Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Pháp luật về căn cứ thụ lý vụ án hành chính ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1001.26 KB, 96 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN THỊ LÂM

PHÁP LUẬT VỀ CĂN CỨ THỤ LÝ VỤ ÁN
HÀNH CHÍNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN THỊ LÂM

PHÁP LUẬT VỀ CĂN CỨ THỤ LÝ VỤ ÁN
HÀNH CHÍNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành : Lí luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật
Mã số
: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. PHẠM HỒNG THÁI

HÀ NỘI - 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và
đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật
Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có
thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Trần Thị Lâm


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
CHƢƠNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ CĂN CỨ THỤ LÝ VỤ ÁN
HÀNH CHÍNH ............................................................................................ 8
1.1. Quan niệm chung về căn cứ thụ lý vụ án hành chính ................... 8
1.1.1. Khái quát chung về vụ án hành chính và thụ lý vụ án hành chính8
1.1.2. Quan niệm về căn cứ thụ lí vụ án hành chính ........................ 14
1.2. Cơ sở quy định các căn cứ thụ lý vụ án hành chính .................... 18
1.2.1. Cơ sở lí luận............................................................................... 19
1.2.2. Cơ sở thực tiễn ........................................................................... 27
CHƢƠNG II. CĂN CỨ THỤ LÝ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH THEO QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH ................................................ 33

2.1. Trƣờng hợp ngƣời khởi kiện không có quyền khởi kiện ............ 35
2.2. Trƣờng hợp ngƣời khởi kiện không có đủ năng lực hành vi tố
tụng hành chính ..................................................................................... 38
2.3. Trƣờng hợp thời hiệu khởi kiện đã hết mà không có lí do chính đáng . 41
2.4. Trƣờng hợp chƣa có đủ điều kiện khởi kiện vụ án hành chính . 46
2.5. Trƣờng hợp sự việc đã đƣợc giải quyết bằng bản án hoặc quyết
định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật ........................................... 49
2.6. Trƣờng hợp sự việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án . 51
2.7. Trƣờng hợp ngƣời khởi kiện lựa chọn giải quyết vụ việc theo thủ
tục giải quyết khiếu nại trong trƣờng hợp quy định tại Điều 31 của
Luật Tố tụng hành chính năm 2010 ..................................................... 57
2.8. Trƣờng hợp đơn khởi kiện không có đủ nội dung quy định tại
khoản 1 Điều 105 của Luật Tố tụng hành chính năm 2010 mà không


đƣợc ngƣời khởi kiện sửa đổi, bổ sung theo quy định tại Điều 108 của
Luật này .................................................................................................. 60
2.9. Trƣờng hợp hết thời hạn đƣợc thông báo quy định tại khoản 1
Điều 111 của Luật Tố tụng hành chính năm 2010 mà ngƣời khởi kiện
không xuất trình biên lai nộp tiền tạm ứng án phí cho Toà án, trừ
trƣờng hợp có lí do chính đáng ............................................................ 61
CHƢƠNG III. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT VỀ CĂN CỨ THỤ LÝ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH ............. 64
3.1. Quan điểm hoàn thiện các quy định của pháp luật về căn cứ thụ
lý vụ án hành chính................................................................................ 64
3.2. Các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện các quy định của pháp
luật về căn cứ thụ lý vụ án hành chính ................................................ 65
3.2.1. Về căn cứ người khởi kiện không có quyền khởi kiện ............ 66
3.2.2. Về căn cứ người khởi kiện không có đủ năng lực tố tụng
hành chính ........................................................................................... 69

3.2.3. Về căn cứ thời hiệu khởi kiện đã hết mà không có lý do
chính đáng ........................................................................................... 70
3.2.4. Về căn cứ chưa có đủ điều kiện khởi kiện vụ án hành chính 74
3.2.5. Về căn cứ sự việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án. 74
3.2.6. Về căn cứ đơn khởi kiện không có đủ nội dung quy định tại
khoản 1 Điều 105 của Luật này mà không được người khởi kiện sửa
đổi, bổ sung theo quy định tại Điều 108 của Luật Tố tụng hành
chính năm 2010 ................................................................................... 83
3.2.7. Về căn cứ hết thời hạn được thông báo quy định tại khoản 1 Điều
111 của Luật mà người khởi kiện không xuất trình biên lai nộp tiền tạm
ứng án phí cho Toà án, trừ trường hợp có lý do chính đáng ................ 83
KẾT LUẬN ................................................................................................ 85
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 87


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài.
So với các tài phán khác như tài phán hình sự, tài phán dân sự thì tài
phán hành chính của nước ta còn khá non trẻ. Năm 1996 mô hình toà hành
chính nằm trong hệ thống Tòa án nhân dân (sau đây viết tắt TAND) ra đời là
bước ngoặt quan trọng đối với nền tài phán hành chính và Luật tố tụng hành
chính được xem là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Bên cạnh đó, ở các quốc gia phát triển trên thế giới thì tài phán hành chính lại
chiếm vị trí rất quan trọng và đã có lịch sử lâu đời. Đặc biệt, với xu thế dân chủ
hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng nhà nước pháp quyền của thế giới
nói chung và Việt Nam nói riêng thì vai trò của tài phán hành chính phải được
xem là rất quan trọng. Tuy nhiên, vì còn khá mới mẻ và chưa được quan tâm
đúng mức nên nền tài phán hành chính của Việt Nam hiện nay còn gặp nhiều
khó khăn đòi hỏi phải có những đổi mới trong cả nhận thức và thực tiễn.
Luật Tố tụng hành chính được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 24/11/2010, có hiệu
lực thi hành từ ngày 01/7/2011 là một dấu mốc quan trọng trong quá trình
không ngừng mở rộng dân chủ, cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế. Đây là
văn bản Luật đầu tiên điều chỉnh hoạt động tố tụng hành chính, có hiệu lực
pháp lý cao, tạo cơ sở thuận lợi cho việc giải quyết các vụ án hành chính tại
tòa án cũng như bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Một
trong những thay đổi quan trọng của Luật là quy định về thụ lý vụ án hành
chính, đặc biệt về căn cứ thụ lý vụ án hành chính. Trong đó, điều kiện khởi
kiện của người dân đã được mở rộng hơn trước rất nhiều, tạo điều kiện tốt
hơn trong việc bảo vệ quyền công dân, quyền con người tuy nhiên cũng mở ra
những khó khăn, thách thức lớn đối với các cơ quan nhà nước nhất là Tòa án
trong việc đảm bảo các quyền đó được thực hiện trên thực tế.

1


Có thể nói án hành chính là loại án cho đến nay vẫn còn khá mới mẻ ở
Việt Nam cả về phương diện lý luận và thực tiễn so với án hình sự, dân sự, hôn
nhân gia đình. Nên nhu cầu nghiên cứu, tìm hiểu về loại án hành chính và trình
tự thủ tục tố tụng giải quyết loại án này là nhu cầu thiết thực, quan trọng nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, cơ quan trước những
khả năng bị xâm phạm bởi các quyết định hành chính, hành vi hành chính của
cơ quan công quyền. Thụ lý vụ án hành chính là công việc đầu tiên của tòa án
trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, làm phát sinh trách nhiệm giải
quyết tranh chấp hành chính cho tòa án. Do đó, việc quy định các căn cứ thụ lý
vụ án hành chính phù hợp, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho cá nhân,
tổ chức khởi kiện rất được quan tâm và chú trọng. Với một số thay đổi căn bản
trong các quy định về các căn cứ này như: quy định về thời hiệu khởi kiện, điều
kiện tiền tố tụng hành chính…, Luật Tố tụng hành chính đã mở rộng quyền
khởi kiện vụ án hành chính của công dân cũng như tạo điều kiện tốt hơn cho cá

nhân, tổ chức thực hiện quyền này của mình. Tuy vậy, thực tiễn tố tụng tại tòa
án cho thấy, việc thụ lý vụ án hành chính còn một số điểm bất cập xuất phát từ
những hạn chế trong quy định của pháp luật về căn cứ thụ lý vụ án hành chính.
Chính vì vậy, việc hoàn thiện quy định pháp luật về các căn cứ này là việc làm
cấp thiết, mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
Mặt khác, Tuy xét xử vụ án hành chính đã và đang giành được sự quan
tâm đáng kể của giới nghiên cứu pháp lý nhưng các công trình nghiên cứu đa
số tập trung vào thẩm quyền xét xử hành chính hay vấn đề về đổi mới tổ chức
và hoạt động của Tòa hành chính mà chưa có công trình nào ở cấp độ luận
văn thạc sĩ nghiên cứu tập trung, toàn diện, có hệ thống về thụ lý vụ án hành
chính, đặc biệt là các căn cứ thụ lý vụ án hành chính theo quy định của pháp
luật ở Việt Nam hiện nay. Hơn nữa với sự ra đời của Hiến Pháp năm 2013 và
một số văn bản Luật mới ban hành có liên quan đến thụ lý vụ án hành chính

2


như: Luật Tố tụng Hành chính năm 2010, Luật Khiếu nại năm 2011, Luật Tổ
chức tòa án nhân dân năm 2014 thì các công trình nghiên cứu trước đây đã có
nhiều nội dung đã lạc hậu so với những thay đổi gần đây về quan điểm lập
pháp , thực tiễn quy định của pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về thụ
lý vụ án hành chính và các căn cứ thụ lý vụ án hành chính.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã lựa chọn Đề tài: “Pháp luật về
căn cứ thụ lý vụ án hành chính ở Việt Nam hiện nay” làm Luận văn Thạc
sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu.
Vấn đề tài phán hành chính đã được quan tâm, chú trọng từ đầu những
năm 1990, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu với quy mô khác nhau về
vấn đề này. Năm 1996 mô hình toà hành chính nằm trong hệ thống TAND ra
đời và từ đó cho đến nay các công trình nghiên cứu chủ yếu tập trung giải

quyết các vấn đề về tổ chức, hoạt động của Tòa Hành chính, thẩm quyền giải
quyết các khiếu kiện hành chính. Có thể kể đến một số luận án tiến sĩ như:
Luận án tiến sĩ của Hoàng Quốc Hồng: Đổi mới tổ chức và hoạt động
của Tòa hành chính đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam hiện nay, bảo vệ năm 2007; Luận án tiến sĩ của Trần Kim Liễu: Tòa
hành chính trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân,
do dân, vì dân, bảo vệ năm 2011. Các luận án này nghiên cứu những vấn đề
lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động của Tòa Hành chính trong yêu
cầu về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì
dân đồng thời đưa ra được những giải pháp hoàn thiện pháp luật về tổ chức và
hoạt động của Tòa hành chính đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam.
Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thanh Bình: Thẩm quyền của Tòa án nhân
dân trong việc giải quyết các khiếu kiện hành chính, bảo vệ năm 2003: Luận

3


án nghiên cứu những vấn đề lý luận về thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện
hành chính của Tòa án nhân dân, thực trạng thẩm quyền này ở Việt Nam và
giải pháp hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện hành
chính của Tòa án nhân dân.
Thời gian gần đây Luận án tiến sĩ của Nguyễn Mạnh Hùng: Phân định
thẩm quyền giải quyết khiếu nại hành chính và thẩm quyền xét xử hành chính
ở Việt Nam, bảo vệ năm 2014: Luận án nghiên cứu những vấn đề lý luận và
thực tiễn về phân định thẩm quyền giải quyết khiếu nại hành chính và thẩm
quyền xét xử hành chính đồng thời đưa ra được những phân tích, đánh giá và
những giải pháp có hệ thống nhằm phân định hợp lý phân định thẩm quyền
giải quyết khiếu nại hành chính và thẩm quyền xét xử hành chính ở Việt Nam.
Ở cấp độ Luận văn thạc sỹ, có thể kể đến một số Luận văn có nội dung

liên quan đến hoạt động xét xử và thụ lý vụ án hành chính như: Luận văn thạc
sĩ của Nguyễn Hồng Bách: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong hoạt động
xét xử các vụ án hành chính ở nước ta hiện nay, bảo vệ năm 2006. Hay Luận
văn thạc sĩ của Đổng Thị Ninh: Khởi kiện và thụ lý vụ án hành chính theo quy
định của pháp luật tố tụng hành chính Việt Nam, bảo vệ năm 2012: Luận văn
này chủ yếu nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về khởi kiện và thụ lý
vụ án hành chính, trong đó có đề cập đến hoạt động thụ lý vụ án hành chính
nói chung của tòa án chứ không tập trung phân tích một cách toàn diện, có hệ
thống về căn cứ thụ lý vụ án hành chính.
Mặt khác, liên quan đến vấn đề xét xử và khởi kiện vụ án hành chính có
thể kể đến một số sách chuyên khảo, bài báo khoa học như:
Cuốn “Quyết định hành chính, hành vi hành chính – Đối tượng xét xử
hành chính của Toà án” do TS. Phạm Hồng Thái làm chủ biên, xuất bản năm
2011. Cuốn sách đã đề cập đến những quan điểm lý luận về đối tượng của xét
xử hành chính, thẩm quyền xét xử hành chính; đánh giá những quy định của

4


pháp luật hiện hành ở thời điểm nghiên cứu về đối tượng của xét xử hành
chính, thẩm quyền xét xử hành chính ở Việt Nam đồng thời đưa ra những giải
pháp nhằm hoàn thiện các quy định này và nâng cao hiệu quả của công tác xét
xử hành chính.
Ngoài ra cũng phải kể đến một số bài báo khoa học có liên quan như:
“Bảo đảm quyền khiếu kiện hành chính và vấn đề tiền tố tụng hành chính”,
của Thạc sĩ Nguyễn Mạnh Hùng, Tạp chí Nghề luật năm 2007, “Thời hiệu
khởi kiện vụ án hành chính- Nhìn từ yêu cầu an toàn pháp lý”, của Nguyễn
Hoàng Anh, Nghiên cứu lập pháp số 13(150) năm 2009; “Bàn về một số đổi
mới cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính tại Việt Nam hiện nay”, của Thạc
sĩ Nguyễn Thắng Lợi, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (Số chuyên đề về Luật

tố tụng hành chính năm 2011),…
Như vậy, chưa có công trình nghiên cứu nào đặc biệt với quy mô luận
văn thạc sĩ nghiên cứu vấn đề về các căn cứ thụ lý vụ án hành chính ở Việt
Nam hiện nay.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài.
Đối tượng nghiên cứu của Đề tài là các quy định của pháp luật và thực
tiễn áp dụng pháp luật về căn cứ thụ lý vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm.
Trong khuôn khổ hạn chế của Luận văn, Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu khái
quát về căn cứ thụ lý vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm, tìm hiểu những
hạn chế trong các quy định của pháp luật cũng như những khó khăn, vướng
mắc trong việc áp dụng những quy định pháp luật vào thực tiễn để đưa ra
những giải pháp hoàn thiện pháp luật về các căn cứ thụ lý vụ án hành chính
theo thủ tục sơ thẩm.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu của Đề tài là làm rõ được những vấn đề lý luận
cũng như nội dung các quy định pháp luật về căn cứ thụ lý vụ án hành chính,

5


qua đó chỉ ra những điểm hạn chế trong các quy định pháp luật hiện hành về
căn cứ thụ lý vụ án hành chính, từ đó đưa ra những giải pháp cần thiết nhằm
hoàn thiện các quy định pháp luật này, góp phần nâng cao hiệu quả công tác
giải quyết khiếu kiện hành chính, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho công
dân và bảo đảm tính pháp quyền trong quản lí hành chính nhà nước.
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ cụ thể của Đề tài là:
* Nghiên cứu làm sáng tỏ khái niệm căn cứ thụ lý vụ án hành chính và
một số khái niệm có liên quan.
* Nghiên cứu các cơ sở xác định căn cứ thụ lý vụ án hành chính.
* Nghiên cứu các quy định của pháp luật về căn cứ thụ lý vụ án hành

chính và thực tiễn áp dụng chúng tại các tòa án, từ đó chỉ ra những hạn chế
trong các quy định pháp luật này.
* Đề ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật về căn cứ thụ lý vụ án
hành chính.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng về xây dựng Nhà
nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế.
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp
hệ thống, phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê, lịch sử cụ thể, v.v.
5. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn.
Luận văn có những đóng góp nhất định về mặt lý luận và thực tiễn, tìm
hiểu một cách có hệ thống về căn cứ thụ lý vụ án hành chính. Đặc biệt là
trong Luận văn đã đưa ra một số giải pháp mới nhằm hoàn thiện các quy định
của pháp luật về căn cứ thụ lý vụ án hành chính. Các giải pháp này có thể

6


được sử dụng trong quá trình sửa đổi, bổ sung Luật Tố tụng hành chính hay
trong nghiên cứu, học thuật.
6. Bố cục của Luận văn.
Luận văn có bố cục:
* Lời mở đầu
* Chương 1: Cơ sở lý luận về căn cứ thụ lý vụ án hành chính
* Chương 2: Căn cứ thụ lý vụ án hành chính theo quy định của pháp
luật hiện hành
* Chương 3: Giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về căn cứ
thụ lý vụ án hành chính

* Kết luận
* Danh mục tài liệu tham khảo

7


CHƢƠNG I
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ CĂN CỨ THỤ LÝ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
1.1. Quan niệm chung về căn cứ thụ lý vụ án hành chính
1.1.1. Khái quát chung về vụ án hành chính và thụ lý vụ án hành chính
Sự phát triển chế định tài phán hành chính Việt Nam được đánh dấu bởi
sự ra đời và phát triển của mô hình toà hành chính nằm trong hệ thống TAND
năm 1996. Trong đó, Luật tố tụng hành chính, có vai trò là một ngành luật độc
lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Tài phán hành chính Việt nam trước
đây vì lý do chiến tranh và yêu cầu phục vụ cho sự nghiệp cách mạng và chính
trị, có thể nói không phát triển do đó không bảo vệ triệt để các quyền của công
dân trước sự xâm phạm của hành chính. Nó để lại một khoảng trống trong việc
phát triển lý luận về cơ chế giải quyết các khiếu kiện hành chính, thẩm quyền
của Tòa án trong việc giải quyết các vụ án hành chính, phân biệt giữa khiếu nại
hành chính và khởi kiện hành chính,… Trong tiến trình hội nhập và phát triển
hiện nay, Việt nam không thể không tiếp cận và đi theo dòng chảy của sự phát
triển Luật tố tụng hành chính hiện đại, nhằm bảo vệ quyền con người, đáp ứng
yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế, đặc biệt từ sau khi
chính sách Đổi mới 1986 và xây dựng lý luận về Nhà nước Pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, Nhà nước của dân, do dân và vì dân, được ghi nhận trong Hiến pháp
năm 1992 và hiện nay là Hiến pháp năm 2013 cũng như Việt Nam chính thức
ký kết Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ.
Mục đích của việc giải quyết khiếu kiện hành chính một mặt bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân mặt khác nhằm bảo vệ pháp
chế, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước. Đối với nhà nước hiện đại ngày

nay thì vấn đề bảo đảm quyền con người, xây dựng nhà nước pháp quyền và
đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế phải được đưa lên hàng đầu. Chính vì thế
việc hoàn thiện cơ chế giải quyết khiếu kiện hành chính là một việc làm quan

8


trọng, đáng được quan tâm. Với bản chất dân chủ, Nhà nước ta luôn quan tâm
đến việc thu hút sự tham gia đông đảo của nhân dân lao động vào hoạt động
quản lý nhà nước, quản lý xã hội; lắng nghe những ý kiến nguyện vọng,
những kiến nghị, những phản ảnh, khiếu nại của nhân dân để làm cho bộ máy
nhà nước hoạt động càng ngày càng có hiệu quả thực sự là bộ máy phục vụ
quyền và lợi ích của nhân dân. Hệ thống các cơ quan nhà nước được hình
thành, chính sách pháp luật và khiếu kiện hành chính được xây dựng và ngày
càng hoàn thiện. Đó là một quá trình lâu dài tìm tòi, sáng tạo tổng kết từ thực
tiễn hoạt động của Tòa án đồng thời cũng cho thấy sự thay đổi về nhận thức
và tư duy đến phương thức hành động.
Đặc thù của quan hệ pháp luật hành chính là quan hệ bất bình đẳng
giữa chủ thể và đối tượng quản lý hành chính nhà nước. Trong đó, chủ thể
quản lý được phép đơn phương áp đặt ý chí của mình lên đối tượng quản lý
thông qua các quyết định hành chính, hành vi hành chính nhằm giải quyết
công việc trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước. Chính các quyết định,
hành vi này có thể xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của đối tượng quản
lý dẫn đến xung đột về lợi ích giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân, là lý do
phát sinh các tranh chấp hành chính, một dạng tranh chấp “phát sinh trong các
lĩnh vực khác nhau của hoạt động hành chính nhà nước”, [33, tr 211]. Chính
vì thế, nếu không ghi nhận quyền khiếu nại hay khởi kiện hoặc không xây
dựng tốt cơ chế giải quyết khiếu kiện thì sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp
pháp của cá nhân, tổ chức cũng như quyền công dân trong xã hội hiện đại.
Hiện nay, cá nhân, tổ chức có thể lựa chọn việc giải quyết tranh chấp hành

chính thông qua phương thức khiếu nại đến chủ thể có thẩm quyền hoặc khởi
kiện ra Tòa án. Như vậy, với việc mở rộng quyền khiếu kiện như hiện nay đã
đáp ứng phần nào yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của Việt Nam cũng như phù hợp khi tham gia hội nhập quốc tế.

9


Theo Từ điển Tiếng Việt, “vụ” được hiểu là việc, sự việc không hay,
rắc rối cần phải giải quyết, còn “án” là tranh chấp quyền lợi cần được xét xử
trước tòa án. Như vậy, xét về mặt thuật ngữ, “vụ án” là công việc phát sinh
trên cơ sở tranh chấp về quyền lợi thuộc nhiệm vụ xét xử của tòa án. Trên cơ
sở đó, vụ án hành chính có thể hiểu là “vụ việc tranh chấp hành chính được
tòa án có thẩm quyền thụ lý theo yêu cầu khởi kiện của cá nhân, tổ chức đối
với quyết định hành chính, hành vi hành chính để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của họ.”[33, tr. 217]
Không phải mọi tranh chấp hành chính khi có yêu cầu khởi kiện thì đều
phát sinh vụ án hành chính mà điều quan trọng là tranh chấp hành chính đó
phải được tòa án có thẩm quyền thụ lý giải quyết. Có thể thấy thụ lý vụ án
hành chính là giai đoạn quan trọng mang ý nghĩa mở đầu cho việc giải quyết
tranh chấp bằng con đường tòa án. Tranh chấp hành chính không được tòa án
có thẩm quyền thụ lý sẽ không phát sinh vụ án hành chính. Tuy vậy, thụ lý vụ
án hành chính chỉ được thực hiện trên cơ sở yêu cầu khởi kiện của cá nhân, tổ
chức đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính nhằm bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp cho mình. Do đó, khởi kiện vụ án hành chính là hành vi đầu
tiên của cá nhân, tổ chức tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng hành chính,
là cơ sở pháp lý phát sinh quan hệ tố tụng hành chính. Không có hành vi khởi
kiện thì cũng không có quá trình tố tụng hành chính cho các giai đoạn tiếp
theo. Tòa chỉ thụ lý vụ án hành chính khi có đơn khởi kiện của các cá nhân, tổ
chức. Tuy nhiên khi đã có đơn khởi kiện của cá nhân, tổ chức thì việc đơn

khởi kiện có được chấp nhận giải quyết theo yêu cầu khởi kiện hay không thì
phụ thuộc hoàn toàn vào quyết định của Tòa án thông qua quy trình thụ lý vụ
án. Do đó, có thể nói hành vi thụ lý hay không thụ lý vụ án hành chính có vai
trò rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người khởi kiện nói

10


riêng và quyền công dân nói chung. Vậy, thụ lý vụ án hành chính gồm những
công việc gì và dựa trên những căn cứ như thế nào?
Cũng như các quy trình tố tụng khác, trong tố tụng hành chính, vụ án
hành chính được giải quyết qua nhiều giai đoạn khác nhau. Tương ứng với
từng giai đoạn tố tụng thì tòa án phải thực hiện các công việc khác nhau. Mà,
theo từ điển Tiếng Việt thì “thụ lý” là “tiếp nhận giải quyết vụ kiện”. Do đó,
thụ lý vụ án hành chính là giai đoạn đầu tiên trong quy trình tòa án giải quyết
vụ án hành chính. Trong giai đoạn này, tòa án phải xem xét kỹ lưỡng cả về
điều kiện, nội dung và hình thức của việc khởi kiện vụ án hành chính sau đó
đối chiếu với các căn cứ do pháp luật quy định để quyết định thụ lý hay từ
chối thụ lý vụ án hành chính, tránh tình trạng thụ lý những vụ việc không
thuộc thẩm quyền xét xử vụ án hành chính của mình.
Khi tiếp nhận đơn khởi kiện thì tòa án phải xem xét để quyết định việc
thụ lý vụ án hành chính; trả lại đơn kiện hay chuyển đơn khởi kiện cho tòa án
có thẩm quyền. Nếu quyết định thụ lý vụ án hành chính có nghĩa tòa án đã
chính thức chấp nhận giải quyết vụ án hành chính theo yêu cầu của cá nhân,
tổ chức, đồng thời chính thức làm phát sinh trách nhiệm của tòa án trong việc
giải quyết vụ án này, giúp cho tòa án có những nhận định ban đầu, cần thiết
về tình trạng tranh chấp hành chính, phương hướng giải quyết vụ việc. Nếu vụ
việc không được tòa án thụ lý thì cũng sẽ không được tòa án giải quyết.
Với ý nghĩa quan trọng đó, thụ lý vụ án hành chính bao gồm các hoạt
động cơ bản như: nhận đơn khởi kiện, xem xét, xác định các điều kiện để thụ

lý và vào sổ thụ lý. Các hoạt động này phải được tiến hành cẩn thận và xem
xét kỹ lưỡng, với mục đích tránh việc thụ lý nhầm khi vụ án không thuộc
thẩm quyền của tòa án hoặc thuộc thẩm quyền giải quyết khác hay trường hợp
người khởi kiện không có quyền khởi kiện… Nếu loại trừ được ngay từ giai
đoạn này thì tòa án sẽ bớt được hậu quả về sau, tiết kiệm chi phí, công sức

11


cho cả tòa án và người khởi kiện. Do đó, có thể thấy thụ lý vụ án hành chính
có vai trò rất lớn trong quá trình giải quyết vụ án.
Từ những nhận định nêu trên, thụ lý vụ án hành chính mang những đặc
điểm sau:
Thứ nhất: Nội dung cơ bản của thụ lý vụ án hành chính là chấp nhận
giải quyết vụ án hành chính theo yêu cầu khởi kiện của cá nhân, tổ chức.
Có thể thấy nội dung chính của việc khởi kiện là chính thức yêu cầu tòa
án giải quyết yêu cầu cụ thể nào đó do cá nhân, tổ chức khởi kiện đưa ra. Yêu
cầu này sẽ được thể hiện trong đơn khởi kiện vụ án hành chính. Vậy, khi tòa
án ra quyết định thụ lý vụ án hành chính tức là đã chính thức chấp nhận giải
quyết vụ án này theo yêu cầu khởi kiện của cá nhân, tổ chức. Việc thụ lý hay
từ chối thụ lý mang tính chất quyết định cho việc phát sinh vụ án hành chính,
mở đầu cho toàn bộ quá trình giải quyết vụ án hành chính tại tòa án. Do đó,
tòa án có trách nhiệm tiếp nhận đơn khởi kiện và trả lời công khai về việc vụ
án hành chính đó có được giải quyết tại tòa hay không.
Nếu tòa án từ chối thụ lý vụ án hành chính thì phải nêu rõ lý do và
hướng dẫn người khởi kiện thực hiện lại theo đúng quy định của pháp luật.
Trường hợp tòa án chấp nhận thụ lý vụ án hành chính thì phải hướng dẫn tổ
chức, cá nhân khởi kiện thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng của họ và
chuẩn bị các điều kiện cần thiết để giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục do
pháp luật quy định.

Thứ hai: Thẩm quyền thụ lý vụ án hành chính thuộc về tòa án.
Thụ lý vụ án hành chính là hành vi tố tụng hành chính chỉ có thể được
tiến hành bởi tòa án có thẩm quyền. Thẩm quyền thụ lý vụ án hành chính của
tòa án được dựa trên việc phân cấp thẩm quyền theo cấp tòa án hay theo lãnh
thổ trong hệ thống tòa án nói chung và việc phân định thẩm quyền giữa tòa án
với cơ quan nhà nước khác trong việc giải quyết tranh chấp hành chính. Chính

12


vì vậy, để thụ lý vụ án hành chính, tòa án cần dựa vào các quy định pháp luật
để thụ lý vụ án hành chính đúng thẩm quyền. Việc tòa án thụ lý vụ án hành
chính sai thẩm quyền là hành vi trái pháp luật và việc giải quyết cần phải
được đình chỉ ngay.
Thứ ba: Các căn cứ và hình thức thụ lý vụ án hành chính được pháp
luật tố tụng hành chính quy định.
Thụ lý vụ án hành chính mang tính chất là quyền khách quan, quan
trọng, mang ý nghĩa khởi đầu cho việc giải quyết vụ án hành chính của tòa án.
Tuy nhiên, quyền khách quan này của tòa án lại ảnh hưởng trực tiếp đến
quyền lợi của người khởi kiện. Do đó, nhằm bảo vệ quyền công dân, bảo đảm
pháp chế thì bất cứ nhà nước tiến bộ nào cũng phải quy định việc thụ lý vụ án
hành chính trên cơ sở luật pháp. Cụ thể, pháp luật tố tụng hành chính phải quy
định rõ các căn cứ thụ lý và hình thức thụ lý. Điều này có nghĩa, quyền thụ lý
vụ án hành chính thuộc về tòa án nhưng đó không phải đặc quyền tùy tiện của
tòa án. Tòa án chỉ thụ lý vụ án hành chính khi việc khởi kiện của cá nhân, tổ
chức được thực hiện theo đúng các căn cứ thụ lý do pháp luật tố tụng hành
chính quy định và ngược lại sẽ từ chối thụ lý nếu việc khởi kiện không được
thực hiện theo đúng các căn cứ này. Việc quy định các căn cứ thụ lý vụ án
hành chính cũng phải phù hợp với các yêu cầu về nội dung và hình thức khởi
kiện vụ án hành chính. Ngoài ra, để bảo đảm tính thống nhất trong công tác

thụ lý vụ án hành chính và đề cao trách nhiệm của tòa án trong việc thụ lý vụ
án hành chính thì hình thức thụ lý vụ án hành chính cũng phải được pháp luật
tố tụng hành chính quy định.
Như vậy, có thể nói thụ lý vụ án hành chính là một giai đoạn quan
trọng, trong đó, các căn cứ, hình thức thụ lý vụ án hành chính cũng được pháp
luật tố tụng hành chính quy định chặt chẽ. Trên cơ sở đó, việc tiến hành thụ lý

13


vụ án hành chính được thực hiện một cách cẩn thận, các căn cứ thụ lý được
xem xét kỹ lưỡng, tránh sai về thẩm quyền thụ lý.
Tóm lại, chúng ta có thể hiểu “thụ lý vụ án hành chính là hành vi tố
tụng do tòa án có thẩm quyền thực hiện theo những căn cứ, hình thức được
pháp luật tố tụng hành chính quy định nhằm chính thức chấp nhận giải quyết
vụ án hành chính theo yêu cầu khởi kiện vụ án hành chính của cá nhân, tổ
chức.”[33, tr. 240]. Thụ lý vụ án hành chính có vai trò quan trọng trong việc
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; bảo đảm pháp chế xã hội
chủ nghĩa và việc thực hiện các quy trình tố tụng tiếp theo.
1.1.2. Quan niệm về căn cứ thụ lí vụ án hành chính
Vụ việc khởi kiện của cá nhân, tổ chức chỉ được tòa án chấp nhận khi
đáp ứng đủ các căn cứ nhất định do pháp luật quy định. Các căn cứ này cho
phép các thẩm phán khi xem xét đơn khởi kiện có thể lấy nó làm cơ sở để ra
quyết định chấp nhận hay từ chối vụ việc khởi kiện. Nếu chấp nhận vụ việc
khởi kiện đồng nghĩa với vụ việc tranh chấp sẽ được tòa án tiếp nhận giải
quyết, ngược lại nếu vụ việc kiện không được chấp nhận thì vụ việc khởi kiện
sẽ không được tòa án tiếp nhận giải quyết. Như vậy, việc tòa án chấp nhận hay
từ chối đơn khởi kiện không những ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của chủ
thể khởi kiện mà còn ảnh hưởng đến các hoạt động khác cũng như trách nhiệm
của tòa án trong việc giải quyết vụ án. Với ý nghĩa quan trọng đó, để tránh sự

tùy tiện của tòa án đồng thời hướng dẫn, tạo điều kiện cho các tòa án áp dụng
thống nhất việc thụ lý vụ án, pháp luật phải quy định cụ thể các căn cứ thụ lý
vụ án hành chính. Các căn cứ này sẽ được các thẩm phán xem xét đơn khởi
kiện tuân theo và áp dụng chung cho các vụ tranh chấp khi khởi kiện ra tòa.
Theo Từ điển Tiếng Việt thì căn cứ là “cái làm chỗ dựa, làm cơ sở để
lập luận hoặc hành động”. Như vậy, có thể hiểu căn cứ thụ lý vụ án hành
chính là những dấu hiệu làm cơ sở để Tòa án quyết định việc thụ lý vụ án

14


hành chính theo quy định của pháp luật tố tụng hành chính. Nếu vụ việc
khởi kiện không đáp ứng đầy đủ các căn cứ này thì tòa án sẽ không thụ lý vụ án
hành chính để giải quyết. Ngược lại, nếu vụ việc khởi kiện đáp ứng đầy đủ các
căn cứ thụ lý thì tòa án sẽ tiến hành thụ lý vụ án hành chính để giải quyết, đồng
thời xác định trách nhiệm của tòa án trong việc giải quyết vụ án hành chính.
Khi nói đến căn cứ thụ lý vụ án hành chính, có quan điểm đánh đồng
hoặc nhầm lẫn giữa điều kiện khởi kiện vụ án hành chính với căn cứ thụ lý vụ
án hành chính. Tuy hai vấn đề này có quan hệ mật thiết nhưng không đồng
nhất. Trước hết, chủ thể áp dụng các căn cứ thụ lý vụ án hành chính là tòa án,
còn chủ thể phải tuân theo các điều kiện khởi kiện là cá nhân, tổ chức (người
khởi kiện). Hay, để thực hiện quyền khởi kiện của mình thì cá nhân, tổ chức
chỉ cần đáp ứng đủ các điều kiện khởi kiện nhưng để vụ án được thụ lý thì
việc khởi kiện đó phải đáp ứng đủ các căn cứ thụ lý. Như vậy, các căn cứ thụ
lý vụ án hành chính sẽ bao gồm điều kiện khởi kiện vụ án hành chính và các
căn cứ khác liên quan đến vấn đề thuộc phạm vi nghiệp vụ của tòa án hay sự
lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp hành chính của cá nhân, tổ chức
khác trong cùng một vụ việc, cũng như yêu cầu về hình thức của việc khởi
kiện vụ án hành chính để quyết định việc thụ lý vụ án hành chính.
Từ những tìm hiểu khái quát trên, căn cứ thụ lý vụ án hành chính mang

những đặc điểm sau:
Thứ nhất: Các căn cứ thụ lý vụ án được pháp luật tố tụng hành chính
quy định
Căn cứ thụ lý vụ án hành chính không phải do các tòa án hay thẩm
phán trong quá trình xem xét đơn khởi kiện định ra mà được quy định bởi
pháp luật tố tụng hành chính. Trong đó Luật tố tụng hành chính định ra một
công thức chung cho việc thụ lý thông qua các căn cứ thụ lý. Công thức
chung này phải được xây dựng trên cơ sở đảm bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp

15


của cá nhân, tổ chức đồng thời phải tính đến điều kiện, khả năng xét xử của
Tòa án. Nếu quy định các căn cứ thụ lý theo chiều hướng quá mở rộng quyền
khởi kiện của công dân thì sẽ dẫn đến khả năng Tòa án sẽ không đáp ứng
được hoặc ngược lại nếu quy định quá hẹp quyền khiếu kiện của công dân thì
sẽ không thể bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của công dân trong một số
trường hợp. Cả hai trường hợp đều ảnh hưởng không tốt đến việc bảo vệ
quyền lợi ích hợp pháp của công dân cũng nhu việc bảo vệ pháp chế. Chính vì
vậy việc quy định các căn cứ thụ lý sao cho hài hòa giữa nhu cầu khiếu kiện
của người dân và khả năng đáp ứng của tòa án là rất quan trọng và cũng hết
sức phức tạp. Theo đó, nếu việc khởi kiện của cá nhân, tổ chức đáp ứng đủ
các căn cứ thụ lý vụ án hành chính thì tòa sẽ tiến hành thụ lý, ngược lại nếu
không đáp ứng đủ hoặc đáp ứng không đúng các căn cứ này thì tòa án sẽ trả
lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện. Vậy, quyền thụ lý vụ án hành chính
thuộc về tòa án nhưng đó không phải là đặc quyền tùy tiện mà muốn thụ lý,
tòa án phải dựa trên những căn cứ nhất định.
Rõ ràng việc pháp luật tố tụng hành chính quy định các căn cứ thụ lý vụ
án hành chính là cần thiết. Các căn cứ này sẽ là cơ sở để tòa án quyết định
việc chấp nhận hay không chấp nhận thụ lý vụ án hành chính. Hệ quả của việc

ra quyết định này là rất quan trọng đối với cả cá nhân, tổ chức khởi kiện và
tòa án. Việc tòa án thụ lý vụ án hành chính không đúng quy định pháp luật sẽ
mang hậu quả nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của
cá nhân, tổ chức khởi kiện. Do đó, các căn cứ thụ lý vụ án hành chính phải
được pháp luật tố tụng hành chính quy định một cách cụ thể, tạo điều kiện cho
việc áp dụng đúng, thống nhất và hạn chế sai sót có thể sảy ra trong việc đưa
ra quyết định thụ lý. Đồng thời, các căn cứ này được quy định sẽ tạo cơ sở
pháp lý cho việc chấp nhận thụ lý hay trả lại đơn khởi kiện, giúp các thẩm
phán tiến hành thụ lý vụ án hành chính một cách chính xác, tránh tình trạng

16


tùy tiện khi thụ lý cũng như tạo cơ sở để xác định trách nhiệm của tòa án. Qua
đó, góp phần đảm bảo quyền, lợi ích chính đáng của người khởi kiện.
Thứ hai: Các căn cứ thụ lý vụ án hành chính được quy định phù hợp
với điều kiện, nội dung và hình thức của việc khởi kiện vụ án hành chính
Có thể thấy căn cứ thụ lý vụ án hành chính có liên quan mật thiết đến
điều kiện, nội dung và hình thức của việc khởi kiện.
Trước hết, về mối quan hệ giữa điều kiện khởi kiện với căn cứ thụ lý vụ
án hành chính:
Việc khởi kiện vụ án hành chính là cơ sở trực tiếp để tòa án thụ lý giải
quyết vụ án hành chính và cũng là điều kiện để tòa án xem xét tính hợp pháp
của việc thực thi quyền hành pháp. Chính vì vậy, cá nhân, tổ chức muốn khởi
kiện vụ án hành chính thì phải đáp ứng một số điều kiện do pháp luật tố tụng
hành chính quy định (điều kiện khởi kiện vụ án hành chính). Do đó, quy định
các căn cứ thụ lý vụ án hành chính phải đảm bảo được các điều kiện khởi kiện
hay việc quy định các căn cứ thụ lý vụ án hành chính phải dựa trên các quy
định về điều kiện khởi kiện, phù hợp với điều kiện khởi kiện. Nếu các căn cứ
thụ lý vụ án không phù hợp với điều kiện khởi kiện sẽ khiến việc thụ lý hay từ

chối thụ lý vụ án hành chính sẽ vi phạm quyền khởi kiện vụ án hành của cá
nhân, tổ chức, đồng thời làm ảnh hưởng đến tính thống nhất trong các quy định
của pháp luật, làm vô hiệu các quy định của pháp luật về điều kiện khởi kiện từ
đó ảnh hưởng đến tính độc lập, tự chủ của nền hành chính quốc gia, v.v.
Ngoài phù hợp với điều kiện khởi kiện vụ án hành chính, căn cứ thụ lý
vụ án hành chính còn phải phù hợp với nội dung và hình thức của việc khởi
kiện vụ án hành chính, ví dụ: hình thức của việc khởi kiện vụ án hành chính
yêu cầu khởi kiện phải bằng văn bản hay phải có đơn khởi kiện thì tòa án
không thể thụ lý vụ án nếu yêu cầu khởi kiện chỉ thông qua lời nói. Luật Tố
tụng hành chính đặt ra những quy định về nội dung và hình thức của việc khởi

17


kiện nhằm tạo căn cứ cho việc thụ lý vụ án của Tòa đồng thời xác định trách
nhiệm của cá nhân, tổ chức trong việc khởi kiện và trách nhiệm của tòa án
trong việc thụ lý giải quyết đơn khởi kiện, tránh việc khởi kiện tràn lan gây
khó khăn cho tòa án,…
Tuy vậy, điều đó không có nghĩa là tòa án luôn phải thụ lý vụ án hành
chính nếu việc khởi kiện vụ án hành chính được thực hiện theo đúng các điều
kiện, nội dung và hình thức khởi kiện vụ án hành chính. Việc thụ lý vụ án
hành chính còn phải được thực hiện trên cơ sở một số căn cứ khác mang tính
nghiệp vụ của tòa án như: xác định thẩm quyền thụ lý trong trường hợp có
tranh chấp về thẩm quyền giải quyết vụ việc; kiểm tra việc thực hiện nghĩa vụ
nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm của cá nhân, tổ chức khởi kiện vụ án hành
chính…Như vậy, căn cứ vụ án hành chính không chỉ dừng lại ở phạm vi các
vấn đề liên quan đến từng cá nhân, tổ chức khởi kiện vụ án hành chính mà
còn mở rộng tới các vấn đề thuộc phạm vi nghiệp vụ của tòa án hay sự lựa
chọn phương thức giải quyết tranh chấp hành chính của cá nhân, tổ chức khác
trong cùng một vụ việc.

Tóm lại, căn cứ thụ lý vụ án hành chính có ý nghĩa quan trọng đối với
tòa án trong quá trình xem xét đơn kiện và thụ lý vụ án hành chính chính.
Trên cơ sở này tòa án mới đưa ra quyết định thụ lý vụ án hành chính hay trả
lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện. Với ý nghĩa đó, các căn cứ này phải
được pháp luật quy định cụ thể dựa trên những cơ sở nhất định phù hợp với
điều kiện, khả năng xét xử của tòa án cũng như phải đảm bảo quyền, lợi ích
hợp pháp cho cá nhân, tổ chức.
1.2. Cơ sở quy định các căn cứ thụ lý vụ án hành chính
Việc quy định cụ thể, hợp lí các căn cứ thụ lý vụ án hành chính là rất
quan trọng không chỉ đối với tòa án mà còn đối với tổ chức, cá nhân khởi kiện.
Chính vì vậy, việc làm rõ cơ sở quy định các căn cứ này là điều cần thiết.

18


1.2.1. Cơ sở lí luận
Xuất phát từ bản chất, nội dung và mục đích của thụ lý vụ án hành
chính mà căn cứ thụ lý vụ án hành chính cần được quy định dựa trên các căn
cứ lý luận sau:
Thứ nhất: Yêu cầu bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng
quản lý và bảo đảm tính pháp quyền trong quản lý hành chính nhà nước
Trước hết, có thể thấy việc quy định các căn cứ thụ lý vụ án hành chính
phù hợp sẽ đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của đối tượng quản lý trước sự
xâm phạm của việc thực thi quyền hành pháp. Cá nhân, tổ chức với ý chí chủ
quan cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm bởi quyết định
hành chính, hành vi hành chính đều có thể khởi kiện vụ án hành chính yêu cầu
tòa án giải quyết để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho mình. Yêu cầu này sẽ
được chấp nhận nếu vụ việc được tòa án thụ lý. Do đó, việc thụ lý hay từ chối
thụ lý vụ án hành chính ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của
người khởi kiện vụ án hành chính. Hơn nữa, quyết định thụ lý hay từ chối thụ

lý vụ án hành chính của tòa án lại hoàn toàn dựa trên các căn cứ thụ lý vụ án
hành chính. Do đó, căn cứ thụ lý vụ án hành chính có mối quan hệ mật thiết
với yêu cầu bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đối tượng quản lí trước sự
xâm phạm của việc thực thi quyền hành pháp. Tính hợp lý của các căn cứ thụ
lý vụ án hành chính là điều kiện đảm bảo cần thiết để đương sự không bị hạn
chế hoặc mất quyền khởi kiện, ví dụ: về năng lực hành vi tố tụng hành chính
của người khởi kiện, pháp luật có quy định về cơ chế ủy quyền hay người đại
diện theo pháp luật trong trường hợp người khởi kiện là người chưa thành
niên hoặc mất năng lực hành vi dân sự… nhằm tạo điều kiện để cá nhân, tổ
chức thực hiện quyền khởi kiện một cách thuận lợi nhất để bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp cho mình; hay quy định của pháp luật về một số trường hợp
được miễn nộp toàn bộ tiền tạm ứng án phí, sự mềm dẻo trong các quy định

19


về thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính…. Các căn cứ thụ lý vụ án hành
chính nếu được quy định phù hợp sẽ đáp ứng được yêu cầu bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của đối tượng quản lý không bị xâm phạm bởi việc thực thi
quyền hành pháp.
Ngoài ra, quy định căn cứ thụ lý vụ án hành chính cũng phải dựa trên
yêu cầu bảo đảm tính pháp quyền trong quản lý hành chính nhà nước. Các bản
án, quyết định của tòa án hay quyết định giải quyết khiếu nại của cơ quan hành
chính nhà nước đều cần phải hợp pháp và được nhà nước bảo đảm việc thực
hiện nếu chúng đã có hiệu lực pháp luật. Do đó, để bảo đảm quyền và lợi ích
hợp pháp của đối tượng quản lý cũng như bảo đảm tính pháp quyền trong quản
lý hành chính nhà nước, pháp luật tố tụng hành chính khi quy định các căn cứ
thụ lý vụ án hành chính cần xác định cá nhân, tổ chức được phép khởi kiện vụ
án hành chính tại tòa án mà không cần trải qua giai đoạn khiếu nại đồng thời
quyết định, bản án của tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thực thi,

không thụ lý giải quyết đối với sự việc đã được giải quyết bằng bản án hoặc
quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Như vậy, các căn cứ thụ lý vụ
án hành chính phải được quy định cụ thể, rõ ràng, phù hợp, tránh tình trạng tùy
tiện của các thẩm phán khi thụ lý vụ án hay trả lại đơn khởi kiện nhằm bảo đảm
việc tuân thủ pháp luật trong quản lý hành chính nhà nước. Điều này cũng
nhằm đáp ứng yêu cầu về xây dựng Nhà nước pháp quyền và đảm bảo quyền
con người đúng như tinh thần của Hiến pháp năm 2013. Tuy nhiên để thực hiện
tốt các quy định này trên thực tế, đòi hỏi trách nhiệm rất lớn từ phái các cơ
quan nhà nước như đảm bảo các điều kiện vật chất, con người trong công tác
xét xử của Tòa án, đảm bảo các điều kiện về thi hành án,...
Tóm lại, việc xác định căn cứ thụ lý vụ án hành chính, trước hết nhằm
mục đích bảo vệ một cách hữu hiệu các quyền, lợi ích hợp pháp của đối tượng
quản lý hành chính trước sự xâm phạm trái pháp luật của chủ thể quản lý hành

20


×