Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Quản lý nhà nước của ủy ban nhân dân cấp huyện đối với cơ sở giáo dục mầm non (từ thực tiễn thành phố hồ chí minh) (luận văn thạc sỹ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 79 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

PHẠM ĐỨC SƠN

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
ĐỐI VỚI CƠ SỞ GIÁO DỤC MẦM NON
(TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH)

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
ĐỐI VỚI CƠ SỞ GIÁO DỤC MẦM NON
(TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH)

Chuyên ngành: Luật Hiến Pháp và Luật Hành Chính
Mã số: 60380102

Người hướng dẫn khoa học: Ts. Phan Nhật Thanh
Học viên: Phạm Đức Sơn
Lớp: Cao học Luật, Thành Ủy Khóa 7


TP HỒ CHÍ MINH, NĂM 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng
dẫn khoa học của Ts. Phan Nhật Thanh. Các nội dung nêu trong luận văn là trung
thực. Kết quả nghiên cứu trong luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Tác giả luận văn

Phạm Đức Sơn


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CỦA
ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN ĐỐI VỚI CƠ SỞ GIÁO DỤC MẦM
NON ............................................................................................................................9
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò quản lý Nhà nước của Ủy ban nhân dân
cấp huyện đối với cơ sở giáo dục mầm non ............................................................9
1.1.1. Khái niệm quản lý Nhà nước đối với cơ sở giáo dục mầm non ........................9
1.1.2. Đặc điểm quản lý Nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp huyện đối với cơ sở
giáo dục mầm non .....................................................................................................21
1.1.3. Vai trò quản lý Nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp huyện đối với cơ sở giáo
dục mầm non .................................................................................................................
...................................................................................................................................26
1.2. Nội dung quản lý Nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp huyện đối với cơ sở
giáo dục mầm non ...................................................................................................28
1.3. Cơ quan tham mưu giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện quản lý Nhà nước
đối với cơ sở giáo dục mầm non. ............................................................................40

Tiểu kết Chương 1 ...................................................................................................46
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CỦA ỦY BAN NHÂN
DÂN CẤP HUYỆN (TỪ THỰC TIỄN TP. HCM) ĐỐI VỚI CƠ SỞ GIÁO
DỤC MẦM NON VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN ...................................47
2.1. Thực trạng quản lý Nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp huyện tại Thành
phố Hồ Chí Minh đối với cơ sở giáo dục mầm non..............................................47
2.1.1. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch, chương trình, đề án phát triển mạng lưới
trường, lớp mầm non .................................................................................................48
2.1.2. Ban hành văn bản quy phạm pháp luật để quản lý cơ sở giáo dục mầm non 51
2.1.3. Bộ máy tổ chức và nhân sự thực hiện công tác quản lý Nhà nước về GDMN.
...................................................................................................................................52
2.1.4. Công tác thanh tra, kiểm tra các cơ sở GDMN ..............................................54
2.1.5. Công tác thống kê, thông tin, báo cáo theo định kỳ và hàng năm ..................57


2.1.6. Quản lý về việc thành lập, sáp nhập, chia tách đình chỉ hoạt động, giải thể
đối với các cơ sở giáo dục mầm non .........................................................................57
2.1.7. Quản lý về tài chính đối với các cơ sở giáo dục mầm non .............................60
2.1.8. Quản lý về thi đua, khen thưởng đối với các cơ sở giáo dục mầm non ..........61
2.1.9. Công tác tuyên truyền thực hiện phổ cập giáo dục, chống mù chữ và xây dựng
xã hội học tập trên địa bàn, trong đó có phổ cập GDMN ........................................61
2.2. Các giải pháp nhằm tháo gỡ vướng mắc, khó khăn trong hoạt động quản
lý Nhà nước đối với cơ sở GDMN ..........................................................................63
2.2.1. Nhóm giải pháp về chính sách và tổ chức hành chính....................................64
2.2.2. Nhóm giải pháp kinh tế - cơng nghệ ...............................................................67
2.2.3. Nhóm các giải pháp xã hội - con người ..........................................................68
Tiểu kết Chương 2 ...................................................................................................70
KẾT LUẬN ..............................................................................................................71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO



1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Theo Luật Giáo dục năm 2005 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy
định về phân cấp trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo thì: Chính phủ thống nhất
quản lý nhà nước về giáo dục. Chính phủ trình Quốc hội trước khi quyết định
những chủ trương lớn, có ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ học tập của công
dân trong phạm vi cả nước, những chủ trương về cải cách nội dung chương
trình của cấp học; hàng năm báo cáo Quốc hội về hoạt động giáo dục và việc
thực hiện ngân sách giáo dục1.
Bộ Giáo dục và Đào tạo chịu trách nhiệm trước chính phủ thực hiện
quản lý nhà nước về giáo dục; bộ, cơ quan ngang bộ phối hợp với bộ giáo dục
và đào tạo thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục theo thẩm quyền.
Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình,
thực hiện quản lý Nhà nước về giáo dục theo sự phân cấp của chính phủ,
trong đó có việc quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục; kiểm tra việc chấp hành
pháp luật về giáo dục trên địa bàn; có trách nhiệm bảo đảm các điều kiện về
đội ngũ giáo dục trên địa bàn; có trách nhiệm bảo đảm các điều kiện về đội
ngũ nhà giáo, tài chính, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học của các trường công
lập thuộc phạm vi quản lý; phát triển các loại hình trường, thực hiện xã hội
hóa giáo dục; bảo đảm đáp ứng yêu cầu mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng
và hiệu quả giáo dục tại địa phương.2
Sự phân cấp trách nhiệm quản lý Nhà nước về giáo dục được thực hiện
theo các ngun tắc: đảm bảo tính thống nhất, thơng suốt và nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về giáo dục mầm non; bảo đảm tương ứng
giữa nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm với nguồn lực tài chính, nhân sự, và
các điều kiện cần thiết khác để thực hiện nhiệm vụ được giao; phân công,
phân cấp và xác định cụ thể nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm về lĩnh vực
giáo dục của các bộ, Ủy ban nhân dân các cấp và cơ quan có liên quan, đồng


1
2

Khoản 1 Điều 100 Luật Giáo dục năm 2005 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009).
Khoản 4 Điều 100 Luật Giáo dục năm 2005 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009).


2
thời phát huy cao nhất tính chủ động, sáng tạo của cơ quan quản lý giáo dục
các cấp trong việc thực hiện chức trách và nhiệm vụ được giao.
Bên cạnh đó, theo nhiệm vụ cụ thể được phân cấp trong lĩnh vực giáo
dục - đào tạo thì Uỷ ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm chỉ đạo, hướng
dẫn, tổ chức thực hiện và kiểm tra, giám sát các cơ sở giáo dục mầm non
thuộc thẩm quyền quản lý trong việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp
luật về giáo dục mầm non.
Uỷ ban nhân dân cấp huyện còn có trách nhiệm chỉ đạo, hướng dẫn và
tổ chức thực hiện phong trào thi đua; quyết định khen thưởng các tổ chức, cá
nhân có nhiều cơng lao đối với sự phát triển của giáo dục mầm non theo Luật
Thi đua, Khen thưởng, và các văn bản khác của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Hàng năm, Uỷ ban nhân dân cấp huyện đề nghị cấp có thẩm quyền tặng danh
hiệu thi đua và khen thưởng các tổ chức, cá nhân có nhiều công lao đối với sự
phát triển của giáo dục mầm non trên địa bàn.
Giúp việc cho Uỷ ban nhân dân cấp huyện trong lĩnh vực quản lý Nhà
nước về cơ sở giáo dục mầm non có phịng Giáo dục và Đào tạo. Đây là cơ
quan chuyên môn trực thuộc Uỷ ban nhân dân, được tổ chức thống nhất ở các
cấp huyện. Phòng Giáo dục và Đào tạo là cơ quan tham mưu, giúp Uỷ ban
nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về các lĩnh vực
giáo dục mầm non bao gồm: mục tiêu, chương trình và nội dung giáo dục đào tạo; tiêu chuẩn nhà giáo, tiêu chuẩn cán bộ quản lý giáo dục; tiêu chuẩn
cơ sở vật chất, thiết bị trường học và đồ chơi trẻ em; ...

Tuy nhiên, các quy định của Luật Giáo dục hiện hành và các văn bản
hướng dẫn thi hành vẫn cịn những hạn chế, bất cập, trong đó có những quy
định liên quan đến quản lý Nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp quận, huyện
đối với cơ sở giáo dục mầm non như: luật quy định trường mầm non là cơ sở
giáo dục kết hợp nhà trẻ và mẫu giáo, nhận trẻ em từ 03 tháng tuổi đến 06 tuổi
nhưng thực tế tại các trường mầm non cơng lập chỉ giữ trẻ từ 18 tháng trở lên;
có nhiều cơ sở giáo dục mầm non tư thục hình thành theo quá trình phát triển
của xã hội, nhất là đối với địa phương tập trung nhiều khu công nghiệp, khu
chế xuất đông dân cư; công tác quản lý Nhà nước về giáo dục của chính


3
quyền có nơi bng lỏng, chưa theo kịp với xu thế phát triển chung, dẫn đến
nhiều cơ sở giáo dục mầm non tư thục khơng có giấy phép, có hành vi hành
hạ trẻ, vi phạm pháp luật về hình sự như một số vụ việc đau lòng xảy ra trên
địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian qua3. Ngoài ra, trẻ mầm non,
mẫu giáo là đối tượng mà gia đình và xã hội cần quan tâm hơn do trẻ chỉ biết
nói, chưa có ý thức đầy đủ; trẻ đi học chủ yếu là chơi, đang trong quá trình
phát triển tồn diện, ...
Từ thực trạng đó, việc nghiên cứu một cách có hệ thống về quản lý Nhà
nước của Ủy ban nhân dân cấp huyện đối với cơ sở giáo dục mầm non trong
giai đoạn hiện nay nhằm đánh giá, tìm ra nguyên nhân hạn chế, bất cập và đề
ra các kiến nghị nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước của
Ủy ban nhân dân cấp huyện đối với cơ sở giáo dục là rất cần thiết trong bối
cảnh Nhà nước ta đang tiến hành sửa đổi Luật Giáo dục hiện hành4.
Vì những lý do trên, tác giả chọn đề tài: "Quản lý Nhà nước của Ủy ban
nhân dân cấp huyện đối với cơ sở giáo dục mầm non (từ thực tiễn Thành phố
Hồ Chí Minh)” làm Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Luật Hiến pháp, Luật
hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Quản lý Nhà nước về giáo dục nói chung, quản lý Nhà nước về giáo
dục mầm non nói riêng ln là vấn đề mang tính thời sự, được nhiều nhà quản
lý, nhà khoa học, cũng như có các bài viết trên báo chí đề cập với những góc
độ, khía cạnh khác nhau. Ngồi ra, cũng có một số Luận văn thạc sĩ liên quan
đến đề tài, như:
Nguyễn Đức Toàn (2008), Quản lý Nhà nước đối với viên chức các cơ sở
giáo dục Đại học công lập, Luận văn thạc sĩ luật học Đại học Luật Thành phố Hồ
Chí Minh. Tuy nhiên, đề tài này chỉ đề cập đến quản lý Nhà nước với đối tượng là
viên chức các cơ sở giáo dục Đại học. Tác giả luận văn cung cấp góc nhìn về quản
lý Nhà nước nói chung. Cơ sở giáo dục Đại học công lập được quản lý bởi nhiều
3

/>truy cập ngày 17/1/2018.
4
truy cập ngày 24/1/2018.


4
cơ quan khác nhau ở trung ương và địa phương. Do đó, đề tài chưa nghiên cứu
góc độ quản lý Nhà nước đối với giáo dục mầm non.
Tạ Thị Minh Thư (2009), Quản lý Nhà nước đối với giáo viên các trường
công lập thực hành giáo dục và đào tạo, Luận văn thạc sĩ luật học Đại học Luật
Thành phố Hồ Chí Minh. Đề tài này chủ yếu tập trung vào công tác quản lý Nhà
nước đối với giáo viên các trường công lập, tức là phạm vi nghiên cứu không bao
gồm các trường dân lập, các cơ sở đào tạo tư nhân. Các trường mầm non hiện nay
có thể chia thành 2 loại: trường mầm non công lập và dân lập. Đề tài này vừa
mang tính bao quát đối với tất cả các trường, cấp học nhưng lại giới hạn bởi hệ
thống trường công.
Nguyễn Minh Vương (2011), Quản lý Nhà nước về giáo dục của Ủy ban
nhân dân cấp huyện (từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh), Luận văn thạc sĩ luật học Đại

học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Đề tài này cũng đề cập đến hoạt động quản lý
Nhà nước, nhưng chỉ nghiên cứu chủ thể quản lý là Ủy ban nhân dân cấp huyện,
thêm vào đó việc nghiên cứu thực tiễn tỉnh Tây Ninh lại mang tính cụ thể, chỉ tiết,
khó có thể áp dụng cho các tỉnh thành khác vì đặc điểm tình hình kinh tế, địa lý,
văn hóa, xã hội khác nhau.
Vũ Thị Bình (2011), Quản lý Nhà nước đối với giáo dục tiểu học loại hình
cơng lập từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai, Luận văn thạc sĩ luật học Đại học Luật thành
phố Hồ Chí Minh. Luận văn nghiên cứu về quản lý Nhà nước đối với cấp tiểu học,
nêu ra thực trạng và giải pháp hoàn thiện xuất phát từ tỉnh Đồng Nai. So với đề tài
của tác giả, Luận văn này chỉ cung cấp những kiến thức tham khảo làm nền tảng ở
các vấn đề liên quan đến nội dung quản lý Nhà nước. Những vấn đề cịn lại mang
tính đặc thù của địa phương, do đó chưa mang tính khái qt cao.
Đề tài: Quyền được hưởng giáo dục và cơ sở lý luận, thực tiễn của Luật
giáo dục đại học Việt Nam, Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học cấp
trường. Đề tài nghiên cứu vấn đề giáo dục dưới lăng kính là một quyền cơng dân
trong Hiến pháp hiện hành mà chưa nghiên cứu sâu dưới góc độ quản lý của cơ
quan Nhà nước. Bên cạnh đó, đối tượng nghiên cứu của đề tài chỉ đề cập đến các
quy định của Luật giáo dục đại học Việt Nam. Với vai trị là một quyền cơng dân
được quy định trong Hiến pháp, quyền được hưởng giáo dục là quyền chung dành


5
cho tất cả những ai có quốc tịch Việt Nam khơng phân biệt độ tuổi, trong đó có
lứa tuổi học mầm non nhưng đề tài chỉ tập trung với lứa tuổi học đại học.
Mai Văn Bằng (2012), Quản lý Nhà nước đối với các cơ sở giáo dục mầm
non ngoài công lập, Luận văn thạc sĩ luật học Đại học Luật thành phố Hồ Chí
Minh. So với các đề tài ở trên, luận văn của tác giả Mai Văn Bằng nghiên cứu trực
tiếp đối với các cơ sở giáo dục mầm non ngồi cơng lập. Tác giả đã chỉ ra được
những thực trạng của giáo dục mầm non lúc bấy giờ, đưa ra kiến nghị hoàn thiện.
Tuy nhiên, đề tài này chưa phân tích được giáo dục mầm non cơng lập để so sánh

sự khác nhau với mầm non ngoài công lập. Dù vậy, đây được xem là đề tài có giá
trị tham khảo rất lớn đối với luận văn của tác giả.
Đặng Thị Hằng (2012), Hoạt động thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực
giáo dục của địa phương, Luận văn thạc sĩ luật học Đại học Luật Thành phố Hồ
Chí Minh. Đây là luận văn chuyên về pháp luật thanh tra, khiếu nại, tố cáo trong
lĩnh vực giáo dục. Thực tế, hoạt động thanh tra, kiểm tra chỉ là một nội dung của
quản lý nhà nước trong lĩnh vực giáo dục. Do đó, đề tài chưa bao quát được hết
các nội dung của quản lý nhà nước đối với cơ sở giáo dục nói chung và giáo dục
mầm non nói riêng.
Tóm lại, các cơng trình, bài viết nêu trên đã nghiên cứu những vấn đề
trong lĩnh vực giáo dục và quản lý Nhà nước về giáo dục, trong đó có quản lý
Nhà nước đối với cơ sở giáo dục mầm non ở các góc độ khác nhau. Riêng tác
giả tập trung nghiên cứu một cách hệ thống, chuyên sâu quản lý Nhà nước của
Ủy ban nhân dân cấp huyện đối với cơ sở giáo dục mầm non nói chung và từ
thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Vì vậy, đề tài này của tác giả
khơng trùng với các cơng trình đã được cơng bố từ trước đến nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận, pháp lý và thực trạng về
quản lý Nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp huyện đối với cơ sở giáo dục
mầm non, Luận văn đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực quản lý
Nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp huyện đối với cơ sở giáo dục mầm non.


6
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nói trên, Luận văn có nhiệm vụ:
Một là, nghiên cứu và phân tích làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ
bản về quản lý Nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp huyện đối với cơ sở giáo
dục mầm non.

Hai là, hệ thống hóa cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý về quản lý Nhà nước
của Ủy ban nhân dân cấp huyện đối với cơ sở giáo dục mầm non trong giai
đoạn hiện nay.
Ba là, khảo sát, phân tích, so sánh và đánh giá thực trạng quản lý Nhà
nước của Ủy ban nhân dân quận, huyện tại Thành phố Hồ Chí Minh đối với
cơ sở giáo dục mầm non trong thời gian qua.
Cuối cùng, Luận văn đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường hiệu lực
quản lý Nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp huyện đến năm 2020.
4. Phạm vi nghiên cứu
Thứ nhất, đề tài tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận, pháp lý về quản lý
Nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp huyện đối với cơ sở giáo dục mầm non
theo quy định của pháp luật hiện hành. Đề tài cũng tập trung nghiên cứu thực
trạng quản lý Nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp huyện đối với cơ sở giáo
dục mầm non để từ đó đưa ra các kiến nghị nhằm tăng cường hiệu lực quản lý
Nhà nước của Ủy ban nhân dân quận, huyện tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Thứ hai, trong quá trình thực hiện Luận văn này, tác giả tập trung khai
thác, thống kê, phân tích, xử lý những số liệu, tư liệu thực tiễn được giới hạn
chủ yếu trong 05 năm gần đây (2011 - 2015) liên quan đến quản lý Nhà nước
của Ủy ban nhân dân cấp huyện đối với các cơ sở giáo dục mầm non tại
Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và phép biện chứng của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Đường lối,


7
chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của quản lý Nhà nước của Uỷ ban
nhân dân cấp huyện đối với cơ sở giáo dục mầm non. Cụ thể như sau:
Trong Chương 1 của Luận văn, tác giả sử dụng nhuần nhuyễn phương

pháp phân tích, tổng hợp khi phân tích các khái niệm, đặc điểm của giáo dục
mầm non, khái niệm, đặc điểm của quản lý Nhà nước đối với giáo dục mầm
non. Đặc biệt, phương pháp tổng hợp, phương pháp lịch sử được chú trọng sử
dụng trong việc phân tích nội dung quản lý Nhà nước đối với cơ sở giáo dục
mầm non. Qua đó, tác giả đưa ra nền tảng lý luận vững chắc cho việc nghiên
cứu thực trạng và đề ra giải pháp khắc phục bất cập của giáo dục mầm non.
Trong chương 2 của Luận văn, tác giả sử dụng phương pháp thống kê,
so sánh, lập bảng biểu nhằm mục đích làm rõ thực trạng, mối liên hệ lẫn nhau
giữa các sự kiện, hiện tượng về giáo dục mầm non từ thực tiễn Thành phố Hồ
Chí Minh. Sau đó, phương pháp tổng hợp, logic được sử dụng nhằm vạch ra
bản chất của hiện tượng. Từ đó, phương pháp quy nạp được sử dụng để tổng
kết hiện tượng, đề ra giải pháp khắc phục vướng mắc, khó khăn.
Song song đó, tác giả cịn tham khảo ý kiến của các chuyên gia, những
người làm công tác thực tiễn nhằm thu thập thêm những thiếu sót mà pháp
luật chưa đề cập để rút ra kinh nghiệm cũng như đề ra những kiến nghị hợp lý
để thực hiện đề tài.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Với mục tiêu, phạm vi nghiên cứu đã đề cập ở trên, tác giả mong muốn:
Thứ nhất, Luận văn là cơng trình nghiên cứu cơ bản, có tính hệ thống,
toàn diện những vấn đề lý luận, pháp lý và thực trạng về quản lý Nhà nước
của Ủy ban nhân dân cấp huyện đối với cơ sở giáo dục mầm non.
Thứ hai, các kiến nghị của tác giả Luận văn nếu được các cơ quan có
thẩm quyền nghiên cứu, tiếp thu sẽ góp phần tăng cường hiệu lực quản lý Nhà
nước của Ủy ban nhân dân đối với cơ sở giáo dục mầm non.
Thứ ba, Luận văn còn là tài liệu tham khảo cho giảng viên, học viên,
sinh viên chuyên ngành về luật hành chính và những ai có quan tâm đến đề tài.


8
7. Bố cục của Luận văn

Luận văn gồm: phần mở đầu, 02 chương, kết luận, phụ lục và danh mục tài
liệu tham khảo. Trong đó:
Chương 1. Cơ sở lý luận, pháp lý về quản lý Nhà nước của Ủy ban
nhân dân cấp huyện đối với cơ sở giáo dục mầm non.
Chương 2. Thực trạng quản lý Nhà nước của Ủy ban nhân dân cấp
huyện (từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh) đối với cơ sở giáo dục mầm
non và các giải pháp hoàn thiện.


9
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CỦA ỦY BAN
NHÂN DÂN CẤP HUYỆN ĐỐI VỚI CƠ SỞ GIÁO DỤC MẦM NON
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò quản lý Nhà nước của Ủy ban
nhân dân cấp huyện đối với cơ sở giáo dục mầm non
1.1.1. Khái niệm quản lý Nhà nước đối với cơ sở giáo dục mầm non
1.1.1.1. Khái niệm cơ sở giáo dục mầm non

Hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam gồm giáo dục chính quy và giáo
dục thường xuyên. Các cấp học và trình độ đào tạo của hệ thống giáo dục
quốc dân bao gồm: (i) giáo dục mầm non (GDMN) có nhà trẻ và mẫu giáo;
(ii) giáo dục phổ thơng có tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thơng; (iii)
giáo dục nghề nghiệp có trung cấp chun nghiệp và dạy nghề; (iv) giáo dục
đại học và sau đại học (sau đây gọi chung là giáo dục đại học) đào tạo trình độ
cao đẳng, trình độ đại học, trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ5.
Ngồi ra, cịn các cơ sở giáo dục khác thuộc hệ thống giáo dục quốc
dân gồm: (a) Nhóm trẻ, nhà trẻ; các lớp độc lập gồm: lớp mẫu giáo, lớp xóa
mù chữ, lớp ngoại ngữ, lớp tin học, lớp dành cho trẻ em vì hồn cảnh khó
khăn khơng được đi học ở nhà trường, lớp dành cho trẻ tàn tật, khuyết tật, lớp
dạy nghề và lớp trung cấp chuyên nghiệp được tổ chức tại các cơ sở sản xuất,

kinh doanh, dịch vụ; (b) Trung tâm kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp; trung
tâm dạy nghề; trung tâm giáo dục thường xuyên; trung tâm học tập cộng
đồng; trung tâm ngoại ngữ, tin học; (c) Viện nghiên cứu khoa học được đào
tạo trình độ tiến sĩ, phối hợp với trường đại học đào tạo trình độ thạc sĩ6.
Như vậy, GDMN là một bậc giáo dục trong hệ thống giáo dục của Việt
Nam, với nhiệm vụ thu hút trẻ em từ 03 tháng đến 72 tháng tuổi, GDMN có
nhiệm vụ tác động một cách có tổ chức và định hướng của giáo viên mầm non
để hình thành nhân cách và phát triển nhân cách ở trẻ thông qua những hoạt
động, sinh hoạt hàng ngày. GDMN hay còn gọi là giáo dục trẻ ở tuổi tiền tiểu
5

Điều 4 Luật giáo dục 2005.
Khoản 2, Điều 16 Nghị định số 31/2011/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định
số 75/2006/NĐ-CP ngày 02 tháng 8 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật Giáo dục.
6


10
học. Qua đó, trẻ khơng phải học chữ viết, kiến thức khoa học, tốn học,….mà
chính là sự chuẩn bị cho trẻ em những tiền đề cơ bản, đầu tiên phù hợp với sự
phát triển của tâm sinh lý, nuôi dưỡng tâm hồn, thể chất chuẩn bị cho những
bước phát triển phù hợp với các bậc đào tạo tiểu học, trung học cơ sở,… sau
đó. Nói chung, GDMN thực hiện việc ni dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em
từ 03 tháng tuổi đến 06 tuổi7.
Cơ sở giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân, trong đó có cơ sở
GDMN theo quy định của pháp luật hiện hành có 3 loại hình: cơng lập, dân
lập và tư thục8. Theo đó:
Cơ sở giáo dục cơng lập do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết
định thành lập và Nhà nước trực tiếp tổ chức quản lý. Nguồn đầu tư xây dựng

cơ sở vật chất và kinh phí cho các nhiệm vụ chi thường xuyên, chủ yếu do
ngân sách Nhà nước bảo đảm.
Cơ sở giáo dục dân lập do cộng đồng dân cư ở cơ sở thành lập, đầu tư
xây dựng cơ sở vật chất và bảo đảm kinh phí hoạt động khơng vì mục đích lợi
nhuận. Cộng đồng dân cư cấp cơ sở gồm tổ chức và cá nhân tại thôn, bản, ấp,
xã, phường, thị trấn. Cơ sở giáo dục dân lập hoạt động trên cơ sở tự chủ, tự
chịu trách nhiệm về tài chính, nhân lực và được chính quyền địa phương hỗ
trợ. Không thành lập cơ sở giáo dục dân lập ở giáo dục phổ thông, giáo dục
nghề nghiệp, giáo dục đại học. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết
định cho phép thành lập cơ sở giáo dục dân lập, Ủy ban nhân dân cấp xã trực
tiếp quản lý cơ sở giáo dục dân lập.
Cơ sở giáo dục tư thục do tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ
chức kinh tế hoặc cá nhân thành lập khi được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
cho phép. Nguồn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và bảo đảm kinh phí hoạt động
của cơ sở giáo dục tư thục là nguồn vốn ngoài ngân sách Nhà nước9.
Theo Điều 25 Luật Giáo dục 2005 thì cơ sở GDMN bao gồm: nhà trẻ,
nhóm trẻ nhận trẻ em từ 03 tháng tuổi đến 03 tuổi; trường, lớp mẫu giáo nhận
7

Điều 21 Luật Giáo dục 2005.
Điều 18 Nghị định 75/2006/NĐ-CP ngày 02/8/2006 Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật Giáo dục.
9
Điều 18 Nghị định 75/2006/NĐ-CP ngày 02/8/2006 Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật Giáo dục.
8


11
trẻ em từ 03 tuổi đến 06 tuổi; trường mầm non là cơ sở giáo dục kết hợp nhà

trẻ và mẫu giáo, nhận trẻ em từ 03 tháng tuổi đến 06 tuổi.
Từ những phân tích nêu trên, có thể khái quát: “cơ sở GDMN là nhà
trẻ, nhóm trẻ, trường, lớp mẫu giáo được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
thành lập hoặc cho phép thành lập để thực hiện việc ni dưỡng, chăm sóc,
giáo dục trẻ em từ 03 tháng tuổi đến 06 tuổi với mục tiêu là giúp trẻ em phát
triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, những yếu tố đầu tiên của nhân
cách, chuẩn bị cho trẻ em vào lớp Một”.
Nhiệm vụ của cơ sở GDMN là giáo dục trẻ trong độ tuổi mầm non
gồm: (i) về thể chất, (ii) về trí tuệ, (iii) về đạo đức, (iv) về thẩm mỹ, (v) về lao
động để trẻ từng bước hình thành, phát triển nhân cách tồn diện10:
Thứ nhất, giáo dục thể chất cho trẻ mầm non.
Giáo dục thể chất là một mặt quan trọng trong giáo dục nhân cách con
người phát triển tồn diện, nó làm cho con người được phát triển và hoàn
thiện về mặt thể chất để có thể tham gia vào các mặt của đời sống xã hội. Đối
với lứa tuổi mầm non, giáo dục thể chất là một trong những nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu của gia đình và trường mầm non11. Bởi vì ở lứa tuổi này, quá
trình tăng trưởng diễn ra rất nhanh (nhanh nhất trong cuộc đời con người),
nhưng cơ thể của trẻ còn quá non nớt, dễ chịu ảnh hưởng của những tác động
bên ngoài, sức đề kháng của trẻ còn kém nên dễ mắc các bệnh nguy hiểm. Sự
phát triển lệch lạc ban đầu ở tuổi này về thể chất sẽ để lại hậu quả suốt đời và
sửa lại rất khó khăn. Chẳng hạn các dị tật như dẹt đầu, lác mắt, chân vòng
kiềng, suy dinh dưỡng,... là hậu quả của sự thiếu hiểu biết của người lớn trong
q trình chăm sóc, giáo dục trẻ em trong những năm đầu.
Trẻ có thể phát triển tốt về cơ thể nếu người lớn chú ý đầy đủ và đúng
mức đến việc bảo vệ, chăm sóc, giữ gìn sức khỏe cho trẻ. Đứa trẻ khỏe mạnh,
phát triển hài hòa, cân đối về cơ thể sẽ là cơ sở về mặt thể chất để phát triển
toàn diện nhân cách của trẻ sau này. Sự phát triển thể chất của trẻ ở lứa tuổi

10


Điều 2 Luật giáo dục 2005.
Xem thêm tại: truy cập ngày 18/1/2018.
11


12
này đặt cơ sở cho sự phát triển thể chất suốt đời sau này của trẻ, đồng thời nó
ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển tâm lí và nhân cách của trẻ.
Cơ thể khỏe mạnh giúp trẻ trở nên hoạt bát, hồn nhiên hơn và có những
xúc cảm, tình cảm lành mạnh với mình, với người khác và với thế giới xung
quanh. Trẻ khỏe mạnh sẽ thích lao động, thích làm những cơng việc tự phục
vụ mình và giúp đỡ bạn bè, người lớn xung quanh. Ở nước ta, trong những
năm gần đây đã tăng cường công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho trẻ em,
song tỷ lệ trẻ mắc các bệnh: còi xương, suy dinh dưỡng; các bệnh đường hơ
hấp, đường tiêu hố,… cịn khá cao. Ngun nhân khơng hồn tồn là do điều
kiện kinh tế, mà chủ yếu là do thiếu kiến thức chăm sóc - giáo dục thể chất
cho trẻ (thiếu hiểu biết đầy đủ về chế độ dinh dưỡng, luyện tập, bảo vệ sức
khỏe cho trẻ, về phương pháp chăm sóc sức khỏe… cho trẻ).
Như vậy, giáo dục thể chất cho trẻ lứa tuổi nhà trẻ là rất quan trọng, các
bậc cha mẹ, những người nuôi dạy trẻ cần phải đặt giáo dục thể chất lên
nhiệm vụ hàng đầu trong q trình ni - dạy trẻ
Thứ hai, giáo dục trí tuệ cho trẻ mầm non
Giáo dục thể chất gắn liền với giáo dục trí tuệ cho trẻ. Bởi lẽ, cơ thể trẻ
phát triển khỏe mạnh, hệ thần kinh được phát triển thăng bằng, các giác quan
tinh tường… sẽ giúp cho đứa trẻ tích cực hoạt động, tích cực tiếp xúc và làm
quen với mơi trường xung quanh. Nhờ đó mà hoạt động nhận cảm của trẻ
thêm phong phú và chính xác, tư duy trở nên nhạy bén. Mặt khác, trẻ khỏe
mạnh, nhanh nhẹn, khéo léo sẽ say sưa, hứng thú hơn trong quá trình tri giác
cái đẹp của thế giới xung quanh (đồ dùng, đồ chơi…) và tự nó có khả năng
tạo ra cái đẹp và sống theo cái đẹp (biết giữ gìn đồ chơi sạch đẹp, biết gọn

gàng, ngăn nắp,…). Vì vậy, giáo dục trí tuệ là một q trình sư phạm được tổ
chức một cách đặc biệt nhằm hình thành những tri thức và kỹ năng sơ đẳng,
phát triển những năng lực và nhu cầu hoạt động trí tuệ cho trẻ em.
Sự phát triển trí tuệ của trẻ em lứa tuổi mầm non được diễn ra thông
qua các hoạt động đa dạng: giao tiếp, hoạt động với đồ vật (ở lứa tuổi nhà
trẻ), hoạt động vui chơi (ở lứa tuổi mẫu giáo), đi dạo… và sinh hoạt hàng
ngày. Những tri thức mà trẻ tiếp nhận được trong cuộc sống hàng ngày


13
thường rời rạc, thiếu hệ thống. Sự phát triển trí tuệ có hiệu quả nhất được diễn
ra dưới tác động có tổ chức, có hệ thống của nhà giáo dục. Người ta gọi đó là
q trình giáo dục trí tuệ.
Giáo dục trí tuệ, đặc biệt là giáo dục và phát triển hoạt động nhận cảm
(cảm giác, tri giác), hoạt động tư duy, tưởng tượng cho trẻ em lứa tuổi mầm
non là điều rất quan trọng, vì đây là cơ hội vàng để rèn luyện các giác quan
cho trẻ, nếu bỏ lỡ cơ hội quý giá này sẽ gây ra hậu quả xấu cho việc phát triển
năng lực nhận cảm của trẻ ở những lứa tuổi tiếp theo. Việc tổ chức các hoạt
động đa dạng giúp trẻ khơng chỉ có những kinh nghiệm về cuộc sống xung
quanh, hiểu được ý nghĩa và một số tính chất của các sự vật hiện tượng mà
cịn có khả năng sắp xếp - phân loại. Từ đó, trẻ có khả năng mở rộng sự định
hướng của mình trong mơi trường xung quanh, tích cực khám phá những điều
mới lạ, hấp dẫn trong thế giới xung quanh.
Thực tiễn cho thấy, không được dạy dỗ một cách chu đáo thì những tri
thức mà trẻ có được chỉ mang tính rời rạc, khơng có tính hệ thống. Do vậy,
những biểu tượng về thế giới xung quanh của trẻ thường sai lệch. K.D. Usinxki
đã chỉ ra rằng: “Sự thông minh của trẻ chẳng qua là hệ thống tri thức có tổ chức
tốt, được người lớn hướng dẫn một cách có định hướng và có mục đích”.
Giáo dục trí tuệ gắn liền với giáo dục đạo đức cho trẻ, vì người lớn
không chỉ truyền đạt và làm giàu biểu tượng về thế giới xung quanh cho trẻ,

mà còn sử dụng nó để giáo dục đạo đức, tình cảm cho trẻ thơ. Thông qua
những câu chuyện kể, những lời ru, chơi, tập… người lớn hướng cho trẻ biết
yêu cái thiện, không tranh giành đồ chơi với bạn, biết vâng lời người lớn, biết
giữ gìn đồ dùng, đồ chơi… và dần dần hiểu được thế nào là ngoan, không
ngoan, thế nào là tốt, khơng tốt…
Giáo dục trí tuệ cịn góp phần quan trọng vào việc giáo dục thẩm mỹ
cho trẻ. Thông qua tiếp xúc với các loại hình nghệ thuật (những làn điệu dân
ca mượt mà, những điệu nhạc vui tươi, tranh ảnh hấp dẫn…), thông qua hoạt
động với đồ vật (ở lứa tuổi nhà trẻ), hoạt động tạo hình,… được sự hướng
dẫn, giúp đỡ của người lớn, đứa trẻ cảm thụ được cái đẹp từ đó khơi dậy trong
tâm hồn trẻ thơ những xúc cảm tình cảm trong sáng. Đây chính là nền tảng để


14
sau này trẻ biết nhìn nhận ra cái đẹp và tạo nên cái đẹp trong hoạt động cá
nhân cũng như trong đời sống thường ngày.
Thứ ba, giáo dục đạo đức là một bộ phận quan trọng có tính chất nền
tảng của giáo dục nhân cách con người mới. Giáo dục đạo đức là một quá
trình lâu dài, được diễn ra ngay từ khi còn thơ bé cho đến khi trưởng thành,
thậm chí suốt cuộc đời.
Đối với trẻ mầm non, giáo dục đạo đức là q trình tác động có mục
đích, có kế hoạch nhằm trang bị cho trẻ những hiểu biết sơ đẳng về những yêu
cầu của chuẩn mực hành vi đạo đức trong các mối quan hệ ứng xử, rèn cho trẻ
có tình cảm, hành vi và thói quen đúng đắn trong các mối quan hệ ứng xử
hàng ngày. Trên cơ sở đó hình thành cho trẻ những phẩm chất đạo đức, những
nét tính cách của con người Việt Nam.
Dưới sự dạy dỗ của người lớn, ngay từ những năm đầu tiên của cuộc
đời, đứa trẻ đã có những hành vi ứng xử đúng đắn, trên cơ sở đó và cùng với
nó đứa trẻ nhận ra cái tốt, cái xấu, cái được phép, cái không được phép…
trong quan hệ với người thân, với bạn bè, với đồ vật và thiên nhiên. Nghĩa là

trẻ có biểu tượng sơ đẳng về chuẩn mực hành vi đạo đức. Những biểu tượng
đầu tiên ấy để lại dấu ấn trong suốt cuộc đời. Do vậy, cần phải xây dựng cho
trẻ những khái niệm đó là sơ đẳng nhất nhưng chính xác và phản ánh được
đạo đức của xã hội, mang bản sắc dân tộc Việt Nam. Đồng thời, người lớn
cần phải uốn nắn những nhận thức, hành vi, thái độ lệch chuẩn của trẻ ngay từ
bé, tránh để những lệch lạc ấy trở thành thói quen khó sửa, khó uốn. Cổ nhân
đã dạy: “Tre non dễ uốn, tre già nổ đốt”12, “Bé chẳng vin, cả gẫy cành”13.
Phải chăng những câu nói ấy của người đời đều khẳng định ý nghĩa to lớn của
việc giáo dục đạo đức cho con người ngay từ thuở còn thơ.
Giáo dục đạo đức còn ảnh hưởng đến việc giáo dục thể chất, trí tuệ, lao
động và thẩm mỹ cho trẻ em. Nhờ giáo dục đạo đức tốt, trẻ em tự giác, tích
cực trong ăn uống, giữ gìn vệ sinh, rèn luyện thân thể, trong lao động (tự phục

12

Bùi Văn Dũng, Triết lý về giáo dục trong thành ngữ, tục ngữ Việt Nam, Tạp chí Khoa học xã hội Việt
Nam, số 7 (68) – 2013, tr. 79.
13
Bảo Như, Bé không vin, cả gãy cành, , truy
cập ngày 18/1/2018.


15
vụ); tự giác, tích cực, sáng tạo trong học tập; biết bảo vệ cái đúng, cái đẹp,
biết làm theo tiêu chuẩn của cái đẹp (ăn mặc sạch sẽ, gọn gàng ngăn nắp…).
Thứ tư, giáo dục thẩm mỹ.
Về bản chất giáo dục thẩm mỹ là một quá trình lâu dài, diễn ra một cách
có hệ thống: từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Giáo dục thẩm mỹ cho
trẻ lứa tuổi mầm non là sự khởi đầu cho toàn bộ quá trình giáo dục thẩm mỹ
trong nhà trường. Đây là một quá trình sư phạm, nhằm hình thành và phát triển

ở trẻ em năng lực ban đầu về cảm thụ và nhận thức đúng đắn cái đẹp trong đời
sống sinh hoạt, xã hội, trong tự nhiên và trong nghệ thuật, giáo dục trẻ lòng yêu
cái đẹp, sống theo cái đẹp và biết tạo ra cái đẹp trong cuộc sống.
Giáo dục thẩm mỹ là một khái niệm rộng, bao gồm việc giáo dục cho
trẻ thái độ thẩm mỹ đối với thiên nhiên, lao động, đời sống xã hội và đối với
nghệ thuật. Từ việc cho trẻ có được sự hiểu biết đúng đắn thế nào là đẹp, xấu
đến sự hình thành thái độ tích cực ủng hộ cái đẹp, loại trừ cái xấu, đồng thời
có hành vi thích hợp với bản thân để tạo ra cái đẹp cho bản thân và cái đẹp
trong cuộc sống xung quanh là một quá trình tác động sư phạm lâu dài của
người lớn (cơ giáo, cha mẹ, ơng bà…).
Đặc tính của cái đẹp và đặc tính của tuổi thơ rất gần nhau, nên trẻ nhỏ
đến cái đẹp như đến với những gì thân thiết, quý mến. Trẻ tích cực, vui sướng
khi được sống trong thế giới của cái đẹp: đồ dùng, đồ chơi đẹp, ngộ nghĩnh,
màu sắc, âm thanh của cảnh vật xung quanh hấp dẫn… Vì vậy, nếu khơng
giáo dục cái đẹp cho trẻ ngay từ khi còn nhỏ là bỏ lỡ một cơ hội trong giáo
dục con người. Có thể coi đó là một sự lãng phí đáng kể trong việc bồi bổ
những năng khiếu, những phẩm chất tốt đẹp cho tâm hồn trẻ thơ.
Mặt khác, tình u cái đẹp khơng phải là cái bẩm sinh mà nó được nảy
sinh và phát triển trong quá trình giáo dục. Một em bé sẽ khơng thể có được
tình u cái đẹp nếu chúng ta khơng tạo điều kiện để em bé đó tiếp xúc với
nhiều cái đẹp xung quanh, không làm cho những thuộc tính sinh động và
phong phú của cái đẹp tràn vào các giác quan của trẻ để ghi lại trong tâm trí
nó những ấn tượng tươi mát, dễ chịu; nếu chúng ta không biết khêu gợi ở trẻ


16
những xúc cảm tốt lành về con người và làm thức dậy trong trẻ những gì thân
thiết, gần gũi khi tiếp xúc với cái đẹp.
Giáo dục thẩm mỹ liên quan mật thiết với các mặt giáo dục nhân cách
con người phát triển toàn diện, đặc biệt là giáo dục đạo đức và giáo dục trí tuệ.

Cái đẹp của thế giới xung quanh (gia đình, trường lớp mầm non, góc sân chơi,
màu sắc, hình dáng đồ chơi…) và cái đẹp trong nghệ thuật (hát múa, thơ
truyện, tạo hình…) khơng những ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình thành nhận
thức thẩm mỹ mà cịn tác động đến việc hình thành tình cảm đạo đức cho trẻ.
Những xúc cảm thẩm mỹ có ảnh hưởng lớn đến bộ mặt đạo đức của con người.
Nhờ xúc cảm này mà tính cách của trẻ trở nên cao thượng, đời sống của trẻ
thêm phong phú, trẻ thêm lạc quan hơn trong cuộc sống… Tất cả những điều
đó tác động mạnh mẽ đến việc hình thành mối quan hệ tốt đẹp của trẻ với cuộc
sống và con người. Thông qua việc tiếp nhận những tác phẩm nghệ thuật trẻ sẽ
nhận thức đúng đắn về cái đẹp, cái xấu, cái bi, cái hài trong cuộc sống… điều
đó ảnh hưởng lớn đến việc giáo dục các phẩm chất đạo đức cho trẻ (như lịng
nhân ái, tính cộng đồng, hành vi đẹp trong cuộc sống xã hội…).
Giáo dục thẩm mỹ giúp trẻ có được cảm thụ thẩm mỹ và nhận thức sâu
sắc hơn những hiện tượng của cuộc sống, nhờ đó mở rộng tầm nhìn của trẻ,
làm cho các biểu tượng về thế giới xung quanh càng thêm sâu sắc hơn, đồng
thời khơi dậy ở trẻ lòng ham hiểu biết. Chẳng hạn, những đồ dùng, đồ chơi đẹp,
màu sắc hài hòa… sẽ giúp trẻ tri giác sự vật nhanh hơn, dễ dàng hơn, do vậy
mà dễ hình thành được biểu tượng về đồ vật đó trong đầu. Mặt khác, trên cơ sở
những biểu tượng phong phú về thế giới xung quanh được hình thành sẽ giúp
cho trẻ cảm thụ cái đẹp sâu sắc hơn, xúc cảm thẩm mỹ của trẻ trở nên mạnh mẽ
hơn. Thật vậy, xúc cảm thẩm mỹ không chỉ được xây dựng trên cơ sở cảm thụ
cái đẹp, mà còn được dựa trên cơ sở hiểu biết sâu sắc hơn nội dung cái đẹp.
Tóm lại, giáo dục thẩm mỹ là việc làm không thể thiếu được trong công
tác chăm sóc - giáo dục trẻ em lứa tuổi mầm non. Giáo dục thẩm mỹ cần được
tiến hành ngay từ nhỏ với những phương tiện đa dạng, phong phú.
Thứ năm, giáo dục lao động.


17
Thực ra đây là nội dung quan trọng trong giáo dục nhân cách con người

phát triển tồn diện, qua đó giúp hình thành nhân cách của con người14. Tuy
nhiên ở mỗi độ tuổi, nội dung và yêu cầu giáo dục lao động có sự khác nhau.
Ở lứa tuổi mầm non, nội dung giáo dục lao động là những kỹ năng lao động
đơn giản gắn với cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của trẻ và thường đặt ra ở lứa
tuổi mẫu giáo là chính. Do vậy ở mục này, chúng tơi chỉ đề cập đến vấn đề
giáo dục lao động cho trẻ em lứa tuổi mẫu giáo.
Giáo dục lao động là một bộ phận quan trọng của giáo dục phát triển tồn
diện, nhằm hình thành ở trẻ những phẩm chất của người: yêu lao động, quý trọng
người lao động; giúp trẻ nắm được một số kỹ năng lao động đơn giản phục vụ
cho sinh hoạt và chuẩn bị cho trẻ sau này tham gia vào đời sống lao động.
Giáo dục lao động có ý nghĩa quan trọng đối với các mặt giáo dục khác
và có quan hệ mật thiết với chúng, giúp cho q trình giáo dục nhân cách phát
triển tồn diện diễn ra thuận lợi:
Như vậy, cơ sở GDMN là nơi đặt nền móng ban đầu cho sự phát triển
về thể chất, trí tuệ, tình cảm, thẩm mỹ của trẻ em. Việc chăm lo phát triển cơ
sở GDMN là trách nhiệm chung của các cấp chính quyền, của mỗi ngành, mỗi
gia đình và tồn xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà
nước. Nhà nước có trách nhiệm quản lý, đầu tư phát triển cơ sở GDMN; đồng
thời tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế, chính sách, đẩy mạnh cơng tác xã hội
hố; Nhà nước có chính sách ưu tiên đầu tư phát triển GDMN ở các vùng có
điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn, vùng núi, vùng sâu,
vùng xa, hải đảo, biên giới. Việc chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non phải được
thực hiện với sự phối hợp, gắn kết chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã
hội. Coi trọng và nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức
chăm sóc, giáo dục trẻ cho các bậc phụ huynh, cha mẹ của trẻ nhằm thực hiện
đa dạng hố phương thức chăm sóc, giáo dục trẻ em. Từng bước thực hiện đổi
mới nội dung, phương pháp giáo dục mầm non theo nguyên tắc bảo đảm đồng

14


Nguyễn Văn Thanh, Giáo dục nhân cách cho học sinh thông qua lao động, truy cập ngày 17/1/2018.


18
bộ, phù hợp, tiên tiến, gắn với đổi mới giáo dục phổ thông, chuẩn bị tốt cho
trẻ vào lớp Một, góp phần tích cực, thiết thực nâng cao chất lượng giáo dục15.
1.1.1.2. Khái niệm quản lý Nhà nước đối với cơ sở giáo dục mầm non

Có rất nhiều quan điểm khác nhau về quản lý. Có quan điểm cho rằng
quản lý là hành chính, là cai trị16, có quan điểm khác lại cho rằng quản lý là
điều hành, điều khiển, chỉ huy17. Nhưng xét dưới góc độ chính trị - xã hội thì
quản lý được hiểu: “Quản lý là sự tác động có ý thức để chỉ huy, điều khiển
các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người nhằm đạt đến mục
tiêu, đúng ý chí của chủ thể quản lý và phù hợp với quy luật khách quan”18.
Tùy theo góc độ, lĩnh vực nghiên cứu mà có những quan niệm khác
nhau về quản lý. Có quan niệm cho rằng quản lý là hành chính, là cai trị; quan
niệm khác lại cho rằng quản lý là điều hành, điều khiển, chỉ huy. Các cách nói
này khơng có gì khác nhau về nội dung mà chỉ khác nhau ở chỗ dùng thuật ngữ.
Song nếu xem xét quản lý dưới góc độ chính trị - xã hội và góc độ hành
động thiết thực, thì: “Quản lý là sự tác động có ý thức để chỉ huy, điều khiển
các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người nhằm đạt đến mục
tiêu đúng ý chí của chủ thể quản lý và phù hợp với quy luật khách quan”19.
Theo thuật ngữ pháp lý Việt Nam: “Quản lý là điều khiển, chỉ đạo một hệ
thống hay một quá trình căn cứ vào những quy luật, luật định hay nguyên tắc
tương ứng để cho hệ thống hay quá trình vận động theo ý muốn của người
quản lý và nhằm đạt được những mục đích đã định trước”20.
Theo giáo trình Khoa học hành chính thì: “quản lý có thể được hiểu là
sự tác động có định hướng và tổ chức của chủ thể quản lý lên đối tượng quản
lý bằng các phương thức nhất định để đạt tới những mục tiêu nhất định”21.


15

Quyết định số:149/2006/QĐ-TTg ngày 23/6/2006 của Thủ Tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển
mầm non giai đoạn 2006-2015.
16
Đại học Quốc gia Hà Nội (2007), Bài giảng quản lý hành chính nhà nước về Giáo dục và Đào tạo-Phần II,
Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, Hà Nội, tr.16.
17
Đại học Quốc gia Hà Nội, tlđd số 4, tr.16.
18
Đại học Quốc gia Hà Nội, tlđd số 4, tr.16.
19
Nguyễn Tuấn Dũng-Đỗ Minh Hợp (2002), Từ điển quản lý xã hội, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.180.
20
Nguyễn Ngọc Điệp (1999), 1200 Thuật ngữ pháp lý Việt Nam, Nhà xuất bản Tp Hồ Chí Minh, tr.258.
21
Học viện Chính trị-Hành chính Qc gia Hồ Chí Minh (2010), Giáo trình Trung cấp lý luận Chính trịHành chính-Khoa học hành chính (tập 1), Nhà xuất bản Chính trị-Hành chính, Hà Nội, tr.54.


19
“Quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý trong việc huy động, phát
huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối các nguồn lực (nhân lực, vật lực,
tài lực) trong và ngoài tổ chức (chủ yếu là nội lực) một cách tối ưu nhằm đạt
mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất”22.
Theo PGS.TS Nguyễn Cửu Việt cho rằng: “quản lý là đối tượng nghiên
cứu của nhiều ngành khoa học tự nhiên và xã hội, vì vậy mỗi ngành khoa học
định nghĩa về quản lý dưới góc độ riêng của mình. Nhưng quan niệm chung
nhất về quản lý là do điều khiển học đưa ra. Đó là sự tác động có định hướng
bất kỳ lên một hệ thống nào đó nhằm trật tự hóa nó và hướng nó phát triển
phù hợp với những quy luật nhất định”23.

Từ nhận thức cơ bản về bản chất của quản lý như đã nêu trên thì: “quản
lý là sự tác động có định hướng, có tổ chức, có kế hoạch của chủ thể quản lý
đến đối tượng quản lý nhằm trật tự hóa và định hướng nó phát triển phù hợp
với những quy luật nhất định”.
Khi Nhà nước ra đời, các mối quan hệ trong xã hội cần có sự điều chỉnh
theo khn khổ nhất định thì cũng là lúc xuất hiện quản lý Nhà nước. “Quản
lý Nhà nước là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực Nhà
nước đối với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người do hệ
thống cơ quan Nhà nước từ trung ương đến cơ sở tiến hành dựa trên cơ sở
pháp luật để thực hiện luật pháp Nhà nước. Quản lý Nhà nước là hoạt động
của Nhà nước trên các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm thực
hiện chức năng đối nội và đối ngoại của Nhà nước”24.
“Quản lý Nhà nước là tổ chức, điều hành các hoạt động kinh tế - xã hội
theo quy định của pháp luật”25.
Quản lý Nhà nước theo nghĩa rộng là toàn bộ hoạt động của Nhà nước
nói chung, mọi hoạt động mang tính chất Nhà nước, nhằm thực hiện các nhiệm
vụ, chức năng của Nhà nước. Như vậy, quản lý Nhà nước theo nghĩa rộng là
quản lý toàn bộ xã hội bằng các hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp.
22

Trần Kiểm (1997), Giáo trình quản lý giáo dục và trường học, Viện khoa học giáo dục, Hà Nội, tr.15.
Nguyễn Cửu Việt (2010), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia,
TP.HCM, tr.42.
24
Sách 1.200 thuật ngữ pháp lý Việt Nam (1999), Nhà xuất bản TP.HCM, tr.199.
25
Hòang Phi (chủ biên) (2000), Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, tr.187
23



20
Quản lý Nhà nước theo nghĩa hẹp là quản lý Nhà nước không bao gồm
hoạt động lập pháp và tư pháp của Nhà nước mà đó là hoạt động hành pháp hoạt động chấp hành hiến pháp, luật và điều hành trên cơ sở hiến pháp và các
luật đó.
Như vậy, quản lý Nhà nước là hoạt động mang tính chất quyền lực Nhà
nước, được sử dụng quyền lực Nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Quản lý Nhà nước được xem là một hoạt động chức năng của Nhà nước trong
quản lý xã hội và có thể xem là hoạt động chức năng đặc biệt.
Chấp hành là sự thực hiện trên thực tế các luật và văn bản mang tính
chất luật của Nhà nước. Điều hành là hoạt động trên cơ sở luật để chỉ đạo trực
tiếp hoạt động đối tượng bị quản lý, đặc trưng của hoạt động điều hành là các
cơ quan hành chính (chủ thể quản lý) ra văn bản dưới luật mang tính chủ đạo,
quy phạm hoặc cá biệt và chúng được đảm bảo thực hiện bằng sự thuyết phục,
giáo dục, cưỡng chế,…
Trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước
bao gồm có: Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ, cơ quan ngang bộ có
liên quan và Ủy ban nhân dân các cấp. Trong đó, Chính phủ thống nhất quản
lý Nhà nước về giáo dục; Bộ Giáo dục và Đào tạo chịu trách nhiệm trước
Chính phủ thực hiện quản lý Nhà nước về giáo dục; Bộ, cơ quan ngang Bộ
phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện quản lý Nhà nước về giáo dục
theo thẩm quyền và Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý Nhà nước về
giáo dục - đào tạo theo phân cấp được giao.
Quản lý Nhà nước đối với cơ sở GDMN bao gồm hệ thống các chính
sách, nguyên tắc, quy chế, chế độ... các mối quan hệ, cách thức vận hành các
hoạt động quản lý ở các cấp giữa chủ thể và đối tượng quản lý trong hoạt
động GDMN theo quy định của pháp luật. Quản lý Nhà nước đối với cơ sở
GDMN thể hiện rõ ở sự phân cấp và ủy quyền giữa các cấp và chủ thể quản lý
đối với đối tượng bị quản lý.
Quản lý Nhà nước đối với cơ sở GDMN là hệ thống những tác động có
hướng đích của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (chủ thể quản lý) đến các



×