pháp luật quy định cho cơ quan, tổ chức, cá
nhân, đó là quyền tự định đoạt, tự quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu
Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi cho rằng quyền và lợi ích hợp
pháp đó bị các QĐHC, HVHC xâm phạm trực tiếp.
Có nhiều quan điểm về khởi kiện VAHC:
Theo 1200 thuật ngữ pháp lý Việt Nam (1997): “Khởi kiện là việc người có
quyền và lợi ích bị xâm phạm u cầu Tịa án có thẩm quyền bảo vệ quyền và lợi ích
của mình”6. Định nghĩa này chưa thật sự chính xác với quy định của Luật TTHC năm
2015, như đã phân tích trên, cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền u cầu Tịa án bảo vệ
quyền và lợi ích của mình khi cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp bị các QĐHC, HVHC
xâm phạm. Do đó, điều kiện “quyền và lợi ích bị xâm phạm trực tiếp” trên thực tế
không là điều kiện bắt buộc để có quyền khởi kiện mà quyền khởi kiện phát sinh ngay
khi cơ quan, tổ chức, cá nhân “cho rằng” quyền, lợi ích hợp pháp của họ bị QĐHC,
HVHC xâm phạm.

6

Nguyễn Ngọc Điệp (1997), 1200 thuật ngữ pháp lý Việt Nam, NXB thành phố Hồ Chí Minh, tr. 351.


9

Theo giáo trình Luật Tố tụng hành chính Trường Đại học Luật tp. Hồ Chí Minh
(2013):
“Khởi kiện VAHC là hành vi tố tụng hành chính của người khởi kiện theo
trình tự, thủ tục do Luật TTHC quy định yêu cầu Tịa án có thẩm quyền bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi có căn cứ cho rằng đối tượng
khởi kiện của người bị kiện là trái pháp luật xâm phạm các quyền và lợi ích
của người khởi kiện7”.

Có quan điểm cho rằng các QĐHC, HVHC là đối tượng khởi kiện phải được
ban hành hoặc được thực hiện trái pháp luật thì người bị xâm phạm quyền, lợi ích hợp
pháp mới được thực hiện khởi kiện VAHC. Pháp luật TTHC khơng tồn tại u cầu
“tính trái pháp luật” của QĐHC, HVHC là điều kiện để khởi kiện. QĐHC, HVHC có
thể hợp pháp hoặc khơng nhưng nếu cơ quan, tổ chức, cá nhân cho rằng việc ban hành
QĐHC, thực hiện HVHC của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong hoạt động quản lý
nhà nước xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì có thể thực
hiện việc khởi kiện VAHC ra Tòa án.
Sau khi xem xét, đánh giá các khái niệm, định nghĩa về khởi kiện VAHC, nhận
biết được những hạn chế, điểm phù hợp của các định nghĩa đó, tác giả đưa ra khái
niệm khởi kiện VAHC như sau:
Khởi kiện VAHC là hành vi tố tụng của cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện
theo quy định của pháp luật TTHC yêu cầu Tịa án xem xét tính hợp pháp của QĐHC,
HVHC khi cho rằng QĐHC, HVHC, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải
quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri đó đã xâm
phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
* Đặc điểm khởi kiện vụ án hành chính
Khởi kiện VAHC có các đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, là hành vi tố tụng của cơ quan, tổ chức, cá nhân cho rằng quyền, lợi
ích hợp pháp của mình bị xâm phạm
Khởi kiện VAHC là sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật TTHC.
Khởi kiện là hành vi tố tụng của cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện quyền khởi kiện
để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, là cơ sở để các giai đoạn tố tụng tiếp theo
phát sinh như: thụ lý, xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm VAHC,... Như vậy, khởi kiện
VAHC là giai đoạn cần thiết và quan trọng, khơng có việc khởi kiện thì khơng có thụ
lý và đương nhiên sẽ khơng có giai đoạn xét xử.
Có thể nhận thấy khởi kiện VAHC rất khác so với thủ tục khiếu nại, khởi kiện
vụ án dân sự, khởi tố vụ án hình sự:
7


Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Luật Tố tụng hành chính, Nhà xuất bản Hồng Đức –
Hội Luật gia Việt Nam, tr. 237.


10

Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ
tục do Luật Khiếu nại quy định, đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem
xét lại QĐHC, HVHC của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền
trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, cơng chức khi có
căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích
hợp pháp của mình8. Đối với việc khiếu nại, căn cứ để thực hiện việc khiếu nại là khi
công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức cho rằng QĐHC, HVHC của cơ
quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà
nước hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi
ích hợp pháp cịn đối với khởi kiện VAHC, cơ quan, tổ chức, cá nhân chỉ khi cho rằng
QĐHC, HVHC đã xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì đã có
thể khởi kiện mà khơng cần QĐHC, HVHC đó phải trái pháp luật.
Trong tố tụng dân sự, khởi kiện là hành vi tố tụng của cá nhân, cơ quan, tổ chức
gửi đơn yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp dân sự, hơn nhân gia
đình, kinh doanh, thương mại và lao động9. Khởi kiện trong tố tụng dân sự phát sinh
khi có tranh chấp về nhân thân và tài sản, đó là đối tượng tranh chấp trực tiếp của vụ
án dân sự. Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện vụ án dân sự khi cho rằng quyền, lợi
ích hợp pháp của mình bị xâm phạm bởi hành vi của người khác, có thể là cơ quan, cá
nhân có thẩm quyền hoặc cá nhân, công dân trong xã hội. Trong khi đó, khởi kiện
VAHC phát sinh khi người khởi kiện cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị
xâm phạm bởi QĐHC, HVHC của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền.
Nếu như giai đoạn đầu tiên cho việc giải quyết VAHC là việc khởi kiện của cơ
quan, tổ chức, cá nhân thì giai đoạn đầu tiên của thủ tục tố tụng hình sự, tiền đề cho
các giai đoạn khác có thể phát sinh khi giải quyết vụ án hình sự là quyết định khởi tố

vụ án hình sự. Khởi tố vụ án hình sự là trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền khi phát hiện vụ việc có dấu hiện tội phạm10 để bảo vệ quyền, lợi ích của bị hại,
bảo vệ trật tự an toàn xã hội,… Khởi tố vụ án hình sự là trách nhiệm của cơ quan nhà
nước chỉ trừ một số tội phạm khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại quy định tại
Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, nghĩa là khi phát hiện có dấu hiệu tội
phạm, khơng cần bị hại có đơn u cầu đến Tòa án để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền,
lợi ích cho mình mà đó chính là trách nhiệm của cơ quan nhà nước, cơ quan nhà nước
phải chủ động phát hiện tội phạm, điều tra và khởi tố vụ án hình sự. Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2015 cũng có những quy định trao quyền quyết định khởi tố vụ án hình sự

8

Khoản 1 Điều 2 Luật Khiếu nại số 02/2011/QH13 ngày 11 tháng 11 năm 2011.
Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự, Nhà xuất bản Hồng Đức – Hội
Luật gia Việt Nam, tr. 273.
10
Điều 153 Bộ luật Tố tụng hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2015.
9


11

cho chính bị hại, nhưng đây chỉ là trường hợp ngoại lệ và rất ít tội phạm khởi tố vụ án
theo yêu cầu của bị hại. Ngược lại, đối với khởi kiện VAHC thì khởi kiện là hành vi tố
tụng của cơ quan, tổ chức, cá nhân khi cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị
QĐHC, HVHC xâm phạm. Do đó, nếu khơng có hành vi tố tụng của cơ quan, tổ chức,
cá nhân thì khơng có việc khởi kiện và khơng có một cơ quan có thẩm quyền nào có
thể khởi kiện VAHC thay cho họ.
Do đó, khởi kiện VAHC là hành vi đơn phương của cơ quan, tổ chức, cá nhân,
xuất phát từ nguyên tắc quyền tự quyết định và định đoạt của người khởi kiện. Cá

nhân có đủ năng lực hành vi dân sự thì tự mình định đoạt việc khởi kiện mà khơng bị
cản trở bởi bất kỳ ai, người khởi kiện cũng có quyền định đoạt phạm vi yêu cầu khởi
kiện. Điều kiện “quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm trực tiếp” xuất phát từ ý chí chủ
quan của cơ quan, tổ chức, cá nhân muốn khởi kiện. Cơ quan, tổ chức, cá nhân khi cho
rằng bị QĐHC, HVHC xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình đã
có thể khởi kiện đến Tịa án mà khơng nhất thiết đó phải là xâm phạm đã xảy ra trên
thực tế.
Thứ hai, đối tượng khởi kiện VAHC là các QĐHC, HVHC, quyết định kỷ luật
buộc thôi việc công chức, danh sách cử tri, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết
định xử lý vụ việc cạnh tranh
Đối tượng khởi kiện của VAHC hoàn toàn khác với đối tượng khởi kiện của vụ
án dân sự vì như đã nêu trên, đối tượng khởi kiện của vụ án dân sự là quyền lợi gắn
với quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân gia đình, thương mại, lao động11, cịn đối
tượng khởi kiện VAHC được quy định cụ thể trong Luật TTHC, đó là: QĐHC, HVHC,
quyết định kỷ luật buộc thôi việc đối với công chức giữ chức vụ từ Tổng Cục trưởng
và tương đương trở xuống, danh sách cử tri. Trong tố tụng dân sự, đối tượng tranh
chấp trực tiếp là tài sản và nhân thân nên phạm vi các loại khiếu kiện ra Tịa án rất
rộng: đó có thể là vấn đề hợp đồng, phân chia tài sản vợ chồng trong thời kỳ hơn nhân,
ly hơn, bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng,... Nếu cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện
QĐHC, HVHC ra Tịa án khơng thuộc các đối tượng mà Luật này quy định thì Tịa án
sẽ khơng thụ lý và trả lại đơn khởi kiện.
QĐHC là quyết định do cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền, người có
thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước ban hành theo trình tự, thủ tục pháp
luật quy định để điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong hoạt động quản lý. Đối
tượng bị quản lý bắt buộc phải chấp hành QĐHC, đây là quyết định mang tính mệnh
lệnh và chỉ những QĐHC mang tính cá biệt và người khởi kiện cho rằng quyết định

11

Trần Anh Tuấn (2008), “Quyền khởi kiện và việc xác định tư cách tham gia tố tụng”, Tạp chí Tịa án nhân

dân, (23), tr. 12.


12

này đã xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì QĐHC đó mới có
thể trở thành đối tượng khiếu kiện ra Tòa án theo pháp luật TTHC.
HVHC là việc thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ mà pháp luật
quy định của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan được giao nhiệm vụ quản lý nhà
nước và người có thẩm quyền trong cơ quan đó. Cơ quan, tổ chức, cá nhân khi cho
rằng quyền, lợi ích của mình bị HVHC xâm phạm thì cũng có quyền khởi kiện.
Ngồi hai đối tượng tương đối phổ biến, thường xuyên bị khiếu kiện là QĐHC,
HVHC thì cịn có các đối tượng khiếu kiện khác, đó là quyết định kỷ luật buộc thôi
việc công chức giữ chức vụ từ Tổng Cục trưởng và tương đương trở xuống; trong lĩnh
vực cạnh tranh thì có đối tượng khởi kiện là quyết định giải quyết khiếu nại về quyết
định xử lý vụ việc cạnh tranh; danh sách cử tri. Thực chất các đối tượng khởi kiện này
cũng là QĐHC.
Thứ ba, nội dung khởi kiện là yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
khi có căn cứ cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp đó bị xâm phạm từ các QĐHC, HVHC
Khi có đủ điều kiện về năng lực chủ thể tố tụng hành chính, cơ quan, tổ chức,
cá nhân gửi đơn khởi kiện đến Tòa án để u cầu Tịa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của mình.
Nếu khởi kiện là việc u cầu Tịa án – cơ quan tư pháp xem xét tính hợp pháp
của QĐHC, HVHC của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức, cá nhân được
giao nhiệm vụ quản lý nhà nước thì khiếu nại là việc đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân
có thẩm quyền – cơ quan quản lý hành chính nhà nước xem xét lại QĐHC, HVHC.
Xét về mặt ngữ nghĩa thì “đề nghị” và “yêu cầu” đều có ý nghĩa là đưa ra một ý
kiến và mong muốn người khác thực hiện. Tuy nhiên, thủ tục tố tụng hành chính được
tiến hành trên các nguyên tắc của hoạt động tư pháp như nguyên tắc “bảo đảm pháp
chế xã hội chủ nghĩa”, “bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương

sự”, “bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hành chính”. Tịa án là cơ quan
hồn tồn độc lập với các cơ quan hành chính, được xem là cơ quan trung gian, bên
ngoài nên việc giải quyết tranh chấp bằng việc khởi kiện có thể nói là khách quan và
đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Do đó, khi khởi kiện VAHC ra
Tịa án, người dân sẽ yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình mà
khơng “đề nghị” như trong thủ tục khiếu nại. Trong thủ tục khiếu nại, cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét là cơ quan, tổ chức, cá nhân đã ban hành
QĐHC, thực hiện HVHC hoặc là cơ quan, tổ chức, cá nhân cấp trên trực tiếp của cơ
quan đã ban hành hoặc thực hiện QĐHC, HVHC, giữa người khiếu nại và người có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại vẫn chịu sự chi phối của yếu tố quyền uy – phục tùng
nên Luật Khiếu nại dùng thuật ngữ “đề nghị” là phù hợp.


13

Thứ tư, khởi kiện VAHC được thể hiện qua hành vi nộp đơn khởi kiện VAHC
ra Tòa án
Để thực hiện quyền khởi kiện, cơ quan, tổ chức, cá nhân nộp đơn khởi kiện ra
Tòa án để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp của mình. Yêu cầu này phải được thể
hiện bằng văn bản đó là đơn khởi kiện và phải được nộp đến Tòa án để Tòa án xem xét
thụ lý và giải quyết. Ngồi hình thức làm đơn khởi kiện VAHC nộp đến Tịa án thì
khơng cịn bất kỳ hình thức nào để có thể thực hiện việc khởi kiện, nói cách khác hành
vi nộp đơn khởi kiện VAHC ra Tòa án là hành vi duy nhất mà người dân có thể thực
hiện việc khởi kiện của mình.
Pháp luật TTHC quy định đơn khởi kiện phải do người khởi kiện nộp, Điều
119 Luật TTHC năm 2015 quy định người khởi kiện gửi đơn khởi kiện và tài liệu,
chứng cứ kèm theo đến Tịa án có thẩm quyền, quy định này thể hiện đúng nguyên tắc
quyền quyết định và tự định đoạt của người khởi kiện. Việc bất kỳ một ai khác nộp
đơn khởi kiện cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khởi kiện có thể sẽ dẫn đến việc
không tuân thủ quyền quyết định và tự định đoạt của họ.

Người nộp đơn khởi kiện là người khởi kiện nếu họ có đủ năng lực hành vi tố
tụng hành chính. Trong trường hợp người khởi kiện là người chưa thành niên, người
mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc người có
khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì người nộp đơn khởi kiện sẽ là người đại
diện theo pháp luật của họ, Điều 54 Luật TTHC năm 2015 cho phép các chủ thể này
thực hiện quyền, nghĩa vụ của đương sự trong tố tụng hành chính thơng qua người đại
diện theo pháp luật mà nộp đơn khởi kiện là quyền của người khởi kiện được quy định
tại Điều 55, Điều 56 Luật này. Đối với người khởi kiện là cơ quan, tổ chức thì thực
hiện việc khởi kiện bởi người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo pháp luật
sẽ là người nộp đơn khởi kiện cho Tòa án. Theo quy định của pháp luật TTHC thì chỉ
có người khởi kiện và người đại diện theo pháp luật trong một số trường hợp pháp luật
quy định mới có quyền nộp đơn khởi kiện, người đại diện theo ủy quyền trong mọi
trường hợp khơng thể thực hiện việc khởi kiện VAHC.
Thứ năm, trình tự, thủ tục khởi kiện được thực hiện theo quy định của pháp uật
TTHC
Trình tự, thủ tục khởi kiện VAHC là điều kiện quan trọng, là cơ sở để Tòa án
quyết định thụ lý và giải quyết VAHC. Sau khi xác định được đối tượng khởi kiện, tìm
hiểu về thời hiệu khởi kiện VAHC, người khởi kiện quyết định thực hiện việc khởi
kiện ra Tòa án phải làm đơn khởi kiện, đơn khởi kiện phải có đầy đủ các nội dung mà
Điều 118 Luật TTHC năm 2015 đã liệt kê. Khởi kiện VAHC phải tuân theo thủ tục
khởi kiện mà Luật TTHC đã quy định tại Điều 117, theo đó chủ thể khởi kiện có thể tự


14

mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện nhưng tại mục tên, địa chỉ của người
khởi kiện phải ghi tên, địa chỉ của chủ thể khởi kiện, chủ thể khởi kiện ký tên và điểm
chỉ trong đơn khởi kiện. Trường hợp chủ thể khởi kiện là người không biết chữ, khơng
nhìn được, khơng thể tự mình làm đơn khởi kiện, khơng thể tự mình ký tên hoặc điểm
chỉ thì có thể nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện và phải có người có năng lực hành

vi tố tụng hành chính đầy đủ làm chứng, ký xác nhận vào đơn khởi kiện. Như vậy,
trong mọi trường hợp thì chỉ có chủ thể khởi kiện vụ án hành chính mới có quyền ký
tên hoặc điểm chỉ vào đơn khởi kiện, ký xác nhận vào đơn khởi kiện không là hình
thức ký tên vào đơn khởi kiện vụ án hành chính mà pháp luật tố tụng hành chính quy
định. Người có quyền khởi kiện là cơ quan, tổ chức thì người đại diện hợp pháp của cơ
quan, tổ chức đó có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm đơn khởi kiện12. Khoản 4
Điều 54 Luật này lại chỉ cho phép cơ quan, tổ chức thực hiện quyền khởi kiện thơng
qua người đại diện theo pháp luật. Do vậy, có thể hiểu rằng người đại diện hợp pháp
của cơ quan, tổ chức chính là người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức đó.
Trong đơn khởi kiện phải ghi tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức và họ, tên, chức vụ của
người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó, người đại diện hợp pháp của cơ
quan, tổ chức khởi kiện sẽ ký tên vào đơn khởi kiện và đóng dấu của cơ quan, tổ chức
đó.
Hồn thành đơn khởi kiện, chủ thể khởi kiện phải tiến hành việc thu thập tài
liệu, chứng cứ để chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm của người khởi
kiện. Sau cùng chủ thể khởi kiện phải nộp đơn khởi kiện đến Tòa án theo các phương
thức mà Điều 119 Luật TTHC năm 2015 quy định. Đơn khởi kiện có thể được nộp
trực tiếp tại Tịa án, gửi qua dịch vụ bưu chính hoặc gửi trực tuyến qua Cổng thơng tin
điện tử của Tịa án, tùy điều kiện của chủ thể khởi kiện mà họ chọn các hình thực nộp
đơn khởi kiện khác nhau.
* Ý nghĩa khởi kiện vụ án hành chính
Quy định về khởi kiện VAHC có ý nghĩa rất quan trọng trong tố tụng hành
chính và có ý nghĩa đối với các bên tham gia trong quan hệ tố tụng hành chính.
Thứ nhất, đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện
Khởi kiện VAHC là cơ sở để cơ quan, tổ chức, cá nhân bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của mình khi quyền, lợi ích hợp pháp đó bị QĐHC, HVHC xâm phạm.
Trong tố tụng hình sự, khi bị xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp mà bị hại
vì lý do nào đó, có thể là nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan dẫn đến việc họ
khơng u cầu cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự để bảo vệ quyền, lợi ích
của họ thì về ngun tắc chung, cơ quan nhà nước được giao nhiệm vụ khởi tố vụ án

12

Điều 117 Luật Tố tụng hành chính số 93/2015/QH13 ngày 25 tháng 11 năm 2015.


15

hình sự khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm phải ra quyết định khởi tố vụ án hình sự.
Trong lĩnh vực này, bảo vệ quyền, lợi ích của cơng dân đã trở thành trách nhiệm của
nhà nước, nhà nước phải tạo điều kiện tốt nhất để quyền lợi của cơng dân được bảo
đảm và khi có bất kỳ sự xâm phạm nào nhà nước phải bảo vệ họ trước những xâm
phạm đó. Do đó, pháp luật tố tụng hình sự đã có những quy định cụ thể cho từng cơ
quan trong việc phát hiện, xử lý tội phạm nhằm đảm bảo mang lại lợi ích tốt nhất cho
xã hội. Khác với tố tụng hình sự, khởi kiện VAHC có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối
với cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm bởi các QĐHC,
HVHC. Tòa án trong tố tụng hành chính có thẩm quyền giải quyết khiếu kiện hành
chính nên chỉ khi có đơn khởi kiện VAHC nộp đến Tịa án thì Tịa án mới bảo vệ
quyền, lợi ích cho người khởi kiện bị xâm phạm. Người khởi kiện có quyền tự quyết
định và định đoạt việc khởi kiện của mình, nếu khơng có việc khởi kiện thì Tịa án sẽ
không giải quyết và nếu cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện việc khởi kiện VAHC thì
Tịa án cũng chỉ giải quyết trong phạm vi mà người khởi kiện yêu cầu trong đơn khởi
kiện. Bất kỳ ai kể cả Tịa án đều khơng có quyền can thiệp vào quyền tự quyết định và
định đoạt của người khởi kiện về khởi kiện VAHC, giả sử Tòa án trong khi giải quyết
VAHC theo yêu cầu của người khởi kiện đã phát hiện một người khác cũng có quyền,
lợi ích hợp pháp bị xâm phạm bởi đối tượng khởi kiện trong VAHC này nhưng người
này khơng thực hiện khởi kiện thì Tịa án cũng sẽ khơng bảo vệ quyền, lợi ích cho họ.
Thứ hai, đối với Tòa án
Khởi kiện VAHC là căn cứ phát sinh thẩm quyền thụ lý, giải quyết khiếu kiện
hành chính của Tịa án trên thực tế. Pháp luật TTHC quy định thẩm quyền giải quyết
khiếu kiện hành chính, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện cho Tịa

án. Khi có việc khởi kiện Tịa án phải thực hiện các hoạt động trong trách nhiệm và
nghĩa vụ của mình để yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện được giải quyết phù hợp
với quy định của pháp luật nhưng nếu khơng có việc khởi kiện trên thực tế thì Tịa án
khơng thể thực hiện quyền này. Tòa án chỉ được giải quyết VAHC trong phạm vi khởi
kiện hoặc có liên quan đến nội dung của u cầu khởi kiện. Tịa án ngồi mục đích bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp theo yêu cầu của người khởi kiện thì khơng được can thiệp
vào hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Khởi kiện VAHC là hoạt động có nhiều ý
nghĩa đối với Tịa án, là cơ sở để Tịa án mang đến cơng lý và cơng bằng cho xã hội
trong lĩnh vực hành chính, khởi kiện VAHC còn giúp các cán bộ, Thẩm phán Tòa án
nắm vững kiến thức pháp luật và cải thiện hiệu quả hoạt động giải quyết tố tụng hành
chính.
Thứ ba, đối với hoạt động tố tụng
Việc khởi kiện đúng pháp luật sẽ là cơ sở phát sinh VAHC, quan hệ pháp luật
TTHC được hình thành, vụ án sẽ được giải quyết theo thủ tục tố tụng hành chính. Hơn


16

nữa, khởi kiện VAHC sẽ góp phần hồn thiện hoạt động tố tụng hành chính, điều này
thể hiện ở việc khởi kiện VAHC ngày càng được cơ quan, tổ chức, cá nhân lựa chọn
làm hình thức giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực hành chính. Do đó, pháp luật về
hoạt động tố tụng và việc thực hiện các hoạt động tố tụng của cơ quan có thẩm quyền
cũng sẽ thường xuyên được kiểm tra, đánh giá để kịp thời có những giải pháp hoàn
thiện.
Thứ tư, đối với hoạt động quản lý nhà nước
Đây là một phương thức góp phần kiểm soát hoạt động quản lý nhà nước.
Người bị kiện là cơ quan, cá nhân có thẩm quyền có cơ hội để xem xét lại các QĐHC,
HVHC của mình có hợp pháp hay khơng. Nếu đó là QĐHC, HVHC khơng hợp pháp
thì cơ quan, tổ chức ban hành hoặc thực hiện có cơ hội để sửa chữa, khắc phục sai lầm
của mình. Nếu QĐHC, HVHC đó là hợp pháp thì người dân thêm tin tưởng vào hoạt

động quản lý của cơ quan hành chính nhà nước và thực hiện đúng theo QĐHC, HVHC
đó, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước.
Bên cạnh đó, việc khởi kiện cũng tạo điều kiện để cơng dân, nhà nước nhìn
nhận được những điểm tích cực và tiêu cực, phát hiện những yếu kém, hạn chế của các
cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong việc ban hành, thực hiện các QĐHC, HVHC
trong quá trình thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước để có những giải
pháp giải quyết, xử lý kịp thời, góp phần bảo đảm hoạt động quản lý nhà nước thực
hiện thơng suốt, các chủ thể có thẩm quyền sẽ có trách nhiệm, nghiêm chỉnh hơn trong
việc thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ của mình và người dân cũng sẽ thực hiện nghĩa
vụ của mình nhanh chóng và hiệu quả hơn.
Trong giai đoạn xây dựng đất nước ngày càng vững mạnh, vấn đề bảo vệ quyền
con người nói chúng cần được coi trọng và ngày càng hoàn thiện để con người trong
xã hội được phát triển tốt nhất. Khởi kiện VAHC là một trong những vấn đề nhằm bảo
vệ quyền con người, giúp người khởi kiện có được sự bảo vệ tốt nhất để từ đó từng
con người trong xã hội góp phần xây dựng đất nước ngày càng tốt đẹp.
1.2. Quy định pháp luật về khởi kiện vụ án hành chính
1.2.1. Quyền khởi kiện vụ án hành chính
Quyền khởi kiện VAHC được quy định trong nhiều văn bản pháp luật như:
Hiếp pháp; Luật Khiếu nại; Luật Cạnh tranh; Luật Bảo hiểm xã hội; Luật Chứng
khoán; Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân; Luật Cán bộ,
công chức, Luật TTHC năm 2010,… và đến thời điểm hiện nay quyền khởi kiện
VAHC được quy định cụ thể và chi tiết trong Luật TTHC năm 2015 – được Quốc hội
thông qua ngày 25 tháng 11 năm 2015, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2016.
Điều 5 Luật TTHC năm 2015 quy định: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền
khởi kiện VAHC để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo


17

quy định của Luật này”. Như vậy, khi cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền, lợi ích hợp

pháp bị QĐHC, HVHC được ban hành hoặc thực hiện trong hoạt động quản lý nhà
nước của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền xâm phạm trực tiếp có quyền khởi kiện ra
Tòa án. Trên nguyên tắc quyền tự quyết định và định đoạt của người khởi kiện mà
Điều 8 Luật TTHC năm 2015 đã ghi nhận người có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm
phạm chỉ có thể được Tịa án bảo vệ quyền, lợi ích khi tự họ thể hiện ý chí muốn khởi
kiện ra Tịa án. Quyền tự quyết định và định đoạt của người khởi kiện trong giai đoạn
khởi kiện VAHC được thể hiện ở việc thực hiện khởi kiện, phạm vi nội dung khởi
kiện, sửa đổi, bổ sung hoặc rút đơn khởi kiện.
Điều 30 Luật TTHC năm 2015 đã thể hiện các đối tượng có thể khiếu kiện ra
Tòa án để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện và Điều
115 Luật này cũng đã nêu lên các trường hợp cụ thể mà người khởi kiện có thể khởi
kiện.
Thứ nhất, cơ quan, tổ chức, cá nhân khi không đồng ý với QĐHC, HVHC,
quyết định kỷ luật buộc thôi việc là đối tượng khởi kiện VAHC thì có quyền khởi kiện
VAHC mà không cần phải trải qua thủ tục khiếu nại hành chính. Khi cơ quan, tổ chức,
cá nhân lựa chọn việc khiếu nại hành chính để bảo vệ quyền, lợi ích bị xâm phạm của
mình, đến khi hết thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật mà khiếu nại không
được giải quyết hoặc đã được giải quyết nhưng họ không đồng ý với kết quả giải quyết
khiếu nại thì họ vẫn có thể khởi kiện VAHC ra Tịa án.
Thứ hai, tổ chức, cá nhân có quyền khởi kiện vụ án đối với quyết định giải
quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh trong trường hợp khơng đồng ý
với quyết định đó. Như vậy, trong lĩnh vực cạnh tranh, cơ chế giải quyết vi phạm pháp
luật cạnh tranh được thực hiện trước hết tại cơ quan quản lý cạnh tranh. Khi tổ chức,
cá nhân không đồng ý với quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh phải thực hiện việc
khiếu nại trước khi khởi kiện. Tòa án chỉ thụ lý và xét xử đối tượng khởi kiện là quyết
định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh.
Các quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có
thể bị khiếu kiện tại TAND là: quyết định giải quyết khiếu nại của Hội đồng cạnh
tranh đối với quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh
tranh và quyết định giải quyết khiếu nại của Bộ trưởng Bộ Công thương đối với quyết

định xử lý vụ việc cạnh tranh của Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh13.
Thứ ba, công dân đã khiếu nại với cơ quan có thẩm quyền về danh sách cử tri
nhưng hết thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật mà không được giải quyết
hoặc đã được giải quyết nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại đó
13

Lê Thế Phúc (2007), “Xậy dựng quy định pháp lý đảm bảo quyền khởi kiện hành vi vi phạm pháp luật cạnh
tranh tại Tòa án”, Tạp chí nhà nước và pháp luật, (06), tr. 42.


18

Đối với danh sách cử tri, Luật TTHC bắt buộc phải khiếu nại đến cơ quan có
thẩm quyền mới được khởi kiện ra Tịa án. Do đó, cá nhân muốn khởi kiện về danh
sách cử tri phải thực hiện việc khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền, khi có kết quả
giải quyết khiếu nại nhưng không đồng ý với kết quả giải quyết khiếu nại đó hoặc đã
khiếu nại nhưng đến khi hết thời hạn giải quyết khiếu nại mà cơ quan có thẩm quyền
khơng giải quyết thì mới được khởi kiện ra Tòa án.
1.2.2. Điều kiện khởi kiện vụ án hành chính
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khởi kiện VAHC và hành vi khởi kiện
VAHC của cơ quan, tổ chức, cá nhân đó để được Tịa án thụ lý giải quyết thì phải đáp
ứng các điều kiện mà pháp luật TTHC quy định. Đó là các điều kiện về chủ thể khởi
kiện, đối tượng khởi kiện, thời hiệu khởi kiện, điều kiện về thủ tục khiếu nại hành
chính và điều kiện về vụ việc chưa được giải quyết bằng bản án hoặc quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của Tòa án.
* Điều kiện về chủ thể khởi kiện
Người khởi kiện theo quy định của pháp luật TTHC bao gồm: cơ quan, tổ chức,
cá nhân. Cá nhân được hiểu là công dân Việt Nam, người nước ngồi và người khơng
quốc tịch cịn đối với cơ quan, tổ chức chỉ có cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức chính trị - xã hội – nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp công

lập, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân và các tổ chức khác được thành lập và hoạt
động theo quy định của pháp luật14.
Luật TTHC quy định cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thể khởi kiện VAHC khi
cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm trực tiếp bởi các QĐHC,
HVHC, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết
định xử lý vụ việc cạnh tranh hoặc danh sách cử tri. Đây là quy định hợp lý để tránh
trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân khơng có quyền khởi kiện nhưng vẫn nộp đơn
khởi kiện đến Tòa án làm ảnh hưởng đến hiệu quả làm việc của Tòa án. Luật TTHC
năm 2015 tiếp tục kế thừa quy định về năng lực hành vi tố tụng hành chính của người
khởi kiện, tùy vào độ tuổi và khả năng nhận thức mà pháp luật quy định năng lực hành
vi tố tụng hành chính khác nhau. Luật TTHC năm 2015 ngoài ghi nhận việc thực hiện
quyền khởi kiện đối với chủ thể là có đủ năng lực hành vi dân sự, người chưa thành
niên, người mất năng lực hành vi dân sự như Luật TTHC năm 2010 còn bổ sung thêm
về việc thực hiện quyền khởi kiện của người hạn chế năng lực hành vi dân sự, người
có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Với bổ sung này Luật TTHC năm 2015
đã khắc phục được hạn chế của Luật TTHC năm 2010, bảo vệ được quyền, lợi ích của
những chủ thể này và tạo điều kiện cho cơ quan Tòa án thụ lý vụ án nhanh chóng.
14

Khoản 11 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính số 100/2015/QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2015.


19

Khoản 8 Điều 3 Luật TTHC năm 2015 quy định: “Người khởi kiện là cơ quan,
tổ chức, cá nhân khởi kiện VAHC đối với QĐHC, HVHC, quyết định kỷ luật buộc thôi
việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh; danh sách
cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân,
danh sách cử tri trưng cầu ý dân (sau đây gọi chung là danh sách cử tri)”. Quy định
về người khởi kiện như trên chưa thể hiện được rằng để có tư cách tố tụng là người

khởi kiện họ phải thỏa mãn điều kiện quyền khởi kiện, đó là: họ cho rằng quyền, lợi
ích hợp pháp của mình bị xâm phạm trực tiếp bởi đối tượng có thể khiếu kiện ra Tịa
án và họ phải có những tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện. Tuy
nhiên, việc khởi kiện còn phải phụ thuộc vào năng lực hành vi tố tụng hành chính của
người có quyền khởi kiện để xác định.
Thứ nhất, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện phải có quyền, lợi ích hợp pháp
bị xâm phạm trực tiếp
Điều 5 Luật TTHC năm 2015 quy định: “cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền
khởi kiện VAHC để yêu cầu Tịa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo
quy định của Luật này”. “Người khởi kiện ngoài những điều kiện về năng lực hành vi,
cần phải có “quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm” bởi quyết định hoặc hành vi của
công quyền – theo ngơn từ trong pháp luật Việt Nam”15.
Do đó, chỉ khi cơ quan, tổ chức, cá nhân cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của
mình bị xâm phạm trực tiếp bởi QĐHC, HVHC, quyết định kỷ luật buộc thôi việc,
quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri
thì mới có quyền khởi kiện và mới có thể trở thành người khởi kiện VAHC.
Việc xác định quyền và lợi ích bị xâm phạm trực tiếp vơ cùng quan trọng vì đây
là điều kiện tiên quyết để cơ quan, tổ chức, cá nhân được khởi kiện VAHC ra Tòa án.
Trong trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân không đáp ứng được điều kiện này thì sẽ
khơng có quyền khởi kiện và khi họ nộp đơn khởi kiện ra Tòa án, Tòa án sẽ trả lại đơn
khởi kiện, đây là trường hợp trả lại đơn khởi kiện vì người khởi kiện khơng có quyền
khởi kiện theo điểm a khoản 1 Điều 123 Luật TTHC năm 2015. “Quyền, lợi ích hợp
pháp bị xâm phạm trực tiếp” chỉ là căn cứ vào ý chí chủ quan của người khởi kiện như
đã được phân tích ở trên nhưng khi khởi kiện, kèm theo đơn khởi kiện phải có các tài
liệu, chứng cứ để chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm.
Hầu hết pháp luật các quốc gia trên thế giới đều quy định về điều kiện này, theo
pháp luật hành chính của Cộng hịa Pháp: “Người khởi kiện VAHC phải chứng minh
có lợi ích khởi kiện và lợi ích khởi kiện của người khởi kiện phải bị xâm phạm trực

15


Nguyễn Hoàng Anh (2013), “Về quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm trong việc xác định tư cách người
khởi kiện hành chính: Quan niệm trên thế giới và ở Việt Nam”, Tạp chí nhà nước và pháp luật, (08), tr. 10.


×