Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Quyền bào chữa trong tố tụng hình sự việt nam (2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 79 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
BAN ĐIỀU HÀNH
CÁC CHƢƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO ĐẶC BIỆT

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
HỆ CHÍNH QUY
KHĨA 34 (KHĨA HỌC 2009 - 2013)

QUYỀN BÀO CHỮA TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM

SINH VIÊN: HỒNG MINH DỰ
MSSV: 0955020023
LỚP: CHẤT LƯỢNG CAO 34
GVHD: TS. VÕ THỊ KIM OANH

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NĂM 2013


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành khóa luận này, tác giả xin chân thành cảm ơn gia đình, thầy cơ,
bạn bè đã giúp đỡ tác giả rất nhiều trong thời gian nghiên cứu cũng như trong suốt
quá trình học tập tại trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. Tác giả xin gửi lời cảm
ơn sâu sắc đến tất cả các thầy cơ đã giảng dạy lớp Chất lượng cao Khóa 34, đặc biệt
là TS. Võ Thị Kim Oanh, người đã tận tâm hướng dẫn và giúp đỡ để tác giả hồn
thành tốt khóa luận này.


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật “Quyền bào chữa trong tố


tụng hình sự Việt Nam” là cơng trình của riêng cá nhân tơi. Mọi tài liệu tham khảo,
số liệu được sử dụng trong bản luận văn đều được trích dẫn đầy đủ và việc tổng hợp,
phân tích là kết quả nghiên cứu của cá nhân tơi, khơng sao chép từ các cơng trình
khác.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 16 tháng 07 năm 2013
Ngƣời thực hiện

Hoàng Minh Dự


MỤC LỤC
Lời nói đầu ..................................................................................................................... 1
CHƢƠNG I. NHẬN THỨC CHUNG VỀ QUYỀN BÀO CHỮA TRONG TỐ
TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm quyền bào chữa ..................................................................................... 5
1.2. Đặc điểm của quyền bào chữa .............................................................................. 8
1.3. Chủ thể của quyền bào chữa và chủ thể có trách nhiệm đảm bảo quyền bào
chữa ...............................................................................................................................13
1.4. Nội dung của quyền bào chữa ...............................................................................15
1.5. Vai trò của quyền bào chữa trong tố tụng hình sự .................................................18
1.6. Điều kiện đảm bảo quyền bào chữa .......................................................................19
1.7. Lịch sử chế định quyền bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam từ 1945 đến
trước năm 2003 .............................................................................................................21
CHƢƠNG II. PHÁP LUẬT THỰC ĐỊNH VỀ QUYỀN BÀO CHỮA
2.1. Pháp luật thực định về chủ thể của quyền bào chữa và chủ thể có trách nhiệm
bảo đảm quyền bào chữa ...............................................................................................24
2.2. Pháp luật thực định về nội dung quyền bào chữa ..................................................26
2.2.1. Pháp luật thực định về quyền tự bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo..................................................................................................................................26
2.2.2. Pháp luật thực định về quyền nhờ người khác bào chữa ....................................32

2.2.2.1. Việc nhờ người khác bào chữa theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 ..........32
2.2.2.2. Nội dung quyền nhờ người khác bào chữa theo Bộ luật tố tụng hình sự
2003 ..............................................................................................................................36
2.2.3. Pháp luật thực định về quyền có người bào chữa chỉ định .................................39


2.3. Trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc đảm bảo quyền bào
chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo .....................................................................43
CHƢƠNG III. THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUYỀN BÀO CHỮA VÀ ĐỊNH
HƢỚNG HOÀN THIỆN QUYỀN BÀO CHỮA TRONG TỐ TỤNG VIỆT
NAM
3.1. Thực tiễn áp dụng quyền bào chữa từ năm 2007 đến nay ....................................46
3.1.1. Những thành tựu đạt được trong việc thực hiện quyền bào chữa của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo ...................................................................................................46
3.1.2. Những hạn chế trong việc thực hiện quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo ......................................................................................................................48
3.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong việc thực hiện quyền bào chữa ...............49
3.2.1. Những bất cập của quy định pháp luật ...............................................................49
3.2.2. Những nguyên nhân trong việc áp dụng pháp luật .............................................56
3.3. Định hướng hoàn thiện quyền bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam .............60
3.3.1. Cơ sở và định hướng hoàn thiện quyền bào chữa ...............................................60
3.3.2. Những kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện quyền bào chữa trong tố tụng hình
sự Việt Nam ...................................................................................................................62
Kết luận .........................................................................................................................69
Danh mục tài liệu tham khảo .........................................................................................71


CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG KHÓA LUẬN

Quyền bào chữa


QBC

Bộ luật tố tụng hình sự

BLTTHS

Tố tụng hình sự

TTHS

Tiến hành tố tụng

THTT

Cơ quan Điều tra

CQĐT

Viện kiểm sát

VKS

Tòa án

TA

Người bào chữa

NBC



Lời nói đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người nói chung và quyền con người trong tố tụng hình sự nói riêng là
một giá trị cao q, mang tính nhân văn sâu sắc trong lịch sử phát triển của nhân loại.
Đây là đặc trưng tự nhiên vốn có của mỗi người được pháp luật của những nhà nước
văn minh tiến bộ ghi nhận, tôn trọng và bảo đảm. Trong giai đoạn hiện nay, quyền con
người được nhận thức đầy đủ và toàn diện như một giá trị cốt lõi trong quá trình xây
dựng cũng như áp dụng pháp luật. Gắn liền với quyền con người trong tố tụng hình sự,
quyền bào chữa (QBC) có vị trí vơ cùng quan trọng. Đây là công cụ hữu hiệu để đảm
bảo quyền con người và đồng thời cũng là một quyền tự nhiên cần được tôn trọng và
bảo vệ của người bị buộc tội. Trên bình diện pháp luật quốc tế, QBC được ghi nhận với
tư cách là một chuẩn mực chung, giá trị cao đẹp. Điều này thể hiện bằng việc QBC
được quy định trong nhiều văn bản pháp lý quốc tế quan trọng cũng như được ghi nhận
trong pháp luật của nhiều quốc gia như một quyền cơ bản của người bị buộc tội mà Nhà
nước phải có trách nhiệm bảo đảm.
QBC đã được quy định trong Hiến pháp 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001 và Bộ
luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 với nhiều nội dung tiến bộ. Tuy nhiên, trong
những năm qua, những quy định này đã bộc lộ nhiều bất cập cả về mặt quy định lẫn
thực tiễn áp dụng nên chưa đáp ứng được vai trò quan trọng của QBC. Các chủ thể thực
hiện quyền này vẫn cịn gặp nhiều khó khăn, rào cản để phát huy hết khả năng của mình
để bào chữa cho người bị buộc tội. Việc áp dụng các quy định về QBC gặp những hạn
chế xuất phát từ chính người bị buộc tội, cơ quan tiến hành tố tụng (THTT) và từ người
bào chữa (NBC).
Trong điều kiện nước ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và
đặc biệt là công cuộc cải cách tư pháp thì quyền con người ln đặt lên hàng đầu và
ln được xem là vấn đề trọng tâm. Do đó, để xây dựng một nền tư pháp dân chủ vững
mạnh thì vấn đề tơn trọng và bảo đảm quyền con người phải được coi là mục tiêu then
chốt. Từ mục tiêu này, việc phát huy hơn nữa hiệu quả của QBC trong quá trình giải

1


quyết vụ án hình sự là một yêu cầu quan trọng. Đây là động lực, định hướng để hoàn
thiện chế định đầy tính nhân văn này.
Từ những cơ sở khoa học và thực tiễn nêu trên, việc nghiên cứu về QBC có ý
nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm quyền con người trong TTHS. Đây chính là lý do
tác giả lựa chọn đề tài: “Quyền bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam” làm Khóa
luận tốt nghiệp cử nhân Luật niên khóa 2009 – 2013.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây, liên quan đên vấn đề quyền bào chữa trong TTHS đã
có một số tác giả nghiên cứu trên nhiều khía cạnh khác nhau. Đó là Luận Văn Thạc sĩ
luật học “Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
trong tố tụng hình sự Việt Nam và Thụy Điển” vào năm 2004 của tác giả Lương Thị Mỹ
Quỳnh. Luận văn đã nghiên cứu các vấn đề liên quan đến việc đảm bảo QBC dưới góc
độ về một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự. Luận văn Thạc sĩ “Bảo
đảm quyền bào chữa của bị can,bị cáo là người chưa thành niên trong tiến trình cải
cách tư pháp ở Việt Nam” vào năm 2009 của tác giả Nguyễn Hữu Thế Trạch được phân
tích tập trung vào việc bảo đảm quyền tố tụng cho một nhóm chủ thể đặc biệt là người
bị buộc tội chưa thành niên. Đề tài nghiên cứu khoa học “Thực tiễn bảo đảm quyền có
người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam và những đề xuất hoàn thiện” vào năm
2010 của tác giả Lương Thị Mỹ Quỳnh, được khai thác khía cạnh thực tiễn áp dụng và
cơ chế nhằm đảm bảo quyền được nhờ người khác bào chữa và quyền có NBC chỉ định.
Luận án Tiến sĩ luật học “Bảo đảm quyền có người bào chữa của người bị buộc tội – So
sánh giữa luật tố tụng hình sự Việt Nam, Đức và Mỹ” năm 2011 của tác giả Lương Thị
Mỹ Quỳnh, nghiên cứu độ góc độ Luật học so sánh vấn đề đảm bảo quyền được nhờ
người khác bào chữa của ba hệ thống pháp luật tố tụng hình sự. Luận án này có phạm vi
nghiên cứu rộng hơn so với khóa luận. Liên quan trực tiếp đến khóa luận này là Luận
văn “Quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam” vào năm 2008 của tác giả Nguyễn Thị Thanh Hồng. Tác giả đã đưa ra

khái niệm, cơ sở cũng như quy định pháp luật về quyền bào chữa một cách tương đối

2


đầy đủ, tuy nhiên phần kiến nghị hướng hoàn thiện của quyền bào chữa vẫn chưa rõ
ràng, toàn diện.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu và đối tƣợng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu: Việc nghiên cứu khóa luận này được tác giả sử dụng
phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử nhằm phân tích các vấn đề lý
luận và thực tiễn. Ngoài ra, tác giả sử dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm
của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về cải cách tư
pháp, bảo vệ quyền con người.
Đồng thời, sử dụng các phương pháp nghiên cứu điển hình trong lĩnh vực luật học
như: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh.
Đối tượng nghiên cứu: một loại quyền năng đặc thù trong TTHS Việt Nam. Quyền
năng đặc thù này thuộc về một chủ thể đặc biệt, đóng vai trị trung tâm trong q trình
tố tụng đó là người bị buộc tội.
4. Mục đích và phạm vi nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu. Mục đích xuyên suốt của Khóa luận này là nghiên cứu thấu
đáo và có hệ thống quyền năng tố tụng đặc thù này để từ đó hồn thiện chế định QBC
trong TTHS Việt Nam. Chính vì vậy, trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận chung
về QBC trong TTHS, phân tích quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng
tác giả sẽ đưa ra những đề xuất kiến nghị để hoàn thiện QBC trong TTHS Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu. Với tên gọi “Quyền bào chữa trong tố tụng hình sự Việt
Nam”, khóa luận này có phạm vi nghiên cứu như sau:
Thứ nhất, QBC là một quyền mang tính quốc tế. Vì thế khi nghiên cứu những vấn
đề lý luận của quyền này tác giả sẽ phân tích dưới góc độ chung mà khơng đi sâu vào
tìm hiểu pháp luật của một quốc gia cụ thể.
Thứ hai, trong phần II của Khóa luận tác giả sẽ tập trung phân tích về pháp luật

thực định về QBC trong pháp luật thực định Việt Nam, ngồi ra có liên hệ với một số
quy định của pháp luật nước ngoài.

3


Thứ ba, trong phần III của Khóa luận tác giả sẽ chỉ phân tích thực tiễn của việc áp
dụng QBC từ năm 2007 đến nay để đảm bảo tính tập trung cũng trùng lặp với một số
cơng trình khoa học trước đó.
5. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của Khóa luận
Ý nghĩa khoa học: Khóa luận sẽ đưa ra những kiến thức lý luận cơ bản và có hệ
thống về QBC về khái niệm, đặc điểm, các chủ thể có liên quan đến QBC, nội dung, vai
trị và lịch sử hình thành và phát triển QBC trong TTHS Việt Nam. Đồng thời tác giả sẽ
trình bày và phân tích những quy định của pháp luật hiện hành về QBC từ đó sẽ có cái
nhìn tồn diện về chế định này. Từ đó, các cơng trình khoa học tiếp theo có được một
nguồn tài liệu tham khảo phù hợp.
Ý nghĩa thực tiễn: Trình bày và phân tích để từ đó thấy được việc áp dụng chế định
QBC với những mặt đạt được và chưa được trong thực tiễn. Qua đó, đóng góp vào việc
sửa đổi các quy định của pháp định hiện hành về QBC.
6. Cơ cấu của khóa luận
Ngồi lời nói đầu và kết luận, Khóa luận bao gồm ba chương như sau:
Chương I. Nhận thức chung về quyền bào chữa trong tố tụng hình sự.
Chương II. Pháp luật thực định về quyền bào chữa.
Chương III. Thực tiễn áp dụng quyền bào chữa và đề xuất hoàn thiện quyền bào chữa
trong tố tụng hình sự Việt Nam.

4


CHƢƠNG I. NHẬN THỨC CHUNG VỀ QUYỀN BÀO CHỮA TRONG

TỐ TỤNG HÌNH SỰ

1.1

Khái niệm quyền bào chữa
QBC là một trong những chế định quan trọng và phức tạp, vừa mang tính lí luận,

vừa mang tính thực tiễn cao1. Đã có nhiều tác giả nghiên cứu về QBC do đó nảy sinh
nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm QBC. Chính vì vậy, việc thống nhất khái niệm
về QBC là một cơ sở để nghiên cứu thấu đáo chế định này. Một số quan điểm về khái
niệm QBC là:
 Quan điểm thứ nhất cho rằng: “QBC là tổng hoà các hành vi tố tụng hướng tới
việc bác bỏ sự buộc tội và xác định bị can khơng có lỗi hoặc nhằm làm giảm trách
nhiệm của bị can”2. Ngoài ra, cùng chủ thể của QBC là bị can nhưng có ý kiến cịn cho
rằng mục đích của QBC khơng chỉ dừng lại ở việc bác bỏ một phần hay toàn bộ sự buộc
tội và đưa ra các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà cịn thể hiện thể hiện trong
việc bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của bị can kể cả khi các quyền và lợi ích ấy
của bị can không trực tiếp liên quan đến việc giảm nhẹ trách nhiệm của bị can trong vụ
án3.
 Quan điểm thứ hai cho rằng: QBC chỉ xuất hiện vào thời điểm hồ sơ vụ án được
chuyển sang TA và quyền đó chỉ thuộc về bị cáo. Đây là quan điểm được thừa nhận phổ
biến ở một số nước theo hệ thống Pháp luật Common Law4. Học giả Philip.L.Reichel
nhận định rằng: “QBC chỉ thuộc về bị cáo và bị cáo có quyền im lặng”.5
 Quan điểm thứ ba cho rằng QBC không những thuộc về bị can, bị cáo mà còn
thuộc về những người tham gia tố tụng khác như người bị kết án thậm chí cịn là quyền
1

Hồng Thị Sơn, Về khái niệm QBC và việc bảo đảm QBC của bị can, bị cáo, Tạp chí Luật học số 05 năm 2000,
trang 39.
2

Hồng Thị Sơn, chú thích số 1, trang 39
3
Nguyễn Trọng Phúc, Về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong Luật TTHS Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật số 2/2008, tr.78.
4
Lương Thị Mỹ Quỳnh, Nguyên tắc bảo đảm QBC của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS Việt Nam và
Thụy Điển, Luận văn Thạc sĩ Luật học,TP.HCM, 2004, trang 9
5
Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý, Chuyên đề Tư pháp hình sự so sánh, Thông tin Khoa học pháp lý, 1999,
tr.78

5


của người bị hại, nhân chứng, giám định viên và của những người khác nếu quyền và lợi
ích hợp pháp của họ bị xâm phạm.6
 Quan điểm thứ tư cho rằng: QBC chỉ thuộc về bị can, bị cáo chứ không thuộc về
đối tượng nào khác và quyền này chỉ giới hạn trong việc bác bỏ một phần hay toàn bộ
lời buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm cho bị can, bị cáo7.
 Quan điểm thứ năm cho rằng: QBC là tổng hợp những quyền của người bị bắt,
khám xét khẩn cấp, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị kết án, người bào chữa
nhằm (tự) bảo vệ đương sự khỏi sự buộc tội, kết tội oan, sai của cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng bằng hành động đưa ra lý lẽ, chứng cứ xác định vơ tội, tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự8.
Theo quan điểm cá nhân, tác giả khơng hồn tồn đồng ý với các quan điểm này ở
ba góc độ dưới đây:
Thứ nhất, về nội hàm của QBC là tập hợp các quyền mà pháp luật dành cho một
số chủ thể nhất định chứ không phải là các hành vi cụ thể. Nếu QBC là các hành vi thì
có nghĩa là chủ thể của quyền này bắt buộc phải có những hành vi tố tụng cụ thể để bảo
vệ mình. Như vậy, họ khơng được phép lựa chọn giữa việc có sử dụng hay khơng sử

dụng các quyền của mình. Các hành vi cụ thể để hướng tới việc bào chữa là hệ quả của
việc thực hiện QBC còn tập hợp của những hành vi này không thể được coi là QBC.
Nếu đồng ý với quan điểm này thì chúng ta sẽ đi ngược với lý luận chung về khái niệm
quyền, nghĩa vụ trong một quan hệ pháp luật. Đây là lý do tác giả không đồng ý với
quan điểm thứ nhất.
Thứ hai, về mục đích của QBC: là để chứng minh sự vô tội của người người bị
buộc tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho họ. Theo ý kiến tác giả, quan điểm
thứ nhất và quan điểm thứ ba thì đã có sự nhầm lẫn giữa mục đích chung của tất cả các
quyền tố tụng của các chủ thể với mục đích riêng biệt của QBC. Việc bảo vệ quyền và
lợi ích của các chủ thể là mục đích của nhiều quyền năng tố tụng khác nhau. Quyền và
6

Hồng Thị Sơn, chú thích số 1, tr. 39 và Lương Thị Mỹ Quỳnh, chú thích số 4, tr. 9.
Hồng Thị Sơn, chú thích số 1, tr. 39.
8
Nguyễn Trọng Phúc, chú thích số 3, tr.83
7

6


lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia tố tụng rất đa dạng như quyền được suy đốn
vơ tội, quyền quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an tồn và bí mật thư tín, điện thoại,
điện tín… Tuy nhiên không phải tất cả những quyền và lợi ích của các chủ thể đều là
mục tiêu để hướng đến của QBC. Do đó, QBC và quyền được bảo vệ các quyền và lợi
ích hợp pháp là hai vấn đề hồn tồn khác nhau. Như vậy, cho dù có cùng một chủ thể
thể thì hai quyền này cũng tách biệt, độc lập với nhau. Mục đích của bào chữa là hoạt
động nhằm bảo vệ một cá nhân trước sự buộc tội nhằm tránh oan sai cho cá nhân này.
Chính vì vậy, mục đích hướng tới của QBC sẽ chỉ nằm trong phạm vi xác định một
người không thực hiện hành vi phạm tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để tương

xứng với tính chất của hành vi phạm tội và nhân thân của cá nhân đó.
Thứ ba, về chủ thể của QBC. Đây là yếu tố quan trọng để đưa ra một định nghĩa
chính xác nhất về QBC. Theo tác giả, QBC là một quyền tố tụng đặc biệt và chỉ thuộc
về người bị buộc tội. Đối với quan điểm về chủ thể của QBC, tác giả tán thành với ý
kiến cho rằng QBC chỉ xuất hiện ở chỗ mà ở đó có sự buộc tội và QBC thuộc về người
nào khi người đó bị buộc tội9. Việc xác định chủ thể của quyền này, xuất phát từ mục
đích của QBC đó là “chống lại” sự buộc tội khơng có căn cứ hoặc làm giảm trách nhiệm
hình sự cho người bị buộc tội. Như vậy, chỉ những người nào đang bị “buộc tội” mới có
QBC. Các quan điểm ở trên chưa thể hiện hết được sự khái quát về chủ thể của QBC.
Bản thân QBC là một quyền mang tính quốc tế, vì vậy quy định thế nào về khái niệm
“người bị buộc tội” sẽ tùy thuộc vào quy định pháp luật TTHS của từng nhà nước khác
nhau và trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau. Chẳng hạn, Điều 30 Bộ luật, tố tụng
hình sự Nhật Bản quy định: người bị buộc tội (the accused), người bị tình nghi (the
suspect) có quyền được chỉ định luật sư bất cứ lúc nào10. Điều 38, Bộ luật tố tụng hình
sự của chính quyền Sài Gịn trước đây quy định: “Trong giai đoạn điều tra sơ vấn nghi
can bị bắt giữ hoặc bị điều tra phải biết ngay là phạm tội gì và có quyền nhờ luật sư dự

9

Phạm Hồng Hải, Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 1999, tr.26
Tham khảo bản Tiếng Anh tại truy cập
ngày 28/04/2013
10

7


kiến”11. Khái niệm “người bị buộc tội” không thống nhất mà sẽ tùy vào quan điểm, cách
nhìn nhận khác nhau của những nhà nước trong quá trình lập pháp TTHS.
Từ những phân tích kể trên tác giả cho rằng cần đưa khái niệm QBC như sau:

“Quyền bào chữa là tổng hợp tất cả các quyền mà pháp luật dành cho người bị
buộc tội sử dụng để chống lại sự buộc tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho
họ”.
1.2

Đặc điểm của quyền bào chữa
Thứ nhất, QBC là một quyền cơ bản của con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự.
Trong lĩnh vực tư pháp hình sự, quyền con người được thể hiện ở hai góc độ:

quyền của con người sống trong xã hội cần được bảo vệ trước hành vi phạm tội; và
quyền con người của những người thực hiện hành vi phạm tội xâm phạm đến quyền của
người khác, gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. QBC là
quyền cơ bản của người bị buộc tội theo góc độ thứ hai. Trong quá trình tố tụng, người
bị buộc tội rất dễ bị buộc tội oan sai hay chịu trách nhiệm hình sự nặng hơn so với hành
vi phạm tội của họ. Để tránh tình trạng đó, QBC phải được ghi nhận như một yêu cầu
tất yếu và cũng là phương tiện pháp lý vô cùng quan trọng để mỗi công dân có thể bảo
vệ mình. Việc bào chữa là quyền cơ bản chứ không phải là nghĩa vụ pháp lý của người
bị buộc tội. Nắm được nhận thức này sẽ có vai trị quan trọng trong giải quyết vụ án
hình sự. Một là việc không sử dụng quyền bào chữa khơng có nghĩa người bị buộc tội
đương nhiên đã thừa nhận hành vi phạm tội. Hai là việc sử dụng quyền bào chữa của
người bị buộc tội không được coi như bằng chứng về thái độ “ngoan cố”, không chịu
nhận tội của người bị buộc tội12.
QBC trong TTHS còn là một quyền phòng vệ tự nhiên của con người, bởi mỗi một
cá nhân muốn tồn tại và phát triển trong xã hội thì phải có quyền tự vệ. Trong đời sống
xã hội, cá nhân có thể sẽ phải chịu những tác động xấu từ đời sống xã hội bất lợi cho cá
nhân mình. Những tác động hay cụ thể là những sự “tấn cơng” này được thể hiện bằng
11

Hồng Thị Sơn, chú thích số 1, tr.40
Trần Quang Tiệp, Về đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS, NXB.

Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr.37.
12

8


nhiều cách thức khác nhau về vật chất hay tinh thần. Với những tác động tiêu cực như
vậy cá nhân phải có những phản ứng phù hợp để có thể tồn tại được. Những phản ứng
này mang tính phịng vệ để gạt bỏ, chống lại những tác động bất lợi ảnh hưởng trực tiếp
đến bản thân mình. Hoạt động buộc tội là một trong những ảnh hưởng tiêu cực đến cá
nhân. Bởi khi bị buộc tội, một cá nhân sẽ có nguy cơ phải chịu trách nhiệm hình sự, loại
trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất của Nhà nước. Đó là một hậu quả pháp lý bất lợi
mà anh ta phải chịu tương xứng khi hành vi của anh ta được chứng minh là đã vi phạm
pháp luật hình sự. Như vậy, để có thể bảo vệ được bản thân mình thốt khỏi hậu quả bất
lợi này, một cá nhân phải có quyền bào chữa như một quyền tự nhiên của con người.
Thứ hai, QBC có mối quan hệ mật thiết với các quyền khác trong pháp luật TTHS.
QBC có mối quan hệ biện chứng với các quyền cơ bản khác của người bị buộc tội:
quyền được suy đốn vơ tội, quyền được xét xử công bằng. Đồng thời, QBC được thực
hiện thông qua các quyền tố tụng cụ thể của chủ thể thực hiện quyền này.
Quyền được suy đoán vô tội là quyền của người bị buộc tội không được coi là có
tội cho đến khi có Bản án có hiệu lực của TA kết luận về việc có hành vi phạm tội của
họ. Quyền suy đốn vơ tội là tiền đề để người bị buộc tội thực hiện được quyền bào
chữa của mình. Chỉ khi người bị buộc tội được coi là chưa có tội, họ mới có quyền
chứng minh chứ khơng có nghĩa vụ chứng minh mình vơ tội, đây chính là một trong
những cơ sở để họ thực hiện quyền bào chữa của mình13. Ngược lại, QBC đảm bảo pháp
lý cho quyền được suy đốn vơ tội. Thực hiện QBC tức là cụ thể hóa việc được suy
đốn là vơ tội của những người bị buộc tội trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Việc vi phạm quyền bào chữa tức là vi phạm quyền được suy đốn vơ tội của người bị
buộc tội.
Quyền được xét xử công bằng đảm bảo cho việc thực hiện QBC. Nếu khơng được

xét xử cơng bằng thì mọi chứng cứ, yêu cầu của người bị buộc tội và NBC của họ đều
khơng có giá trị. Muốn bào chữa, chủ thể thực hiện QBC phải có vị thế bình đẳng với cơ
quan buộc tội trong việc thu thập, đưa ra chứng cứ nhằm chứng minh cho yêu cầu của
mình đồng thời phải được tạo điều kiện để tranh tụng theo đúng nghĩa. Vì thế, đảm bảo
13

Võ Thị Kim Oanh, Đinh Văn Đồn, Lê Thị Thùy Dương, Quyền được suy đốn vô tội và vấn đề sửa đổi Hiến
pháp năm 1992, Đề tài NCKH, TP.HCM, 10/2012, tr.11

9


được quyền được xét xử công bằng là tạo môi trường để tồn tại và thực hiện QBC.
Trong khi đó, QBC chính là cơ sở pháp lý để quyền được xét xử cơng bằng mang tính
khả thi và là phương tiện để đạt được mục đích tố tụng cơng bằng.
Cách thức thực hiện QBC đó là thơng qua những quyền cụ thể mà pháp luật tố
tụng trao cho chủ thể thực hiện QBC. Đó là những quyền như: quyền trình bày lời khai,
đưa ra chứng cứ; quyền được thông báo về kết quả của quá trình tố tụng; quyền tranh
luận tại phiên tịa... Tuy có nội dung khác nhau, nhưng những quyền tố tụng này đều có
mục đích cuối cùng là để bào chữa cho người bị buộc tội. Những quyền này là một bộ
phận không thể tách rời và cũng là cách thức để thực hiện QBC. Khơng có những quyền
này thì QBC sẽ khơng khả thi hay chỉ mang tính hình thức vì thiếu đi phương tiện và
cách thức để thực hiện. Có thể thấy rằng QBC là vấn đề trung tâm, là hội tụ các quyền
cụ thể khác của người bị buộc tội14. Như vậy, khi nghiên cứu về QBC, chúng ta không
chỉ nghiên cứu nội dung của quyền năng tố tụng đặc biệt này mà còn cần nghiên cứu
những quyền tố tụng khác có mục đích cuối cùng là để chống lại sự buộc tội hoặc làm
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người bị buộc tội.
Thứ ba, QBC là một quyền mang tính dân chủ và nhân đạo sâu sắc.
Có thể so sánh, TTHS là một cuộc đấu tranh không cân sức giữa các bên đối trọng
về lợi ích15. Bên phía buộc tội là những cơ quan nhà nước có đầy đủ kiến thức pháp luật,

chun mơn, kỹ năng và kinh nghiệm. Trong khi đó, bên phía người bị buộc tội, họ
đang bị yếu thế về mặt tâm lý, về kiến thức pháp luật. Chính vì lẽ đó, một q trình
TTHS muốn đảm bảo được sự dân chủ thì bên buộc tội và gỡ tội phải có một vị thế
ngang bằng. QBC được ghi nhận sẽ tạo điều kiện cho người bị buộc tội những cơ hội để
đảm bảo cho vị thế ngang bằng đó. Với QBC, người bị buộc tội không chỉ được tự mình
thực hiện việc gỡ tội cho mình mà họ cịn được nhận được sự trợ giúp từ phía NBC.
NBC là những người có kiến thức pháp luật, kỹ năng bào chữa sẽ là sự trợ giúp đắc lực
cho người bị buộc tội để họ bác bỏ những cáo buộc không có cơ sở. Tính nhân đạo của
14

Nguyễn Bá Ngừng, Bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo - một trong những nguyên tắc quan trọng góp
phần bảo đảm quyền con người trong TTHS Việt Nam, trong “Đảm bảo quyền con người trong tư pháp hình sự
Việt Nam”, NXB Đại học Quốc gia TP.HCM, 2010, trang 124.
15
Nguyễn Thái Phúc, Mơ hình TTHS Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Tạp chí Khoa học pháp lý,
số 05/2007.

10


quyền bào chữa thể hiện ở hai góc độ. Đầu tiên, ghi nhận QBC tức là tạo điều kiện cho
người đang bị cáo buộc có hành vi chống lại xã hội được bảo vệ những lợi ích thiết thân
nhất của mình. Như vậy, ngay cả những người bị phát hiện đã có hành vi phạm tội
tương đối rõ ràng thì họ vẫn có quyền được bảo vệ cho mình. Thứ hai, việc cho phép
người bị buộc tội quyền có người khác bào chữa thể hiện tính nhân văn sâu sắc, là việc
giúp người đang ở tình thế bất lợi, khó khăn và thể hiện một hành vi cao đẹp thể hiện
tính nhân bản của con người.
Thứ tư, QBC là một quyền mang tính quốc tế.
QBC khơng chỉ giới hạn trong phạm vi của một quyền mang tính quốc gia mà còn
là giá trị chung trong lịch sử lập pháp của nhân loại. Trong khuôn khổ luật pháp quốc tế,

QBC là một chuẩn mực bắt buộc (jus cogens) trong quyền được xét xử công bằng16.
Tầm quan trọng của QBC đã được ghi nhận trong nhiều văn bản pháp lý quốc tế về
quyền con người. Tuyên ngôn chung về quyền con người của Liên Hiệp quốc vào ngày
10 tháng 12 năm 1948 đã khẳng định tại Điều 11: “Một người bị buộc tội có hành vi
phạm tội được coi là vơ tội cho đến khi sự phạm tội của người đó được xác định một
cách hợp pháp trong một vụ xét xử cơng khai, trong đó có những sự bảo đảm cần thiết
cho việc bào chữa của người đó”17. Với quy định của Tuyên ngôn, QBC được coi là
điều kiện tiên quyết để bảo vệ quyền con người. Sau đó, Tại Khoản 3 Điều 14 Công ước
quốc tế về các quyền dân sự và chính trị vào ngày 16 tháng 12 năm 1966 của Đại hội
đồng Liên Hợp Quốc cũng đã khẳng định:
“Trong quá trình xét xử về một tội hình sự, mọi người đều có quyền được hưởng
một cách đầy đủ và hồn tồn bình đẳng những bảo đảm tối thiểu sau đây:
a) Được thông báo không chậm trễ và chi tiết bằng một ngơn ngữ mà người đó
hiểu về bản chất và lý do buộc tội mình;
b) Có đủ thời gian và điều kiện thuận lợi để chuẩn bị bào chữa và liên hệ với NBC
do chính mình lựa chọn;
c) Được xét xử mà khơng bị trì hỗn một cách vơ lý;
16

Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP), Báo cáo quyền bào chữa trong pháp luật tố tụng hình sự và
thực tiễn tại Việt Nam,Hà Nội, 08/2010, tr.8
17
Phạm Khiêm Ích, Quyền con người- các văn kiện quan trọng, Viện thông tin khoa học xã hội, Hà Nội,1998
tr.148.

11


d) Được có mặt trong khi xét xử và được tự bào chữa hoặc thông qua sự trợ giúp
pháp lý theo sự lựa chọn của mình; được thơng báo về quyền này nếu chưa có sự trợ

giúp pháp lý; và được nhận sự trợ giúp pháp lý theo chỉ định trong trường hợp lợi ích
của cơng lý địi hỏi và khơng phải trả tiền cho sự trợ giúp đó nếu khơng có đủ điều kiện
trả…”
Những đảm bảo trên là bộ phận cấu thành của QBC – quyền cơ bản của con người.
Công ước Châu Âu về nhân quyền tại Điều 6 về xét xử công bằng cũng đưa ra những
quy định tương tự18. Trong hệ thống pháp luật của nhiều quốc gia, QBC cũng được coi
là một quyền hiến định như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc... Từ những phân tích trên
đây có thể thấy rằng, QBC thực sự là một thành quả lập pháp của nhân loại, là giá trị
chung của nhân quyền.
Thứ năm, QBC là một quyền thể hiện sự văn minh tiến bộ.
Quá trình phát triển của lịch sử loài người đã trải qua nhiều kiểu nhà nước khác
nhau. QBC chỉ thực sự được ghi nhận và bảo đảm ở những Nhà nước tiến bộ văn minh,
tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Trong kiểu nhà nước chiếm hữu nơ lệ, phong kiến
QBC rất ít khi, thậm chí là khơng được coi trọng. Những người bị buộc tội khơng có bất
kì phương tiện, cơ sở pháp lý nào để bảo vệ mình trước sự suy đốn có tội của các cơ
quan Nhà nước. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến quyền con
người của người bị buộc tội bị xâm phạm một cách nghiêm trọng. Từ khi có sự ra đời
của kiểu nhà nước tư sản, các tư tưởng về quyền con người, quyền cơng dân bắt đầu có
sự chuyển biến và được chú ý tạo điều kiện để quyền con người thực sự được nhận thức
một cách đúng đắn trong các hệ thống pháp luật. Cũng từ đó, QBC đã bắt đầu ghi nhận
là một quyền cơ bản của người bị buộc tội và thực hiện đóng góp một phần quan trọng
trong việc đảm bảo quyền con người của người bị buộc tội. Đây là một bước tiến trong
việc nhận thức về quyền con người trong lịch sử lập pháp của con người. Sự tiến bộ cịn
thể hiện ở chỗ, bất kì ai trong hồn cảnh nào cũng có cơ hội được chứng minh sự vơ tội
của mình. Điều này thể hiện nhận thức mới mẻ trong việc cân bằng giữa việc xử lý tội

18

Xem thêm, bản tiếng Anh tại, truy cập ngày
19/04/2013.


12


phạm và bảo vệ quyền con người trong TTHS. Vì thế, QBC trở thành chuẩn mực trong
việc đảm bảo quyền con người.
Chủ thể của quyền bào chữa và chủ thể có trách nhiệm đảm bảo quyền bào

1.3
chữa

Chủ thể của quyền bào chữa chỉ là người bị buộc tội. Pháp luật TTHS của từng nhà
nước khác nhau, ở những thời kì khác nhau thì sẽ có khái niệm khác nhau về “người bị
buộc tội”. Do đó, để xác định chủ thể của QBC trong TTHS nước ta thì cần phải tìm
hiểu ai là người bị buộc tội theo pháp luật TTHS Việt Nam. Nghiên cứu những vấn đề
lý luận về người bị buộc tội trong pháp luật TTHS Việt Nam, tác giả cho rằng chủ thể
của QBC bao gồm: người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Nếu cho rằng, QBC chỉ thuộc về bị
can hoặc chỉ của bị cáo thì đã thu hẹp phạm vi chủ thể của QBC. Vì bị can, bị cáo là đều
là người bị buộc tội nhưng ở hai giai đoạn tố tụng khác nhau. Nếu chỉ có một trong hai
chủ thể này có QBC thì sẽ không thể bảo vệ quyền con người của họ một cách xuyên
suốt, hiệu quả. QBC của bị can ở giai đoạn điều tra, truy tố sẽ cần phải được tiếp nối khi
có quyết định đưa vụ án ra xét xử, có như vậy mới đảm bảo được sự bào chữa có hệ
thống, khoa học.
Tác giả cũng khơng đồng tình với quan điểm cho rằng những chủ thể khác tham
gia tố tụng như người bị hại, nhân chứng, giám định viên cũng có QBC, bởi việc xác
định chủ thể của QBC như vậy là quá rộng. Bào chữa nghĩa là hoạt động nhằm thực
hiện chức năng “gỡ tội”. Chính vì vậy, những chủ thể khơng bị buộc tội thì tất yếu
khơng thể nào có QBC để “chống lại” sự buộc tội. Vì thế, người bị hại, người làm
chứng, giám định khơng thể là những chủ thể có QBC. Khi những chủ thể này khi bị
thiệt hại trong quá trình tố tụng thì họ sẽ có quyền được bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của họ chứ hồn tồn khơng có QBC. Đồng thời, tác giả cũng khơng đồng ý với đề
xuất cho rằng người bị kết án (hay còn gọi là bị án19) cũng có thể có QBC. Bởi buộc tội
và kết án là hai khái niệm khác nhau. Việc buộc tội xem xét một người có phạm tội hay
khơng chỉ tồn tại trước khi có Bản án của TA có hiệu lực tuyên một người là có tội. Sau
19

Phan Thương, Tiến Hiểu, Bảo đảm QBC - Bài 3: Bị án cũng có quyền được bào chữa?, Báo Pháp luật TP.HCM
điện tử, truy cập ngày 19/04/2013.

13


khi có bản án này, thì người này được coi là có tội nên sẽ khơng cịn việc buộc tội nữa20.
Vì thế, QBC nhằm “chống lại” sự buộc tội đương nhiên cũng không xuất hiện. Đối với
những chủ thể là người bị bắt thì họ vẫn khơng phải là chủ thể bị buộc tội. Vì mục đích
đầu tiên và chủ yếu để bắt người trong pháp luật TTHS là để ngăn chặn tội phạm hoặc
có căn cứ họ sẽ bỏ trốn chứ khơng nhằm để buộc tội đích danh người này.
Ngoài ra, tác giả cũng cho rằng chủ thể của QBC cịn thuộc về người bị tạm giữ.
Có quan điểm cho rằng một người bị tạm giữ khơng có nghĩa là người đó đã bị buộc tội;
và vì chưa có sự buộc tội nên chưa thể có bào chữa theo cơ chế TTHS21. Tuy nhiên, tác
giả không tán thành quan điểm trên vì những lý do được phân tích dưới đây. Nếu như sự
buộc tội của bị can, bị cáo thể hiện rõ ràng nhất ở những văn bản tố tụng như: quyết
định khởi tố bị can, Bản kết luận điều tra, Bản truy tố, Quyết định đưa vụ án ra xét xử…
thì sự buộc tội của người bị tạm giữ thể hiện ở việc họ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn
trong pháp luật tố tụng. Khi bị áp dụng biện pháp ngăn chặn này tức là các chủ thể này
đã bị nghi ngờ, hay có căn cứ để cho rằng họ đã thực hiện một hành vi phạm tội. Người
bị tạm giữ bị hạn chế về tự do thân thể và bị áp dụng một số biện pháp điều tra ban đầu
như lấy lời khai, làm rõ nhân thân, thu thập chứng cứ. Ví dụ: một người bị bắt quả tang
khi đang trộm cắp tài sản của người khác, sau đó bị áp dụng biện pháp tạm giữ. Để áp
dụng biện pháp tạm giữ người này thì CQĐT phải có căn cứ cho rằng anh ta đã thực

hiện hành vi trộm cắp tài sản và sau đó tiến hành hoạt động điều tra bước đầu để quyết
định có khởi tố vụ án hay không. Như vậy, kể thời điểm một người bị tạm giữ thì sự
buộc tội đã xuất hiện vì thế tất yếu họ phải có QBC.
Qua những phân tích trên có thể rút ra thời điểm bắt đầu và thời điểm kết thúc
QBC. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự buộc tội và bào chữa phải song song tồn
tại, ở đâu có buộc tội, ở đó có bào chữa22. Chính vì vậy, thời điểm phát sinh QBC là thời
điểm bắt đầu có sự buộc tội đối với một cá nhân cụ thể. Buộc tội trong TTHS là hành vi
20

Hồng Thị Sơn, chú thích số 1, tr.41.
Trần Văn Độ, Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS đáp ứng yêu cầu của
cải cách tư pháp. trong “Đảm bảo quyền con người trong tư pháp hình sự Việt Nam”, NXB Đại học Quốc gia
TP.HCM 2010,tr.106
22
Hoàng Thị Sơn, chú thích số 1, tr.41
21

14


của cơ quan THTT nhằm xác định trách nhiệm hình sự đối với người bị buộc tội trên cơ
sở các chứng cứ đã được xác định tại thời điểm đó23. Do QBC tồn tại song song với sự
buộc tội trong q trình tố tụng nên khi sự buộc tội khơng cịn nữa thì QBC tất yếu cũng
sẽ kết thúc. Việc xác định thời điểm nào quá trình buộc tội bắt đầu và kết thúc được căn
cứ vào quy định trong pháp luật TTHS của từng nhà nước.
Chủ thể có trách nhiệm bảo đảm QBC của người bị buộc tội cũng không được
quy định một cách thống nhất trong pháp luật TTHS của mỗi quốc gia. QBC là một
quyền năng tố tụng thuộc về người bị buộc tội. Vì họ là những chủ thể yếu thế và dễ bị
xâm phạm quyền lợi hợp pháp trong quá trình tố tụng nên cùng với việc quy định về
QBC thì pháp luật của mỗi nước sẽ quy định về việc đảm bảo quyền này cho người bị

buộc tội. Vì thế, vấn đề quy định của chủ thể nào có trách nhiệm bảo đảm QBC của
người bị buộc tội có vai trị quan trọng. Dựa trên điều kiện kinh tế xã hội, cơ sở lý luận
và thực tiễn cũng như mơ hình tố tụng khác nhau, pháp luật TTHS của từng nước sẽ quy
định khác biệt về chủ thể có trách nhiệm bảo đảm QBC. Theo quy định của pháp luật
TTHS Việt Nam, chủ thể có trách nhiệm đảm bảo QBC thuộc về cơ quan THTT. Việc
đánh giá, phân tích về vấn đề này trong pháp luật thực định Việt Nam sẽ được trình bày
trong Chương II của khóa luận.
1.4

Nội dung của quyền bào chữa
QBC bao gồm quyền tự bào chữa, quyền nhờ người khác bào chữa và quyền có

NBC trong các trường hợp luật định.
Quyền tự bào chữa là là việc người bị buộc tội có thể tự mình sử dụng tất cả các
quyền mà pháp luật quy định cho họ để bác bỏ một phần hay toàn bộ sự buộc tội cũng
như nhằm làm giảm trách nhiệm hình sự cho mình. Quyền tự bào chữa là một quyền
năng tố tụng đặc thù của người bị buộc tội. Vì chỉ người bị buộc tội mới có quyền này
và cũng chỉ có họ mới được thực hiện các quyền của mình. Quyền năng tố tụng đặc thù
này là nội dung đầu tiên và cơ bản nhất của QBC. Để thực hiện quyền tự bào chữa cho
23

Phạm Hồng Hải, chú thích số 9, tr.27

15


mình người bị buộc tội có thể đề xuất chứng cứ, nhận xét, đánh giá chứng cứ, đưa ra
yêu cầu, trình bày ý kiến, tranh luận trước Tịa. Việc thực hiện quyền tự bào chữa tức là
người bị buộc tội đã vận dụng các khả năng mà pháp luật cho phép để bảo vệ mình.
Quyền được nhờ người khác bào chữa là việc người bị buộc tội được lựa chọn

người khác làm NBC cho mình. Nội dung quyền này được thể hiện ở việc NBC sẽ được
pháp luật TTHS trao cho những quyền năng tố tụng nhằm mục đích bào chữa cho người
bị buộc tội. Việc thực hiện QBC của NBC là một trong những cơ sở để đảm bảo quyền
lợi của người bị buộc tội. Trong rất nhiều trường hợp, người bị buộc tội khơng có hiểu
biết về pháp luật nên họ khơng thể tự mình thực hiện QBC một cách đúng đắn và hiệu
quả. Ngồi ra, họ có thể bị tạm giữ, tạm giam nên họ không thể trực tiếp tham gia vào
một số hoạt động bào chữa. Đồng thời họ cũng bị ảnh hưởng về tâm lý như hoang
mang, lo sợ, ức chế nên việc tự bào chữa sẽ khơng hiệu quả. Do đó, việc tham gia tố
tụng của NBC là một sự giúp đỡ rất quan trọng cho người bị buộc tội.
Quyền có NBC chỉ định trong một số trường hợp (còn được gọi là quyền có NBC
bắt buộc ). Thơng thường sự tham gia tố tụng của NBC phụ thuộc vào ý chí của người
bị buộc tội. Tuy nhiên trong một số trường hợp luật đặc biệt luật quy định, sự tham gia
tố tụng của NBC khơng hồn tồn phụ thuộc vào sự lựa chọn của họ. Đó là những
trường hợp khi người bị buộc tội khơng lựa chọn NBC hoặc khi họ khơng có điều kiện
để nhờ NBC mà có u cầu thì các cơ quan Nhà nước phải có trách nhiệm chỉ định
NBC cho họ24. Quyền có NBC chỉ định trong những trường hợp này có đặc điểm như
sau: Thứ nhất, cơ sở để người bào chữa tham gia vào vụ án là sự chủ động thực hiện
nghĩa vụ bảo đảm QBC cho người bị buộc tội từ phía các cơ quan Nhà nước thông qua
việc chỉ định NBC. Thứ hai, quyền từ chối hoặc thay đổi người bào chữa của người bị
buộc tội khơng mang tính tuyệt đối như các trường hợp thơng thường. Thứ ba, chi phí
cho NBC do Nhà nước trả25. Quyền này nhằm đảm bảo trong những trường hợp đó
người bị buộc tội phải có một NBC nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của họ. Đây là một
24

Xem thêm, “assigned counsel” và “special counsel” trong Bryan A. Garner, Black’s Law dictionary, Seventh
Edition, NXB ST.Paul, Minn, 1999, tr.352
25
Nguyễn Thái Phúc, Sự tham gia bắt buộc của người bào chữa, Tạp chí Khoa học Pháp lý, số 04/2007, tr.51.

16



nội dung thể hiện sự tiến bộ, văn minh đảm bảo hữu hiệu lợi ích của người bị buộc tội.
Trong trường hợp này, người bị buộc tội được quyền có NBC chỉ định nhưng họ và
người đại diện hợp pháp cho họ vẫn có thể từ chối hay thay đổi NBC. Sự bắt buộc thể
hiện trong trường hợp này là “bắt buộc” với các cơ quan Nhà nước chứ không bắt buộc
đối với người bị buộc tội hay gia đình của họ. Do đó những cơ quan này phải có trách
nhiệm để mời NBC cho người bị buộc tội.
Ba nội dung này của QBC có mối quan hệ biện chứng với nhau. Quyền tự bào
chữa của người bị buộc tội là cơ sở, tiền đề để phát sinh quyền nhờ người khác bào chữa
cũng như quyền có NBC chỉ định. Quyền tự bào chữa là quyền năng cơ bản không thể
tách rời của người bị buộc tội trong TTHS26. Tính cơ bản của quyền này thể hiện ở chỗ
chỉ trên cơ sở của quyền tự bào chữa thì mới phát sinh hai nội dung còn lại của QBC.
Ngược lại, quyền nhờ người khác bào chữa cũng như quyền có NBC chỉ định có vai trị
hỗ trợ, bổ sung cho quyền tự bào chữa nhằm bảo vệ quyền lợi cho người bị buộc tội một
cách hiệu quả hơn. Với hai quyền này, NBC sẽ được tham gia vào vụ án nhằm bảo vệ
lợi ích cho người bị buộc tội. Những khiếm khuyết, hạn chế của quyền tự bào chữa sẽ
được hai quyền này khắc phục. Đồng thời, quyền có NBC chỉ định cũng bổ sung cho
quyền nhờ người khác bào chữa của người bị buộc tội. Sự bổ sung này nhằm đảm bảo
trong những trường hợp nhất định có NBC tham gia tố tụng, nhất là trong những trường
hợp người bị buộc tội gặp những khó khăn trong việc tự mình mời người bào chữa.
Từ những nội dung trên đây của QBC có thể thấy rằng chủ thể của QBC có phạm
vi hẹp hơn so với chủ thể thực hiện QBC. Chủ thể thực hiện quyền bào chữa: bao gồm
người bị buộc tội và NBC cho họ (trong trường hợp họ nhờ hoặc được cơ quan nhà
nước chỉ định NBC). Vì QBC chỉ thuộc về những chủ thể bị buộc tội nên chỉ người bị
buộc tội mới có quyền này. Do đó, người bị buộc tội là chủ thể đầu tiên được thực hiện
QBC của mình. Đồng thời họ có thể nhờ NBC để bảo đảm quyền lợi cho mình. Như
vậy, để thực hiện việc bào chữa cho người bị buộc tội, NBC cần được pháp luật trao cho
những quyền năng nhất định. Vì thế, những quyền cụ thể của NBC nhằm bào chữa cho
26


Lương Thị Mỹ Quỳnh, chú thích số 4, tr.49

17


người bị buộc tội phải được coi là một bộ phận không tách rời của QBC, khi nghiên cứu
về QBC không thể không đề cập đến các quyền này. Những quyền năng này là công cụ
để NBC thực hiện việc “gỡ tội” của mình. Vì thế, việc thực hiện QBC của người bị
buộc tội và NBC là thống nhất bổ sung cho nhau, không loại trừ lẫn nhau và cùng song
song tồn tại.
1.5 Vai trò của quyền bào chữa trong tố tụng hình sự
QBC có vai trị quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người và xác định sự thật
khách quan của vụ án hình sự.
Đầu tiên, QBC góp phần quan trọng bảo đảm quyền con người. Quyền con người
là một giá trị thiêng liêng, sâu sắc trong lịch sử phát triển của nhân loại. Trong quá trình
tố tụng, người bị buộc tội là chủ thể trung tâm của quá trình tố tụng, mọi hành vi tố tụng
đều xoay quanh việc xác định họ có tội hay khơng có tội. Vì thế, người bị buộc tội cũng
là chủ thể dễ dàng bị xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp nhất. Việc ra bản án oan sai,
đặt ra trách nhiệm pháp lý quá nặng đối với họ là một dạng xâm phạm quyền con người
nghiêm trọng nhất. Bởi khi bị kết tội oan, họ bị coi là đối tượng có hành vi “chống lại”
xã hội khi đã xâm phạm những quan hệ xã hội được Nhà nước bảo vệ. Nếu phải chịu
một trách nhiệm hình sự nặng hơn thì họ sẽ phải bị thiệt hại cả về tinh thần và vật chất.
Chỉ khi QBC được ghi nhận cho người bị buộc tội thì những hậu quả như vậy mới có
thể được phịng ngừa. Việc thực hiện QBC có vai trò nhằm đảm bảo thực hiện cũng như
là cơ sở thực tế của các quyền cơ bản của con người trong TTHS như quyền được suy
đốn vơ tội, quyền được xét xử cơng bằng, quyền được bảo đảm bình đẳng trước Tịa
án. Chính vì vậy, QBC của người bị buộc tội phải được ghi nhận với tư cách là một
công cụ đầu tiên và hữu hiệu nhất để đảm bảo quyền con người.
Quyền bào chữa của người bị buộc tội cịn có vai trị quan trọng trong việc xác

định sự thật khách quan của vụ án hình sự. Muốn tìm ra sự thật khách quan đó, mọi
chứng cứ, luận điểm đều phải được được phản biện khoa học, cọ xát giữa hai hoạt động
buộc tội và thực hiện QBC nhằm gỡ tội. Đây là hai hoạt động có tính đối trọng với
18


nhau: đối trọng về việc tìm kiếm và đánh giá chứng cứ, đối trọng về u cầu, về mục
đích. Khơng có việc tham gia của hai hoạt động này thì q trình tố tụng chỉ mang tính
một chiều, khơng khách quan27. Với việc pháp luật TTHS ghi nhận QBC tức là đã trao
cho người bị buộc tội và NBC những khả năng thực tế để đảm bảo sự khách quan trong
quá trình giải quyết. Thực hiện QBC sẽ giúp người bị buộc tội hoặc NBC chỉ ra và bác
bỏ những chứng cứ buộc tội không khách quan, những đánh giá phiến diện, các kết luận
chưa đúng đắn và những thiếu sót khác cần phải sửa chữa khi các cơ quan thực hiện
chức năng buộc tội. Với tư cách là chủ thể thực hiện QBC, người bị buộc tội và NBC
của họ đóng vai trị giám sát, phản biện nhằm đi đến mục đích cuối cùng là đảm bảo
được sự thật được tìm ra một cách khách quan, cơng bằng nhất. Sự tồn tại song song của
QBC và hoạt động buộc tội là điều kiện và môi trường thuận lợi nhất để TA có điều
kiện tìm ra chân lý, sự thật khách quan của vụ án.
1.6

Điều kiện đảm bảo quyền bào chữa
Điều kiện về mặt pháp luật: Trước hết, quyền bào chữa phải ghi nhận QBC như

một quyền cơ bản của con người trong TTHS. QBC là là một chế định thể hiện sự văn
minh, tiến bộ của nhân loại, vì thế nó cần được ghi nhận để đảm bảo quyền con người.
Thứ hai, QBC cần được quy định một cách cụ thể để có tính khả thi trên thực tế. Như đã
phân tích, việc thực hiện QBC sẽ được thực hiện thơng qua những quyền năng tố tụng
cụ thể. Vì thế, những quyền đó cần được quy định một cách cụ thể, có tính khả thi cao,
có như vậy QBC mới khơng bị coi là quyền chỉ mang tính hình thức.
Điều kiện về mặt nhận thức: Về nhận thức của các cơ quan THTT đóng một vai trị

rất lớn. Các cơ quan THTT, mà cụ thể là người THTT phải nhận thức việc thực hiện
QBC khơng nhằm mục đích cản trở quá trình giải quyết vụ án. Trái lại, việc thực hiện
QBC cịn góp phần tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Đồng thời, trong một số trường
hợp luật định khơng có sự tham gia bắt buộc của NBC là một căn cứ để xác định vụ án
hình sự có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Người THTT cần coi QBC là một
quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Có như vậy, QBC mới được đảm bảo một cách
chặt chẽ.
27

Lương Thị Mỹ Quỳnh, Chú thích số 4, trang 24.

19


×