Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Nhiệm vụ, quyền hạn của viện kiểm sát nhân dân trong xét xử sơ thẩm theo luật tố tụng hình sự nước CHDCND lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 80 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

VISATHEP SINCHAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
ĐỊNH HƢỚNG NGHIÊN CỨU

TP. HỒ CHÍ MNH, NĂM 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

Chun ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Định hƣớng nghiên cứu
Mã số: 8380104

Người hướng dẫn khoa học
Học viên
Lớp

: PGS.TS. Nguyễn Thị Phƣơng Hoa
: Visathep Sinchai
: Cao học Luật, Khóa 30

TP. HỒ CHÍ MNH, NĂM 2020


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan luận văn thạc sỹ với đề tài “Nhiệm vụ, quyền hạn của
viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm theo luật tố tụng hình sự nƣớc Cộng hịa
dân chủ nhân dân Lào” là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi dưới sự hướng dẫn
của PGS.TS. Nguyễn Thị Phƣơng Hoa, đảm bảo tính trung thực và tuân thủ các
quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo. Tơi xin hồn tồn chịu trách
nhiệm về lời cam đoan này.
TP. HCM, ngày

tháng

Tác giả luận văn

Visathep Sinchai

năm 2020


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

Bộ luật hình sự

CTTP

Cấu thành tội phạm

PLHS

Pháp luật hình sự


TNHS

Trách nhiệm hình sự

TTHS

Tố tụng hình sự


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN
CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM THEO LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ NƢỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO ...............8
1.1. Khái niệm và đặc điểm của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ......................... 8
1.1.1. Khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ....................................................8
1.1.2. Đặc điểm và ý nghĩa của xét xử sở thẩm vụ án hình sự ...........................11
1.2. Khái niệm và đặc điểm về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự .............................................................................. 14
1.2.1. Khái niệm nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự ......................................................................................................14
1.2.2. Đặc điểm nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự ...........................................................................................................16
1.3. Cơ sở quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự .............................................................................................. 30
Kết luận chƣơng 1 ...................................................................................................34
CHƢƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ
NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG XÉT XỬ SƠ
THẨM THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ ........................................................35

2.1. Sơ lƣợc lịch sử hình thành quy định của pháp luật tố tụng hình sự Lào về
nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát ............................................................ 35
2.2. Quy định hiện hành của pháp luật tố tụng hình sự Lào về nhiệm vụ,
quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong xét xử sơ
thẩm theo luật tố tụng hình sự............................................................................ 39
2.3. Quy định pháp luật tố tụng hình sự về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện
kiểm sát khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử sơ thẩm theo luật
tố tụng hình sự...................................................................................................... 41
Kết luận chƣơng 2 ...................................................................................................50


CHƢƠNG 3. THỰC TIỄN THỰC HIỆN NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA
VIỆN KIỂM SÁT TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM THEO LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA
VIỆN KIỂM SÁT TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ................51
3.1. Thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong xét xử
sơ thẩm theo luật tố tụng hình sự ....................................................................... 51
3.1.1. Thực tiễn việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực
hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm theo luật tố tụng hình sự ..................51
3.1.2. Thực tiễn việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm
sát việc tuân theo pháp Luật trong xét xử sơ thẩm theo luật tố tụng hình sự ....56
3.1.3. Những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân trong việc thực hiện quyền
và nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự...................59
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát trong xét xử
sơ thẩm theo Luật Tố tụng hình sự .................................................................... 63
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện quy định pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện
kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ......................................................63
3.2.2. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực; nâng cao kỹ
năng của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm hình sự.......................................64
3.2.3. Tiếp tục đổi mới mối quan hệ phối hợp giữa các Viện kiểm sát các cấp

với nhau, giữa Viện kiểm sát với các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự, người
tiến hành tố tụng hình sự ....................................................................................67
3.2.4. Đảm bảo cơ sở vật chất, phương tiện, trang thiết bị cho công tác thực
hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử sơ thẩm 68
Kết luận chƣơng 3 ...................................................................................................70
KẾT LUẬN ..............................................................................................................71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trước yêu cầu khách quan của giai đoạn cách mạng mới, Viện Kiểm sát
Nhân dân (VKSND) Lào là một cơ quan được tổ chức trong bộ máy nhà nước.
VKSND có hai chức năng cơ bản đó là chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật
và chức năng thực hiện quyền công tố chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật
nhằm bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất trong cả
nước. Tờ trình về Luật tổ chức VKSND năm 2017 ghi rõ: “Nhu cầu của cuộc cách
mạng Xã hội Chủ nghĩa (XHCN) đòi hỏi pháp luật phải được chấp hành nghiêm
chỉnh và thống nhất, đòi hỏi một sự nhất trí về mục đích và hành động trong nhân
dân, giữa nhân dân và nhà nước cũng như giữa các ngành hoạt động Nhà nước với
nhau. Nếu không đạt được sự thống nhất trong việc chấp hành pháp luật thì sự
nghiệp xây dựng XHCN sẽ gặp nhiều khó khăn. Vì lẽ đó cần phải tổ chức VKSND
để kiểm sát việc tuân theo pháp luật nhằm giữ vững pháp chế XHCN, đảm bảo cho
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất ”.
Bảo đảm cho pháp chế XHCN được giữ vững là điều cần thiết để tiến hành
cuộc cách mạng XHCN đến toàn thắng. Nghị quyết của Đại hội toàn quốc lần thứ X
của Đảng cũng đã nhấn mạnh: Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm cho VKSND, Tịa
án nhân dân được thực hiện quyền hạn của mình theo đúng Hiến pháp và các luật,
xây dựng pháp chế, pháp huy tinh thần làm chủ, nâng cao trình độ chính trị, văn hóa

của nhân dân. VKSND là một hệ thống cơ quan độc lập tách ra khỏi cơ quan hành
pháp và trực thuộc Quốc hội (cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất). VKSND có
chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật nhằm đảm pháp chế. Chức năng đó của
VKSND được tiếp tục khẳng định trong Hiến pháp 1991, luật tổ chức VKSND năm
1990, Hiến pháp 2003, luật tổ chức Viện kiểm sát 2017, đó là: “VKSND kiểm sát
việc tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố đảm bảo cho pháp luật được
chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”.
Một trong những phương thức bảo đảm cho hiệu quả của tố tụng hình sự
(TTHS) là ngăn ngừa các vi phạm pháp luật trong hoạt động TTHS; bảo đảm việc
xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; bảo đảm quyền tự do dân chủ của
công nhân trong TTHS. Chính vì vậy, trong lĩnh vực TTHS vai trị của VKSND
góp phần quan trọng trong việc ngăn ngừa khơng để vi phạm xảy ra, khắc phục


2
hậu quả khi có vi phạm, khơi phục lại trật tự tố tụng đã bị vi phạm nhằm bảo đảm
pháp chế trong TTHS.
Trước tình hình vi phạm pháp luật trong quá trình TTHS hiện nay diễn ra một
cách phức tạp, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa X đã chỉ ra là: “Chống tình
trạng bắt và giam, giữ sai, xét xử không công minh, vi phạm quyền dân chủ của
cơng dân” đã địi hỏi tồn ngành kiểm sát phải tăng cường hơn nữa công tác thực
hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các hoạt động tố
tụng góp phần bảo đảm việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương X là: “Các
cơ quan tư pháp phải là mẫu mực của việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, phải thể
hiện công lý, tính dân chủ, cơng khai trong hoạt động‟‟.
Hiệu quả thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của VKSND trong xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự theo Bộ luật TTHS hiện nay nhìn chung cịn hạn chế. Một trong
những lý do là giới khoa học pháp lý ở bên Lào cịn ít quan tâm tới việc nghiên cứu
đề tài này. Cho đến nay việc làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn nhiệm vụ và
quyền hạn của VKSND trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự cịn gặp nhiều khó khăn,

vướng mắc. Khơng ít người cịn nhầm lẫn giữa chức năng công tố với chức năng
kiểm sát việc tuân theo pháp luật; phạm vi, đối tượng của các khâu cơng tác hình sự
cịn xác định chưa được thống nhất trong các tài liệu chính thống cơng tác hình sự
ngành kiểm sát nhân dân.
Vì vậy, việc lựa chọn đề tài: “Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân
dân trong xét xử sơ thẩm theo luật tố tụng hình sự nước CHDCND Lào” để
nghiên cứu nhằm góp phần vào việc làm rõ cơ sơ lý luận và thực tiễn của công tác
thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND trong tố
tụng hình sự, cụ thể là trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là cấp bách và cần thiết.
Với lý do đó, tơi đã chọn đề tài này để thực hiện luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề nhiệm vụ quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân theo luật tố tụng
hình sự được các nhà khoa học Xơ Viết quan tâm nghiên cứu những năm 2009 khi
VKSND Xô Viết ra đời dựa trên nguyên lý của V.I. Lenin về pháp chế XHCN.
Tiếp thu các quan điểm của luật gia Xô Viết trước đây, từ những năm 1990 ngành
kiểm sát Lào đã biên soạn tài liệu dưới dạng bài giảng để giảng dạy trong Trường
Trung cấp Luật Viêng Chăn. Hiện nay ở Lào chưa có trung tâm nghiên cứu nhiệm


3
vụ kiểm sát thuộc viện kiểm sát nhân dân đối tối cao. Ngoài ra một số viện kiểm
sát của Lào đã được cử đi tập huấn nghiệp vụ kiểm sát tại Việt Nam như là
Trường Cao đẳng Kiểm sát Hà Nội và Trường bồi dưỡng và đào tạo nghiệp vụ
kiểm sát thành phố Hồ chí Minh.
Tại CHDCND Lào, dù hệ thống pháp luật mới hơn 40 năm xây dựng và phát
triển, nhưng các vấn đề về hoạt động tư pháp, tổ chức, hoạt động của VKSND cũng
như hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật đã được quan tâm nghiên cứu, để
đảm bảo tính minh bạch, vững mạnh của nền tư pháp nước nhà. Trong đó có thể kể
đến các cơng trình tiêu biểu như:
Trường Đại học Quốc gia Lào (2014), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Lào,

NXB Đại học Quốc gia Lào, Viêng Chăn;
Khamkeo Vongxi (2006), So sánh Pháp luật tố tụng hình sự Lào – Thái Lan
về chức năng, nhiệm vụ của VKS, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Cao đẳng Luật
miền Bắc Lào;
ChaKhăm Bupha Livan (2005), Chức năng kiểm sát của VKSNDTC Lào,
Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Lào;
Toong Kao Saynhachit (2008), Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật tố tụng
hình sự Lào về hoạt động kiểm sát của VKSND Lào, NXB Tư pháp, Viêng Chăn;
Xoom Khay Phumavong (2010), “Chức năng của VKS trong tố tụng hình
sự”, Tạp chí Kiểm sát,
Qua tìm hiểu về vấn đề này, tác giả nhận thấy, có khá nhiều cơng trình khoa
học ở Việt Nam đề cập đến vấn đề này, bước đầu tập hợp được một số cơng trình
tiêu biểu sau:
- Luận án tiến sĩ Luật học, Quyền công tố ở Việt Nam của Lê Thị Tuyết Hoa,
(2005). Đã đề cập đến những vấn đề lý luận về vấn đề quyền công tố ở một số nước
trên thế giới và trong TTHS ở Việt Nam và thực trạng tổ chức thực hành 3 quyền
công tố trong TTHS ở Việt Nam và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về
hoạt động cơng tố ở trước Tịa án;
- Lê Lan Chi (2005), Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
-Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học
Quốc gia Hà Nội;


4
- Luận văn thạc sỹ Luật học, Chức năng thực hành quyền công tố của Viện
kiểm sát nhân dân (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Nông) của Lê
Thanh Hưng (2015). Đã đề cập một số vấn đề lý luận cơ bản về quyền công tố trong
TTHS. Đánh giá thực trạng thực hành quyền công tố ở địa bản tỉnh Đăk Nông và
đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố;
- Luận văn thạc sỹ Luật học, Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử

sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn huyện Hồi Nhơn, tỉnh Bình Định, của Nguyễn
Hữu Phước (2016). Đã đề cập đến một số vấn đề lý luận về quyền công tố và thực
hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, đánh giá thực
trạng vấn đề này tại địa phương huyện Hồi Nhơn, tỉnh Bình Định và đề xuất một
số giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả hơn nội dung này tại địa phương;
- Phạm Thu Trang (2017), Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
về kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành
phố Hải Phòng, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội;
Ngồi ra, cịn có các cơng trình nghiên cứu là sách, đề tài khoa học cấp bộ,
bài viết…liên quan đến các nội dung của luận văn như:
Sách, “Một số vấn đề về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động
điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp”, của
Nguyễn Hải Phong chủ biên, Nxb Tư Pháp 2013;
Trần Văn Độ (2004), “Một số vấn đề về hoạt động tư pháp và kiểm sát hoạt
động luật pháp ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Luật học, số 2/2004;
Nguyễn Minh Đức (2006), “Về chức năng, nhiệm vụ của VKS theo tinh thần
cải cách tư pháp”, Tạp chí Kiểm sát, số 9/2006;
Khuất Văn Nga (2005), “Những chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về cải
cách tư pháp tổ chức hoạt động của VKSND trong thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Kiểm
sát, số 15/2005;
Đỗ Văn Đương (2006), “Cơ quan thực hành quyền công tố trong cải cách tư
pháp ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Kiểm sát, số 4/2006;
Phạm Mạnh Hùng (2007), “Hoàn thiện các quy định của BLTTHS về quan
hệ giữa VKS và CQĐT trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Kiểm sát, số 2/2007;
Phạm Mạnh Hùng (2007), “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của việc khởi tố
vụ án và kiểm sát việc khởi tổ vụ án”, Tạp chí Kiếm sát, số Tân Xuân, 2/01-2007;


5
Nguyễn Tiến Sơn (2009), “Phân biệt thực hành quyền công tố và kiểm sát

các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Kiểm sát, số 09, tháng
5/2009;
Lê Hữu Thể (2012), “Một số đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định về VKS
trong Hiến pháp năm 1992”, Tạp chí Kiểm sát, Số Xuân tháng 01/2012;
Vũ Gia Lâm (2013), “Hoàn thiện một số quy định của BLTTHS nhằm nâng
cao hiệu quả trong hoạt động của VKSND trong kiểm sát việc khởi tổ vụ án hình
sự”, Tạp chí Kiểm sát, sô 07, tháng 4/2013;
Nguyễn Như Hùng (2014), “Những quy định về kiểm sát hoạt động tư pháp
trong dự thảo Luật tổ chức VKSND (sửa đổi)”, Tạp chí Kiểm sát, số 04, tháng
02/2014;....
Các cơng trình nghiên cứu trên với những cách tiếp cận khác nhau, đã làm rõ
một số vấn đề liên quan trực tiếp và gián tiếp đến các vấn đề lý luận, thực tiễn cũng
như định hướng, giải pháp giải quyết vấn đề liên quan đến đề tài. Một số cơng trình
nghiên cứu đã tập trung vào nội dung thực hành quyền công tố của VKSND trong
giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại một số địa phương cụ thể, và đề xuất các
giải pháp gắn liền với điều kiện kinh tế, xã hội của địa phương đó. Tuy nhiên, hiện
nay chưa có cơng trình nghiên cứu nào nghiên cứu về vấn nhiệm vụ và quyền hạn
của Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo Bộ luật TTHS nước
CHDCND Lào. Tác giả nhận thấy, thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật của VKSND trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự cần tiếp
tục được làm rõ thêm một số vấn đề, đặc biệt là trong quá trình thực thi Bộ luật
Hình sự 2017 và Bộ luật Tố tụng hình sự 2019, cũng như yêu cầu thực hiện chiến
lược cải cách tư pháp hiện nay. Các kết quả nêu trên sẽ được tác giả tiếp tục kế thừa
có chọn lọc, vận dụng hợp lý vào các nội dung cụ thể của luận văn. Do vậy, việc
nghiên cứu về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
theo luật TTHS nước CHDCND Lào là rất cần thiết, cần làm rõ mối quan hệ của
chức năng công tố với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS,
đánh giá khái quát những tồn tại, thiếu sót của hoạt động kiểm sát việc tuân theo
pháp luật của VKSND trong tố tụng hình sự trong thời gian quatrên cơ sở đó sẽ đưa
ra các giải pháp để tiếp tục tăng cường hoạt động này nhằm đáp ứng được yêu cầu

của các địa phương trên cả nướcvà tiến trình cải cách tư pháp hiện nay.


6
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm
sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo pháp luật trong tố tụng hình sự Lào.
Đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả của việc thực hiện nhiệm
vụ quyền hạn của Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ theo luật tố tụng hình sự.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu và phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
4.1. Phạm vi nghiên cứu
Đây là một đề tài rộng gồm nhiều nội dung, nên trong phạm vi của một luận
án thạc sĩ, tôi chỉ đề cập đến công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, khơng nghiên cứu đến các công
tác kiểm sát khác và kiểm sát chung.
4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được trình bày trên quan điểm nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, các cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về nhà
nước và pháp luật. Phương pháp này cho phép tác giả nhận thức rõ hơn về bản chất
của nhiệm vụ quyền hạn của viện kiểm sát nhân dân theo luật tố tụng hình sự Lào.
Ngồi ra, luận văn cịn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như
phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, phương pháp lịch sử, phương
pháp thống kê. Việc sử dụng các phương pháp này cho phép tác giả nhìn nhận, xem
xét và đánh giá vấn đề từ nhiều góc độ khác nhau để có cái nhìn tồn diện, khách
quan và sâu sắc vấn đề mà mình nghiên cứu.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn làm sáng tỏ cơ sở lý luận về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND
trong xét xử sơ thẩm theo BLTTHS. Đồng thời, đề xuất một số kiến nghị nhằm góp
phần bảo đảm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi xét xử sơ thẩm VAHS
tại nước CHDCND Lào.

Các kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo cho các nhà nghiên cứu, các giảng viên trong công tác nghiên cứu và giảng
dạy về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong xét xử sơ thẩm theo BLTTHS tại các cơ
sở nghiên cứu, đào tạo có liên quan ở CHDCND Lào.


7
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm có 3 chương:
Chƣơng 1. Những vấn đề lý luận về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện Kiểm sát
trong xét xử sơ thẩm theo luật Tố tụng hình sự nước CHDCND Lào.
Chƣơng 2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về nhiệm vụ, quyền hạn
của Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm theo Luật Tố tụng hình sự.
Chƣơng 3. Thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong
xét xử sơ thẩm theo luật tố tụng hình sự và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
của Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.


8
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN
KIỂM SÁT TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
NƢỚC CỘNG HỊA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
1.1. Khái niệm và đặc điểm của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
1.1.1.1. Khái niệm xét xử
Xét xử là một giai đoạn tố tụng hình sự trung tâm và quan trọng để tăng
cường pháp chế, bảo vệ các quyền và tự do của công dân trong các giai đoạn xét xử
của Tịa án nói riêng và tồn bộ hoạt động tư pháp hình sự của Nhà nước nói chung,
cùng với các giai đoạn tố tụng hình sự khác góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu

tranh phịng và chống tội phạm trong toàn xã hội.
Xét xử là giai đoạn quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Trong
giai đoạn xét xử, người bị truy tố có thể đưa ra những lập luận để bào chữa cho mình
cịn người bị hại có thể địi quyền lợi của mình, các cơ quan tiến hành tố tụng dựa vào
các chứng cứ của vụ án để tìm ra tội phạm và đưa ra mức hình phạt phù hợp.
Từ điển Tiếng Việt “Xét xử là việc xem xét và xử các vụ án”1 . Đây là một
trong những hoạt động đặc trưng, là chức năng, nhiệm vụ của Tòa án. Các Tòa án là
những cơ quan duy nhất của một nước đảm nhiệm chức năng xét xử, chức năng này
còn được gọi là chức năng bảo vệ pháp luật có mối quan hệ trực tiếp đến quyền và
lợi ích hợp pháp của con người, quyền công dân.
Từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý cho rằng: “Xét xử là hoạt động
xem xét, đánh giá bản chất pháp lý của vụ việc nhằm đưa ra một phán xét về tính
chất, mức độ pháp lý của vụ việc, từ đó nhân danh nhà nước đưa ra một phán quyết
tương ứng với bản chất, mức độ trái hay không trái pháp luật của vụ việc”2.
Theo từ điển tiếng Lào của tác giả SomSeng Xayyavong, Viện Khoa học Xã
hội Quốc gia năm 2012 thì: xét xử là hoạt động phân tích, hỏi rõ để đưa ra phán xét
của vụ việc, sau đó đưa ra quyết định tương ứng với bản chất, mức độ của vụ việc3.
1

Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.48.
Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển luật học, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr.869.
3
Hoàng Phê (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng, tr.685.
2


9
Như vậy, có thể hiểu xét xử là q trình áp dụng các biện pháp cần thiết do
luât định để kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của toàn bộ các quyết định mà
cơ quan điều tra, Viện kiểm sát đã thông qua trước khi chuyển vụ án hình sự sang

tịa án, nhằm loại trừ những hậu quả tiêu cực do sơ suất, sai lầm hoặc sự lạm dụng
đã bỏ lọt tội trong ba giai đoạn tố tụng hình sự trước đó (khởi tố, điều tra và truy
tố), chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử, hoặc trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc đình
chỉ (hay tạm đình chỉ) vụ án.
1.1.1.2. Khái niệm xét xử sơ thẩm
Dưới góc độ khoa học pháp lý, hiện nay khái niệm xét xử sơ thẩm có nhiều
cách tiếp cận khác nhau như: xét xử sơ thẩm là lần đầu tiên đưa vụ án ra xét xử tại
một Tòa án có thẩm quyền 4. Theo đó, phạm vi rộng xét xử sơ thẩm bao gồm các vụ
án dân sự, hình sự, hành chính… điểm quan trọng nhất ở đây là đã thể hiện được
đặc trưng của xét xử sơ thẩm là “lần đầu tiên” đưa vụ án ra xét xử và do một Tịa án
có thẩm quyền thực hiện. Tuy nhiên, hạn chế là chưa phân định sự khác biệt và đặc
trưng riêng của việc xét xử sơ thẩm các vụ án, trong đó có việc xét xử sơ thẩm các
vụ án hình sự - một trong những hoạt động được coi là trung tâm của hoạt động tố
tụng hình sự, bởi lẽ nguyên tắc cơ bản và quan trọng nhất trong tố tụng hình sự là
khơng ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của tịa án
đã có hiệu lực pháp luật.. Do đó, có thể nói hoạt động truy tố của Viện kiểm sát
hướng tới việc tạo căn cứ pháp lý để tiến hành hoạt động thi hành án, biến việc truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội của các cơ quan tiến hành tố tụng
phát huy tác dụng trên thực tế5.
Xét xử sơ thẩm là một giai đoạn tố tụng mà ở đó đòi hỏi những người tiến
hành tố tụng và những người tham gia tố tụng phải tập trung một cách cao nhất trí
tuệ, xử lý tình huống một cách nhanh chóng nhưng phải đúng quy định của pháp luật
1.1.1.3. Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Theo Giáo trình Luật TTHS Lào của Trường đại học Luật Viêng Chăn, Nxb
Bộ Tư pháp, Viêng Chăn, 2017 thì “xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn
của TTHS, trong đó Tịa án có thẩm quyền tiến hành xem xét, giải quyết vụ án, ra

4

Viện Khoa học pháp lý (2006), tlđd (2), tr.40.

Tơn Thiện Phương (2002), Vai trị của Viện kiểm sát trong xét xử vụ án hình sự, Khoa Luật, ĐHQGHN,
Luận văn thạc sỹ luật học, Hà Nội, tr.58.
5


10
bản án, quyết định tố tụng theo quy định của pháp luật”6. Đây là một giai đoạn
TTHS, trong đó Tịa án có thẩm quyền thay mặt Nhà nước tiến hành việc xét xử lần
đầu, toàn diện, tổng thể VAHS trên cơ sở bản cáo trạng của VKS, Tòa án sẽ xem
xét đánh giá chứng cứ dựa trên kết quả tranh tụng tại phiên tòa làm sở để ra các
phán quyết cơng minh, có căn cứ và đúng pháp luật bằng bản án và quyết định của
mình. Định nghĩa này đã xác định xét xử sơ thẩm VAHS là giai đoạn của TTHS và
chỉ ra được nội dung, mục đích của việc xét xử sơ thẩm VAHS. Tuy nhiên, định
nghĩa này xác định xét xử sơ thẩm VAHS là việc “xét xử lần đầu” là chưa thực sự
chính xác. Bởi, khơng phải mọi trường hợp xét xử sơ thẩm VAHS đều là xét xử lần
đầu. Trong trường hợp Tịa án có thẩm quyền xem xét ra quyết định hủy bản án để
điều tra lại hoặc xét xử sơ thẩm lại thì việc xét xử sơ thẩm lại không phải là xét xử
lần thứ nhất.
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một cơng đoạn trong q trình giải quyết vụ
án hình sự nhưng là một cơng đoạn đặt biệt quan trọng. Việc xét xử sơ thẩm chỉ được
tiến hành sau khi cơ quan điều tra đã có bản kết luận điều tra vụ án và Viện Kiểm sát
đã truy tố bị can ra trước tòa bằng bản cáo trạng. Trên cơ sở hồ sơ vụ án và quyết
định truy tố của Viện kiểm sát chuyển sang, Tòa án lần đầu sẽ nghiên cứu để quyết
định đưa vụ án ra xét xử hay khơng. Nếu Tịa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì
vụ án hình sự lần đầu tiên sẽ được đưa ra xem xét công khai tại phiên tòa và xét xử sơ
thẩm được xác định như là một giai đoạn kết thúc của quá trình giải quyết một vụ án
hình sự. Mọi tài liệu, chứng cứ của vụ án do Cơ quan điều tra, truy tố thu thập trong
quá trình điều tra vụ án được xem xét một cách cơng khai tại phiên tịa, những người
tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng được nghe trực tiếp lời nói của nhau,
được tranh luận chất vấn những điều mà tại Cơ quan điều tra họ khơng có điều kiện

thực hiện. Xét xử sơ thẩm được coi như là đỉnh cao của quyền tư pháp bởi vì, tại
phiên tịa, quyền và nghĩa vụ của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng
được thực hiện công khai đầy đủ nhất, nếu như bản kết luận của điều tra của cơ quan
điều tra và bản cáo trạng của Viện Kiểm sát chỉ là những kết luận sơ bộ về vụ án thì
bản án của Tịa án mới là kết luận chính thức và cơng khai về việc bị cáo có tội hay
khơng có tội, nếu có tội thì bị cáo bị phạm tội gì, theo quy định tại điểm, khoản, điều
nào của Bột luật hình sự và mức hình phạt cụ thể đối với bị cáo.
6

Trường Đại học Luật Viêng Chăn (2005) Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Lào, Nxb Bộ tư pháp Viêng
Chăn, tr.26.


11
Từ các khái niệm trên, có thể hiểu: Xét xử sơ thẩm VAHS là hoạt động nhà
nước do Tòa án thực hiện ở cấp xét xử thứ nhất nhằm xem xét, đánh giá toàn diện
các chứng cứ, các tài liệu của VAHS, trên cơ sở đó ra bản án, quyết định để xác
định có hành vi phạm tội hay khơng, người thực hiện hành vi phạm tội, hình phạt
được áp dụng đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội và giải quyết các vấn đề
khác có liên quan trong VAHS .
1.1.2. Đặc điểm và ý nghĩa của xét xử sở thẩm vụ án hình sự
1.1.2.1. Đặc điểm của xét xử sở thẩm vụ án hình sự
- Xét xử sơ thẩm là vụ án hình sự là một giai đoạn TTHS có tính bắt buộc với
các vụ án hình sự và được tiến hành theo một trình tự nhất định.
TTHS trải qua nhiều giai đoạn khác nhau do các cơ quan, chủ thể khác nhau
thực hiện trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng. Xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn tiếp theo sau giai đoạn truy tố, được bắt đầu
từ khi tòa án nhận hồ sơ vụ án và quyết định truy tố bị can hoặc bản cáo trạng của
VKS. Các tài liệu, chứng cứ được thu thập ở các giai đoạn trước được đưa ra xem
xét một cách cơng khai, tồn diện tại phiên tịa. Các tài liệu, chứng cứ này chính là

kết quả của các giai đoạn TTHS trước đó được tịa án thẩm tra cơng khai tại phiên
tịa và dùng làm căn cứ để đưa ra phán quyết về việc phạm tội và người thực hiện
tội phạm.
Mặt khác, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được hiểu là Tịa án có thẩm quyền
tiến hành việc xét xử lần đầu, toàn diện vụ án hình sự trên cơ sở bản Cáo trạng của
VKS. Để đảm bảo việc xét xử sơ thẩm được chính xác, khách quan, không bỏ lọt tội
phạm, không làm oan người vơ tội, cũng như bảo vệ lợi ích của nhà nước, các
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân, BLTTHS năm 2017 quy định
trường hợp có kháng cáo, kháng nghị, vụ án có thể được đưa ra xét xử phúc thẩm và
khi có một số điều kiện nhất định, vụ án có thể được xem xét theo trình tự giám đốc
thẩm hoặc tái thẩm. Như vậy, việc một số vụ án hình sự đã được xét xử sơ thẩm có
được xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm hay khơng cịn phụ thuộc vào
các yếu tố khác mà không phải là bắt buộc.
Trong bất cứ vụ án hình sự nào dù có một bị cáo hay nhiều bị cáo, dù bị cáo
bị truy tố về tội ít nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng, về một hay nhiều tội
danh cũng đều phải diễn ra theo một trình tự, thủ tục nhất định theo quy luật của


12
BLTTHS. Do là một giai đoạn trong TTHS nên việc xét xử sơ thẩm đòi hỏi phải
tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của Hiến pháp và pháp luật. Các thủ tục khác
có thể có, có thể khơng, nhưng xét xử sơ thẩm là lần đầu, do đó là thủ tục bắt buộc.
- Tất cả các tài liệu, chứng cứ do cơ quan điều tra, VKS thu thập trong giai
đoạn điều tra, truy tố và các chứng cứ các có được thông qua hoạt động xét xử đều
được xem xét một cách cơng khai, tịan diện tại phiên tịa sơ thẩm hình sự với sự có
mặt đầy đủ của những người tham gia tố tụng.
Tại phiên tòa sơ thẩm, những người thực hành tố tụng và người tham gia tố
tụng được nghe trực tiếp lời khai của nhau, được tranh luận, chất vấn những điều
mà tại cơ quan điều tra, VKS họ khơng có điều kiện để thực hiện. Nói cách khác,
xét xử sơ thẩm chỉ được tiến hành khi các cơ quan điều tra đã điều tra vụ án, VKS

đã truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng. Do đó, xét xử sơ thẩm là một
cơng đoạn trong giai đoạn kết thúc của quá trình giải quyết một vụ án hình sự.
- Xét xử sơ thẩm có kết quả là một bản án, quyết định cơng minh và có căn
cứ, đúng pháp luật.
Các phán quyết của Tòa án được xem xét, đánh giá trên cơ sở những chứng
cứ đã thu thập trong giai đoạn điều tra, truy tố và những chứng cứ thu thập tại phiên
tòa. Đồng thời, phán quyết của Tòa án còn dựa trên kết quả tranh tụng dân chủ,
cơng khai và bình đẳng giữa các bên để nhằm đưa ra một phán quyết có căn cứ,
cơng minh và đúng pháp luật, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của cơng dân. Phán quyết của Tịa án là phán quyết về bản chất của vụ án, bao
gồm: bị cáo có phạm tội hay khơng, hậu quả pháp lý về hình phạt, biện pháp tư
pháp khác hay quyết định khác mà bị cáo phải chịu…; trên cơ sở tuân thủ đúng các
quy định của pháp luật hình sự như về tội phạm và hình phạt, pháp luật TTHS như
về tư cách tố tụng, chứng cứ, thẩm quyền xét xử…
- Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự góp phần duy trì, bảo vệ cơng lý, khơi phục
cơng bằng xã hội, bảo vệ quyền lợi của công dân. Phán quyết của Tịa án có căn cứ,
cơng minh, đúng pháp luật cịn góp phần vào việc xử lý triệt để, tồn diện và dứt
điểm vụ án hình sự, qua đó hạn chế được lượng án phải giải quyết ở cấp phúc thẩm.
Việc đưa ra xét xử công khai, nghiêm minh và dân chủ vụ án hình sự cịn góp phần
bảo đảm sự thượng tơn của pháp luật, duy trì cơng lý, đem lại cơng bằng xã hội,
đảm bảo tính pháp chế của pháp luật.


13
Việc xem xét và giải quyết vụ án hình sự theo đúng quy định của pháp luật
trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đã góp phần bảo vệ chế độ, pháp chế
XHCN; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của cơng dân, góp phần đấu tranh phịng ngừa và chống tội phạm. Thơng qua việc
xét xử và đặc biệt là các phiên tịa cơng khai, giai đoạn xét xử sơ thẩm còn được
thực hiện chức năng tuyên truyền phổ biến pháp luật, giáo dục công dân chấp hành

nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật, tôn trọng các quy tắc của cuộc sống xã
hội, nâng cao ý thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm cũng như các vi
phạm pháp luật khác.
1.1.1.2. Ý nghĩa của giai đoạn xét xử trong vụ án hình sự
Với tính chất là một giai đoạn độc lập của hoạt động tố tụng hình sự, giai
đoạn xét xử có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể do luật định để:
1) Áp dụng các biện pháp tố tụng cần thiết để chuẩn bị cho việc xét xử vụ án
tại phiên tòa,
2) Xét xử theo thủ tục sơ thẩm (hoặc xét xử theo thủ tục phúc thẩm - nếu bản
án hay quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị,
hoặc kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của bản án hay quyết định đã có hiệu
lực pháp luật - nếu bị kháng nghị)
3) Tun bản án (quyết định) của Tịa án có hiệu lực pháp luật.
1.1.1.3. Vai trò và ý nghĩa của giai đoạn xét xử
Xét xử là chức năng quan trọng nhất của Tịa án nói riêng và của tồn bộ q
trình tố tụng hình sự nói chung nhằm áp dụng các biện pháp cần thiết do luật định
để kiểm tra lại tính hợp pháp và có căn cứ của tồn bộ các quyết định mà cơ quan
Điều tra và Viện kiểm sát đã thông qua trước khi chuyển vụ án hình sự sang Tịa án,
nhằm loại trừ các những hậu quả tiêu cực của các sơ xuất, sai lầm hoặc sự lạm dụng
đã bị bỏ lọt trong ba giai đoạn tố tụng hình sự trước đó (khởi tố, điều tra và truy tố),
chuẩn bị đưa vụ án ra xét xử, hoặc trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc đình chỉ
(hay tạm đình chỉ) vụ án.
Bằng việc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm (nếu bản án hay quyết định chưa có
hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị) thơng qua q trình điều tra trực tiếp
tại phiên tịa, trên cơ sở kết quả tranh tụng cơng khai và dân chủ của các bên, Tòa án


14
với tính chất là cơ quan trọng tài kiểm tra lại và đánh giá một cách toàn diện, khách
quan và đầy đủ các chứng cứ, các tình tiết của vụ án hình sự để giải quyết về bản

chất nó - phán xét về vấn đề tính chất tội phạm (hay khơng) của hành vi, có tội (hay
khơng) của bị cáo hoặc bằng việc kiểm tra tính hợp pháp và của bản án theo trình tự
giám đốc thẩm hoặc tái thẩm (nếu bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị
kháng nghị), nhằm đạt mục đích trong tồn bộ các giai đoạn tố tụng hình sự là tuyên
một bản án (quyết định) có hiệu lực pháp luật một cách cơng minh và đúng pháp
luật, có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục tránh bỏ lọt tội phạm và kết án oan
người vô tội.
Xét xử là một giai đoạn tố tụng hình sự trung tâm và quan trọng để cường
pháp chế, bảo vệ các quyền và tự do của cơng dân trong các giai đoạn xét xử của
Tịa án nói riêng và tồn bộ hoạt động tư pháp hình sự của Nhà nước nói chung, góp
phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong toàn xã hội,
cùng với các giai đoạn tố tụng hình sự khác góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu
tranh phịng và chống tội phạm trong tồn xã hội.
1.2. Khái niệm và đặc điểm về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát
trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
1.2.1. Khái niệm nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự
Trong khoa học pháp lý, "thẩm quyền", "nhiệm vụ" và "nghĩa vụ" là các khái
niệm khác nhau. Thẩm quyền là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ hành động, quyết định
của các cơ quan, tổ chức thuộc bộ máy nhà nước do pháp luật quy định. Khái niệm
"thẩm quyền" bao hàm hai nội dung chính là quyền hành động và quyền quyết định của
cơ quan, tổ chức trong bộ máy nhà nước. Quyền hành động là quyền được làm những
công việc nhất định, còn quyền quyết định là quyền hạn giải quyết cơng việc đó trong
phạm vi pháp luật cho phép (thẩm quyền hành động). Nghĩa vụ là việc mà theo đó một
chủ thể (cá nhân, cơ quan, tổ chức) phải thực hiện hoặc không thực hiện khi tham gia
vào một quan hệ pháp luật. Thuật ngữ "nhiệm vụ", theo Đại Từ điển tiếng Việt được
hiểu là "công việc phải làm, gách vác" hay "cơng việc phải làm vì một mục đích và
trong một thời gian nhất định"7. Theo cách giải thích này thì nhiệm vụ nói chung là
cơng việc mang tính chất bắt buộc đối với chủ thể phải thực hiện. Nhiệm vụ của một
7


Nguyễn Như Ý (1998), tlđd (1), tr.1384.


15
chủ thể xuất phát từ tư cách chủ thể trong quan hệ xã hội mà chủ thể đó tham gia và
được pháp luật quy định. Cùng một chủ thể, nhưng mỗi quan hệ xã hội khác nhau thì
quy định pháp luật xác định nhiệm vụ khác nhau. Do đó, có thể hiểu nhiệm vụ của cơ
quan VKSND là những hoạt động cụ thể của VKSND trong một thời gian nhất định
nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành mình để cùng thực hiện nhiệm vụ của
bộ máy nhà nước trên cơ sở quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Nhiệm vụ của VKSND trong tố tụng hình sự cũng như trong xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự là những yêu cầu cụ thể do Nhà nước đặt ra và được quy định trong
Hiến pháp, Luật tổ chức VKSND, BLTTHS và các văn bản pháp luật khác mà
VKSND phải thực hiện bằng những hình thức, biện pháp nhất định trong quá trình
giải quyết vụ án hình sự, cụ thể là:
- Bảo đảm việc giải quyết các vụ án hình sự ở Tịa án nhanh chóng, khách
quan, tồn diện, đầy đủ và kịp thời.
- Bảo đảm mọi bản án, quyết định hình sự của Tịa án có căn cứ và đúng
pháp luật.
- Bảo đảm mọi bản án, quyết định hình sự của của Tịa án đã có hiệu lực pháp
luật được đưa ra thi hành đúng pháp luật, kịp thời.
Như vậy, nhiệm vụ của cơ quan nhà nước nói chung và cơ quan tư pháp nói
riêng được hiểu là những hoạt động cụ thể của từng cơ quan đó, trong một thời gian
nhất định nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành mình để cùng thực hiện
nhiệm vụ chung của cả bộ máy nhà nước là bảo vệ chế độ XHCN, quyền làm chủ
của nhân dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa các dân tộc, bảo vệ lợi ích của nhà
nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật chống
mọi hành vi phạm tội; đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu
tranh phòng ngừa và chống tội phạm.

Chúng ta có thể đưa ra khái niệm: nhiệm vụ của VKSND trong xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự là những công việc cụ thể do pháp luật quy định đối với VKSND
trong giai đoạn giai đoạn xét xử sơ thẩm, quá trình tố tụng các vụ việc hình sự
nhằm kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án và những người tham gia tố
tụng. Những hoạt động cụ thể này của Viện Kiểm sát từ khi Tòa án thụ lý xét xử cho
đến khi bản án có hiệu lực pháp luật khơng bị kháng cáo, kháng nghị nhằm thực
hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.


16
Còn về khái niệm "quyền hạn" được hiểu là quyền theo cương vị, chức vụ cho
phép. Dưới góc độ pháp lý, quyền hạn của một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được
xác định theo phạm vi nội dung, lĩnh vực hoạt động, cấp và chức vụ, vị trí cơng tác và
trong phạm vi không gian, thời gian nhất định theo quy định của pháp luật.
Quyền hạn thường gắn chủ thể với một cương vị, tư cách cụ thể. Trong khoa
học pháp lý, quyền hạn được gắn liền với cơ quan, tổ chức trong bộ máy nhà nước
hoặc người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó. Quyền hạn của cơ quan, tổ chức
là quyền quyết định giải quyết công việc trong phạm vi thẩm quyền của cơ quan, tổ
chức. Quyền hạn của người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức là quyền quyết
định giải quyết công việc trong phạm vi thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó. Đối
với quyền của chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự xuất phát từ sự
thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định.
Do đó, có thể hiểu nhiệm vụ của cơ quan VKSND là những hoạt động cụ thể
của VKSND trong một thời gian nhất định nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
ngành mình để cùng thực hiện nhiệm vụ chung của cả bộ máy Nhà nước trên cơ sở
quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là những
hoạt động cụ thể của VKS từ khi Tòa án thụ lý xét xử cho đến khi bản án có hiệu
lực pháp luật không bị kháng cáo, kháng nghị nhằm thực hiện chức năng thực hành
quyền công tố.

CHDCND Lào, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi thực hành
quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự bao gồm: Công bố cáo
trạng, công bố quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn, quyết định khác về việc buộc
tội đối với bị cáo tại phiên tòa; Xét hỏi, xem xét vật chứng, xem xét tại chỗ; Luận
tội, tranh luận, rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố; kết luận về tội khác
bằng hoặc nhẹ hơn; phát biểu quan điểm của VKS về việc giải quyết vụ án tại phiên
tòa; Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp oan, sai, bỏ lọt tội
phạm, người phạm tội; Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác khi thực hành quyền
công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm.
1.2.2. Đặc điểm nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự
Mỗi giai đoạn tố tụng do những cơ quan tố tụng có thẩm quyền thực hiện.
Các giai đoạn của hoạt động tố tụng độc lập với nhau nhưng lại có mối quan hệ


17
khăng khít với nhau, giai đoạn trước là tiền đề cho giai đoạn sau tạo thành một hệ
thống hoạt động thống nhất. Những giai đoạn này có những nhiệm vụ và định
hướng khác nhau nhưng đều hướng tới một mục đích giải quyết vụ án khách quan,
tồn diện và đúng quy định của pháp luật. Xét xử là giai đoạn trung tâm và quan
trọng trong việc tăng cường pháp chế và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của
cơng dân.
Trong tố tụng hình sự, hoạt động xét xử nói chung được coi là đặc biệt quan
trọng và là giai đoạn trung tâm của quá trình giải quyết vụ án hình sự. Các giai đoạn
tố tụng trước đó từ khởi tố, điều tra và truy tố chỉ là các giai đoạn xác định và tìm
kiếm thơng tin, chứng minh sự việc đã xảy ra một cách toàn diện nhưng vẫn chưa
phải là quá trình định tội. Hiến pháp nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào quy định
Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền xét xử. Để xác định một người là có tội
và phải chịu hình phạt thì điều địi hỏi bắt buộc là họ phải được đưa ra xét xử cơng
khai trước phiên tịa. Tại phiên tòa, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố

tụng và các bên tham gia tố tụng mới có điều kiện cơng khai đưa ra quan điểm, lập
luận để bảo vệ mình. Vì vậy, giai đoạn xét xử vụ án hình sự là giai đoạn tập trung
cao nhất của quyền bào chữa đảm bảo thực hiện bằng phương thức tranh tụng.
Nhằm bảo đảm xét và xử đúng người đúng tội, việc xét xử vụ án hình sự có thể phải
trải qua nhiều giai đoạn khác nhau trong đó xét xử sơ thẩm là thủ tục xét xử đầu tiên
và bắt buộc đối với tất cả các vụ án hình sự.
Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự
trong đó Tịa án có thẩm quyền sau khi xem xét hồ sơ vụ án lần đầu tiên đưa vụ án
ra xét xử nhằm xác định có hay khơng có hành vi phạm tội và người thực hiện tội
phạm, từ đó đưa ra bản án, quyết định phù hợp với tính chất của vụ án mà Viện
kiểm sát đã truy tố.
+ Thực hành quyền công tố là hoạt động của việc kiểm sát nhân dân trong tố
tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được
thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và
trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự” [9]. Có thể
khẳng định, VKS thực hành quyền công tố ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án
hình sự, trong đó có chức năng thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự.


18
1.2.2.1. Thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm
Theo Đại từ điển Tiếng Việt, cơng tố có nghĩa là “điều tra, truy tố và buộc tội
kẻ phạm pháp trước tịa án”8. Theo đó, cơng tố bao gồm cả hoạt động điều tra và
truy tố, buộc tội kẻ phạm tội trước tịa án.
Theo từ điển Luật học, cơng tố “là quyền của nhà nước truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với người phạm tội” 9[40, tr.188], tiếp cận này chưa rõ ràng, bởi khái
niệm “truy cứu trách nhiệm hình sự” còn bao gồm cả hoạt động xét xử của Tịa án.
Về mặt nguồn gốc, việc ra đời quyền cơng tố cũng có những quan điểm khác

nhau, tác giả thống nhất với một số nhà nghiên cứu về giải thích nguồn gốc của
quyền công tố, tập trung vào hai hướng là:
- Quyền công tố ra đời gắn liền với nền dân chủ tư sản và hình thành từ cuối
thế kỷ XIII đầu thế kỷ thứ XIV, khi nhà nước phong kiến tan rã, với học thuyết tam
quyền phân lập trong tổ chức và thực hiện quyền lực Nhà nước đã dẫn đến tách hệ
thống Tòa án ra khỏi hệ thống cơ quan hành pháp và hình thành nhánh quyền lực
thứ ba là quyền xét xử. Cùng với sự phát triển của hệt thống pháp luật, quyền công
tố mới xuất hiện với tính chất là buộc tội trước Tịa án khi Tịa án xét xử các tội
phạm hình sự. Như vậy, quyền công tố là một quyền độc lập tồn tại song song với
quyền xét xử của Tịa án;
- Quyền cơng tố ra đời gắn liền với sự ra đời của Nhà nước và pháp luật, do
đó quyền cơng tố tại trong tất cả các Nhà nước từ Nhà nước chiếm hữu nô lệ đến
nhà nước ngày nay. Quyền công tố ban đầu chỉ mang tính xã hội và dần phát triển,
đồng thời địi hỏi phải có một cơ quan nhà nước thực hiện đó là cơ quan cơng tố
hoặc Viện kiểm sát.
- Thực hành quyền công tố là việc cơ quan VKS thực hiện tổng hợp các
quyền năng pháp lý được nhà nước trao cho để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với người phạm tội, đưa người phạm tội ra trước tòa án để xét xử và bảo
vệ sự buộc tội đó.
+ Thực hành quyền cơng tố là hoạt động của việc kiểm sát nhân dân trong tố
tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được
thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và
8
9

Nguyễn Như Ý (1998), tlđd (1), tr.204.
Viện Khoa học pháp lý (2006), tlđd (2), tr.188.


19

trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Có thể khẳng
định, VKS thực hành quyền công tố ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình
sự, trong đó có chức năng thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm
vụ án hình sự..
Từ khái niệm nêu trên, có thể hiểu hoạt động thực hành quyền công tố của
VKS trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là: „„VKS thực hiện tổng hợp các
quyền năng pháp lý được nhà nước trao cho để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với người phạm tội, đưa người phạm tội ra trước tòa án để xét xử và
bảo vệ sự buộc tội đó’‟.
Từ khi thành lập nước cho đến nay, trong tất cả các văn bản pháp lý mà trực
tiếp quy định đến chủ thể THQCT như Hiến pháp, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật tổ
chức VKSND đều khẳng định rằng VKS là cơ quan tố tụng duy nhất có chức năng
THQCT. Tên thực tế, một số hoạt động của cơ quan điều tra hoặc Tòa án như khởi
tố vụ án hình sự, khởi tố bị can, áp dụng các biện pháp ngăn chặn… được cho rằng
là hoạt động THQCT, nhưng về bản chất đó chỉ là những hoạt động khởi đầu, có ý
nghĩa phát động quyền công tố. Mặt khác, các hoạt động trên của cơ quan điều tra
hay Tịa án khơng nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội nên
khơng thể là hoạt động THQCT. Bên cạnh đó, các quyết định của cơ quan điều tra
hoặc Tòa án khi ban hành đều phải chuyển cho VKS để xem xét, phê chuẩn, nếu
khơng có căn cứ, đúng pháp luật thì VKS có quyền hủy bỏ hoặc cơ quan điều tra chỉ
có quyền đề nghị áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn cịn quyết
định có thực hiện hay không thuộc về VKS, nếu VKS thấy chưa đủ căn cứ để truy
tố thì yêu cầu cơ quan điều tra tiếp tục điều tra hoặc nếu hồ sơ đã chuyển sang VKS
đề nghị truy tố thì VKS trả hồ sơ cho cơ quan điều tra yêu cầu điều tra bổ sung Như
vậy, VKS là cơ quan duy nhất THQCT theo pháp luật của CHDCND Lào.
Mục đích của hoạt động thực hành quyền công tố là phát hiện, khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm minh mọi tội phạm và người phạm tội không làm oan
người vô tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội; không để người nào bị khởi tố,
bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế quyền con người, quyền công dân trái luật.

Như vậy chúng ta có thể khái quát quyền công tố thể hiện ở các vấn đề sau:
+ Quyền công tố là quyền của nhà nước giao cho VKS


×