Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Vai trò của tòa án và tổ quản lý, thanh lý tài sản trong thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 76 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
----    ----

MAI THỊ PHƢƠNG THÚY

VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN VÀ TỔ QUẢN LÝ, THANH
LÝ TÀI SẢN TRONG THỦ TỤC PHỤC HỒI
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Chuyên ngành Luật Thƣơng mại

TP HCM - 2011


TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HCM
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN VÀ TỔ QUẢN LÝ, THANH
LÝ TÀI SẢN TRONG THỦ TỤC PHỤC HỒI
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH

SVTH : MAI THỊ PHƢƠNG THÚY
KHÓA : 32
MSSV :3240190
GVHD : TỪ THANH THẢO



TP HỒ CHÍ MINH, NĂM 2011


LỜI CAM ĐOAN

Tôi tên là Mai Thị Phƣơng Thúy, sinh viên Lớp CLC32. Tơi xin cam đoan đây
là cơng trình nghiên cứu do chính tơi thực hiện. Những số liệu đuợc sử dụng trong
khóa luận là hồn tồn trung thực.

Tác giả
Mai Thị Phƣơng Thúy


LỜI CẢM ƠN

Xin cảm ơn các thầy, cô giáo;
Và đặc biệt cảm ơn Thầy Từ Thanh Thảo,
Người đã hết lòng gúp tơi hồn thành khóa luận này!


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Nghị định 67/2006/NĐ-CP: Nghị định số 67/2006/NĐ-CP hƣớng dẫn áp dụng Luật
phá sản đối với doanh nghiệp đặc biệt và tổ chức, hoạt
động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản.
Nghị định 10/2009/NĐ-CP: Nghị định số 10/2009/NĐ-CP ngày 06/02/2009 về xử
lý vi phạm hành chính trong quá trình tiến hành thủ
tục phá sản.
Nghị quyết 03/

NQ_HĐTPTANDTC:
Nghị quyết 03/2005/NQ – HĐTPTANDTC hƣớng dẫn
thi hành một số quy định của Luật phá sản 2004.
NXB:
Nhà xuất bản
TAND:
Tòa án nhân dân
Tp. HCM:
Thành phố Hồ Chí Minh.


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chƣơng I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỦ TỤC PHỤC HỒI HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH VÀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CÁC CHỦ THỂ THAM GIA..... 7
1.1. Khái quát chung về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh .......................... 7
1.1.1. Khái niệm chung về thủ tục phụ hồi hoạt động kinh doanh ................................ 7
1.1.2. Đặc điểm chung về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh ............................... 8
1.1.3. Điều kiện để áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh .......................... 11
1.1.4. Ý nghĩa của thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh. ......................................... 13
1.2. Địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia quá trình phục hồi hoạt động kinh
doanh. ................................................................................................................................. 16
1.2.1. Khái niệm chung về địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia ........................... 16
1.2.2. Các chủ thể tham gia vào quá trình phục hồi hoạt động kinh doanh .............. 17
1.2.2.1.Chủ nợ .................................................................................................................... 17
1.2.2.2. Doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản ................................... 19
1.2.2.3. Tịa án ................................................................................................................... 20
1.2.2.4. Tổ quản lý, thanh lý tài sản ................................................................................ 22
Chƣơng II .QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN VÀ
TỔ QUẢN LÝ, THANH LÝ TÀI SẢN TRONG QUÁ TRÌNH PHỤC HỒI

HOẠT ĐỘNG KINH DOANH VÀ ĐỊNH HƢỚNG HỒN THIỆN .................. 25
2.1. Vai trị của Tịa án trong thủ tục phục hồi kinh doanh................................... 25
2.1.1 Vai trò của Tòa án trong thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh theo pháp
luật Việt Nam ..................................................................................................................... 25
2.1.2. Vai trò của Tòa án trong thủ tục phục hồi kinh doanh theo pháp luật một số
nước trên thế giới ............................................................................................................. 32
2.1.2.1. Trung Quốc .......................................................................................................... 32
2.1.2.2. Hoa Kỳ .................................................................................................................. 35
2.1.2.3. Nhật Bản ............................................................................................................... 39
2.1.2.4. Australia ...................................................................................................... 41
2.2. Vai trò của Tổ quản lý, thanh lý tài sản trong thủ tục phục hồi hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản .............. 42
2.2.1. Vai trị của Tổ quản lý, thanh lý tài sản trong thủ tục phục hồi hoạt động kinh
doanh theo pháp luật Việt nam. ....................................................................................... 42
2.2.2. Vai trò của thiết chế quản lý tài sản theo pháp luật của một số nước trên thế
giới. .................................................................................................................................... 44


2.2.2.1. Trung Quốc .......................................................................................................... 44
2.2.2.2. Hoa Kỳ .................................................................................................................. 46
2.2.2.3. Nhật Bản ............................................................................................................... 47
2.2.2.4. Australia ............................................................................................................... 49
2.3. Thực tiễn việc áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh ................................................................................................. 51
2.4. Định hƣớng hồn thiện về vai trị của Tịa án và Tổ quản lý, thanh lý tài
sản trong thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh ................................................... 59
2.4.1. Sự cần thiết phải hồn thiện vai trị của Tịa án và Tổ quản lý, thanh lý
tài sản .................................................................................................................................. 59
2.4.2 Nguyên tắc hoàn thiện vai trò của Tòa án và Tổ quản lý, thanh lý tài sản ..... 59
2.4.3. Nội dung hoàn thiện vai trò của Tòa án và Tổ quản lý, thanh lý tài sản trong

thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh .......................................................................... 60
2.4.3.1. Nâng cao chuyên môn năng lực của Thẩm phán và Tổ quản lý, thanh lý
tài sản .................................................................................................................................. 60
2.4.3.2. Hồn thiện quy định của pháp luật về vai trị của Tòa án và Tổ quản lý,
thanh lý tài sản trong thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh .................................... 61
2.4.3.2.1. Hoàn thiện quy định của của pháp luật về vai trò của Tòa án trong thủ tục
phục hồi hoạt động kinh doanh. ...................................................................................... 61
2.4.3.2.2. Hoàn thiện quy định về vai trò của Tổ quản lý, thanh lý trong thủ tục phục
hồi hoạt động kinh doanh. ................................................................................................ 62
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 65


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Vai trị lớn nhất của Luật phá sản trong nền kinh tế là khuyến khích tái tổ chức
hoạt động kinh doanh. Trong nhiều trƣờng hợp, việc áp dụng thủ tục phục hồi sẽ là
giải pháp tốt trên cơ sở cân nhắc quyền và lợi ích của tất cả các bên. Đối với chủ nợ,
áp dụng thủ tục thanh lý tài sản và các khoản nợ khơng phải bao giờ cũng là giải
pháp có lợi nhất, vì khơng phải con nợ nào cũng đủ tài sản để thanh toán đầy đủ các
khoản nợ cho họ. Đối với doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì
thủ tục phục hồi là cơ hội để làm lại từ đầu, từ đó doanh nghiệp, hợp tác xã có thể
tồn tại và tiếp tục pháp triển. Bên cạnh đó, áp dụng thành cơng thủ tục phục hồi sẽ
tránh đƣợc hàng loạt những hệ lụy gây ảnh hƣởng đến sự phát triển của nền kinh tế,
trật tự xã hội và làm giảm thiểu tỉ lệ thất nghiệp.
Cùng với sự phát triển của đất nƣớc, các quan hệ kinh tế thay đổi nhanh chóng
đã kéo theo sự lạc hậu của các quy định pháp luật. Sau 10 năm thực hiện Luật phá
sản 1993 đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết. Theo báo cáo của TAND tối cao kể từ khi
Luật phá sản doanh nghiệp 1993 có hiệu lực từ tháng 7/1994, đến hết năm 2002,

tồn ngành Tịa án chỉ thụ lý có 151 đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp,
trong đó chỉ tuyên bố đƣợc 46 doanh nghiệp bị phá sản. Nhƣ vậy, bình quân hàng
năm Tòa án chỉ thụ lý khoảng 17 đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Tính
theo tỷ lệ so với tổng số doanh nghiệp thì các doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản chỉ
chiếm khoảng 0,02 –0,05%1.
Luật phá sản 2004 ra đời đã tiến một bƣớc dài so với Luật phá sản doanh
nghiệp 1993. Luật phá sản 2004 đã khắc phục đƣợc những quy định bất cập, không
rõ ràng, khơng phù hợp với tình hình thực tiễn khách quan và tiếp cận đến xu hƣớng
giải quyết phá sản của thế giới. Tuy nhiên, giải quyết phá sản ở Việt Nam nói
chung, đặc biệt là việc thực hiện thành cơng phƣơng án phục hồi còn hạn chế. Từ
khi Luật phá sản 2004 có hiệu lực cho tới năm 2010, trên địa bàn thành phố Hồ Chí
Minh mới chỉ thụ lý 43 trƣờng hợp yêu cầu tuyên bố phá sản trong đó khơng có
trƣờng hợp nào áp đƣợc dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh2. Có rất nhiều
nguyên nhân dẫn tới tình trạng “hiếm” có doanh nghiệp, hợp tác xã đƣợc áp dụng
phƣơng án phục hồi hoạt động kinh doanh, trong đó phải kể đến sự yếu kém của
Tịa án và Tổ quản lý, thanh lý tài sản trong quá trình điều hành và giám sát việc
giải quyết vụ việc phá sản.
1

TS. Nguyễn Thái Phúc, Một số nguyên tắc hoàn thiện Luật phá sản doanh nghiệp, kỷ yếu đề tài nghiên cứu
khoan học cấp bộ: Một số định hƣớng hoàn thiện pháp luật phá sản doanh nghiệp, tr 28.
2
Nguồn Báo cáo tổng kết năm 2010, Tòa kinh tế Tòa án nhân dân tp Hồ Chí Minh 2010.


2

Chính vì lí do đó, tác giả đã chọn đề tài: “ Vai trò của Tòa án và Tổ quản
lý, thanh lý tài sản trong thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh” làm khóa luận
tốt nghiệp cử nhân luật của mình. Với đề tài này, tác giả mong muốn đƣa ra cách

nhìn tổng quan nhất thơng qua việc nghiên cứu những điểm tiến bộ và hạn chế các
quy định của pháp luật hiện hành về vai trò của Tòa án và Tổ quản lý, thanh lý tài
sản. Từ đó có thể đƣa ra những kiến nghị để tiếp tục hoàn thiện pháp luật phá sản
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Luật phá sản của Việt Nam là một trong những luật ít đƣợc sử dụng nhất mặc
dù phá sản đang dần trở thành một hiện tƣợng phổ biến trong nền kinh tế hiện nay.
Theo nhƣ ý kiến của tác giả Phạm Duy Nghĩa: “Hiếm thấy một đạo luật nào tốn tiền
biên soạn mà ít được dùng trong thực tế như Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993.
Từ gần 10 năm nay, tổng số đơn khiếu nại đến Tòa án yêu cầu phá sản doanh
nghiệp trên tồn quốc chỉ đếm được trên đầu ngón tay”3. Khi Luật phá sản 2004 ra
đời đã đem lại những bƣớc tiến mới, song bên cạnh đó cịn có nhiều hạn chế cần
đƣợc khắc phục. Khi Việt Nam gia nhập vào Tổ chức Thƣơng Mại Thế Giới
(WTO), các mối quan hệ kinh tế đã mở rộng ra khỏi biên giới lãnh thổ quốc gia.
Bƣớc vào sân chơi mới, các doanh nghiệp, hợp tác xã Việt Nam không thể tránh
khỏi của quy luật cạnh tranh khắc nghiệt. Chính vì thế hồn thiện pháp luật phá sản
để tạo một hành lang pháp lý an toàn trong kinh doanh, đầu tƣ đã trở nên cấp thiết
hơn bao giờ hết.
Từ khi Luật phá sản ra đời đã thu hút rất nhiều sự quan tâm của các nhà
nghiên cứu, các tác giả đã tìm hiểu thủ tục phá sản dƣới những góc độ khác nhau.
Có thể kể ra một số cơng trình nghiên cứu tiêu biểu sau: PGS. Hồng Cơng Thi
(1993) Phá sản và xử lý phá sản ở các nước và Việt Nam, Nhà xuất bản (NXB)
Viện khoa học tài chính 1993; Nguyễn Tấn Hơn (1995) Phá sản Doanh nghiệp một số vấn đề thực tiễn, NXB Chính trị Quốc gia 1995; PGS.TS Dƣơng Đăng Huệ
(2005) Pháp Luật phá sản của Việt Nam, NXB Tƣ pháp 2005. Luận văn Thạc sỹ có
những cơng trình điển hình của các tác giả nhƣ Đinh Ngọc Thu Hƣơng (2006) với
đề tài Địa vị pháp lý của Tòa án trong thủ tục phá sản theo Luật phá sản 2004;
Nguyễn Trƣờng Nhật Phƣợng (2004) với đề tài Chế độ pháp lý về phá sản – thực
tiễn thi hành và hướng hoàn thiện; Lê Học Lâm (2007) với đề tài Những biện pháp
pháp lý đảm bảo thực hiện Luật phá sản năm 2004 ở nƣớc ta hiện nay. Khóa luận
cử nhân có các cơng trình tiêu biểu nhƣ Trần Thị Thúy (2010) với đề tài Cơ chế

3

Phạm Duy Nghĩa, Đi tìm triết lý của Luật phá sản,
/>

3

pháp lý bảo vệ chủ nợ trong việc phá sản; Đinh Thị Kim Huệ (2010) với đề tài Địa
vị pháp lý của Tòa án trong thủ tục phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã theo Luật phá
sản 2004; Lữ Thị Hằng (2009) với đề tài Địa vị pháp lý của Tòa án trong thủ tục
phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã theo Luật phá sản 2004; Lê Thị Hoàng Minh
(2009) với đề tài Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh – Thực trạng pháp luật và
hướng hoàn thiện; Bùi Thị Ngọc Hà (2006) với đề tài Những vấn đề pháp lý về thu
hồi nợ theo thủ tục phá sản, thực trạng và hướng hoàn thiện; Trần Nhật Tân (2005)
với đề tài Luật phá sản 2004. Bên cạnh đó cịn có các bài viết nhƣ: bài viết Tài sản
phá sản và phân chia tài sản của con nợ bị phá sản của Thạc sĩ Hà Thị Thanh Bình
đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 5/2003; bài viết Vai trò của Luật phá
sản trong việc bảo vệ quyền lợi của người lao động của Thạc sĩ Vũ Thị Hồng Vân
đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 12/2004….Đặc biệt đề tài nghiên cứu khoa học cấp
bộ: “Một số định hướng hoàn thiện pháp luật phá sản doanh nghiệp” của trƣờng
Đại học luật TP. Hồ Chí Minh do TS.Nguyễn Thái Phúc làm chủ nhiệm (2004).
Mỗi tác giả đều có những cách tiếp cận khác nhau khi tìm hiểu về thủ tục phá sản.
Khi nghiên cứu về vai trò của Tòa án, tác giả đã tìm hiểu các cơng trình có liên
quan nhƣ Luận văn cao học của Đinh Ngọc Thu Hƣơng (2006) với đề tài Địa vị
pháp lý của Tòa án trong thủ tục phá sản theo Luật phá sản 2004; khóa luận cử
nhân của Lữ Thị Hằng (2009) với đề tài Địa vị pháp lý của Tòa án trong thủ tục
phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã theo Luật phá sản 2004; Đinh Thị Kim Huệ
(2010) với đề tài Địa vị pháp lý của Tòa án trong thủ tục phá sản doanh nghiệp,
hợp tác xã theo Luật phá sản 2004. Tuy nhiên, chƣa có một đề tài nào nghiên cứu
trực tiếp và cụ thể các quy định của pháp luật về vai trò của Tòa án và Tổ quản lý,

thanh lý tài sản trong thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh. Do đó, trong khóa
luận này tác giả sẽ tìm hiểu các quy định của pháp luật Việt Nam và của một số
nƣớc trên thế giới về vai trò của Tòa án và Tổ quản lý, thanh lý tài sản trong thủ tục
phục hồi hoạt động kinh doanh. Từ đó có thể rút ra những điểm bất cập của pháp
luật và những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật hiện hành.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu
Khóa luận tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật hiện hành liên
quan đến vai trò của Tòa án và Tổ quản lý, thanh lý tài sản trong thủ tục phục hồi
hoạt động kinh doanh và thực tiễn áp dụng chúng. Tìm ra những quy định cịn bất
cập, chƣa phù hợp cản trở q trình áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản. Trên cơ sở đó, tác giả đƣa
ra những kiến nghị để hoàn thiện pháp luật phá sản.


4

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu những vấn đề lí luận cơ bản về q trình phục hồi hoạt động
kinh doanh.
- Tìm hiểu chế độ pháp lý về vai trò của Tòa án và Tổ quản lý, thanh lý tài sản
tìm ra những điểm tiến bộ của Luật phá sản 2004 so với Luật phá sản doanh nghiệp
1993. Bên cạnh đó tác giả so sánh pháp luật phá sản trong nƣớc với pháp luật của
một số nƣớc khác trên thế giới.
- Đề xuất những kiến nghị để hoàn thiện dựa trên việc học hỏi có chọn lọc
kinh nghiệm của các nƣớc phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội Việt Nam.
4. Phạm vi nghiên cứu
4.1. Nội dung khoa học cần nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về quyền hạn và trách
nhiệm của Tòa án và Tổ quản lý, thanh lý tài sản trong quá trình phục hồi hoạt động

kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản.
4.2. Văn bản pháp luật nghiên cứu
- Văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam
+ Luật phá sản 2004;
+ Luật phá sản doanh nghiệp 1993;
+ Các văn bản pháp luật khác có liên quan.
- Văn bản quy phạm pháp luật của nƣớc ngoài:
+ Luật phá sản Trung Quốc 2007;
+ Đạo Luật phá sản liên bang (Federal Bankruptcy code) Hoa Kỳ;
+ Luật tổ chức lại hoạt động công ty 1952 Nhật Bản;
+ Bộ luật về phục hồi dân sự 1999 Nhật Bản.
Bên cạnh đó tác giả cịn tham khảo các cơng trình nghiên cứu và các bài viết
về thủ tục giải quyết phá sản.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Nội dung của khóa luận đƣợc tác giả nghiên cứu dựa trên cơ sở phép biện
chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Nhà nƣớc và
pháp luật, quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc ta về xây dựng nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nƣớc theo định hƣớng Xã hội chủ nghĩa,
xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý phù hợp với nền kinh tế thị trƣờng mang tính
chất đặc thù của nƣớc ta trong giai đoạn hiện nay. Các phƣơng pháp nghiên cứu
đƣợc tác giả vận dụng cụ thể là phƣơng pháp phân tích để làm rõ nội dung của khóa
luận, phƣơng pháp so sánh để so sánh pháp luật điều chỉnh đối với vai trò của Tòa
án và Tổ quản lý, thanh lý tài sản trong thủ tục phục hồi với pháp luật của các nƣớc


5

về vấn đề liên quan, phƣơng pháp chứng minh để khẳng định những vấn đề tác giả
kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh về vai trò của Tòa án và Tổ quản lý,
thanh lý tài sản trong thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh.

6. Ý nghĩa nghiên cứu và giá trị ứng dụng của đề tài
Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của khóa luận đƣợc thể hiện ở những nội
dung sau:
Thứ nhất, tác giả đã làm rõ khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của quá trình phục
hồi hoạt động kinh doanh. Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh là thủ tục quan
trọng trong quá trình giải quyết phá sản. Tuy nhiên, vì những yếu tố khách quan và
chủ quan mà thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh đƣợc áp dụng tại Việt Nam
chƣa đạt đƣợc hiệu quả. Từ đó tác giả đã tìm ra những điểm bất cập làm cản trở quá
trình áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã.
Thứ hai, tác giả trình bày vai trò của Tòa án và Tổ quản lý, thanh lý tài sản
trong quá trình phục hồi hoạt động kinh doanh. Dựa trên cơ sở phân tích các quy
định Luật phá sản 2004, so sánh với Luật phá sản doanh nghiệp 1993 để tìm ra
những điểm tiến bộ và hạn chế.
Thứ ba, tác giả phân tích hạn chế của Luật phá sản 2004 về vai trò của Tòa án
trong thủ tục công nhận nghị quyết phục hồi của các chủ nợ, sự thiếu linh hoạt trong
việc nhận đơn yêu cầu áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản, từ đó tìm ra phƣơng hƣớng hồn
thiện.
Thứ tư, tác giả đã phân tích những hạn chế trong cơ chế thành lập, thành phần,
hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Với những lí luận đó tác giả đƣa ra
những kiến nghị về quy định của pháp luật về Tổ quản lý, thanh lý tài sản có thể
phát huy đƣợc vai trị của mình trong thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh một
cách tốt nhất.
Thứ năm, xuất phát từ mục đích học hỏi kinh nghiệm của các quốc gia khác,
tác giả đã nghiên cứu và so sánh các quy định về trò của Tòa án, Tổ quản lý, thanh
lý tài sản trong thủ tục phục hồi kinh doanh của Luật phá sản 2004 với pháp luật của
một số nƣớc nhƣ Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc, Australia, để tìm ra những điểm
tiến bộ cần đƣợc vận dụng trong quá trình cải cánh tƣ pháp của Việt Nam nhƣ chế
định quản tài viên trong pháp luật Trung Quốc, Australia; tín thác viên trong pháp
luật của Hoa Kỳ.

Khóa luận sẽ là cơng trình nghiên cứu có giá trị tham khảo cho những ngƣời
làm công tác pháp luật, sinh viên các trƣờng luật và những ngƣời có mối quan tâm
đến việc tìm hiểu những quy định của Luật phá sản. Đồng thời, khóa luận đã tìm ra


6

những bất cập, hạn chế trong quy định của pháp Luật phá sản và đƣa ra giải pháp
phù hợp nhằm xây dựng quy định của pháp luật về vai trò của Tòa án và Tổ quản lý,
thanh lý tài sản trong thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp
tác xã lâm vào tình trạng phá sản. Việc nghiên cứu thành cơng đề tài này có ý nghĩa
quan trọng trong việc hoàn thiện các quy định của pháp luật phá sản.
5. Bố cục của đề tài
Khóa luận đƣợc chia làm ba phần:
-

Phần mở đầu.
Phần nội dung.
Phần kết luận.
Trong đó phần nội dung gồm có 2 chƣơng:
Chƣơng 1: Khái quát chung về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh và địa

vị pháp lý của các chủ thể tham gia.
Chƣơng 2: Quy định của pháp luật về vai trò của Tòa án và Tổ quản lý, thanh
lý tài sản trong quá trình phục hồi hoạt động kinh doanh, định hƣớng hoàn thiện.


7

Chƣơng I

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỦ TỤC PHỤC HỒI HOẠT ĐỘNG KINH
DOANH VÀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CÁC CHỦ THỂ THAM GIA
1.1. Khái quát chung về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh
1.1.1. Khái niệm chung về thủ tục phụ hồi hoạt động kinh doanh
Cũng nhƣ quy luật sinh tồn trong cuộc sống, thành lập - phá sản của doanh
nghiệp, hợp tác xã là hiện tƣợng tất yếu trong nền kinh tế thị trƣờng. Đây chính là
q trình “sàng lọc” nhằm đào thải những chủ thể kinh doanh yếu kém, giữ lại
những chủ thể làm ăn có hiệu quả, có khả năng đứng vững và phát triển trong nền
kinh tế thị trƣờng.
Nhƣ Tiến sỹ Nguyễn Sỹ Dũng đã cho rằng: “Giống như trong một cơ thể
sống, hàng chục triệu tế bào sinh ra và chết đi, trong một nền kinh tế thị trường,
hàng chục ngàn doanh nghiệp được thành lập và phá sản. Sinh- tử, thành lập- phá
sản là những quy luật bất diệt của cuộc sống và thị trường. Nếu chúng ta tin vào
quy luật triết học: phủ định của phủ định thì phá sản là một sự phủ định cần thiết để
nền kinh tế có bước phát triển cao hơn”4. Mặc dù trong hoạt động sản xuất, kinh
doanh ai cũng muốn thu về lợi nhuận. Tuy nhiên, không phải tất cả các chủ thể kinh
doanh đều đạt đƣợc điều đó, rất nhiều trong số họ phải đối mặt với nguy cơ bị phá
sản. Từ thời La Mã cổ đại, pháp luật đã bảo vệ chủ nợ một cách cực đoan là nhằm
vào việc trừng phạt con nợ, khi các con nợ không thể trả đƣợc các khoản nợ thì họ
bị áp dụng các biện pháp cƣỡng chế về tài sản, bị cầm tù, hoặc bị băm xác thành
nhiều phần rồi đem chia cho các chủ nợ.5
Hiện nay, phá sản dần dần trở thành một hiện tƣợng bình thƣờng trong nền
kinh tế thị trƣờng, đóng vai trị nhất định trong sự phát triển chung của xã hội. Có
hai cách xử lý khi doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản (sau đây gọi
là con nợ): thứ nhất, là thanh lý tài sản thu hồi các khoản nợ cho các chủ nợ và giúp
con nợ rút khỏi thị trƣờng một cách có trật tự, đây là thủ tục “khai tử” đối với doanh
nghiệp, hợp tác xã. Cách thứ hai, cũng là cách đƣợc đa số các nƣớc trên thế giới áp
dụng đó là phục hồi lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp hay còn gọi là tổ
chức lại. Tổ chức lại doanh nghiệp, hợp tác xã là con đƣờng có thể cứu vãn đƣợc
các con nợ, giúp cho các chủ nợ có thể thu hồi đƣợc các khoản nợ của mình tốt

nhất6.
4

Nguyễn Sỹ Dũng (2004), phá sản và chế tài, báo Tuổi Trẻ chủ nhật, số 20 -04 (1080) ngày 23/5/2004, tr8.
5

Phạm Duy Nghĩa, Đi tìm triết lý phá sản , bài tham luận tại hội thảo lấy ý kiến sửa đổi Luật phá sản (sửa

đổi) tổ chức ngày 20/11/2003 tại VCCI.
Bùi Xuân Hải(2000), Hoàn thiện pháp luật về phá sản doanh nghiệp, Luận văn thạc sỹ luật học, Trƣờng đại
học luật Thành Phố Hồ Chí Minh, tr 6.
6


8

Theo quy định của Luật phá sản 2004 cũng nhƣ quy định của Luật phá sản
doanh nghiệp 1993 không đƣa ra một khái niệm nào về thủ tục phục hồi hoạt động
kinh doanh. Tuy nhiên, khái niệm thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh đã có
trong luật cổ La Mã, mục tiêu của thủ tục phục hồi hoạt động kinh daonh là tạo ra
một số cơ hội cho con nợ giảm các áp lực của các khoản nợ và các khoản lãi từ các
khoản nợ để việc kinh doanh có thể phát sinh lãi nhƣ kéo dài thời hạn trả nợ, khơng
tính lãi trong một khoảng thời gian, chuyển nợ thành vốn góp….7
Theo hƣớng dẫn lập pháp về Luật mất khả năng thanh toán (Legislative Guide
on Insovency Law 2004) của Ủy ban pháp luật Thƣơng mại Liên hợp quốc
(UNCITRAL), khái niệm “Reorganization” (thủ tục tổ chức lại) đƣợc hiểu: “là q
trình mà theo đó tình trạng tài chính ổn định và khả năng thanh tốn của con nợ có
thể được khôi phục và doanh nghiệp vẫn tiếp tục hoạt động, trên cơ sở tiến hành
các biện pháp khác nhau, bao gồm việc miễn nợ, hoãn nợ, bù trừ nghĩa vụ và
chuyển nhượng”8. Theo ý kiến của tác giả phục hồi hoạt động kinh doanh phải đƣợc

nhìn nhận dƣới 2 góc độ: về mặt pháp lý và về mặt kinh tế.
- Dƣới góc độ kinh tế, phục hồi hoạt động kinh doanh là việc doanh nghiệp đã
bị mở thủ tục phá sản tiếp tục hoạt động kinh doanh của mình dựa trên những biện
pháp khác nhau và sự giúp đỡ của các chủ thể khác. Từ đó con nợ có thể thốt khỏi
tình trạng mất khả năng thanh tốn, trở về hoạt động bình thƣờng.
- Dƣới góc độ pháp luật, phục hồi hoạt động kinh doanh là một thủ tục tƣ
pháp, một thủ tục nhỏ trong quá trình giải quyết vụ việc phá sản, đƣợc thực hiện
theo những trình tự và điều kiện do pháp luật quy định, đặt dƣới sự giám sát của toà
án nhân dân (TADN).
Nhƣ vậy, phục hồi hoạt động kinh doanh là một thủ tục quan trọng trong quá
trình giải quyết phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Khi doanh nghiệp, hợp tác xã mất
khả năng thanh tốn các khoản nợ đến hạn, ngồi việc áp dụng thủ tục thanh lý tài
sản nhằm mục đích thu hồi các khoản nợ thì thì thủ tục phá sản cịn hƣớng đến một
mục đích lớn hơn là phục hồi khả năng thanh toán nợ cho con nợ, giúp con nợ thốt
khỏi tình trạng khó khăn về tài chính, trở lại hoạt động kinh doanh bình thƣờng.
1.1.2 Đặc điểm chung về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh
* Phục hồi hoạt động kinh doanh là một thủ tục tư pháp, đặt dưới sự giám sát
của Tịa án.

7

Lê Hữu Trí(2004), Luật phá sản doanh nghiệp Việt Nam dưới góc độ so sánh, luận văn thạc sĩ, Trƣờng Đại
học luật TP HCM, tr 45.
8
UNCITRAL (2004), Legislative Guide on Insovency Law, New York, tr. 7.


9

Theo quy định của Luật phá sản 2004, thủ tục phá sản doanh nghiệp, hợp tác

xã đƣợc thực hiện qua các bƣớc và trình tự nhất định. Từ các chủ thể có thể có
quyền, nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu áp dụng thủ tục phá sản, thời điểm thụ lí đơn, trả
lại đơn, mở thủ tục phá sản, áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh đến
quyết định thanh lý tài sản đều đƣợc quy định qua các điều luật cụ thể. Thủ tục phục
hồi hoạt động kinh doanh cũng chỉ đƣợc áp dụng khi đáp ứng những điều kiện theo
quy định của Luật phá sản 2004.
Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phải ln đƣợc đặt
dƣới sự giám sát của Tồ án, là cơ quan đƣợc nhà nƣớc trao quyền giải quyết phá
sản. Sự giám sát của Tòa án đảm bảo cho quá trình thực hiện thủ tục phục hồi hoạt
động kinh doanh đúng pháp luật, và phƣơng án phục hồi hoạt động kinh doanh đã
đƣợc thơng qua. Bên cạnh đó, nhờ sự giám sát của Tịa án mà quyền và lợi ích của
các bên trong quá trình phục hồi hoạt động kinh doanh đƣợc đảm bảo.
Ở Úc, thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh có thể do các bên quyết định,
Tịa án khơng tham gia vào q trình tổ chức lại hoạt động kinh doanh vì các lí do
sau:
“- Tổ chức lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là công việc của chủ
nợ và những người có quyền và lợi ích liên quan Tịa án khơng có quyền can thiệp.
- Tịa án khơng quan tâm về mối quan hệ giữa chủ nợ và con nợ trong việc
giàn xếp tự nguyện các khoản nợ.
- Quan tịa chỉ là người có kinh nghiệm và khả năng về những vấn đề có tính
chất pháp lý chứ khơng có kiến thức, kinh nghiệm trong kinh doanh nên không thể
và không nên tham gia vào quá trình này”9.
Theo ý kiến của tác giả, mặc dù thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh là kết
quả của việc thỏa thuận giữa doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản
và các chủ nợ, là ý chí của các bên trong q trình giải quyết phá sản, kết quả đem
lại cũng nhằm mục đích đảm bảo quyền lợi giữa các bên tham gia. Tuy nhiên, khi
đƣa một vụ việc phá sản ra giải quyết tại Tòa, tức là các bên đã chấp nhận sự can
thiệp của nhà nƣớc để điều hòa quyền lợi giữa các chủ thể liên quan. Trong quá
trình phục hồi hoạt động kinh doanh này thì Tịa án cũng chỉ xem xét mặt pháp lý,
nên việc can thiệp này là hoàn toàn hợp lí và cần thiết.

* Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh là một thủ tục nhỏ trong quá trình
giải quyết phá sản.
9

Hà thị Thanh Bình, Pháp luật về thanh lý cơng ty vì lí do vỡ nợ của Australia,
/>tyvldvnuc&catid=92:ctc20032&Itemid=106.


10

Mặc dù Luật phá sản 2004 không đƣa ra định nghĩa thế nào là phục hồi hoạt
động kinh doanh. Tuy nhiên, tại Điều 5 Luật phá sản 2004 đã quy định thủ tục phá
sản đƣợc áp dụng đối với doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản trải
qua các giai đoạn sau: nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản; phục hồi hoạt động kinh
doanh; thanh lý tài sản, các khoản nợ; tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản.
Sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, căn cứ vào quy định cụ thể của luật này,
Thẩm phán quyết định áp dụng một trong hai thủ tục là phục hồi hoạt động kinh
doanh hoặc thanh lý tài sản, các khoản nợ; hoặc quyết định chuyển từ thủ tục phục
hồi hoạt động kinh doanh sang thủ tục thanh lý tài sản10. Nhƣ vậy, một vụ việc giải
quyết phá sản không nhất thiết phải trải qua tất cả các bƣớc mà có thể có những
bƣớc đƣợc rút gọn hay tuần tự tùy vào tính chất của mỗi vụ việc phá sản.
Theo quy định trên của Luật phá sản 2004, thủ tục phục hồi hoạt động kinh
doanh là một thủ tục độc lập, quá trình giải quyết phá sản có thể trải qua nó hoặc
khơng, thủ tục này không phải là điều kiện bắt buộc để áp dụng thủ tục thanh lí tài
sản. Tịa án có thể áp dụng thủ tục thanh lý tài sản mà không thông qua thủ tục phục
hồi hoạt động kinh doanh11. Đây là những quy định tiến bộ của Luật phá sản 2004
hơn Luật phá sản doanh nghiệp 1993. Theo quy định Luật phá sản doanh nghiệp
1993 doanh nghiệp sau khi thực hiện phƣơng án phục hồi không thành công mới
đƣợc chuyển qua thủ tục thanh lý tài sản12. Quy định của luật nhƣ vậy là máy móc
và cứng nhắc, bởi vì có những trƣờng hợp doanh nghiệp thua lỗ nghiêm trọng,

khơng thể cứu vãn nên dù có áp dụng phƣơng án phục hồi cũng không thể “cứu
sống” đƣợc con nợ nên việc áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh chỉ làm
lãng phí cơng sức, tiền bạc của các chủ thể tham gia. Theo Luật phá sản 2004 tính
thứ tự, nối tiếp nhau khơng phải là yếu tố bắt buộc giữa các thủ tục cấu thành thủ
tục phá sản. Đây là bƣớc phát triển về lý luận của pháp luật phá sản nƣớc ta.
* Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh là con đường giúp cho các doanh
nghiệp, hợp tác xã có thể trở lại hoạt động kinh doanh dưới sự giúp đỡ của các chủ
thể khác.
Vai trò trung tâm của phá sản trong nền kinh tế thị trƣờng hiện đại là khuyến
khích việc tái tổ chức. Khi doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện thành công phƣơng
án phục hồi sẽ bảo đảm giá trị sản xuất của các doanh nghiệp, hợp tác xã từ đó có
thể bồi hồn tốt hơn cho các chủ nợ và bảo vệ ngƣời lao động, cộng đồng, chống lại
việc sa thải lao động không cần thiết. Mục tiêu quan trọng nhất khi áp dụng phƣơng
án phục hồi hoạt động kinh doanh là sự cân bằng quyền lợi giữa các bên, bao gồm
10

Điều 78, 79, 80 Luật phá sản 2004.
Điều 87 Luật phá sản 2004.
12
Điều 20 Luật phá sản doanh nghiệp 1993.
11


11

việc bảo vệ quyền lợi các chủ nợ và mặt khác là ngăn ngừa sự thanh lý vội vàng đối
với những doanh nghiệp, hợp tác xã vẫn còn khả năng phục hồi.
Trong quá trình phục hồi, các chủ thể tham gia phải phối hợp một cách chặt
chẽ với nhau. Hoạt động kinh doanh lúc này không phải chỉ là trách nhiệm của
doanh nghiệp, hợp tác xã mà cịn có sự giúp đỡ từ những chủ thể khác nhƣ chủ nợ,

Tòa án và các chủ thể liên quan khác. Chủ nợ có thể giúp doanh nghiệp trong vấn
đề chuyển nợ, hỗn nợ, thông qua kế hoạch phục hồi hoạt động kinh doanh, giám
sát hoạt động kinh doanh. Tịa án ln giám sát để đảm bảo kế hoạch phục hồi đi
đúng hƣớng và đúng pháp luật. Nhƣ vậy, trong quá trình phục hồi hoạt động kinh
doanh thì doanh nghiệp, hợp tác xã luôn nhận đƣợc sự hỗ trợ về nhiều mặt từ phía
Tịa án và các chủ nợ nên khả năng phục hồi hoạt động kinh doanh sẽ cao hơn.
1.1.3. Điều kiện để áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh
Để áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh cần phải đáp ứng những
điều kiện nhất định. Điều kiện đầu tiên đó là Hội nghị chủ nợ phải đƣợc diễn ra hợp
lệ. Theo quy định tại Điều 65 của Luật phá sản 2004 thì Hội nghị chủ nợ lần một
đƣợc diễn ra hợp lệ khi có:
- Quá nửa số chủ nợ khơng có đảm bảo đại diện cho từ 2/3 tổng số nợ
khơng có bảo đảm trở lên tham gia;
- Có sự tham gia của ngƣời có nghĩa vụ tham gia Hội nghị chủ nợ quy định
tại Điều 63 của luật này13.
Luật phá sản 2004 chỉ quy định sự có mặt và biểu quyết của chủ nợ khơng có
bảo đảm, với số lƣợng là hơn nửa số chủ nợ khơng có bảo đảm đại diện cho từ 2/3
số nợ khơng có bảo đảm trở lên là khơng hợp lí. Vì theo Điều 6 Luật phá sản 2004
quy định chủ nợ đƣợc chia làm ba loại là chủ nợ có bảo đảm, chủ nợ khơng có bảo
đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần. Đối với chủ nợ có bảo đảm một phần là chủ nợ
có khoản nợ đƣợc bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp hoặc của ngƣời thứ ba mà
giá trị tài sản đảm bảo thấp hơn khoản nợ đó. Nhƣ vậy, đối với loại chủ nợ này, họ
vừa có số nợ có bảo đảm vừa có số nợ khơng có bảo đảm. Việc quy định có q nửa
số chủ nợ khơng có bảo đảm đại diện cho từ hai phần ba tổng số nợ không có bảo
đảm trở lên tham gia là điều kiện để Hội nghị chủ nợ diễn ra hợp lệ là không hợp lý
và rất khó có thể thực hiện đƣợc. Bởi vì, có những trƣờng hợp Hội nghị chủ nợ
khơng thể tiến hành đƣợc mặc dù có hơn nửa số chủ nợ hoặc thậm chí có đầy đủ
chủ nợ khơng có bảo đảm tham gia. Lí do vì số nợ mà họ đại diện không vƣợt quá
hai phần ba số nợ khơng có bảo đảm, chính các chủ nợ có bảo đảm một phần nắm
giữ số nợ này. Nhƣ vậy, quy định về điều kiện hợp lệ của Hội nghị chủ nợ tại Điều

13

Xem thêm: Điều 63 Luật phá sản 2004.


12

65 Luật phá sản 2004 không hợp lý, tạo ra sự bất bình đẳng giữa các chủ nợ và thụt
lùi so với quy định tại Điều 29 Luật phá sản doanh nghiệp 1993. Luật phá sản
doanh nghiệp 1993 đã không phân biệt chủ nợ có bảo đảm, bảo đảm một phần hay
khơng có bảo đảm để làm điều kiện cho Hội nghị chủ nợ diễn ra hợp lệ14.
Sau 30 ngày kể từ Hội nghị chủ nợ lần một thông qua nghị quyết, doanh
nghiệp, hợp tác xã xây dựng phƣơng án phục hồi kinh doanh và nộp cho tòa, nếu
thời gian trên chƣa đủ có thể đề nghị Thẩm phán gia hạn thêm. Sau khi xây dựng
phƣơng án phục hồi, doanh nghiệp, hợp tác xã sẽ nộp lên cho Thẩm phán. Thẩm
phán sẽ xem xét phƣơng án phục hồi trƣớc khi đƣa ra Hội nghị chủ nợ lần hai15.
Phƣơng án phục hồi hoạt động kinh danh sẽ đƣợc thông qua tại Hội nghị chủ nợ lần
thứ hai khi đƣợc quá nửa số chủ nợ khơng có bảo đảm có mặt đại diện cho từ 2/3
tổng số nợ khơng có bảo đảm trở lên biểu quyết tán thành16. Luật phá sản 2004 đã
khơng cho phép chủ nợ có bảo đảm một phần đƣợc biểu quyết thông qua phƣơng án
phục hồi hoạt động kinh doanh là khơng hợp lý vì những chủ nợ này họ cũng có
một phần nợ khơng có bảo đảm. Nên quy định các chủ thể có quyền biểu quyết là
những chủ nợ có số nợ khơng có bảo đảm thì sẽ hợp lý hơn. Đối với chủ nợ có bảo
đảm, họ là những ngƣời có tiềm lực kinh tế có thể giúp doanh nghiệp, hợp tác xã
trong q trình phục hồi. Tuy nhiên, Luật phá sản 2004 của Việt Nam đã khơng quy
định vai trị của họ trong q trình áp dụng thủ tục phục hồi cũng là một thiếu sót
cần đƣợc bổ sung. Khác với quy định của pháp luật Việt Nam, Luật phá sản của các
quốc gia khác nhƣ Anh, Hoa Kỳ, Đức đều quy định dành quyền biểu quyết cho các
chủ nợ bao gồm chủ nợ có bảo đảm, chủ nợ khơng có bảo đảm17. Hầu hết các nƣớc
đều không phân biệt giữa các chủ nợ khi tham gia vào Hội nghị chủ nợ và biểu

quyết thông qua nghị phƣơng án phục hồi hoạt động kinh doanh.
Tƣ duy của các nhà lập pháp các nƣớc khác nhau nên quy định pháp luật cũng
khác nhau. Tuy nhiên, theo ý kiến tác giả, nên quy định cho tất cả các chủ nợ là hợp
lý hơn. Bởi vì khi thực hiện phƣơng án phục hồi hoạt động kinh doanh thì quyền lợi
của tất cả các chủ nợ để bị ảnh hƣởng, đặc biệt là các chủ nợ có bảo đảm và chủ nợ
có bảo đảm một phần. Nên các chủ thể này phải đƣợc trao quyền quyết định có nên
áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh hay không. Sự kết hợp nhuần
nhuyễn của các chủ thể tham gia thì cơ hội phục hồi doanh nghiệp, hợp tác xã sẽ
cao hơn, và tiến gần hơn với xu thế chung trong việc giải quyết phá sản của thế giới.
14

Xem thêm Điều 29 Luật phá sản doanh nghiệp 1993.
Điều 70 Luật phá sản 2004.
16
Điều 71, Luật phá sản 2004
17
Nguyễn Ngọc Thạch(2003) Phục hồi doanh nghiệp, hội thảo góp ý Luật phá sản doanh nghiệp ngày
20/11/2003 tại Phòng thƣơng mại và công nghiệp Việt Nam VCCI , báo điện tử diễn đàn doanh nghiệp
www.dddn.com.vn
15


13

1.1.4. Ý nghĩa của thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh.
* Ý nghĩa của thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh đối với chủ nợ.
Từ thời xƣa, chủ nợ đƣợc xem nhƣ là nạn nhân của phá sản, chính vì thế, pháp
luật ln có những quy định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của họ. Ngày nay, mặc
dù định kiến về phá sản đã khơng cịn gay gắt nhƣ trƣớc đây nhƣng quyền lợi của
chủ nợ vẫn ln đƣợc đặt lên hàng đầu. Vì khi doanh nghiệp, hợp tác xã bị đặt vào

tình trạng phá sản thì quyền lợi của chủ nợ sẽ bị ảnh hƣởng đầu tiên.
Luật phá sản 2004 đã có rất nhiều quy định thiên về bảo vệ lợi ích của các chủ
nợ nhƣ quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản; quyền khiếu nại danh sách chủ
nợ; quyền có đại diện trong Tổ quản lý, thanh lý tài sản; quyền đƣợc khiếu nại
quyết định tuyên bố phá sản; quyền biểu quyết thông qua nghị quyết của Hội nghị
chủ nợ; quyền giám sát quá trình thực hiện phƣơng án phục hồi hoạt động kinh
doanh….
Khác với địi nợ thơng thƣờng, việc thanh tốn nợ cho các chủ nợ theo thủ tục
phá sản mang tính tập thể. Vì vậy, khi thanh lý tài sản khơng phải tất cả các chủ nợ
đều đƣợc thanh tốn hết khoản nợ mình cần phải địi. Số tiền đƣợc thanh tốn tùy
thuộc vào giá trị tài sản cịn lại của doanh nghiệp, thứ tự thanh toán theo quy định
của pháp luật phá sản. Chính vì thế, nếu doanh nghiệp đƣợc phục hồi khả năng thu
hồi nợ của các chủ nợ khi doanh nghiệp, hợp tác xã trở lại kinh doanh có lãi là cao
hơn, và đầy đủ hơn. Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh không những là con
đƣờng giúp con nợ trở lại hoạt động kinh doanh bình thƣờng mà cịn là một “kênh”
giúp cho các chủ nợ có thể thu hồi các khoản nợ của mình nhất là các khoản nợ
khơng có bảo đảm.
Trong q trình phục hồi sẽ phát sinh những hợp đồng mới vì vậy sẽ có những
“chủ nợ mới”, là chủ nợ chỉ xuất hiện sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản. Sau
khi có quyết định mở thủ tục phá sản thì doanh nghiệp, hợp tác xã vẫn đƣợc tiến
hành hoạt động kinh doanh bình thƣờng18. Nhƣ vậy, sau khi bị áp dụng thủ tục phá
sản thì doanh nghiệp, hợp tác xã vẫn tiếp tục thực hiện các hợp đồng cũ và giao kết
các hợp đồng mới. Điều tất yếu là phải phát sinh các chủ nợ mới, các chủ nợ này
vẫn có thể nhận đƣợc thanh tốn các khoản nợ của mình trong thời gian giải quyết
phá sản. Tuy nhiên, Luật phá sản chƣa quy định cách thức giải quyết cho các chủ nợ
mới sau khi có quyết định tuyên bố phá sản. Theo ý kiến của ngƣời viết, pháp luật
phá sản nên quy định những chủ thể mới này sẽ đƣợc ƣu tiên thanh toán trƣớc các
chủ thể khác, nhƣ vậy mới có thể huy động nguồn vốn, và hợp tác kinh doanh trong
quá trình phục hồi. Khi mà uy tín của doanh nghiệp, hợp tác xã đã có quyết định mở
18


Khoản 1 Điều 30 Luật phá sản 2004.


14

thủ tục phá sản rất thấp, nếu khơng có một cơ chế bảo đảm cho các chủ nợ mới thì
việc hợp tác kinh doanh sẽ rất khó khăn, huy động nguồn vốn đầu tƣ sẽ khơng đƣợc
thuận lợi. Vì rất ít nhà đầu tƣ dám mạo hiểm cung cấp nguồn vốn của mình cho
doanh nghiệp, hợp tác xã đang áp dụng thủ tục phục hồi nếu khơng có một cơ chế
bảo vệ hay ƣu tiên thanh toán khoản đầu tƣ của họ.
Nhƣ vậy, vai trò quan trọng của Luật phá sản là bảo vệ quyền và lợi ích chính
đáng của các chủ nợ. Doanh nghiệp, hợp tác xã đƣợc áp dụng thủ tục phục hồi hoạt
động kinh doanh hay không tùy thuộc vào ý chí của các chủ nợ thơng qua việc biểu
quyết nghị quyết về phƣơng án phục hồi hoạt động kinh doanh. Một trong những
mục đích chính của thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh là tối đa hóa khả năng
thu hồi nợ của các chủ nợ.
* Ý nghĩa của thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh đối với con nợ là doanh
nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản
Khi mới ra đời Luật phá sản không chú trọng đến quyền lợi của các con nợ.
Các con nợ còn bị xem nhƣ “phạm nhân” chịu những hình phạt hà khắc nhƣ phanh
thây, làm nhục, phạt tù…19. Nhƣng qua thời gian, Luật phá sản đã có những thay
đổi phù hợp hơn khi xã hội có cách nhìn nhân đạo hơn đối với doanh nghiệp, hợp
tác xã bị phá sản. Phá sản đƣợc xem là một “hiện tƣợng” bình thƣờng của nền kinh
tế thị trƣờng. Trong nền kinh tế thị trƣờng, quy luật tự do kinh doanh, tự do cạnh
tranh luôn đƣợc đề cao. Sinh tồn – đào thải là kết quả tất yếu của quá trình này.
Những chủ thể kinh doanh nào làm ăn có hiệu quả sẽ tồn tại và phát triển, ngƣợc lại
một số chủ thể kinh doanh thua lỗ, khơng có khả năng thanh toán đƣợc các khoản
nợ đến hạn sẽ bị loại bỏ ra khỏi thị trƣờng. Khi cạnh tranh càng gay gắt thì phá sản
xảy ra càng nhiều và phổ biến. Luật phá sản không những đƣa lại cơ hội cho các

chủ thể kinh doanh gặp khó khăn rút khỏi thƣơng trƣờng một cách có trật tự mà cịn
có quy định tạo điều kiện cần thiết cho con nợ phục hồi hoạt động kinh doanh.
*Ý nghĩa của thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh đối với người lao động
Theo quy định tại khoản 4 Điều 14 và khoản 2 Điều 62 Luật phá sản 2004
khi doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì ngƣời lao động đƣợc
xem nhƣ những chủ nợ khơng có bảo đảm, số nợ mà họ muốn thu hồi là giá trị sức
lao động. Họ có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi khơng đƣợc thanh
tốn tiền lƣơng20. Về quyền nộp đơn của ngƣời lao động, Luật phá sản 2004 đã có
những quy định tiến bộ hơn so với Luật phá sản doanh nghiệp 1993. Theo Điều 8
Luật phá sản doanh nghiệp 1993 ngƣời lao động chỉ có quyền nộp đơn khi doanh
19

Xem: Phạm Duy Nghĩa, triết lý của Luật phá sản,
/>20
Điều 14 Luật phá sản 2004.


15

nghiệp nợ lƣơng trong ba tháng liên tiếp. Quy định này sẽ tạo cơ hội cho các doanh
nghiệp có thể “lách luật” bằng cách trả lƣơng xen kẽ giữa các tháng để có thể ngăn
cản ngƣời lao động nộp đơn yêu cầu tuyên bố doanh nghiệp phá sản. Luật phá sản
2004 đã tạo điều kiện dễ dàng hơn để ngƣời lao động thực hiện quyền nộp đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản khi không quy định thời hạn hạn nợ lƣơng là bao nhiêu. Có
nhiều ý kiến cho rằng nếu nhƣ ngƣời lao động nộp đơn ngay sau khi doanh nghiệp,
hợp tác xã nợ lƣơng ngƣời lao động là chƣa cần thiết và quá vội vàng. Vì trong một
số trƣờng hợp doanh nghiệp, hợp tác xã có thể gặp khó khăn nhất thời nên chƣa thể
thanh tốn tiền lƣơng cho ngƣời lao động đúng hạn. Luật phá sản 2004 khơng quy
định về thời hạn khơng có khả năng thanh tốn là bao lâu nhƣng khơng nên máy
móc áp dụng ngay sau khi quá hạn là đã yêu cầu tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác

xã đó lâm vào tình trạng phá sản. Yêu cầu thanh toán của chủ nợ ở đây cần đƣợc
hiểu là yêu cầu này đƣợc đƣa ra sau khi hết hạn thanh toán và định một thời hạn
cho doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ thanh toán. Chỉ sau khi hết thời hạn này thì
mới phát sinh quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản 21. Vậy, nên chăng Luật
phá sản cần quy định một khoảng thời gian ngắn (khoảng 30 ngày) sau khi hết
hạn thanh toán tiền lƣơng cho ngƣời lao động, để chủ thể nộp đơn có thể xác
định đƣợc doanh nghiệp, hợp tác xã đang gặp khó khăn nhất thời hay đang lâm
vào tình trạng phá sản. Sau khoảng thời gian này thì ngƣời lao động có thể thực
hiện quyền nộp đơn của mình.
Khi doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản, ngƣời lao động sẽ đƣợc
thanh toán một tỷ lệ nhất định trong tổng số tài sản còn lại, nhƣng cùng lúc đó họ
trở thành những ngƣời thất nghiệp, khơng có cơng ăn việc làm ổn định. Đây cũng là
lí do mà Luật phá sản hiện đại ln hƣớng doanh nghiệp, hợp tác xã vào quá trình
phục hồi. Ngƣời lao động một khi đã mất đi môi trƣờng làm việc thì cuộc sống của
họ lâm vào tình trạng khó khăn, q trình phục hồi hoạt động kinh doanh thành
cơng sẽ kéo theo việc làm cho hàng loạt ngƣời lao động.
* Ý nghĩa của thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh đối với nền kinh tế, xã
hội
Trên một phƣơng diện nào đó phá sản khơng hồn tồn là một hiện tƣợng
tiêu cực của xã hội, mà nó cịn đƣa lại những lợi ích nhất định cho nền kinh tế. Phá
sản giống nhƣ một cơ chế sàng lọc những doanh nghiệp, hợp tác xã yếu kém nếu
tồn tại cũng giống nhƣ những “ung nhọt” làm ảnh hƣởng đến những chủ thể kinh
21

Xem thêm Đặng Thành Vinh (2010), Tìm hiểu các quy định của Luật phá sản năm 2004 về nộp đơn và thụ
lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, chuyên đề khoa học xét xử, Tòa án nhân dân tối cao, Hà nội tháng
4/2010, tr 24.


16


doanh khác. Chính vì vậy, khi những chủ thể này bị loại khỏi nền kinh tế đã góp
phần làm trong sạch môi trƣờng kinh doanh. Tuy nhiên, một chủ thể phá sản sẽ kéo
theo những khó khăn nhất định cho những chủ thể kinh doanh khác, đặc biệt khi đó
là những tổ chức tín dụng. Hiện tƣợng phá sản dây chuyền có thể xảy ra làm “rối
loạn” nền kinh tế. Ngồi ra, phá sản cịn kéo theo rất nhiều hậu quả ảnh hƣởng xấu
đến xã hội nhƣ thất nghiệp, tệ nạn xã hội.
Để khắc phục những tình trạng này, với thiết chế quyền lực của mình, Nhà
nƣớc sẽ dùng mọi cơng cụ trong đó có Luật phá sản để giải quyết. Những quy định
về thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh trong Luật phá sản đã phần nào hạn chế
đƣợc những hậu quả xấu có thể xảy ra. Khi phƣơng án phục hồi hoạt động kinh
doanh thành công, doanh nghiệp, hợp tác xã đã thốt khỏi tình trạng mất khả năng
thanh tốn, điều này có thể đảm bảo đƣợc trật tự kỹ cƣơng xã hội, tránh những mâu
thuẫn, tệ nạn xã hội có thể xảy ra. Phục hồi hoạt động kinh doanh có một vai trị
quan trọng khơng những đối với các chủ thể tham gia vào quá trình phá sản mà cịn
có ý nghĩa to lớn đối với nền kinh tế và xã hội.
1.2. Địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia quá trình phục hồi hoạt động
kinh doanh.
1.2.1 Khái niệm chung về địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia
Theo từ điển Luật học thì “ địa vị pháp lý” là “vị trí của chủ thể trong mối
quan hệ với những chủ thể pháp luật khác trên cơ sở các quy định của pháp luật, là
tổng thể các quyền và nghĩa vụ của chủ thể, qua đó xác lập cũng như giới hạn khả
năng của chủ thể trong các hoạt động của mình”22.
Khi nghiên cứu về địa vị pháp lí của các chủ thể tham gia là nghiên cứu về vị
trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối tƣơng quan đối với các chủ thể khác mà
Luật phá sản trao cho các chủ thể trong quá trình phục hồi hoạt động kinh doanh.
Địa vị pháp lý của các chủ thể là một vấn đề khá phức tạp và phải nghiên cứu
dƣới những khía cạnh và phƣơng diện khác nhau. Mỗi một giai đoạn phá sản, địa vị
của các chủ thể có thể khác nhau. Trong thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh mỗi
chủ thể khác nhau thì vai trị, nhiệm vụ quyền hạn cũng khác nhau. Pháp luật phá

sản của các nƣớc trên thế giới có sự khác biệt trong việc quy định địa vị pháp lý của
các loại chủ thể; điều này xuất phát từ trình độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi
nƣớc, quan điểm của nhà nƣớc đó trong việc ƣu tiên bảo vệ lợi ích của loại chủ thể
nào, cũng nhƣ khả năng giải quyết các công việc phát sinh từ vụ việc phá sản của
các bên tham gia. Xét trên phƣơng diện lợi ích, Luật phá sản của Anh và Cộng hòa
liên Bang Đức thiên về bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ hơn, còn pháp Luật phá sản
22

Viện khoa học pháp lý – Bộ Tƣ Pháp (2006), Từ điển Luật học, NXB Tƣ Pháp – NXB Từ điển Bách khoa,
Hà Nội, tr. 244.


17

của Hoa Kỳ và Pháp lại coi trọng việc bảo vệ quyền lợi các con nợ 23. Có rất nhiều
chủ thể tham gia vào quá trình phục hồi hoạt động kinh doanh, mỗi chủ thể có
những quyền và nghĩa vụ nhất định tùy thuộc quyền lực mà nhà nƣớc trao cho họ.
Theo xu hƣớng của pháp Luật phá sản hiện đại, Luật phá sản 2004 đã có những quy
định nhằm điều hịa lợi ích giữa chủ nợ và các doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào
tình trạng phá sản.
Từ những phân tích trên, thì địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia vào quá
trình phục hồi hoạt động kinh doanh là tổng thể vị trí, vai trị trong mối tƣơng quan
với các chủ thể khác, đƣợc thể hiện thông qua quyền và nghĩa vụ mà pháp luật đã
quy định. Theo pháp Luật phá sản hiện hành có bốn chủ thể chính tham gia vào q
trình phục hồi phá sản: chủ nợ; con nợ; Tòa án; Tổ quản lý, thanh lý tài sản mỗi chủ
để đều có những địa vị pháp lý nhất định trong thủ tục phục hồi hoạt động kinh
doanh.
1.2.2. Các chủ thể tham gia vào quá trình phục hồi hoạt động kinh doanh
1.2.2.1. Chủ nợ
Theo Luật phá sản 2004 chủ nợ đƣợc phân chia thành ba loại: chủ nợ có bảo

đảm, chủ nợ khơng có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần24.
Cũng giống nhƣ vậy, Luật phá sản doanh nghiệp 1993 quy định chia chủ nợ
làm ba loại, chỉ khác ở chỗ đối với chủ nợ có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một
phần thì tài sản bảo đảm chỉ là tài sản của doanh nghiệp mắc nợ mà khơng có thêm
phần tài sản đảm bảo của ngƣời thứ ba25. Việc xác định chủ nợ nào là chủ nợ có bảo
đảm, chủ nợ nào là chủ nợ có bảo đảm một phần, chủ nợ nào là chủ nợ khơng có
bảo đảm có ý nghĩa vơ cùng quan trọng bởi vì ở mỗi giai đoạn của thủ tục giải
quyết phá sản, các chủ nợ khác nhau sẽ có quyền lợi khác nhau. Ví dụ nhƣ chủ nợ
có bảo đảm khơng có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp, hợp
tác xã nhƣng lại đƣợc quyền ƣu tiên thanh toán các khoản nợ bằng tài sản bảo đảm.
Còn nếu là chủ nợ có bảo đảm một phần thì thứ tự thanh tốn sau cùng đối với phần
nợ khơng đƣợc bảo đảm nhƣng lại có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.
Thời trung cổ, Luật phá sản đã thiên về hƣớng bảo vệ các chủ nợ. Luật phá sản
ra đời là công cụ hữu hiệu của nhà cầm quyền để bảo vệ quyền và lợi ích của các
chủ nợ. Chủ nợ đƣợc xem là những nạn nhân của “tội phạm” phá sản. Ngày nay, tuy

23

TS Nguyễn Thái Phúc(2004), Mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản và hậu quả pháp lý,, đề tài
nghiên cứu khoa học cấp bộ: Một số định hƣớng hoàn thiện pháp Luật phá sản doanh nghiệp, tr6.
24
Điều 6 Luật phá sản 2004.
25
Điều 3 Luật phá sản doanh nghiệp 1993.


18

khơng cịn cái nhìn q khắt khe đối với hiện tƣợng phá sản nhƣng quyền lợi của
chủ nợ luôn đƣợc đảm bảo.26

Luật phá sản chia chủ nợ ra thành những loại khác nhau, dựa vào mối tƣơng
quan, khả năng thanh tốn các khoản nợ trong q trình giải quyết một vụ việc phá
sản. Nếu chủ nợ có đảm bảo thì khả năng thu hồi nợ lớn nên quyền lợi và nhiệm vụ
cũng khác so với chủ nợ khơng có bảo đảm và có bảo đảm một phần. Cụ thể là các
quyền về yêu cầu giải quyết vụ việc phá sản hay tham gia Hội nghị chủ nợ, biểu
quyết thông qua phƣơng án phục hồi cũng bị hạn chế hơn. Theo Điều 62 của Luật
phá sản 2004, tất cả các chủ nợ có tên trong danh sách chủ nợ đều có quyền tham
gia Hội nghị chủ nợ. Việc tham gia không phải là nghĩa vụ, khi họ nhận thấy cần
phải tham gia để bảo vệ quyền lợi ích của mình thì có thể tự mình hoặc có thể ủy
quyền cho ngƣời khác tham gia. Riêng đối với điều kiện để một Hội nghị chủ nợ
diễn ra hợp lệ thì theo Điều 65 Luật phá sản 2004 phải có sự tham gia của q nửa
số chủ nợ khơng có bảo đảm đại diện 2/3 số nợ khơng có bảo đảm. Chỉ có chủ nợ
khơng có bảo đảm mới có quyền biểu quyết thông qua nghị quyết về phƣơng án
phục hồi hoạt động kinh doanh27. Quy định của pháp luật dựa trên tính chất của mối
quan hệ là khả năng thanh toán khoản nợ của các chủ nợ.
So với các chủ thể khác lợi ích của chủ nợ ln đƣợc đề cao vì khi doanh
nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản, chủ nợ là ngƣời đầu tiên bị thiệt hại.
Các khoản tín dụng mà họ đã cung cấp trƣớc đây có khả năng bị tổn thất. Nếu pháp
luật khơng tạo hành lang pháp lý để bảo vệ các chủ nợ thì khoản vốn đƣợc đầu tƣ và
các doanh nghiệp sẽ bị hạn chế, điều đó sẽ làm ảnh hƣởng rất lớn tới sự phát triển
kinh tế của đất nƣớc. Vì vậy, pháp Luật phá sản nƣớc nào cũng dành cho chủ nợ
một địa vị pháp lý rất đặc biệt28. Thể hiện ở chỗ chủ nợ đƣợc tham gia vào hầu hết
các giai đoạn trong quá trình phục hồi hoạt động kinh doanh, các chủ nợ ln ln
có quyền giám sát quá trình phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp
tác xã.
Hội nghị chủ nợ là cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của các chủ nợ,
có quyền đồng ý áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh hay áp dụng thủ
tục thanh lý tài sản và các khoản nợ29. Hội nghị chủ nợ sẽ thay mặt các chủ nợ để
giải quyết các vấn đề liên quan trong quá trình giải quyết phá sản, điều này xuất
phát từ tính chất của phá sản là một thủ tục đòi nợ tập thể, thủ tục phá sản sẽ không

thực hiện đƣợc nếu mỗi chủ nợ yêu cầu một cách giải quyết khác nhau. Chính vì
26

Nguyễn Trƣờng Nhật Phƣợng , Chế độ pháp lý về phá sản – thực tiễn thi hành và hướng hoàn thiện, luận
văn thạc sĩ luật học ( 2004), Trƣờng đại học luật TP Hồ Chí Minh, tr 23.
27
Điều 71, Luật phá sản 2004
28
PGS. Ts Dƣơng Đăng Huệ, pháp Luật phá sản của Việt Nam, Nhà xuất bản tƣ pháp_ Hà Nội 2005, tr 46.
29
Điểm d, khoản 1, Điều 64, Luật phá sản 2004.


×