Tải bản đầy đủ (.pdf) (145 trang)

Lỗi của bên bị thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (43.78 MB, 145 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

VÕ NGUYÊN TÙNG

LỖI CỦA BÊN BỊ THIỆT HẠI
TRONG TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG NGOÀI HỢP ĐỒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

LỖI CỦA BÊN BỊ THIỆT HẠI
TRONG TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG NGOÀI HỢP ĐỒNG

Chuyên ngành: Luật dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60.38.01.03

Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Minh Hùng
Học viên: Võ Nguyên Tùng
Lớp: Cao Học Luật Khánh Hịa - Khóa 3

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN


Tơi xin cam đoan rằng tồn bộ nội dung luận văn “Lỗi của bên bị thiệt hại
trong trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng” là kết quả của q trình tổng hợp và
nghiên cứu của bản thân tơi, dưới sự hướng dẫn khoa học của Ts. Lê Minh Hùng.
Những phần sử dụng tài liệu tham khảo trong luận văn đã được nêu rõ trong phần
trích dẫn tài liệu tham khảo. Các bản án, thông tin được nêu trong luận văn là trung
thực và hồn tồn chính xác, đúng sự thật.
Tác giả luận văn

Võ Nguyên Tùng


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

1

Bộ luật Dân sự (Số 44-L/CTN) ngày 28/10/1995

BLDS 1995

2

Bộ luật Dân sự (Luật số 33/2005/QH11) ngày
27/6/2005

BLDS 2005

3

Bộ luật Dân sự (Luật số 91/2015/QH13) ngày
24/11/2015


BLDS 2015

4

Hội đồng thẩm phán

HĐTP

5

Tịa án nhân dân

TAND

6

Thành phố Hồ Chí Minh

TP. HCM


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1. BÊN BỊ THIỆT HẠI CÓ LỖI MỘT PHẦN ................................... 7
1.1. Căn cứ xác định lỗi một phần của bên bị thiệt hại .....................................7
1.1.1. Chưa áp dụng đúng căn cứ luật định: bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây
thiệt hại ........................................................................................................................8
1.1.2. Nhầm lẫn về nguyên nhân với điều kiện, nguyên cớ trong thực tiễn xét xử
...................................................................................................................................10

1.1.3. Kiến nghị hoàn thiện ................................................................................13
1.2. Căn cứ ấn định tỷ lệ lỗi của các bên chủ thể .............................................15
1.2.1. Dựa vào mặt chủ quan của các bên chủ thể trong việc gây thiệt hại ......16
1.2.2. Dựa vào các tình tiết khách quan của việc gây thiệt hại .........................19
1.2.3. Kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về vấn đề ấn định tỷ lệ lỗi: cần
đánh giá toàn diện cả dấu hiệu lỗi chủ quan và tình tiết khách quan của vụ án......22
Kết luận chương 1 .............................................................................................254
CHƯƠNG 2. BÊN BỊ THIỆT HẠI HỒN TỒN CĨ LỖI ............................... 26
2.1. Căn cứ xác định bên bị thiệt hại hoàn toàn có lỗi trong việc gây thiệt hại
...................................................................................................................................26
2.1.1. Nhầm lẫn trong việc đánh giá hành vi có lỗi của bên bị thiệt hại ...........26
2.1.2. Đánh giá chưa toàn diện về hành vi trái luật, lỗi của bên gây thiệt hại ..30
2.2. Miễn trách nhiệm khi bên bị thiệt hại hoàn toàn có lỗi ...........................37
2.2.1. Quy định miễn trừ trách nhiệm bồi thường do nguồn nguy hiểm cao độ
gây ra khi bên bị thiệt hại hồn tồn có lỗi cố ý cịn được hiểu, áp dụng chưa thống
nhất ............................................................................................................................37
2.2.2. Người có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm có lỗi trong việc ngăn
chặn, hạn chế thiệt hại ..............................................................................................41
Kết luận chương 2 ...............................................................................................43
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 44
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ở Việt Nam và phần lớn các nước trên thế giới, pháp luật dân sự được xem
là một trong những ngành luật quan trọng thu hút được sự quan tâm to lớn không
chỉ của Nhà nước mà cịn có cả người dân, bởi những tác động mạnh mẽ mà ngành

luật mang lại cho đời sống hàng ngày. Vì vậy, những quy định liên quan đến ngành
luật này ln có những ảnh hưởng lớn đến đời sống xã hội của một quốc gia.
Từ khi Bộ luật Dân sự năm năm 1995 được ban hành, tính đến nay trải qua
trên hai mươi năm thi hành đã mang đến những đóng góp khơng nhỏ cho hoạt động
thực thi pháp luật ở Việt Nam. Trong rất nhiều vấn đề được ghi nhận trong Bộ luật
Dân sự thì yêu tố lỗi, đặc biệt là lỗi trong trách nhiệm bồi thường dân sự ngồi hợp
đồng ln là một nội dung nhận được sự quan tâm của các chuyên gia pháp luật
cũng như những người đang làm công tác thực tiễn. Bởi lẽ: Lỗi là một trong những
căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại nếu pháp luật có quy định, lỗi
cịn là cơ sở để phân định mức độ trách nhiệm của những bên cùng gây ra thiệt hại,
và trong trường hợp nhất định khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì
lỗi càng có vai trị quan trọng hơn, vì nó làm cơ sở để cân nhắc giảm mức bồi
thường hoặc miễn trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại của bên gây ra thiệt hại.
Tại chương XX của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về “Trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng” (từ Điều 584 đến Điều 608) có đề cập sơ lược về
lỗi của bên bị thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng. Tuy nhiên,
việc xác định lỗi của bên bị thiệt hại cùng hệ quả của việc xác định lỗi của bên bị
thiệt hại là cơ sở cho việc quyết định mức bồi thường trong trường hợp này là vấn
đề vô cùng phức tạp. Thực tiễn áp dụng quy định vẫn còn nhiều bất cập, vướng mắc
phát sinh, đơi khi thiếu tính nhất quán và đồng bộ, dẫn đến nhiều khó khăn cho việc
đưa ra các phán quyết khi xử lý các tranh chấp này. Từ đó, làm giảm hiệu lực các
phán quyết của Tòa án, làm giảm niềm tin đối với xã hội và người dân về tính nhất
quán cũng như lẽ công bằng trong việc áp dụng pháp luật để giải quyết các vấn đề
có liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Để thuận tiện cho việc nghiên cứu, góp phần áp dụng thống nhất pháp luật về
vấn đề lỗi của bên bị thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng, tác giả
chọn đề tài “Lỗi của bên bị thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường ngoài hợp
đồng” để làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sỹ luật học của mình.



2
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
“Lỗi của bên bị thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng” là
vấn đề quan trọng nhưng thực tế chưa được các học giả, các nhà nhà nghiên cứu
pháp luật quan tâm làm rõ bằng một đề tài mang tính chất bài bản, rõ nét và chuyên
sâu. Tuy nhiên cũng đã có nhiều cơng trình nghiên cứu chung, nhiều tài liệu có đề
cập đến vấn đề này, trong đó nổi bật là những sách giáo trình đại học và sách bình
luận khoa học:
- Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình pháp luật về hợp
đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb Hồng Đức - Hội luật gia Việt
Nam. Giáo trình đã phân tích trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là
dựa trên cơ sở thiệt hại, trong đó lỗi là cơ sở của trách nhiệm. Giáo trình cịn khái
qt các trường hợp khơng phải chịu trách nhiệm bồi thường cũng như trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong trường hợp bên bị thiệt hại có lỗi. Đây là
vấn đề mà tác giả đặc biệt quan tâm và tìm hiểu nghiên cứu.
- Hồng Thế Liên (Chủ biên) (2013), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự
năm 2005, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trong cuốn sách này, các tác giả
đã bình luận các điều luật trong Bộ luật Dân sự năm 2005, trong đó có các điều luật
về “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” nhưng cũng chưa nêu rõ lỗi
của bên bị thiệt hại một cách cụ thể, chi tiết. Tuy nhiên đây cũng là một tài liệu
quan trọng có ý nghĩa định hướng cho đề tài của tơi.
- Nhóm sách chun khảo: Đỗ Văn Đại (2010), Luật bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận án, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội. Trong cuốn sách này, tác giả đã bình luận các bản án có liên quan đến mối
quan hệ tranh chấp “bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”, tác giả đã nêu chính kiến
của tác giả về các bản án của các cấp Tòa án tại Việt Nam. Đây là tài liệu có ý nghĩa
quan trọng, giúp cho tác giả luận văn có cách tiếp cận và cách bình luận các bản án
có hệ thống, logic và sâu sắc hơn. Cùng tác giả, cịn có quyển Luật bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận bản án (2014), Nxb Đại học
Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, Sách chuyên khảo, Xuất bản lần thứ 2, Tập 2. Thơng

qua việc bình luận các bản án, tác giả đã đưa ra chính kiến, trong thực tiễn xét xử có
những trường hợp bên gây thiệt hại khơng có lỗi, hoặc giữa hành vi trái pháp luật và
thiệt hại xảy ra khơng có mối quan hệ nhân quả nên bên bị thiệt hại không được bồi
thường. Từ nội dung này, tác giả luận văn sẽ tham khảo bài viết trên để có cơ sở
phân tích sâu hơn cho đề tài của tác giả.


3
- Nhóm các bài báo khoa học: Đỗ Văn Đại “Quyền được bồi thường thiệt hại
trong Hiến pháp”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 2/2013. Trong bài viết này,
tác giả đã nêu và phân tích về quyền được bồi thường thiệt hại trong Hiến Pháp của
Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, chưa thấy phân tích về
lỗi của bên bị thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng.
+ Đỗ Văn Đại, Nguyễn Trương Tín “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
người khác gây ra”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 5/2013. Trong bài viết này, tác
giả đã nêu và phân tích lý luận và thực tiễn về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
người khác gây ra nhưng cũng chưa có phân tích, so sánh tương quan giữa lỗi của
bên gây ra thiệt hại và lỗi của bên bị thiệt hại.
+ Phùng Trung Tập, “Lỗi và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp
đồng”, Tạp chí Luật học, số 10/2004. Trong bài viết này, tác giả đề cập đến lỗi và
bồi thường thiệt hại nói chung, có phân tích một số vấn đề về lỗi của bên gây ra
thiệt hại và bên bị thiệt hại nhưng không nghiên cứu sâu về lỗi của bên bị thiệt hại
trong trách nhiệm bồi thường ngồi hợp đồng. Đây là tài liệu có ý nghĩa quan trọng
đối với đề tài của tơi.
- Nhóm các luận văn, luận án, có: Luận văn Thạc sĩ Luật học (2014) của tác
giả Hứa Thu Hằng, Yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng. Nội dung luận văn đề cập đến nhiều vấn đề thiết thực cho việc thực hiện đề
tài của tác giả, trong đó có phân tích về lỗi của bên bị thiệt hại khi có thiệt hại xảy
ra, tuy nhiên nội dung khơng đi nghiên cứu chuyên sâu về lỗi của bên bị thiệt hại
trong trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng.

+ Luận văn Thạc sĩ Luật học (2015) của tác giả Cao Cẩm Nhung, Năng lực
chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của cá nhân theo pháp luật
Việt Nam. Cơng trình nghiên cứu đã đề cập đến những nội dung cơ bản của bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung, đi sâu phân tích từng trường hợp cụ thể,
đánh giá một cách khái quát vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng
và nói lên được mức độ lỗi xảy ra thực tế, để từ đó có căn cứ quy trách nhiệm bồi
thường thiệt hại cho bên có hành vi trái pháp luật. Tuy nhiên, các vấn đề này được
đề cập ở dạng khái quát về bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng nói chung, chứ
khơng tập trung phân tích chuyên sâu về bên bị thiệt hại có lỗi khi xảy ra thiệt hại.
Ngồi ra trên một số trang thơng tin điện tử có nhiều bài viết đề cập đến nội
dung về lỗi trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, cho đến nay chưa
có một cơng trình khoa học nghiên cứu một cách độc lập, chuyên sâu, đánh giá toàn


4
diện từ các quy định của pháp luật đến thực tiễn áp dụng về nội dung “Lỗi của bên
bị thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng”.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Làm rõ những vấn đề lý luận cốt lõi về lỗi của bên bị thiệt hại trong trách
nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
Phân tích những hạn chế, bất cập của quy định pháp luật về lỗi của bên bị
thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng và đề xuất các giải pháp
hoàn thiện cụ thể các quy định này. Đồng thời, phân tích thực tiễn áp dụng cũng
như nguyên nhân dẫn đến thực tiễn áp dụng các quy định này còn hạn chế trong
thực tế.
Đề xuất một số kiến nghị chung trong việc sửa đổi, bổ sung các quy định về
lỗi của bên bị thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng và một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành các quy định này trong thực tế.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài, phương pháp nghiên cứu
4.1 Giới hạn phạm vi nghiên cứu

- Giới hạn pháp luật: Tác giả chỉ nghiên cứu về lỗi của bên bị thiệt hại trong
trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng trong pháp luật dân sự.
- Lãnh thổ: Tác giả chỉ nghiên cứu trong phạm vi về lỗi của bên bị thiệt hại
trong trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng theo pháp luật Việt Nam.
- Thời gian: Chỉ nghiên cứu trong giới hạn của pháp luật Việt Nam từ giai
đoạn Bộ luật Dân sự 2005 có hiệu lực đến nay, mặc dù trong luận văn có đề cập đến
một số văn bản quy phạm pháp luật trước đây nhưng chỉ nhằm mục đích so sánh,
đối chiếu.
- Vấn đề: Tập trung nghiên cứu về lỗi của bên bị thiệt hại trong trách nhiệm
bồi thường ngồi hợp đồng, khơng nghiên cứu về lỗi của các chủ thể khác.
- Giới hạn: Luận văn không nghiên cứu về vấn đề lỗi của bên bị thiệt hại
trong các lĩnh vực đặc thù như trong pháp luật bảo hiểm, trách nhiệm bồi thường
của Nhà nước, pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
4.2 Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng phương pháp so sánh,
phương pháp lịch sử, phương pháp logic, phương pháp phân tích, phương pháp tổng
hợp, phương pháp thống kê, phương pháp bình luận án.


5
- Phương pháp so sánh, tác giả sử dụng phương pháp này để so sánh quy
định về lỗi của bên bị thiệt hại trong bồi thường ngoài hợp đồng tại Bộ luật Dân sự
(BLDS) năm 1995, BLDS năm 2005, BLDS năm 2015.
Thế mạnh của phương pháp so sánh là giúp cho người đọc có cách nhìn tổng
qt, rõ ràng về nội dung của đề tài và các nội dung liên quan. Do pháp luật dân sự
hiện hành có những quy định về lỗi của bên bị thiệt hại trong bồi thường ngoài hợp
đồng với những đặc điểm gần giống với lỗi của bên bị thiệt hại trong bồi thường
ngoài hợp đồng được ghi nhận trong BLDS năm 1995 và BLDS năm 2005, trên cơ
sở đó tác giả sử dụng phương pháp so sánh nhằm mục đích chỉ ra sự giống và khác
nhau của vấn đề này để làm sáng tỏ nội dung đề tài. Ngoài ra, tác giả sẽ sử dụng

phương pháp so sánh nhằm mục đích so sánh nội dung về lỗi của bên bị thiệt hại
trong bồi thường ngoài hợp đồng với lỗi của bên gây thiệt hại trong bồi thường
ngoài hợp đồng.
- Tác giả cũng sử dụng phương pháp lịch sử vì bằng phương pháp lịch sử
trong bài viết này sẽ giúp người đọc hiểu hơn về lỗi của bên bị thiệt hại trong bồi
thường ngoài hợp đồng trong từng thời kỳ, cụ thể xác địnhlỗi của bên bị thiệt hại
trong bồi thường ngồi hợp đồng có từng được quy định trong các văn bản pháp
luật dân sự trước đây hay không và những quy định này đã tồn tại trong những thời
kỳ nào, chi tiết quy định ra sao? Trên cơ sở đó tác giả sẽ so sánh và phân tích các
quy định về lỗi của bên bị thiệt hại trong bồi thường ngoài hợp đồng trong các giai
đoạn lịch sử trước đây với BLDS năm 2015.
- Phương pháp logic được sử dụng như là một phương pháp song hành với
phương pháp lịch sử nhằm đảm bảo cho việc xem xét và đánh giá vấn đề một cách
toàn diện hơn. Phương pháp logic được vận dụng để phân tích trong chương 1. Cụ
thể là trong phần khái niệm, trên cơ sở tìm hiểu quy định pháp luật, tác giả sử dụng
phương pháp logic để đưa ra khái niệm về lỗi của bên bị thiệt hại trong bồi thường
ngoài hợp đồng theo pháp luật dân sự.
- Phương pháp phân tích được sử dụng phổ biến trong các lĩnh vực nghiên
cứu khoa học pháp lý, để lý giải, phân tích, đánh giá nội dung của các quy phạm
pháp luật đang được sử dụng để hệ thống chúng một cách khoa học và hợp lý, đồng
thời để dự báo cho sự phát triển của các quy phạm đó trong tương lai.
Nhằm giúp người đọc hiểu sâu sắc hơn về những quy định liên quan đến lỗi
của bên bị thiệt hại trong bồi thường ngoài hợp đồng, tác giả sẽ áp dụng phương
pháp này xuyên suốt luận văn, giúp người đọc có cái nhìn chi tiết hơn về lỗi của bên
bị thiệt hại trong bồi thường ngoài hợp đồng. Từ sự phân tích quy định của pháp


6
luật về lỗi của bên bị thiệt hại trong bồi thường ngồi hợp đồng, tác giả sẽ trình bày
quan điểm của cá nhân bằng cách đánh giá, nhận xét sự cần thiết và những vướng

mắc có thể xảy ra trong việc áp dụng chế định này.
- Phương pháp tổng hợp là phương pháp ngược lại với phương pháp phân
tích, nhưng lại hỗ trợ cho phương pháp phân tích để tìm ra cái chung, khái quát
nhất. Tác giả sử dụng phương pháp tổng hợp này để tìm ra được bản chất, quy luật
vận động của đối tượng nghiên cứu.
- Phương pháp thống kê được sử dụng nhằm thu thập, tổng hợp, trình bày số
liệu và tính tốn các đặc trưng của đối tượng nghiên cứu nhằm phục vụ cho quá
trình phân tích, dự đốn để bài viết có sức thuyết phục và sinh động hơn.
- Phương pháp bình luận án giải quyết mối quan hệ giữa pháp luật và xã hội,
tập trung ở vấn đề các quy phạm pháp luật sau khi được ban hành sẽ tác động như
thế nào đến đời sống xã hội và ngược lại, các điều kiện xã hội sẽ ảnh hưởng như thế
nào đến giá trị và hiệu quả của các quy phạm pháp luật.
5. Dự kiến các kết quả nghiên cứu và địa chỉ ứng dụng kết quả nghiên cứu
Trong cơng trình nghiên cứu của mình, tác giả đi sâu phân tích những bất
cập, vướng mắc từ thực tiễn áp dụng pháp luật tại Tòa án để đưa ra những kiến nghị
và định hướng quy định về bồi thường thiệt hại do bên bị thiệt hại có lỗi, nên đề tài
có giá trị tham khảo trong q trình thực thi pháp luật tại Tịa án nhân dân đồng thời
góp phần hồn thiện những quy định của pháp luật trong tương lai.
6. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, bố cục
đề tài gồm hai chương:
- Chương 1. Bên bị thiệt hại có lỗi một phần.
- Chương 2. Bên bị thiệt hại hồn tồn có lỗi.


7

CHƯƠNG 1. BÊN BỊ THIỆT HẠI CÓ LỖI MỘT PHẦN
Lỗi là một trong những yếu tố quan trọng, có ảnh hưởng quyết định tới việc
xác định trách nhiệm bồi thường. Theo từ điển chuyên ngành luật dân sự, thì “lỗi là

thái độ tâm lý của người gây thiệt hại, thể hiện nhận thức và mong muốn của mình
đối với hành vi gây thiệt hại và thiệt hại do hành vi đó gây ra” 1. Ở một góc độ khác,
lỗi khơng chỉ là yếu tố cấu thành2 của trách nhiệm bồi thường thiệt hại liên quan tới
bên gây thiệt hại, mà còn là yếu tố pháp lý liên quan tới bên bị thiệt hại. Khi bên bị
thiệt hại cũng có lỗi, thì vấn đề trách nhiệm bồi thường sẽ được xem xét để đưa ra
hướng giải quyết thích hợp, như có thể giảm mức bồi thường hoặc thậm chí miễn
trừ trách nhiệm bồi thường, tùy theo mức độ lỗi của bên bị thiệt hại ở đây là gì.
Trong BLDS năm 2005, trường hợp bồi thường thiệt hại khi bên bị thiệt hại cũng có
lỗi được xem là một trường hợp bồi thường thiệt hại cụ thể (Điều 617). Đến nay,
theo BLDS năm 2015, việc bên bị thiệt hại có lỗi khơng được xem là một trường
hợp bồi thường thiệt hại cụ thể mà chỉ là một trong những quy định chung, mang
tính nguyên tắc của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng. Sự thay đổi
này có ảnh hưởng cơ bản đối với các quy định liên quan tới bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng trong trường hợp bên bị thiệt hại có lỗi. Chương này khơng nghiên
cứu mọi vấn đề về lỗi, vai trò của lỗi trong việc xác định “trách nhiệm hỗn hợp” 3,
mà chỉ nghiên cứu 03 vấn đề: (i) Căn cứ xác định lỗi một phần của bên bị thiệt hại;
(ii) Ấn định tỷ lệ lỗi của bên bị thiệt hại và các bên liên quan; và (iii) Giảm mức bồi
thường trong trường hợp bên bị thiệt hại có lỗi.
1.1. Căn cứ xác định lỗi một phần của bên bị thiệt hại
Để đánh giá được mức độ lỗi của bên bị thiệt hại, cần phải xác định được
mức độ lỗi đó được xác định theo những căn cứ nhất định. Cách giải quyết vấn đề
trong mục này là tìm hiểu về căn cứ xác định lỗi một phần của bên bị thiệt hại theo
quy định của pháp luật, đồng thời cũng tìm hiểu căn cứ thực tiễn để nắm bắt được
quan điểm xét xử của các thẩm phán về việc xác định lỗi của bên bị thiệt hại là như
thế nào?
1

Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, Nxb. Cơng an nhân dân,
Hà Nội, tr.79.
2

Trước khi có BLDS năm 2015, lỗi là điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường, trừ trường hợp pháp luật có
quy định khác. [Xem thêm: Phạm Kim Anh (2008), Trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại trong pháp luật dân
sự Việt Nam, Luận án tiến sỹ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr.78 – 80]. Hiện nay, lỗi không được xem là
điều kiện bắt buộc của trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp BLDS và luật liên quan có quy định khác.
3
Trước đây, Thơng tư 173-TANDTC ngày 23/3/1972 của TAND tối cao hướng dẫn xét xử về bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng gọi đây là “trách nhiệm hỗn hợp”. Dẫn theo: Trường Đại học Luật Thành phố Hồ
Chí Minh (2013), Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức
– Hội Luật gia Việt Nam, Hà Nội, tr. 480.


8
1.1.1. Chưa áp dụng đúng căn cứ theo quy định của pháp luật: Bên bị thiệt
hại có lỗi trong việc gây thiệt hại
Về mặt lý luận và theo quy định chung, điều kiện làm phát sinh trách nhiệm
bồi thường ngoài hợp đồng thường dựa trên các yếu tố: Có thiệt hại thực tế, hành vi
(hoặc việc)4 gây thiệt hại trái pháp luật, và mối quan hệ nhân – quả giữa hành vi
(việc) gây thiệt hại trái pháp luật với thiệt hại thực tế; trong trường hợp BLDS năm
2015 và luật liên quan có quy định khác, thì cịn địi hỏi có thêm yếu tố lỗi. 5 Theo
đó, lỗi khơng cịn là điều kiện bắt buộc của trách nhiệm, trừ trường hợp luật có quy
định, ví dụ trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người cố ý cho người khác sử dụng
chất kích thích6, trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại của người thi công liên
đới với chủ sở hữu nhà ở, cơng trình xây dựng khác phải bồi thường nếu người thi
cơng có lỗi để cho nhà ở, cơng trình xây dựng khác gây ra thiệt hại7…
Mặc dù vậy, vai trò của lỗi trong việc xác định mức độ lỗi, chia sẻ trách
nhiệm bồi thường, ấn định số tiền bồi thường, giảm trách nhiệm bồi thường khơng
vì thế mà bị suy giảm. Theo quy định của BLDS năm 2015, lỗi vẫn cịn là căn cứ
khơng thể thiếu để xác định trách nhiệm bồi thường trong nhiều trường hợp, đặc
biệt là quy định về trách nhiệm bồi thường khi bên bị thiệt hại có lỗi. Theo đó, khi
“bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì khơng được bồi thường phần thiệt

hại do lỗi của mình gây ra” (khoản 4 Điều 585 BLDS năm 2015). Như vậy, khi đề
cập đến lỗi của bên bị thiệt hại, luật khơng nói về lỗi chung chung, mà khẳng định
rất rõ: Bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại. Sự xác định rõ ràng như vậy
có ý nghĩa pháp lý quan trọng trong việc giới hạn phạm vi tác động của yếu tố lỗi
của bên bị thiệt hại theo những điều kiện nhất định. Trên cơ sở đó, để xác định việc
bên bị thiệt hại bị giảm mức bồi thường tới đâu, cần xác định cả 02 yếu tố: (i) Cả
bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại đều có hành vi gây ra thiệt hại cho bên bị thiệt
hại và (ii) Bên bị thiệt hại có phần lỗi trong việc gây ra thiệt hại này.
Ở điều kiện thứ nhất, thiệt hại thuộc trường hợp thiệt hại do nhiều người
cùng gây ra, trong đó, bên bị thiệt hại cũng là một trong những người tham gia vào
việc gây thiệt hại cho mình. Điều này có nghĩa, ở đây phải có sự tồn tại đồng thời
02 nguyên nhân gây ra thiệt hại, đó là việc bên gây thiệt hại cùng với bên bị thiệt
hại cùng tham gia vào quá trình gây thiệt hại. Nếu thiếu sự tham gia của một bên,
4

Gọi đây là việc gây thiệt hại để chỉ những trường hợp khơng có hành vi gây thiệt hại của chủ thể hoặc hành vi
đó có thể tồn tại dưới dạng không hành động hoặc do yêu cầu của nghĩa vụ bảo đảm an toàn, trách nhiệm
nghiêm ngặt. Ví dụ: Việc nguồn nguy hiểm cao độ, hàng hóa khuyết tật, cây cối, nhà ở, súc vật gây thiệt hại…
5
Khoản 1 Điều 584 BLDS năm 2015.
6
Điều 596 BLDS năm 2015.
7
Điều 605 BLDS năm 2015.


9
thì thiệt hại đó có thể đã khơng xảy ra. Ví dụ: A chạy xe máy khi đang say rượu và
đã tự té ra giữa đường phía trước của xe máy do B lái cùng chiều, vào buổi tối, trên
đoạn đường nơng thơn khơng có gắn đèn đường. B điều khiển xe bị hỏng đèn, cùng

chiều ở phía sau A, với tốc độ cao, nên không phát hiện và tránh kịp thời, đã cán
qua người của A, làm cho A bị thương nặng dẫn đến tử vong sau đó.8Ta thấy, trong
hồn cảnh trên, nếu A khơng say rượu và té ra đường trước đầu xe của B hoặc B
chạy xe đúng vận tốc quy định, xe có đèn chiếu sáng, thì có lẽ thiệt hại đã khơng
xảy ra. Có thể thấy, việc gây ra thiệt hại trong tình huống này là do cả hai bên.
Ở điều kiện thứ hai, bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại. Nếu như
trách nhiệm của bên gây thiệt hại không cần có lỗi trừ trường hợp luật quy định
khác, thì việc miễn trừ hoặc giảm trách nhiệm bồi thường đối với bên bị thiệt hại chỉ
áp dụng khi có dấu hiệu là bên bị thiệt hại có lỗi đối với việc gây thiệt hại. Nếu bên
bị thiệt hại khơng có lỗi hoặc lỗi của họ không liên quan tới việc gây thiệt hại, thì
vấn đề miễn, giảm trách nhiệm bồi thường khơng đặt ra. Có một điểm cần lưu ý,
theo Điều 617 BLDS năm 2005 quy định:“Khi người bị thiệt hại cũng có lỗi trong
việc gây thiệt hại thì người gây thiệt hại chỉ phải bồi thường phần thiệt hại tương
ứng với mức độ lỗi của mình…”. Từ “cũng” ở đây vơ hình chung lại quy định cả
bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại phải cùng có lỗi, trong khi đó, theo BLDS năm
2015, yếu tố lỗi là yếu tố đã bị loại bỏ khi xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại,
trừ trường hợp luật có quy định, vì quá trình áp dụng trên thực tế thiệt hại xảy ra
ngay cả những trường hợp khơng có yếu tố lỗi. Vì vậy, BLDS năm 2015 tiến bộ
hơn đã loại bỏ từ “cũng” trong trường hợp này. Từ điểm này có thể suy rộng ra,
mặc dù khi giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại trong trường hợp bên bị thiệt hại
có lỗi là nói tới nguyên nhân gây ra thiệt hại là cả hai bên, nhưng BLDS năm 2015
không đương nhiên xác định là hai bên cùng có lỗi, mà chỉ cần thiệt hại do hai bên
cùng gây ra, nhưng nếu bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại, thì đủ cơ sở
để xác định có trách nhiệm “hỗn hợp” của các bên đối với thiệt hại xảy ra.
Có thể nói, vấn đề hiểu rõ nội hàm của quy định về giảm, miễn trách nhiệm
bồi thường do bên bị thiệt hại có lỗi địi hỏi phải có yếu tố bên bị thiệt hại có lỗi
trong việc gây thiệt hại. Thực tiễn vấn đề này còn nhiều cách hiểu chưa nhất quán,
và việc áp dụng pháp luật vì thế cũng chưa được thống nhất. Để có cơ sở đưa ra
những giải pháp hợp lý, phần tiếp theo sẽ trình bày về thực tiễn áp dụng liên quan
tới nội dung này.

8

Anh Thế (Dân trí), “Đi xe máy khơng đèn, chẹt chết người vừa bị tai nạn giao thông”,
(truy cập ngày 13/7/2017).


10
1.1.2. Nhầm lẫn về nguyên nhân với điều kiện, nguyên cớ trong thực tiễn xét xử
Như đã phân tích ở trên, điều kiện để xem xét trách nhiệm “hỗn hợp”, đó là
việc bên bị thiệt hại có lỗi. Mặc dù lỗi được coi là một trong những phạm trù pháp
lý quan trọng trong các lĩnh vực trách nhiệm pháp lý, nhưng việc xác định lỗi trong
lý luận và đánh giá lỗi trên thực tế, cũng gặp khơng ít khó khăn.
Trong khoa học pháp lý, có nhiều quan điểm trong nhận thức về yếu tố lỗi.
Theo một nhà nghiên cứu, lỗi phản ánh yếu tố tâm lý của con người, là yếu tố nội
tâm của con người, diễn biến phức tạp và chi phối trực tiếp hành vi của con người.
Hành vi của cá nhân là hệ quả của sự biểu lộ tâm lý của người đó trong một hồn
cảnh, khơng gian và thời gian nhất định9, tức là yếu tố lỗi được đặt trong hồn cảnh
khách quan cụ thể. Có ý kiến cho rằng, lỗi là trạng thái tâm lý của con người có thể
làm chủ, nhận thức được hành vi và hậu quả của hành vi đó 10. Cịn theo các nhà
bình luận, lỗi là thái độ tâm lý hay trạng thái tâm lý của người gây thiệt hại đối với
hành vi. Trạng thái tâm lý này gồm hai yếu tố, đó là lý trí và ý chí. Yếu tố lý trí thể
hiện ở nhận thức thực tại khách quan (nhận thức được hoặc không nhận thức được
mặc dù đủ điều kiện thực tế để nhận thức khả năng gây thiệt hại của hành vi). Yếu tố
ý chí thể hiện năng lực điều khiển hành vi (khả năng kiềm chế hành vi gây thiệt hại
hoặc có khả năng thực hiện hành vi khác phù hợp với pháp luật). 11Theo đó, người
gây thiệt hại bị coi là có lỗi nếu nhận thức được hoặc tuy khơng nhận thức được
nhưng có đủ điều kiện thực tế để nhận thức được tính chất của hành vi và có đủ điều
kiện để điều khiển một hành vi khác khơng gây thiệt hại. Có thể thấy, trong nhận
thức về lỗi, thì rõ ràng có nhiều cách tiếp cận khác nhau, dù cơ bản vẫn xuất phát từ
phương diện tâm lý và nhận thức, thái độ của chủ thể.

Trong thực tiễn, việc xác định tính chất có lỗi của bên bị thiệt hại trong nhiều
trường hợp là khá khó khăn, và giữa Tịa án các cấp vẫn cịn nhiều quan điểm, cách
nhìn khơng hồn tồn đồng nhất. Điều này có thể nhận thấy qua các vụ việc thực
tiễn sau:
Tình huống 01: Nhầm lẫn trong việc xác định ngun nhân gây thiệt
hại: Bình có giấy phép lái xe hợp lệ, điều khiển xe khách từ Đồng Xn (Phú n)
về Tuy Hịa thì Tân xin q giang. Khi xe tiếp tục chuyển bánh, cửa lên xuống của xe
12

9

Phùng Trung Tập (2009), Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản, sức khỏe và tính mạng, Nxb.
Hà Nội, tr.77.
10
Lê Văn Sua (2004), “Vài suy nghĩ về Điều 621 BLDS”, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 11, tr.32.
11
Hồng Thế Liên (chủ biên) (2013), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2005, quyển II, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, tr.715.
12
Phụ lục 01: Bản án số 30/1999/HS-PT ngày 24/3/1999 của TAND tỉnh Phú Yên.


11
khơng đóng. Tân đứng ở bậc lên xuống, phụ xe yêu cầu Tân đứng vào trong vì đứng
ở cửa xe rất nguy hiểm, nhưng Tân không vào. Khi xe chạy đến thị trấn La Hai thì
Tân địi nhảy xuống, nhưng phụ xe và một số khách đi trên xe ngăn và bảo Tân chờ
xe dừng hẳn hãy xuống. Mặc dù vậy, Tân vẫn cứ nhảy xuống khi xe đang chạy và bị
trượt chân ngã vào gầm xe, bị bánh sau cán qua người chết tại chỗ. Tại bản án sơ
thẩm số 02/1999/HS-ST ngày 06/02/1999, TAND huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên
nhận định rằng do việc Võ Vĩnh Bình điều khiển xe khơng đóng cửa xe là đã vi phạm

các quy định về trật tự an tồn giao thơng vận tải và nếu cửa xe đóng khi chạy thì
khơng thể dẫn tới cái chết của Hồ Văn Tân. Tại bản án số 30/1999/HS-PT ngày
24/3/1999, TAND tỉnh Phú Yên lại nhận định ngược lại và cho rằng, chính Tân mới
là người có lỗi tự làm thiệt hại cho mình.
Nhận xét: Cách đánh giá của hai cấp Tòa án khi xét xử vụ án cụ thể này là khác
nhau về nguyên nhân gây tai nạn do đó đã ảnh hưởng trực tiếp đến việc xác định trách
nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự về bồi thường thiệt hại giữa các bên. Ở đây, cấp
sơ thẩm đã có sự nhầm lẫn nguyên nhân gây ra thiệt hại, nên quyết định về phần trách
nhiệm dân sự trong vụ án này chưa chuẩn xác. Tòa cấp tỉnh đánh giá lỗi và nguyên
nhân gây thiệt hại khá chính xác khi cho rằng “mặc dù hành vi khơng đóng cửa xe khi
chạy là vi phạm các quy định về trật tự an tồn giao thơng, song đây không phải là
nguyên nhân trực tiếp gây ra cái chết của Hồ Văn Tân, bởi lẽ Tân là người có đủ năng
lực hành vi. Khi lên xe, Tân đã được phụ xe yêu cầu vào ghế ngồi và khi muốn xuống
xe lại tự ý nhảy xuống mặc dù phụ xe đã ngăn cản vì xe đang chạy”.
Tình huống 02: Xác định nguyên nhân và lỗi gây ra thiệt hại chưa
đúng: Hảo đang lái xe mơ tơ chở ơng Minh thì gặp tốp 03 người nắm tay hàng
ngang đi dưới lòng đường, Hảo lách xe về bên trái theo hướng lưu hành để tránh thì
va chạm với Tuyến đang điều khiển mô tô lưu thông theo chiều ngược lại. Tai nạn
xảy ra làm bị thương cho Hảo (tỷ lệ 22%), ông Minh (17%), Tuyến (12%). Lúc tai
nạn, trong người Tuyến có nồng độ cồn vượt mức quy định (án không xác định
lượng cồn cụ thể). Cấp sơ thẩm (Tp. Tuy Hòa) xác định các bên đều có lỗi, nên
buộc Tuyến bồi thường 50% tổn thất cho bên bị thiệt hại. Cấp phúc thẩm xác định
nguyên nhân gây ra thiệt hại “là do Hảo lách tránh người, vượt trái lên phía trước,
lấn đường của phương tiện ngược chiều. Còn Tuyến mặc dù có nồng độ cồn trong
người khi lưu thơng, nhưng đây chỉ là lỗi hành chính, khơng phải là ngun nhân
gây ra tai nạn… (và) Tuyến khơng có lỗi trong vụ tai nạn này”.
13

13


Phụ lục 02: Bản án dân sự phúc thẩm số 60/2012/DSPT ngày 25/9/2012 của TAND tỉnh Phú Yên, về
“Tranh chấp bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra”.


12
Nhận xét: Cả hai cấp Tịa án khơng nhất qn trong việc xác định nguyên
nhân và lỗi của các bên trong việc gây thiệt hại. Cấp sơ thẩm cho rằng cả hai bên có
lỗi. Cấp phúc thẩm cho rằng, việc bị đơn (Tuyến) tuy đang lái xe mô tô và trong
người có nồng độ cồn vượt quá mức quy định, nhưng đây là lỗi hành chính, chứ
khơng phải là ngun nhân gây ra thiệt hại. Đánh giá của cấp phúc thẩm là thuyết
phục, vì ở đây, bị đơn tuy có sử dụng bia rượu khi lái xe, nhưng có giấy phép lái xe
đúng quy định, và cũng khơng có bằng chứng cho thấy bị đơn đã chạy sai làn đường
hoặc chạy quá tốc độ cho phép, hoặc đã vi phạm các quy định liên quan đến việc điều
khiển phương tiện cơ giới đường bộ theo quy định của pháp luật về giao thông đường
bộ. Tai nạn giao thông không khởi phát từ Tuyến mà ở đây là do bên bị thiệt hại
(Hảo) gây ra. Cũng vì thế, có thể nói rằng, cấp sơ thẩm đã đánh giá không đúng
nguyên nhân gây thiệt hại.
Có thể thấy, trong cả hai tình huống 1 và 2, cả hai cấp Tịa có sự nhìn nhận
khác nhau về nguyên nhân và lỗi trong việc gây thiệt hại. Tính phổ biến trong hai
vụ án này cho thấy cấp sơ thẩm đánh giá chưa chính xác nguyên nhân gây ra thiệt
hại. Đây là hiện tượng cần được nghiên cứu, đưa ra hướng xử lý nhằm hạn chế sai
sót tương tự.
Tình huống 03: Khơng phân biệt được lỗi gây thiệt hại với nguyên cớ dẫn
đến sự xô sát, gây thiệt hại:14Ngày 16/5/2015, ông Hưng và ông Sanh xảy ra xô sát,
đánh nhau xuất phát từ việc ông Hưng có hành vi đập bể trụ đá mà ơng Sanh chôn
làm mốc ranh giới giữa hai thửa ruộng của hai bên. Hậu quả, ông Sanh ném đá làm
trúng đầu ông Hưng, thương tích 3%, nhưng Cơng an huyện Long Đất có quyết
định khơng khởi tố vụ án hình sự do khơng đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Ơng
Hưng đã kiện ơng Sanh địi bồi thường thiệt hại về sức khỏe. Tại bản án số
03/2012/DSST ngày 22/01/2012 của TAND huyện Long Đất - cấp sơ thẩm, tuyên

thiệt hại của ông Hưng có phần lỗi của ơng Hưng, vì đã đập trụ đá cột mốc của ơng
Sanh. Do đó, sau khi xác định khoản thiệt hại phát sinh được công nhận là
3.188.000 đồng (số trịn) và chỉ buộc ơng Sanh bồi thường 50% mức thiệt hại. Cấp
phúc thẩm cho rằng, nhận định của Tịa cấp sơ thẩm là khơng có căn cứ, vì kết quả
điều tra tại cơ quan Cơng an xác định ơng Sanh có ném cục đá vào đầu ông Hưng,
đây là hành vi trái pháp luật, hậu quả làm ơng Hưng bị thương tích. Vì vậy, cần
buộc ơng Sanh phải bồi thường tồn bộ thiệt hại cho ơng Hưng mới đúng.

14

Phụ lục 03: Bản án số 19/2016/DS-PT ngày 15/4/2016 của TAND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu về “Bồi thường
thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm”.


13
Nhận xét: Trong vụ án này, quan điểm của hai cấp Tịa là chưa nhất qn.
Có thể thấy, cả hai cấp đều chưa làm rõ được, liệu việc ông Hưng đào trụ đá ranh
đất, dẫn đến việc các bên cự cãi, xơ sát có phải là lỗi của ơng Hưng trong việc gây
thiệt hại hay không? Thiết nghĩ, nếu không chứng minh được việc ơng Hưng có lỗi
trong việc gây ra thiệt hại cho mình, thì khơng thể tun ơng Sanh chỉ bồi thường ½
mức thiệt hại, mà phải tuyên ông Sanh bồi thường toàn bộ, như quan điểm của cấp
phúc thẩm mới thuyết phục. Việc đào trụ đá và cãi cọ chỉ có thể được xem là
“nguyên cớ” dẫn đến gây thiệt hại chứ không phải là nguyên nhân. Có thể nói, việc
khơng phân biệt được lỗi gây thiệt hại với nguyên cớ dẫn đến việc gây thiệt hại là
khá phổ biến. Điều này cần có sự điều chỉnh, hướng dẫn để việc áp dụng pháp luật
trở nên nhất qn và chính xác.
Có thể nói, tuy thực tiễn xét xử khơng phải lúc nào cũng đánh giá chính xác,
nhưng điều đáng nói là nhiều Tịa thường hay có sự nhầm lẫn, thậm chí là nhầm lẫn
đến mức phổ biến trong việc xác định các điều kiện này. Điều này rất cần có những
giải pháp để thay đổi, cải thiện tình hình. Tiểu mục tiếp theo sẽ giải quyết vấn đề này.

1.1.3. Kiến nghị hoàn thiện
Các vụ việc thực tiễn nêu ở mục trên cho thấy, nhiều Tịa án có sự nhầm lẫn
trong việc đánh giá về sự tồn tại lỗi của bên bị thiệt hại cũng như xem lỗi của bên bị
thiệt hại với tính chất là “nguyên cớ”, yếu tố tác động tới thái độ ứng xử của bên
gây thiệt hại với “nguyên nhân” và với tính chất là sự kiện, hiện tượng gây ra hệ quả
thiệt hại. Điều này có thể là do thói quen xem xét căn cứ để giảm mức trách nhiệm
trong pháp luật hình sự của bên gây thiệt hại (tình tiết giảm nhẹ) hoặc cũng có thể là
đánh giá chưa đúng bản chất của vấn đề, hoặc thậm chí là chưa có sự nhận thức
đúng đắn về mối quan hệ nhân quả giữa lỗi gây ra thiệt hại cho bản thân với lỗi
không liên quan tới thiệt hại.
Chính vì sự thiếu sót này làm giảm chất lượng của các phán xử liên quan,
làm cho việc áp dụng pháp luật trở nên thiếu nhất quán, từ đó, gây mất niềm tin xã
hội về hoạt động tư pháp.
Kiến nghị (thứ nhất): Để giải quyết vấn đề này, tác giả kiến nghị Hội đồng
thẩm phánTAND tối cao cần tiến hành đồng thời cả hai việc sau:
(i) Cần tiếp tục ban hành Nghị quyết thay thế Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP
ngày 08/7/2006 hướng dẫn về trường hợp bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng,
trong đó cần giải thích rõ sự khác nhau giữa nguyên nhân với nguyên cớ và điều
kiện, để từ đó ấn định chủ thể chịu trách nhiệm chỉ có thể là bên gây thiệt hại.


14
(ii) Cần chọn lọc các bản án, quyết định có tình tiết tương tự với hồn cảnh
được đề cập để xây dựng thành án lệ làm định hướng cho việc xét xử những vụ việc
liên quan. Theo cách tiếp cận này, tác giả xin được đề xuất cần lấy vụ việc sau đây
làm dữ liệu nghiên cứu, xây dựng án lệ. Cụ thể:
Tình huống 04: Ngày 13/9/2003, bà Trần Thị Hộ đã bị bà Nguyễn Huệ Lan
đánh vào mặt gây thương tích ở mắt trái làm cho bà Hộ bị loét giác mạc mắt trái và
phải khoét bỏ nhãn cầu mắt trái. Bà Lan bị Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xử 03
năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Về Dân sự, Tịa cấp sơ thẩm và cả cấp phúc

thẩm đều xác định bà Hộ có lỗi trước khi buộc bà Lan bồi thường cho bà Hộ, vì
trước khi bị bà Lan đánh, bà Hộ đã gây sự, chửi bới, nhục mạ ông Bảo (chồng bà
Lan). Cấp giám đốc thẩm khẳng định bà Hộ có lỗi, nhưng khơng liên quan đến việc
gây ra thiệt hại. Theo Tịa giám đốc thẩm: “Việc bà Hộ chửi gia đình ơng Bảo
khơng phải lỗi trực tiếp gây ra thương tích cho bà Hộ, sự việc đó chỉ là nguyên cớ
gây ra vụ đánh, chửi nhau, thông thường chỉ áp dụng đánh giá khi lượng hình đối
với bị cáo trong vụ án hình sự. Việc Tịa án hai cấp sơ – phúc thẩm cho rằng bà Hộ
phải chịu 20% lỗi là thiếu căn cứ.”15
Nhận xét: Có thể thấy trong vụ án này, quyết định giữa Tịa án các cấp đã có
sự đối lập, khơng có sự thống nhất với nhau trong việc xem xét mối quan hệ nhân
quả trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Nguyên nhân của sự đối lập này là
do khơng có quy định cụ thể nào để thống nhất cách đánh giá, các trường hợp về
mối quan hệ nhân quả trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Tòa sơ thẩm và Tòa phúc thẩm xác định bà Hộ có một phần lỗi trong vụ án
và buộc bà Hộ phải chịu 20% chi phí thiệt hại là chưa thật sự hợp lý. Bà Hộ và bà
Lan đã xảy ra tranh cãi, vụ tranh cãi đó tác động dẫn đến việc đánh nhau. Tuy
nhiên, không thể xem việc tranh cãi giữa bà Hộ và bà Lan là nguyên nhân gây ra
thiệt hại cho bà Hộ. Nếu như bà Lan rơi vào trường hợp mất năng lực hành vi dân
sự, do sự tác động của bà Hộ nên mới có hành vi đánh người thì mới xem việc tranh
cãi giữa hai bà là nguyên nhân gây ra thiệt hại. Trong vụ án này, bà Lan có đầy đủ
năng lực hành vi dân sự, hành vi đánh người là sự lựa chọn dựa theo ý chí của bà
Lan. Bà Lan hồn tồn có sự lựa chọn khác là hịa giải thay vì xơng tới đánh bà Hộ.
Tuy nhiên, bà Lan đã đánh bà Hộ gây thương tích nên có thể kết luận rằng hành vi
trái pháp luật của bà Lan chính là nguyên nhân gây ra thiệt hại cho bà Hộ.

15

Phụ lục 04: Xem Quyết định giám đốc thẩm số 226/2012/DS-GĐ, ngày 22/5/2012 của Tòa Dân sự TAND tối cao, về “Bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm”.



15
Như vậy, trong vụ án này, đã phát sinh một vấn đề cần được chú trọng: Phân
biệt giữa nguyên nhân gây ra thiệt hại và điều kiện tác động đến thiệt hại. Giữa hành
vi đánh người của bà Lan với thương tật của bà Hộ đã xuất hiện mối quan hệ nhân
quả trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Hành vi trái pháp luật của bà Lan đã
trực tiếp tác động đến bà Hộ, làm cho bà Hộ bị thiệt hại về sức khỏe. Đối với việc
tranh cãi giữa bà Hộ và bà Lan chỉ có thể xem đó là điều kiện tác động, là “chất xúc
tác” dẫn đến thiệt hại xảy ra. Vì việc cãi nhau giữa bà Lan và bà Hộ chỉ có thể tác
động đến bản thân bà Lan, ảnh hưởng một phần trong quyết định lựa chọn giải
quyết vấn đề của bà Lan; nếu xem việc tranh cãi là ngun nhân thì đó chỉ có thể là
nguyên nhân dẫn đến việc đánh nhau chứ không là nguyên nhân trực tiếp gây ra
thiệt hại cho bà Hộ.
Phủ nhận hướng xử lý của hai Tòa cấp dưới, Tòa giám đốc thẩm cho rằng, bà
Hộ khơng có lỗi gây ra thiệt hại cho chính mình. Lập luận của Tịa giám đốc thẩm là
hợp lý, thỏa mãn với yếu tố mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và
thiệt hại xảy ra. Tác giả cho rằng, Quyết định giám đốc thẩm nói trên là rất thuyết
phục, phù hợp với lý luận và pháp luật thực định, thể hiện và phân biệt rõ ràng giữa
nguyên cớ và nguyên nhân. Cần có án lệ hoặc giải thích: Ngun cớ (hình sự - có
thể giảm mức hình phạt), cịn dân sự thì ai gây ra thiệt hại gì, người đó có trách
nhiệm bồi thường thiệt hại đó, cụ thể: Người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm đối
với thiệt hại do mình gây ra, khơng bồi thường hoặc khơng chịu trách nhiệm đối với
những thiệt hại khơng phải do mình gây ra.
Nội dung án lệ cần hướng dẫn là:
+ Việc giảm mức bồi thường đối với trường hợp bên bị thiệt hại có lỗi chỉ áp
dụng khi xác định được hành vi có lỗi của bên bị thiệt hại cũng là một phần nguyên
nhân gây ra thiệt hại cho chính bên bị thiệt hại;
+ Nếu hành vi có lỗi của bên bị thiệt hại không phải là nguyên nhân (mà chỉ
là yếu tố tác động tới thái độ ứng xử, sự kích động về tinh thần của chủ thể, vì thế
mà chủ thể đã hành xử trái pháp luật gây ra thiệt hại, thì Tịa án cần xem đó chỉ là
“nguyên cớ” hay “điều kiện” chứ không phải là nguyên nhân gây ra thiệt hại), thì

bên bị thiệt hại khơng bị giảm mức bồi thường thiệt hại.
1.2. Căn cứ ấn định tỷ lệ lỗi của các bên chủ thể
Để ấn định tỷ lệ lỗi của các bên trong trong trường hợp bên bị thiệt hại có lỗi,
thì BLDS năm 2005 và Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP quy định căn cứ vào mức độ


16
lỗi của mỗi bên.16So với BLDS năm 2005, quy định này trong BLDS năm 2015 về
cơ bản không thay đổi. Ở đây, chỉ có sự điều chỉnh nhỏ: Bồi thường thiệt hại do
người bị thiệt hại khơng cịn là một trường hợp bồi thường cụ thể như trong BLDS
năm 2005, mà được đưa về thành nguyên tắc chung của chế định bồi thường thiệt
hại ngồi hợp đồng.17Điều đáng nói là, cả BLDS năm 2005, Nghị quyết
03/2006/NQ-HĐTP cũng như BLDS năm 2015 đều khơng có quy định thế nào là
“mức độ lỗi”. Từ đó có thể thấy rằng, việc xác định “mức độ lỗi” của bên bị thiệt
hại làm căn cứ ấn định tỷ lệ lỗi và mức bồi thường thiệt hại trong trường hợp này là
điều cực kỳ khó khăn. Theo tác giả luận văn, việc xác định mức độ lỗi hiện nay còn
nhiều quan điểm chưa thống nhất, và cũng chưa có quy định cụ thể. Có thể xem xét
hai căn cứ sau đây để xét “mức độ lỗi” của mỗi bên:
1.2.1. Dựa vào mặt chủ quan của các bên chủ thể trong việc gây thiệt hại
Trong lý luận, vấn đề xác định “mức độ lỗi của mỗi bên” cũng cịn nhiều
quan điểm chưa nhất qn. Có ý kiến cho rằng, pháp luật cần có quy định căn cứ
vào “mức độ lỗi” của các bên (nhất là mức độ lỗi của bên bị thiệt hại) để xác định
mức thiệt hại được bồi thường. Theo đó, “mức độ lỗi” của mỗi bên là cơ sở để xác
định mức bồi thường thiệt hại trong trường hợp bên bị thiệt hại cũng có lỗi gây ra
thiệt hại.18 Quan điểm này chưa thuyết phục vì cịn thiếu những lập luận hợp lý và
lại quá chú trọng vào lỗi – mặt chủ quan của bên bị thiệt hại. Quan điểm khác lại
cho rằng, khi đề cập đến “mức độ lỗi” của bên bị thiệt hại, thì thường tồn tại yếu tố
có lỗi của bên gây thiệt hại, lẫn bên bị thiệt hại. Theo đó, “những người phải bồi
thường thiệt hại trong trường hợp người bị thiệt hại cũng có lỗi trong việc gây thiệt
hại bao gồm: Bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại. Mức độ bồi thường phụ thuộc

vào mức độ lỗi của từng người…”.19Quan điểm này cũng chưa hoàn toàn thuyết
phục, vì đánh giá mức độ lỗi trên cơ sở xác định phải có lỗi của bên gây thiệt hại
cùng với lỗi của bên bị thiệt hại, trong khi thực tế, khơng phải việc gây thiệt hại nào
cũng có lỗi của bên gây thiệt hại, vì có thể thiệt hại bị gây ra khơng cần có lỗi của
bên gây thiệt hại, như trường hợp thiệt hại bị gây ra bởi sản phẩm có khuyết tật,
nguồn nguy hiểm cao độ…

16

Điều 617 BLDS năm 2005; điểm b, tiểu mục 2.2, mục I Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006.
Khoản 2 Điều 584; khoản 2, 4 và 5 Điều 585 BLDS năm 2015.
18
Lâm Thị Mỹ Lộc (2008), Yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng, Khóa luận tốt
nghiệp cử nhân luật, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 27-28.
19
Ban Biên tập Tạp chí Tịa án nhân dân, “Về bồi thường thiệt hại trong trường hợp người bị thiệt hại có lỗi”,
Tạp chí Tịa án nhân dân, số 04, tháng 02/2006, tr. 12- 14.
17


17
Theo một học giả, pháp luật Việt Nam chưa có quy định cụ thể về mức độ
lỗi. Cũng theo quan điểm này, mức độ lỗi trong trường hợp này được xác định dựa
trên những cơ sở lý luận pháp luật hình sự trong việc phân biệt mức độ lỗi vơ ý vì
cẩu thả, vơ ý vì q tự tin của một bên mà gây ra thiệt hại thì tương ứng với nó mức
bồi thường thiệt hại có khác nhau.21Ngồi ra, học giả này cịn phân tích về mối liên
hệ giữa lỗi vô ý của bên gây thiệt hại và lỗi cố ý của bên bị thiệt hại có ảnh hưởng
như thế nào đến việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của các bên. Và, giải
đáp những vấn đề nêu ra ở trên, cần tuân theo những nguyên tắc sau đây: 22(a) Nếu
thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại cho dù lỗi đó là vô ý hay cố ý,

mà bên gây thiệt hại hồn tồn khơng có lỗi thì bên gây thiệt hại không phải bồi
thường. Trường hợp này phù hợp với việc gây thiệt hại trong tình huống bất ngờ;
(b) Bên gây thiệt hại có lỗi vơ ý và bên bị thiệt hại cũng có lỗi vơ ý trong việc gây ra
thiệt hại thì trách nhiệm này là trách nhiệm hỗn hợp; (c) Bên gây thiệt hại có lỗi vơ
ý, bên bị thiệt hại có lỗi cố ý thì bên gây thiệt hại không phải bồi thường.
20

Về mặt pháp lý, việc xác định thế nào là “mức độ lỗi” là điều khó khăn vì
khơng có tiêu chí, căn cứ pháp lý cụ thể. Trước đây, Thông tư 173/UBTP ngày
23/3/1972 của Ủy ban thẩm phán - TAND tối cao về “hướng dẫn xét xử về bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng” xác định về trách nhiệm bồi thường do “lỗi hỗn
hợp” như sau: “Nếu người gây thiệt hại và người bị thiệt hại đều có lỗi, mà lỗi của
người bị thiệt hại là vơ ý nặng, thì Tịa án xác định trách nhiệm hỗn hợp và chỉ
buộc người gây thiệt hại chịu trách nhiệm bồi thường phần thiệt hại tương đương
với phần lỗi của mình. Nếu lỗi của người bị thiệt hại là vơ ý nhẹ, thì khơng có trách
nhiệm hỗn hợp mà người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm về toàn bộ thiệt hại”.
Còn theo các BLDS trước đây và BLDS năm 2015 của Việt Nam hiện nay, khơng
có quy định nào về “mức độ lỗi”. Nội dung này cũng không được tìm thấy trong các
văn bản hướng dẫn về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Việc thiếu
cơ sở pháp lý như vậy dẫn đến sự khó khăn trong thực tiễn xét xử khi xác định mức
độ lỗi của mỗi bên trong việc ấn định trách nhiệm bồi thường. Có lẽ vì thế, trong
thực tiễn xét xử, việc xác định mức độ lỗi làm cơ sở cho việc xác định mức bồi
thường trong trường hợp này hoàn toàn phụ thuộc vào sự thẩm lượng của thẩm
phán và cơ quan xét xử. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến việc đánh giá về mức độ

20

Phùng Trung Tập (2005), “Cần hoàn thiện chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong dự thảo Bộ
luật Dân sự”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 04, tr. 29.
21

Phùng Trung Tập (2004),“Lỗi và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”, Tạp chí Tịa án nhân
dân, số 10, tr. 4.
22
Phùng Trung Tập (2004), tlđd số 21, tr. 5.


18
lỗi trong thực tiễn gặp rất nhiều khó khăn và các cấp Tòa án đưa ra nhiều phán
quyết thiếu nhất qn, thậm chí có sự trái ngược hồn tồn.
Trong thực tiễn, có những trường hợp việc đánh giá mức độ lỗi của các bên dựa
vào mặt chủ quan của chủ thể sẽ rất khó khăn và nhiều khi chỉ là nhận thức cảm tính.
Tình huống 05: Ngân và Trung có mâu thuẫn dẫn đến xô sát. Trong lúc gây
gổ, Ngân nắm lấy cổ vỏ chai nước ngọt bằng thủy tinh đập vỡ phần thân, rồi cầm cổ
chai vỡ tiến đến rượt đuổi tấn công Trung. Thấy vậy, Trung hoảng sợ bỏ chạy được
10 mét thì bị vấp té gãy chân (tỷ lệ thương tật 27%). Trung khởi kiện yêu cầu Ngân
bồi thường thiệt hại về sức khỏe.23 Tòa án cho rằng các bên đều có lỗi vơ ý, nhưng
Ngân có lỗi 70%, cịn Trung có lỗi 30%, nhưng khơng lý giải tại sao lại kết luận
như vậy.
Nhận xét: Tòa kết luận như trên là khơng chuẩn xác. Xét về tính chất của hành
vi, thì hai bên có mâu thuẫn, cự cãi, Ngân dùng vật nguy hiểm rượt đuổi, đe dọa tấn
cơng, làm Trung hoảng sợ mà bỏ chạy, đó là cách hành xử bình thường. Việc Trung
bỏ chạy khơng phải là hành vi trái pháp luật. Đó cũng khơng phải là việc Trung có lỗi
gây ra thiệt hại (cho mình). Trái lại, hành vi của Ngân rõ ràng là cố ý (gián tiếp), với
hành vi sử dụng hung khí nguy hiểm tấn công nạn nhân như vậy làm cho Trung
hoảng sợ bỏ chạy và vấp té, dẫn đến bị thương. Đáng lẽ ra, Tòa án phải xem đây là
trường hợp nạn nhân khơng có lỗi trong việc gây thiệt hại mới đúng.
Tình huống 06: La và gia đình gồm Long (chồng), vợ (Siêng) và em vợ (Xêu)
có mẫu thuẫn từ trước, nên La rủ em ruột là Tha cùng cầm dao đến nhà gia đình Long
– Siêng – Xêu gây hấn. La cầm dao chém vào đầu Long (đang đội nón bảo hiểm) hai
nhát, làm Long té xuống đất, nhưng Long cũng kịp đánh vào mặt La 01 cái. Cùng lúc,

Xêu chụp cây tuýp sắt ở gần đó đánh 01 cái vào đầu La, làm La bị thương, La chồm
dậy đánh vào người Xêu. Trong lúc Long và La vật lộn với nhau, Siêng cũng chạy lại
giúp Long đánh La, Siêng đã cắn đứt 01 ngón tay của La.24Tịa án cho rằng các bên
đều có lỗi, nhưng lại xác định La có lỗi 60%, cịn Long và Siêng có lỗi 40%, Xêu có
lỗi 100%, nhưng khơng lý giải tại sao lại chỉ ra tỷ lệ lỗi như vậy.
Nhận xét: Trong vụ án này, Tòa án đã đưa ra nhận xét thiếu cơ sở thuyết
phục, vì đã khơng chỉ ra căn cứ nào để phân định tỷ lệ lỗi như trên. Tác giả cho
rằng, tất cả những người tham gia đều có lỗi cố ý. Tuy nhiên, đáng lẽ phải xem xét
23

Phụ lục 05: Bản án dân sự sơ thẩm số 46/2015/DSST ngày 30/6/2015 của TAND huyện Trảng Bàng, tỉnh
Tây Ninh về “Bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm”.
24
Phụ lục 06: Bản án dân sự sơ thẩm số 22/2015/DSST ngày 04/02/2015 của TAND huyện Tiểu Cần, tỉnh
Trà Vinh về “Bồi thường thiệt hại do sức khỏe, tổn thất tinh thần và thiệt hại về tài sản”.


19
lỗi của La và Tha là rất nặng, vì đã cầm hung khí đến tận nhà của gia đình Long để
tấn công trước. Trước việc bị người khác cầm dao đến tận nhà tìm để chém gây
thương tích, gia đình của Long có quyền phịng vệ, mặc dù việc phịng vệ đó của
Xêu có phần vượt quá. Và Siêng khi thấy Long và La vật nhau, đã không can ngăn
mà cịn xơng vào tấn cơng La, cũng có phần lỗi, nhưng đó là lỗi vượt q u cầu
của phịng vệ chính đáng. Do đó, tác giả cho rằng, La hồn tồn có lỗi đối với thiệt
hại gây ra cho Long; La có lỗi chủ yếu (2/3) x 50% đối với thiệt hại gây ra cho La;
Siêng có lỗi (1/3) x 50% thiệt hại gây ra cho La; Xêu có lỗi 50% thiệt hại gây ra cho
La. Long và Siêng không có lỗi đối với thiệt hại gây ra cho La, vì lúc La tấn cơng
Long, thì bị Xêu dùng tp sắt đánh trúng đầu của La, chứ thương tích của La
khơng phải do Long và Siêng gây ra.
Tóm lại, khi ấn định mức độ lỗi của các bên trong trách nhiệm bồi thường

hỗn hợp, việc đánh giá mức độ lỗi của từng bên nếu chỉ dựa vào duy nhất yếu tố lỗi
chủ quan của từng bên, mà chưa đánh giá đầy đủ nguyên nhân, nguyên cớ, ai là
người khởi xướng việc gây thiệt hại … để đánh giá toàn diện các yếu tố thuộc về
mặt chủ quan thì mới có thể đưa ra phán quyết đúng đắn. Bên cạnh đó, tương quan
về lỗi giữa các bên trong nhiều trường hợp là chưa đủ có thể xác định được mức độ
lỗi của từng bên. Trong trường hợp đó, Tịa án cịn cần phải căn cứ vào các yếu tố
thuộc về mặt khách quan của việc gây thiệt hại.
1.2.2. Dựa vào các tình tiết khách quan của việc gây thiệt hại
Việc xác định mức độ lỗi của các bên nhiều khi không thể dựa vào mặt chủ
quan của chủ thể. Trong nhiều trường hợp, chúng ta phải dựa vào những dấu vết để
lại trên hiện trường, suy luận từ nguyên nhân, hậu quả, tính chất, mức độ tham gia
tác động của mỗi bên đối với việc gây ra thiệt hại trên thực tế, thì mới đánh giá
được mức độ lỗi của mỗi bên. Việc đánh giá mức độ lỗi dựa trên tình tiết để lại tại
hiện trường nhiều khi cũng gặp rất nhiều khó khăn, địi hỏi khả năng nhận thức, sự
đánh giá hiện thực phù hợp với logic vụ việc của người đánh giá. Có thể xem xét
một số vụ việc sau đây:
Tình huống 07: Ơng Vũ điều khiển xe ơtơ 25 chỗ, biển số 53L – 3318, đi về
hướng Bình Long, ông Hùng điều khiển xe môtô biển số 61N4 - 4276 đi ngược chiều,
đồng thời lúc đó có 01 xe buýt đang chạy cùng chiều và phía trước xe ơng Hùng, ơng
Hùng vượt xe bt lên phía trước, thì đụng vào đầu bên trái xe ôtô gây ra tai nạn. Bản
án số 64/2007/DSST ngày 26/9/2007/DSST của TAND huyện Bến Cát xác định hai
bên đều có lỗi, mỗi người phải chịu 1/2 thiệt hại. Tòa cấp phúc thẩm cho rằng, cấp sơ
thẩm chưa làm rõ tình tiết khách quan những gì được thể hiện trong hồ sơ vụ án:


20
“Đường rộng 7,5m; tại vết va chạm giữa hai xe theo hướng xe ơ tơ thì xe ơ tơ lấn
trái; ông Vũ trình bày là xe ô tô buộc phải lấn trái vì đường đang làm...”; và, bản án
sơ thẩm “khơng phân tích làm rõ hai bên vi phạm lỗi gì theo quy định của Luật Giao
thơng đường bộ”, từ đó hủy án sơ thẩm để xét xử lại theo thủ tục chung.25

Nhận xét: Trong vụ án trên, quan điểm của hai cấp Tòa xoay quanh vấn đề:
từ các dấu vết của hiện trường, cần xác định mức độ lỗi của các bên theo tỷ lệ nào,
và căn cứ vào Luật Giao thông đường bộ, các bên đã vi phạm lỗi nào? Thiết nghĩ,
nếu căn cứ vào các tình tiết đã thu thập được, thì cấp phúc thẩm hồn tồn có thể
đánh giá được mức độ lỗi của các bên, khơng phải là lỗi chủ quan (vì thiệt hại xảy
ra cho thấy hai bên đều có lỗi cố ý). Theo tác giả, trong vụ án về tai nạn giao thông,
việc xác định lỗi của mỗi bên đôi khi không chỉ dựa vào lỗi chủ quan, mà thường
phải dựa vào tình tiết khách quan của vụ án, ví dụ những dấu vết cụ thể trên hiện
trường vụ tai nạn cũng như các dấu vết để lại trên phương tiện bị tai nạn. Theo
thông tin ban đầu và dấu vết trên xe, dấu vết hiện trường thì thấy: người chạy xe mơ
tơ đã vượt trái xe buýt, và đụng vào đầu xe ô tô lưu thông chiều ngược lại. Đây là
một lỗi “vượt ẩu” (khoản 11 Điều 6 Luật Giao thông đường bộ). Cịn người điều
khiển ơ tơ lấn sang đường ngược chiều, gây nguy hiểm cho người khác cũng là hành
vi vi phạm điều cấm (vi phạm quy tắc giao thông đường bộ, chạy bên phần đường
ngược chiều - khoản 23 Điều 6 Luật Giao thông đường bộ). Xét thấy cấp sơ thẩm
đánh giá hai bên đều có lỗi, mỗi bên chịu ½ thiệt hại là phù hợp; cấp phúc thẩm hủy
án và yêu cầu xem xét lại mức độ lỗi của các bên chỉ vì cịn nghi ngờ kết luận
đường cịn rộng, hay việc xe ơ tơ lấn trái là tình tiết khách quan, vì đường đang làm.
Thực ra, nếu sơ đồ hiện trường không thể hiện hố đào hoặc nền đường đang hạ để
thi công, mà người lái ô tô nại ra việc đường đang làm, để cấp phúc thẩm chấp nhận
hủy bản án sơ thẩm là chưa có cơ sở thuyết phục.
Khác với quan điểm của Tòa cấp phúc thẩm trong việc trên, trong một vụ án
tương tự dưới đây, khi cấp phúc thẩm hủy án giao về cấp sơ thẩm xét xử lại chỉ vì cấp
sơ thẩm và Cơ quan điều tra chưa kết luận về mức độ lỗi của mỗi bên, nhưng cấp
giám đốc thẩm lại cho rằng, điều này hồn tồn do Tịa án và thẩm phán thẩm xét.
Tình huống 08: Đặng Hồng Cừu và Nguyễn Thanh Mùi (chở mẹ ruột) điều
khiển xe mô tô ngược chiều lấn sang phần đường của nhau, khi hai xe tiến về gần
nhau, cả hai bên định quay lại phần đường của mình nhưng khơng kịp, nên đã gây
ra tai nạn. Điểm đâm là giữa đường. Cả hai xe đều ngã sang phần đường của nhau.
25


Phụ lục 07: Bản án số 17/2008/DSPT, ngày 17/01/2008 của TAND tỉnh Bình Dương về “Yêu cầu bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng”.


×