Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Vấn đề kiểm soát tập trung kinh tế theo pháp luật cạnh tranh việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (643.19 KB, 73 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HCM
KHOA LUẬT THƯƠNG MẠI
------------

NGUYỄN THỤY THÙY NGÂN
ĐỀ TÀI:

VẤN ĐỀ KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH TẾ
THEO PHÁP LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
CHUYÊN NGÀNH LUẬT THƯƠNG MẠI
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN:
TS NGUYỄN THÀNH ĐỨC

TP. HỒ CHÍ MINH 2008

1


MỤC LỤC
trang
PHẦN MỞ ĐẦU

1

Chương I:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TẬP TRUNG KINH TẾ
1.1 Tổng quan về tập trung kinh tế


5

1.1.1 Khái niệm về tập trung kinh tế
1.1.2 Các hình thức tập trung kinh tế
1.1.3 Lịch sử kiểm sốt tập trung kinh tế
1.2 Yêu cầu kiểm soát tập trung kinh tế bằng pháp luật

5
8
10
13

1.3 Giới thiệu một số mô hình kiểm sốt tập trung kinh tế trên thế giới

22

1.3.1 Mơ hình kiểm sốt tập trung kinh tế của Mỹ
1.3.2 Mơ hình kiểm sốt tập trung kinh tế của châu Âu

22
26

Chương II:
KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH TẾ THEO PHÁP LUẬT
CẠNH TRANH VIỆT NAM
MỘT SỐ VẤN ĐỀ THỰC TIỄN VÀ HƯỚNG HỒN THIỆN
2.1 Nhu cầu kiểm sốt tập trung kinh tế tại Việt Nam

30


2.1.1 Tác động của xu hướng hội nhập kinh tế Quốc tế đến nền kinh tế và nhu cầu kiểm
soát tập trung kinh tế tại Việt Nam
30
2.1.2 Nhu cầu kiểm soát tập trung kinh tế xuất phát từ những đặc điểm của nền kinh tế
Việt Nam sau khi gia nhập WTO
32
2.1.3 Kiểm soát tập trung kinh tế- vấn đề mới của pháp luật Việt Nam
2.2 Pháp luật Việt Nam hiện hành về tập trung kinh tế

42
44

2.3 Một số đánh gia và kiến nghị hoàn thiện pháp luật kiểm soát tập trung kinh
tế Việt Nam
57
KẾT LUẬN

66

2


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Nền kinh tế Việt Nam có nhiều khởi sắc bắt đầu từ công cuộc đổi mới được
đánh dấu bởi Đại hội Đảng toàn quốc lần VI 1986. Chúng ta từng bước khắc phục “di
chứng” của nền kinh tế tập trung, bao cấp; xây dựng nền kinh tế thị trường theo định
hướng Xã Hội Chủ Nghĩa. Trải qua hơn hai mươi năm đổi mới, với tốc độ tăng trưởng
kinh tế những năm gần đây luôn đạt con số cận 10%, bộ mặt nền kinh tế có những biến
đổi rõ rệt cho thấy sự đúng đắn của con đường đổi mới. Mặc dù chưa được nhiều nước

cơng nhận là Quốc gia có nền kinh tế thị trường, song, việc chính thức trở thành thành
viên của tổ chức Thương mại thế giới- WTO cho thấy thời điểm nền kinh tế Việt Nam
được công nhận là nền kinh tế thị trường rộng rãi trên thế giới đang đến gần.
Tập trung kinh tế với những hành vi như mua lại, sáp nhập doanh nghiệp…
diễn ra phổ biến như là một phần đương nhiên tồn tại trong nền kinh tế, tác động không
nhỏ đến sự ổn định, phát triển của thị trường ở các Quốc gia có nền kinh tế thị trường,
cũng như đang manh nha phát triển ở Việt Nam. Từ kinh nghiệm của nước bạn và thực
tiễn phát triển trong nước, Nhà làm luật đã ban hành những quy định ban đầu nhằm
điều chỉnh, kiểm soát các hoạt động tập trung kinh tế của các doanh nghiệp tại Mục III,
Chương II, luật cạnh tranh 2004.
Song, đây lại là một vấn đề rất mới đối với Việt Nam. Việc ban hành các quy
phạm chủ yếu dựa vào kinh nghiệm nước ngoài và những dự liệu trên cơ sở thực tiễn
còn mờ nhạt trong nước nên cần phải tiếp tục nghiên cứu sâu rộng từ việc phân tích các
quy định hiện hành cũng như đánh giá hiệu quả thực thi pháp luật, tìm kiếm giải pháp
phù hợp trong tình hình, điều kiện kinh tế, quản lý kinh tế Việt Nam; kịp thời định
hướng, kiểm soát các hành vi tập trung kinh tế của doanh nghiệp; đảm bảo sự phát triển
ổn định của nền kinh tế Quốc gia hậu gia nhập WTO với những biến đổi khó lường.
Qua những nội dung trên cho thấy việc kiểm soát tập trung kinh tế là một trong
những vấn đế rất “nóng” của Việt Nam hiện nay cũng như sau này, là lĩnh vực hấp dẫn
đối với các nhà nghiên cứu Pháp luật. Đã có nhiều luận án thạc sĩ, tiến sĩ, cơng trình
nghiên cứu khoa học về tập trung kinh tế của những tác giả: Tiến sĩ Nguyễn Như Phát,
Tiến sĩ Phạm Trí Hùng, Tiến sĩ Bùi Xuân Hải, Thạc sĩ Nguyễn Ngọc Sơn.... Người viết
mong muốn được tham gia tìm hiểu sâu hơn về Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế ở
Việt Nam để có cái nhìn đúng; cũng như tạo nền tảng kiến thức ban đầu cho quá trình
học tập, làm việc, nghiên cứu về sau; tạo bước đệm cho tham vọng được góp sức vào
việc hồn thiện Pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế nước nhà, phát triển nền kinh tế
Quốc gia vững mạnh, tự chủ.
3. Định hướng phạm vi và đối tượng nghiên cứu:
Pháp luật là công cụ quản lý hữu hiệu của Nhà nước trên mọi lĩnh vực đời sống
xã hội, đặc biệt là quản lý nền kinh tế của một Quốc gia nói chung. Xã hội loài người

3


thừa nhận và phát huy vai trò này của pháp luật khiến pháp luật phát triển không
ngừng, đồng hành cùng sự phát triển của nền kinh tế. Chính lịch sử phát triển của từng
Quốc gia là minh chứng hùng hồn nhất cho nhận định trên.
Cụ thể, người viết xin lấy ví dụ về Pháp luật Anh. Khi cuộc Cách mạng khoa
học kĩ thuật đầu tiên của nhân loại bùng nổ thúc đẩy tốc độ phát triển kinh tế tăng lên
mạnh mẽ, các quan hệ xã hội phong kiến truyền thống ở Anh dần biến đổi, hình thành
đa dạng các quan hệ xã hội mới mà Thông luật Anh không thể đáp ứng nhu cầu điều
chỉnh của các chủ thể. Chính nhu cầu cấp thiết, có thực của sự phát triển kinh tế đã kéo
theo sự thay đổi của Pháp luật, ở Anh là sự ra đời của “luật công bằng”, bổ sung, hoàn
thiện hệ thống Pháp luật Anh cho đến hôm nay.
Ngày nay, hấu hết các quốc gia đều xây dựng, hướng đến xây dựng cho mình
một nền kinh tế thị trường phát triển, mà ở đó chính các quy luật của thị trường như:
quy luật cung- cầu, cạnh tranh… sẽ đóng vai trị điều tiết chủ đạo đối với nền kinh tế.
Song, đã có một giai đoạn các Quốc gia quá đề cao hiệu quả của các quy luật thị
trường, buông lỏng sự quản lý đối với nền kinh tế gây ra hậu quả nặng nề. Hai cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới 1917-1919, 1929-1933 xảy ra một phần nguyên nhân là
do thiếu sự can thiệp của Pháp luật đến nền kinh tế.
Mặc dù phát triển kinh tế không thể khơng có sự điều tiết bởi Pháp luật nhưng
sự can thiệp đó chỉ nên dừng lại ở mức cần thiết, tối thiểu, phần cịn lại do chính thị
trường tự điều chỉnh. Nếu can thiệp quá sâu Pháp luật sẻ bóp chết nền kinh tế thị
trường, hoặc các chủ thể sẻ vơ hiệu hóa Pháp luật bằng những biện pháp tiêu cực, gây
rối loạn, khủng hoảng nền kinh tế, hoàn tồn khơng có lợi cho sự phát triển.
Từ những nội dung đã trình bày, người viết muốn nhấn mạnh rằng:
- Phát triển kinh tế cần có sự điều tiết bởi Pháp luật, sự đều tiết đó nên dừng ở một
phạm vi, mức độ thích hợp, tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế phát triển.
- Nền kinh tế của mỗi Quốc gia luôn tồn tại vô cùng đa dạng các lĩnh vực, khía
cạnh; Pháp luật kinh tế cũng cần phải đáp ứng thực tiễn các loại quan hệ kinh tế, tính

chất của quan hệ cần được điều chỉnh nhằm can thiệp phù hợp, đầy đủ.
- Trên cơ sở hiệu quả điều chỉnh hiện tại, nhà làm luật phải đánh giá được xu hướng
phát triển của các quan hệ kinh tế, có sự chuẩn bị, đón đầu nhằm định hướng kịp thời
các quan hệ xã hội mới phát sinh không ngừng trong sự vận động, phát triển của nền
kinh tế; cũng như sửa đổi, bổ sung những quy phạm lạc hậu, xa rời thực tế.
Vấn đề tiếp cận, nghiên cứu Pháp luật cũng cần có những nguyên tắc nhất định,
trên đây là những định hướng ban đầu cho việc thực hiện đề tài mà người viết đưa ra
nhằm đảm bảo quá trình nghiên cứu thống nhất, logic, khoa học, toàn diện. Từ đây,
người viết sẻ đi sâu tìm hiểu, phân tích Pháp luật Việt Nam về Tập trung kinh tế, một
bộ phận không thể thiếu của Pháp luật kinh tế, trên cơ sở định hướng đã nêu.
Với tính chất của một khóa luận tốt nghiệp cử nhân có những hạn chế nhất định
về trình độ nhận thức, kiến thức khoa học lẫn thực tiễn, cũng như giới hạn về thời gian

4


nghiên cứu, tài liệu tham khảo… nên đề tài chỉ tập trung phân tích khái niệm tập trung
kinh tế, quy định của pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế theo luật cạnh tranh Việt
Nam 2004; có sự liên hệ thực tiễn và tìm hiểu chung về pháp luật tập trung kinh tế của
một số Quốc gia.
Trên cơ sở kết quả của quá trình tìm hiểu, người viết đưa ra những kiến nghị về
hướng hồn thiện chế định kiểm sốt tập trung kinh tế, có những kiến nghị hồn tồn
mang tính chủ quan của cá nhân.
Bản thân người viết nhận thấy khóa luận vì nhiều ngun nhân vẫn cịn tồn tại
nhiều thiếu sót. Song đó là kết quả của một quá trình cố gắng của tác giả cùng với sự
hướng dẫn nhiệt tình của thầy Nguyễn Thành Đức.
3. Phương pháp nghiên cứu đề tài:
Đề tài được thực hiện dựa trên những phương pháp nghiên cứu phổ biến của
nghiên cứu Pháp luật nói chung, như: viện dẫn, phân tích, so sánh, tổng hợp, đánh
giá… Từ đó phát hiện ra xu hướng phát triển của vấn đề cần nghiên cứu, thực hiện dự

đoán khoa học và đưa ra kiến nghị trên cơ sở dự đốn.
4. Mục đích nghiên cứu:
Đây là một cơng trình nghiên cứu khoa học có ý nghĩa quan trọng đối với một
cử nhân luật, phản ánh kết quả học tập của người thực hiện trong suốt bốn năm tại
trường Đại học Luật Tp Hồ Chí Minh.
Với tính chất của một khóa luận tốt nghiệp như đã nói ở trên, mục đích nghiên
cứu khóa luận này cũng khơng nằm ngồi yêu cầu của nhà trường- đó là một bài kiểm
tra đặc biệt để đánh giá vốn kiến thức, các kĩ năng được trang bị trong quá trình học tập
của sinh viên trước khi rời giảng đường làm việc ngoài xã hội. Bên cạnh đó, thực hiện
khố luận cịn giúp sinh viên rèn luyện khả năng nghiên cứu khoa học, phục vụ cho
chính nhu cầu của sinh viên khi làm việc, nghiên cứu pháp luật về sau.
Tuy nhiên, đối với người viết, mục đích thực hiện đề tài này cịn là để góp nhặt,
bổ sung thêm kiến thức mà những tiết học ít ỏi khơng đủ để thầy cơ truyền đạt về vấn
đề kiểm soát tập trung kinh tế. Trên cơ sở kiến thức đó, người viết tiến hành phân tích,
luận giải, đưa ra những kiến nghị, mặc dù những kiến nghị này chỉ mang tính chất
“sinh viên” nhưng chúng chính là nền tảng ban đầu cho những nghiên cứu tiếp theo sau
này có ý nghĩa khoa học, ý nghĩ thực tiễn hơn khi được thực hiện với một vị thế khác.
5. Bố cục của đề tài:
Đề tài được chia thành ba phần:
-

Phần mở đầu: người viết giới thiệu khái quát về nguyên nhân lựa chọn thực hiện
đề tài; nêu giới hạn phạm vi nghiên cứu, mục đích, phương pháp nghiên cứu…

-

Phần nội dung: đây là phần quan trọng của đề tài, thể hiện kết quả của quá trình
nghiên cứu, gồm hai chương:

5



Chương I: Một số vấn đề lý luận về tập trung kinh tế
Chương II: Kiểm soát tập trung kinh tế theo luật cạnh tranh Việt Nam
Một số vấn đề thực tiễn và hướng hồn thiện
-

Phần kết luận: người viết tóm lược lại nội dung đã trình bày, khẳng định lại ý
nghĩa của việc kiểm soát tập trung kinh tế.

6


CHƯƠNG I

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TẬP TRUNG KINH TẾ
1.1 Tổng quan về tập trung kinh tế:
Để có cái nhìn đúng và tồn diện về một vấn đề, làm cơ sở cho quá trình nghiên
cứu phải xác định trước hết “nó là gì?”, “tại sao lại xuất hiện?”... Có nghĩa là phải có
được một khái niệm ban đầu về đối tượng nghiên cứu, đảm bảo hoạt động nghiên cứu
có sự tập trung; đảm bảo tính thống nhất, hiệu quả của công việc, tránh hiện tượng “lạc
đề” dễ xảy ra trong nghiên cứu khoa hoc, nhất là khoa học pháp lý.
Bản thân một sự vật hiện tượng không thể tồn tại độc lập tuyệt đối, vì thế, khi
nghiên cứu một vấn đề cần phải đặt nó vào trong mối liên hệ chặt chẽ với những đối
tượng khác có liên quan mà người thực hiện không thể bỏ qua nhằm đảm bảo tính khoa
học, tồn diện của đề tài. Đây cũng chính là nguyên nhân khiến cho người nghiên cứu
dễ rơi vào tình trạng xa đà, thiếu tập trung vào đối tượng tìm hiểu, ảnh hưởng khơng
nhỏ đến kết quả làm việc.
Vì vậy, đầu tiên người viết sẽ phân tích khái niệm về tập trung kinh tế sau đó
tiếp tục là rõ các hình thức tập trung kinh tế và giới thiệu lịch sử kiểm soát tập trung

kinh tế cũng như đưa ra các dấu hiệu, đặc điểm nhận diện thế nào là tập trung kinh tế,
làm rõ phạm vi, đối tượng nghiên cứu, từ đó dánh giá nhu cầu điều chỉnh đối với tập
trung kinh tế bằng pháp luật.
1.1.1 Khái niệm về tập trung kinh tế:
Tuy ra đời và phát triển chưa lâu nhưng để đưa ra một khái niệm về tập trung
kinh tế không phải là vấn đề đơn giản, bởi lẽ ở mỗi góc độ tìm hiểu về tập trung kinh tế
đều cho ta một cách hiểu khá khác nhau. Người viết nhận thấy cần phải phân tích cụ
thể từng cách hiểu mới có thể có được một khái niệm có độ chính xác cao, đầy đủ, làm
tiền đề cho q trình nghiên cứu.
Có thể nói tập trung kinh tế được hiểu dưới một số góc độ cơ bản sau:
Thứ nhất, tập trung kinh tế là một quá trình mà số lượng các doanh nghiệp độc
lập cạnh tranh trên thị trường giảm đi thông qua các hành vi sáp nhập (theo nghĩa rộng)
hoặc thơng qua q trình tăng trưởng nội sinh của doanh nghiệp trên cơ sở mở rộng sản
xuất.1
Đây là cách hiểu dựa trên cấu trúc thị trường. Theo đó, khả năng cạnh tranh của
các doanh nghiệp trên thị trường tăng lên trên cơ sở số lượng doanh nghiệp cùng cạnh
1

Lê Viết Thái (năm 2004), “Chuyên đề về hành vi tập trung kinh tế, đề tài nghiên cứu về thể
chế cạnh tranh trong điều kiện phát triển thị trường tại Việt Nam”, Bộ Thương Mại.

7


tranh giảm xuống, cấu trúc thị trường cạnh tranh bị thay đổi do hiện tượng sáp nhập
doanh nghiệp hoặc từ sự tích tụ tư bản của doanh nghiệp trong quá trình sản xuất, kinh
doanh làm cho vị thế của doanh nghiệp trên thi trường được củng cố, nâng cao.
Cách hiểu này cho phép người tiếp cận thấy được nguyên nhân và hậu quả của
tập trung kinh tế đối với thị trường cạnh tranh. Đồng thời nó cũng thừa nhận tích tụ tư
bản là một phần của khái niệm; trong khi đó pháp luật kiểm sốt tập trung kinh tế Việt

Nam khơng xem sự tăng trưởng nội sinh nói trên của doanh nghiệp là hành vi tập trung
kinh tế cần kiểm soát- nội dung này sẽ được làm rõ ở phần sau
Thứ hai, tập trung kinh tế với tư cách là hành vi của doanh nghịêp- còn được gọi
là tập trung tư bản (tư bản là các giá trị kinh tế trên thị trường được sử dụng để tạo ra
lợi nhuận) được hiểu là tăng thêm tư bản do hợp nhất nhiều tư bản, hoặc một tư bản
này thu hút một tư bản khác.
Tập trung tư bản: một trong những phương thức (cùng với tích tụ tư bản) tích
lũy tư bản, là quá trình làm cho tư bản lớn lên bằng cách hợp nhất một số tư bản thành
một tư bản, thơn tính hoặc liên kết những tư bản khác.Tập trung tư bản sẽ mỡ rộng quy
mơ của các xí nghiệp tư bản chủ nghĩa.2
Tập trung tư bản diễn ra trong bối cảnh nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc
liệt. Ở đó, nhà tư bản yếu thế hơn thất bại trong cuộc chiến giành giật thị trường sẽ dễ
dàng bị loại ra khỏi thị trường, còn số tư bản của họ thì bị thơn tính bởi những nhà tư
bản lớn hơn; hoặc các nhà tư bản liên kết lại với nhau, như là một giải pháp tăng cường
khả năng cạnh tranh, giúp họ thốt khỏi nguy cơ bị thơn tính khi chỉ là một nhà tư bản
bản nhỏ, tiếp tục tồn tại, cạnh tranh trên thị trường. Tập trung tư bản không chỉ làm cho
tư bản lớn hơn, tạo thế mạnh cạnh tranh mà cịn thúc đẩy q trình tích tụ tư bản tăng
nhanh thơng qua việc tư bản hóa giá trị thặng dư; bên cạnh đó chính q trình tích tụ tư
bản sẽ đảm bảo hiệu quả tập trung tư bản.
Tìm hiểu tập trung kinh tế dưới góc độ này cho ta thấy bản chất và phương thức
thực hiện của tập trung kinh tế.
Thứ ba, dưới góc độ pháp luật, luật Cạnh tranh Việt Nam 2004 không đưa ra
định nghĩa về hành vi tập trung kinh tế mà chỉ liệt kê những hành vi cụ thể pháp luật
coi là hành vi tập trung kinh tế cần có sự kiểm sốt. Theo đó, tập trung kinh tế là hành
vi hạn chế cạnh tranh của doanh nghiệp (quy định tại điều 3, khoản 3)
Tập trung kinh tế bao gồm các hành vi sau (quy định tại điều 16):
- Sáp nhập doanh nghiệp;
- Hợp nhất doanh nghiệp;
- Mua lại doanh nghiệp;
2


Giáo sư MI. Vơn cốp biên tập “Từ điển kinh tế chính trị học”, Nhà xuất bản tiến bộ
Maxcova, tr403.

8


- Liên doanh giữa các doanh nghiệp;
- Các hành vi tập trung kinh tế khác theo quy định của pháp luật
Sự liệt kê này đã làm rõ các hình thức tập trung kinh tế mà hai quan điểm trên
chưa thể hiện được.
Vậy, tại sao Luật cạnh tranh lại quy định tập trung kinh tế là hành vi hạn chế
cạnh tranh? Những hành vi nào được coi là hành vi tập trung kinh tế cần kiểm soát?
Những vấn đề này được làm rõ hơn khi tìm hiểu về đặc điểm, bản chất của tập trung
kinh tế ngay sau đây.
Trước hết, cần xác định rõ của hành vi tập trung kinh tế được quy định quy định
tại điều 16, Luật cạnh tranh 2004, theo đó:
Sáp nhập doanh nghiệp: là một hoặc một số cơng ty cùng loại có thể sáp nhập
vào cơng ty khác bằng cách chuyển toàn bộ, tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp
pháp sang cơng ty nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của công ty bị sáp
nhập.
Hợp nhất doanh nghiệp: là hai hoặc một số cơng ty cùng loại có thể hợp thành
một cơng ty mới bằng cách chuyển tồn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp
sang cơng ty hợp nhất, đồng thời chấm dứt tồn tại của các công ty bị hợp nhất.
Mua lại doanh nghiệp: là việc một doanh nghiệp mua lại toàn bộ hoặc một phần
tài sản của doanh nghiệp đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một ngành nghề của
doanh nghiệp bị mua lại.
Liên doanh giữa các doanh nghiệp: là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp cùng
nhau góp một phần tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành
một doanh nghiệp mới.

Các hành vi tập trung kinh tế khác theo quy định của pháp luật: là quy định
mang tính chất dự phịng khi có hành vi tập trung tế cần kiểm soát mới xuất hiện mà
trong Luật cạnh tranh 2004 khơng có quy định điều chỉnh sẽ tạo cơ sở pháp lý cho
những văn bản sau, dưới luật điều chỉnh. Theo tìm hiểu của người nghiên cứu, cho đến
nay vẫn chưa có văn bản nào bổ sung thêm hành vi tập trung kinh tế cần kiểm soát. Có
thể do các quan hệ này cịn rất mới, chưa diễn biến phức tạp tại Việt Nam và những
quy định pháp luật hiện hành là sự tiếp thu, học tập từ thực tiễn pháp luật ở các Quốc
gia có nền kinh tế thị trường phát triễn, tập trung kinh tế diễn ra phổ biến và tính phức
tạp của sự việc cũng dữ dội hơn nên ta đã lường trước phần nào bằng quy định pháp
luật dựa trên tình hình thực tế của Việt Nam.
Nhìn chung, cho dù được nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau và diễn tả bằng
những ngôn ngữ pháp lý khác nhau, song các nhà khoa học đều thống nhất với nhau về
bản chất của tập trung kinh tế bằng những nội dung sau:

9


Thứ nhất, chủ thể của tập trung kinh tế là các doanh nghiệp hoạt động trên thị
trường. Các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế có thể là các doanh nghiệp hoạt
động trong cùng hoặc không cùng thị trường liên quan.
Thứ hai, hình thức tập trung kinh tế bao gồm: sáp nhập, hợp nhất, mua lại và
liên doanh giữa các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế đã chủ
động tích tụ các nguồn lực kinh tế như vốn, lao động, kỹ thuật, năng lực quản lý, tổ
chức kinh doanh… mà chúng đang nắm giữ riêng lẽ để hình thành một khối thống nhất
hoặc phối hợp hình thành các nhóm doanh nghiệp, các tập đồn kinh tế. Dấu hiệu này
giúp khoa học pháp lý phân biệt tập trung kinh tế với việc tích tụ tư bản trong kinh tế
học.
Tích tụ tư bản là tăng thêm tư bản dựa vào tích lũy giá trị thặng dư, biến một
phần giá trị thặng dư thành tư bản. Có thể thấy rằng, tích tụ tư bản là q trình phát
triển nội sinh của một doanh nghiệp theo thời gian bằng kết quả kinh doanh. Một

doanh nghiệp có thể tích tụ tư bản để có được vị trí đáng kể trên thị trường, song để
điều đó xảy ra địi hỏi một khoảng thời gian khá dài. Trong khi đó, tập trung kinh tế
cũng có dấu hiệu của sự tích tụ nhưng không từ kết quả kinh doanh mà từ hành vi của
doanh nghiệp.
Thứ ba, tập trung kinh tế đã hình thành nên doanh nghiệp có năng lực cạnh
tranh tổng hợp hoặc liên kết thành nhóm doanh nghiệp, tập đồn kinh tế, từ đó làm
thay đổi cấu trúc thị trường và tương quan cạnh tranh hiện có trên thị trường .
Từ những phân tích trên, ta thấy điểm chung rằng tập trung kinh tế là hành vi
của doanh nghiệp nhằm tạo dựng một vị thế cao hơn, với mong muốn có được những
ưu thế cạnh tranh so với các doanh nghiệp còn lại trên cùng thị trường, có thể khẳng
định một số dấu hiệu của tập trung kinh tế:
- Tập trung kinh tế là hành vi của các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất, kinh
doanh được quy định bởi pháp luật.
- Là hành vi hạn chế cạnh tranh, ảnh hưởng đến cấu trúc thị trường.
- Pháp luật cho phép doanh nghiệp thực hiện trong một giới hạn, điều kiện xác định
dựa trên quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp và tác động tích cực của tập trung
kinh tế đối với nền kinh tế.
Để kết lại tiểu mục này người viết xin mượn quy định cụ thể tại khoản 3, điều 3,
Luật cạnh tranh 2004 nhằm khẳng định lại một lần nữa bản chất của tập trung kinh tế:
“hành vi hạn chế cạnh tranh là hành vi của doanh nghiệp làm giảm, sai lệch, cản trở
cạnh tranh trên thị trường, bao gồm hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị
trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền và tập trung kinh tế.”
1.1.2 Các hình thức tập trung kinh tế:
Để kiểm soát tập trung kinh tế một cách hữu hiệu ta cần nắm rõ các hình thức
tập trung kinh tế cũng như ý nghĩa, tác động cũa từng hình thức đối với thị trường. Có
thể thấy tập trung kinh tế bao gồm những hình thức sau:
10


Dựa vào mức độ liên kết từ hành vi tập trung kinh tế người ta chia thành hai loại

là:
- Tập trung kinh tế chặt chẽ (hoặc còn gọi là tổ hợp): các doanh nghiệp tham gia tập
trung kinh tế chấm dứt sự tồn tại và hình thành một doanh nghiệp thống nhất. Sức cạnh
tranh của doanh nghiệp là sự tổng hợp từ khả năng cạnh tranh từ những doanh nghiệp
tham gia tập trung kinh tế.
- Tập trung kinh tế không chặt chẽ (gọi là liên minh lý tài): các doanh nghiệp tham gia
tập trung kinh tế vẫn tồn tại một cách độc lập dưới góc độ pháp lý nhưng chịu sự chi
phối bởi các doanh nghiệp khác.
Dựa vào vị trí của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế trong các quan
hệ kinh tế, tập trung kinh tế được bao gồm:
- Tập trung theo chiều ngang
- Tập trung theo chiều dọc
- Tập trung theo đường chéo (tập trung hỗn hợp).
Tập trung kinh tế theo chiều ngang: là sự sáp nhập, hợp nhất, mua lại hoặc liên
doanh của các doanh nghiệp trong một thị trường liên quan (sản phẩm và khơng gian).
Theo lý thuyết cạnh tranh thì sự gia tăng tập trung theo chiều ngang sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cho việc phối hợp hành động giữa các doanh nghiệp và từ đó dẫn đến hạn chế
cạnh tranh theo giá.
Tập trung kinh tế theo chiều dọc: là sự hợp nhất, sáp nhập, mua lại hoặc liên
doanh giữa các doanh nghiệp có quan hệ người mua - người bán với nhau. Từ đó dẫn
đến việc hình thành độc quyền bán, độc quyền mua, chi phối sản phẩm cung ứng trên
thị trường.
Tập trung kinh tế theo đường chéo (conglomerate): là sự hợp nhất, sáp nhập,
mua lại, liên doanh của các doanh nghiệp không cùng hoạt động trên một thị trường
sản phẩm đồng thời cũng khơng có mối quan hệ khách hàng với nhau. Mục tiêu của
việc hợp nhất này thường là phân bổ rủi ro vào những thị trường khác nhau hoặc từ
những lý do chiến lược thị trường của những doanh nghiệp này.
Thực tiễn cho thấy, hình thức tập trung kinh tế theo đường chéo có thể gây ra
những tác động tiêu cực đến môi trường cạnh tranh.
Cụ thể là:

- Các doanh nghiệp tham gia tập trung dạng conglomerate có lợi thế cạnh tranh trong
việc tiết kiệm được chi phí khi có nhu cầu tín dụng, bảo hiểm, quảng cáo và cả vận
tải… và với cơ sở tiềm lực hùng mạnh về tài chính, doanh nghiệp hợp nhất này có thể
gây ảnh hưởng đến chính trị, vận động hậu trường,… hoặc trong công tác đối ngoại,
quan hệ công cộng;

11


- Thông qua những hoạt động kinh doanh, các giao dịch qua lại, các doanh nghiệp hợp
nhất dạng conglomerate có thể có điều kiện để đưa ra những hạch tốn hỗn hợp, hạn
chế rủi ro về chi phí và thị trường, có được những điều kiện kinh doanh rất thuận tiện
và vì thế sẽ gây bất lợi cho những đối thủ cạnh tranh nhỏ hơn. Hiện tượng này sẽ làm
vô hiệu hoá nguyên lý hiệu quả với tư cách là nguyên tắc chọn lọc của nền kinh tế thị
trường;
- Về cơ bản, xã hội không bao giờ mong muốn việc hình thành một thế lực quá hùng
mạnh trên thị trường, đe doạ sự kiểm sốt thơng qua cơ chế thị trường cũng như thông
qua sự hợp tác giữa nhà nước và các hiệp hội. Sự tập trung dạng conglomerate này
chính là mối đe doạ đó.
Căn cứ vào hình thức biểu hiện:
Tập trung kinh tế gồm
- Mua lại doanh nghiệp
- Hợp nhất doanh nghiệp
- Sáp nhập doanh nghiệp
- Liên doanh giữa các doanh nghiệp
1.1.3 Lịch sử kiểm soát tập trung kinh tế:
Pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế là một phần của pháp luật cạnh tranh
Quốc gia, kiểm soát tập trung kinh tế gắn liền với vấn đề điều tiết cạnh tranh, điều này
được lý giải như sau:
Pháp luật cạnh tranh chỉ xuất hiện trong cơ chế thị trường, nơi có tự do kinh

doanh, tự do khế ước và tự do lập hội. Pháp luật cạnh tranh xuất hiện vào đúng thời
điểm mà hành vi cạnh tranh đi vượt quá biên giới của quyền tự do kinh doanh. Xét về
tính chất và mục tiêu, pháp luật cạnh tranh là loại pháp luật nhằm ngăn cản, chống đối
và trừng trị những hành vi cạnh tranh trái pháp luật, đạo đức và văn hóa kinh doanh.
Nội dung quan trọng nhất của pháp luật cạnh tranh là những quy định về những
hành vi cạnh tranh bị cấm, bị kiểm soát. Khi quy định những hành vi cạnh tranh, căn
cứ vào tính chất, mức độ nguy hại của hành vi, theo đó là phương thức tiếp cận và
trừng trị, pháp luật cạnh tranh phân chia các hành vi bị cấm thành hai nhóm: nhóm các
hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh; nhóm các hành vi hạn chế cạnh tranh, hay còn
gọi là kiểm sốt độc quyền.
So với các hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh, thì tính chất, mức độ nguy hại
của các thoả thuận, dàn xếp, liên kết nhằm hạn chế cạnh tranh (độc quyền hóa) gây ra
hậu quả cho thị trường và xã hội lớn hơn gấp nhiều lần. Pháp luật kiểm soát độc quyền
thường đề cập đến ba vấn đề:
- Cấm các thỏa thuận nhằm hạn chế cạnh tranh (cac ten)

12


- Kiểm soát tập trung kinh tế
- Kiểm soát sự lạm dụng vị thế thống lĩnh thị trường .
Kiểm soát tập trung kinh tế là một nội dung rất mới không chỉ ở Việt Nam.
Người Mỹ cũng mới chỉ bắt đầu thực hiện việc kiểm sốt những dịng thác cạnh tranh
từ hơn 100 năm nay. Mỹ là nước mà chủ nghĩa tư bản đã có bước phát triển rất nhanh
trong thế kỷ XIX. Sự tích tụ tư bản dưới hình thức Trust- công ty độc quyền, đã làm
cho một số ngành công nghiệp của Mỹ như thuốc lá, sắt, đường... rơi vào tay những tập
đoàn tư bản lũng đoạn. Sự lạm dụng vị thế của những tập đoàn này trên thị trường vào
cuối thế kỷ XIX đã làm cho Chính phủ Mỹ phải ban hành những đạo luật chống Trust
(anti trust: kiểm soát, khống chế độc quyền và phá bỏ cản trở cạnh tranh).
Sau Chiến tranh thế giới thứ II, tư tưởng chống Trust đã mau chóng phổ biến

sang Anh, Pháp và các nước bại trận. Cho tới những năm 1970, Toà án Tối cao Mỹ
nhấn mạnh rằng “luật chống độc quyền … là nền tảng cho hoạt động kinh doanh tự do.
Luật chống độc quyền quan trọng đối với việc bảo vệ sự tự do kinh tế và hệ thống kinh
doanh tự do cũng như Đạo luật về Nhân quyền có ý nghĩa quan trọng đối với việc bảo
vệ những quyền tự do căn bản của chúng ta”. Đạo luật Sherman của Mỹ năm 1890, và
một số luật chống độc quyền sau này của Mỹ (như Đạo luật Robinson Patman 1936)
được ban hành để bổ sung việc bảo vệ của pháp luật đối với “sự tự do hợp đồng” trước
những thoả thuận hạn chế “bất hợp lý” và âm mưu cưỡng ép bằng việc tăng cường các
biện pháp bảo vệ về mặt pháp luật cho người tiêu dùng, “quyền được bán” của các nhà
sản xuất nhỏ, và “mơ hình Jefferson về các nhà kinh doanh và đối thủ cạnh tranh nhỏ,
bất chấp một số những chi phí xã hội có thể có về khía cạnh giảm sút hiệu quả”.
Kể từ những năm 80, dưới ảnh hưởng của Trường phái kinh tế học Chicago,
những xung đột giữa các mục tiêu pháp lý của chính sách chống độc quyền (ví dụ như
bảo vệ sự tự do hợp đồng, tự do của người tiêu dùng và quyền được cạnh tranh của
những thành viên nhỏ) và các mục tiêu kinh tế ngày càng được các toà án Mỹ giải
quyết trên cơ sở tiêu chí về hiệu quả kinh tế chứ khơng phải dựa trên những lập luận về
mặt pháp lý hoặc tính “bất hợp lý” của những hạn chế. Ngày nay, nhiều luật sư về lĩnh
vực chống độc quyền ở Mỹ đều nhất trí rằng luật chống độc quyền ở Mỹ cần phải được
hiểu là để bảo vệ sự cạnh tranh và lợi ích người tiêu dùng chứ không phải là bảo vệ các
đối thủ cạnh tranh (như sự cạnh tranh giữa các nhà phân phối, hay quyền được cạnh
tranh của những thành phần tham gia nhỏ hơn trên thị trường).
Tuy nhiên, sự tập trung vào lợi ích của người tiêu dùng cũng xuất phát từ một
thực tế là các giá trị phi hiệu quả (như sự tự do kinh tế và không biệt đối xử trong cạnh
tranh) vốn được bảo vệ rất tốt theo hiến pháp và pháp luật về kinh tế của Mỹ, một thực
tế khác nữa là sự chú trọng của chính sách cạnh tranh vào việc bảo vệ các nhà sản xuất
có thể kéo theo sự đối xử phân biệt và những thiệt hại không cần thiết cho lợi ích của
người tiêu dùng. Nhìn chung, mục tiêu lịch sử của luật chống độc quyền Mỹ là để bảo
vệ sự tự do kinh tế (ví dụ của các nhà sản xuất độc lập, các thương nhân khơng có
quyền lực thị trường), sự lựa chọn của người tiêu dùng, và sự cạnh tranh hiệu quả trên
thị trường mở có nhiều đối thủ cạnh tranh bằng cách hạn chế và phân chia quyền lực.


13


Vấn đề kiểm soát tập trung kinh tế chỉ được quan tâm ở châu Âu trong khoảng
vài chục năm trở lại đây. Tại Châu Âu, hầu hết các nước đều đưa ra luật cạnh tranh sau
Thế chiến lần thứ II không chỉ nhằm đẩy mạnh hiệu quả kinh tế mà còn nhằm để thúc
đẩy sự tự do kinh tế, sự tách biệt và phân chia quyền lực tư nhân và quyền lực chính
trị, giảm bớt những qui định mang tính bảo hộ trong nền kinh tế của những nước này.
Một bước đi gần đây của Châu Âu, ví dụ trong việc xem xét các hạn chế tập trung kinh
tế theo chiều dọc, hướng tới sự phân tích sâu hơn về kinh tế dường như được thúc đẩy
bởi một thực tế (giống như ở Mỹ) là các mục tiêu không liên quan tới vấn đề hiệu quả
được bảo vệ một cách đầy đủ, do vậy việc bảo vệ lợi ích của nhà sản xuất trong điều
kiện phải gây thiệt hại cho lợi ích của người tiêu dùng khơng được chấp nhận. Đức bổ
sung Luật Cac ten năm 1973, Liên minh châu Âu ban hành Quy chế kiểm soát tập
trung kinh tế lần đầu tiên năm 1989, Italia ban hành quy chế kiểm soát tập trung kinh tế
năm 1990, Phần Lan ban hành quy chế kiểm soát tập trung kinh tế năm 1992. Cho đến
nay, nhiều nước châu Âu còn chưa ban hành quy chế kiểm soát tập trung kinh tế .
Nhật bản và các con hổ Á Châu trước hết khuyến khích tập trung kinh tế với các
liên kết kinh doanh (keiretzu, cheabol) tạo ra các doanh nghiệp có sức mạnh như
những đại tập đoàn rồi mới dè dặt du nhập tư duy khống chế cạnh tranh, kiểm soát tập
trung kinh tế.
Trung Quốc cũng chỉ quan tâm đến luật cạnh tranh từ mười mấy năm nay và
trước hết chỉ nhấn mạnh vào chống cạnh tranh không lành mạnh.
Phần lớn các nước đang phát triển cho tới nay chưa ban hành luật cạnh tranh
Quốc gia và cịn thiếu một nền văn hố cạnh tranh và những điều kiện pháp lý thuận
lợi có được từ pháp luật cạnh tranh và sự dân chủ thể hiện trong hiến pháp. Tại những
nước đang phát triển đã ban hành luật cạnh tranh, luật và chính sách cạnh tranh dường
như không chỉ tập trung vào hiệu quả kinh tế. Chừng nào các điều kiện tiên quyết cho
một nền kinh tế thị trường hiệu quả chưa được thiết lập đầy đủ ở các nước đang phát

triển, hoặc những nước trong thời kỳ chuyển đổi thì chính sách cạnh tranh có thể được
nhìn nhận trên một góc độ rộng hơn có tính đến cả những mục tiêu của chính sách điều
tiết (ví dụ như: cơ cấu lại, giảm bớt các qui định và tư nhân hố các ngành cơng
nghiệp) và những vấn đề điều chỉnh xã hội của những chính sách như vậy. Tuy nhiên,
các giá trị khơng liên quan tới vấn đề hiệu quả có thể vẫn quan trọng đối với các nước
đang phát triển - những nước ban hành luật cạnh tranh mới như là một phương tiện để
mở cửa và giảm bớt qui định trên các thị trường trong nước.
Vấn đề kiểm soát tập trung kinh tế ở Việt Nam cũng còn rất mới mẻ, được đặt ra
khi Việt Nam tiến hành xây dựng kinh tế thị trường đạt được một số thành quả nhất
định. Thành phần kinh tế và số lượng doanh nghiệp tang lên mạnh mẽ, có sự hội nhập
kinh tế Quốc tế dù chỉ mới manh nha phát triển đã tạo ra một nền kinh tế cạnh tranh.
Từ đó làm xuất hiện các hình thức: mua lại, sáp nhập, hợp nhất… doanh nghiệp mà
trước đây trong nền kinh tế tập trung bao cấp khơng tồn tại, hoặc có thể có nhưng
mang tính mệnh lệnh hành chính, khơng xuất phát từ nhu cầu của thị trường, từ tác
động của cạnh tranh. Ngoài ra, việc ban hành các quy định kiểm soát tập trung kinh tế
nói riêng, pháp luật về cạnh tranh nói chung là bước chuẩn bị cho quá trình hội nhập
14


mạnh mẽ vào kinh tế Quốc tế một cách hiệu quả, tạo hành lang pháp lý sãn sàng một
môi trường cạnh tranh lành mạnh, bảo vệ quyền của các chủ thể, bao gồm các doanh
nghiệp và người tiêu dùng.

1.2 Yêu cầu kiểm soát tập trung kinh tế bằng pháp luật:
Đầu tiên, người viết xin khẳng định: tập trung kinh tế, trước hết là nhu cầu của
doanh nghiệp để tồn tại và phát triển được trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc
liệt.
Những doanh nghiệp- Nhà sản xuất, kinh doanh nắm bắt nhu cầu của thị trường
tiêu thụ, cung ứng những sản phẩm đem lại lợi nhuận cao nhất có thể. Song, nhu cầu
của thị trường có thể tạm coi là một hằng số trong một khoản thời gian xác định (giả

định sự đột biến về cầu không xảy ra). Trong khi đó các doanh nghiệp cùng sản xuất,
kinh doanh sản phẩm đó ln mong muốn kinh doanh đạt nhiều lợi nhuận, cũng đồng
nghĩa với việc cần phải chiếm lĩnh nhiều thị phần hơn, hướng nhu cầu của thị trường
tiêu thụ về phía sản phẩm mà mình sản xuất, kinh doanh. Như vậy, cạnh tranh xảy ra
trong tất cả các khâu của q trình sản xuất, lưu thơng hàng hóa, dịch vụ trên thị
trường, các doanh nghiệp “chạy đua” giành giật thị phần.
Nói một cách đầy ngụ ý như tục ngữ Việt Nam: “trăm người bán, vạn người
mua”. Người bán-người mua có thể cùng là hằng số và khơng có nghĩa là nhu cầu của
“vạn người mua” là như nhau, càng không phải chia đều nhu cầu của “vạn người mua”
cho “trăm người bán”. Trong hoạt động “mua-bán”, ai có thể thu gom càng nhiều nhu
cầu của lượng khách hàng cố định là kẻ nắm giữ ưu thế cạnh tranh so với những người
khác, những người yếu thế hơn với sức cạnh tranh khơng đáng kể khó lịng tồn tại trên
thị trường.
Có nhiều giải pháp được doanh nghiệp sử dụng để tăng sức cạnh tranh của
mình, trong đó, tập trung kinh tế- được coi là giải pháp hiệu quả hơn cả về thời gian lẫn
về sức cạnh tranh được “tập trung”.
Người viết nghĩ rằng cần thiết phải có sự so sánh sơ lược các giải pháp tăng
cường khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp để thấy rõ hơn ưu thế của tập trung kinh
tế.
Sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường thể hiện qua các yếu tố:
- Thị phần doanh nghiệp chiếm lĩnh trên thị trường
- Số lượng hàng hóa dịch vụ mà doanh nghiệp có thể cung úng cho thị trường và doanh
số bán ra, mua vào của doanh nghiệp
- Giá cả hàng hóa, dịch vụ
- Chất lượng hàng hóa, dịch vụ
- Uy tín của doanh nhiệp
15


Những yếu tố này có quan hệ tương hỗ, chính vì vậy để tăng sức cạnh tranh, các

giải pháp đưa ra muốn đạt hiệu quả thúc đẩy năng lực cạnh tranh thì phải cân nhắc đến
những yếu tố cịn lại dù đó là giải pháp chỉ nhằm tập trung trước hết vào một yếu tố.
Tính liên hệ giữa các yếu tố này là rất mật thiết, ví dụ: để tăng doanh số bán ra trên thị
trường liên quan, trong điều kiện khơng có đột biến về cầu đối với sản phẩm, việc tăng
doanh số này thể hiện thị phần của doanh nghiệp tăng lên, doanh nghiệp cần phài đảm
bảo uy tín của mình đối với khách hàng, người tiêu dùng. Uy tín lại được đánh giá
bằng một số tiêu chí, trong đó quan trọng hơn cả là chất lượng sản phẩm, chế độ hậu
mãi, bảo hành… Song nếu đáp ứng được yêu cầu này mà giá thành sản phẩm lại quá
cao, chỉ có một tầng lớp nhỏ trong xã hội có khả năng tiêu thụ sản phẩm thì vấn đề tăng
doanh số, chiếm thêm thị phần trở nên vô nghĩa.
Từ đó, có thể đưa ra phân tích một số biện pháp để tăng cường sức cạnh tranh
có sự liên hệ với tập trung kinh tế:
- Giảm giá, tăng chất lượng sản phẩm
- Vấn đề xây dựng thương hiệu doanh nghiệp
- Xây dựng doanh nghiệp có quy mơ lớn
Giảm giá, tăng chất lượng: đây là giải pháp đầu tiên mà các doanh nghiệp, các
nhà kinh tế nghĩ đến. Song, đây không phải là giải pháp lâu dài và vấn đề thực nó cũng
khơng phải là đơn giản.
Giá thành sản phẩm bao gồm phần vốn và lợi nhuận, giảm giá đồng nghĩa với
việc phải giảm một trong hai, hoặc cả hai yếu tố này. Khuyết điểm của giải pháp này
thể hiện ở chỗ nếu giảm phần vốn đòi hỏi doanh nhiệp phải cắt giảm các chi phí bất
hợp lý trong q trình sản xuất, kinh doanh. Việc cắt giảm này gây sức ép lớn đối với
doanh nghiệp và đến một giới hạn nhất định thì tất cả các chi phí bất hợp lý đều bị triệt
tiêu, vậy doanh nghiệp phải cắt giảm vào đâu để giảm giá thành? Tương tự, nếu cắt
giảm lợi nhuận tiến đến cận “0” sẽ khơng cịn ai sản xuất kinh doanh trên thị trường
nữa nếu không đạt lợi nhuận hoặc lợi nhuận không đáng kể.
Chất lượng sản phẩm liên quan đến các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất,
kinh doanh như: nguyên liệu, phương tiện, máy móc sản xuất kinh doanh- phần vốn cơ
bản nhất doanh nghiệp phải bỏ ra, giả thiết doanh nghiệp đã cắt giảm tồn bộ chi phí
bất hợp lý, vấn đề nâng cao chất lượng sản phẩm gắn liền với việc chất lượng đầu vào

cũng phải được nâng lên, máy móc hiện đại, năng xuất cao... Trong khi đó, việc sử
dụng phương tiện kĩ thuật hiện đại đòi hỏi vốn rất cao, nguyên liệu cũng tương tự,
chính yếu tố này làm vô hiệu biện pháp giảm giá, tăng chất lượng sản phẩm nhằm thúc
đẩy cạnh tranh.
Như vậy, giá sản phẩm phải cân đối với chất lượng, đảm bảo lợi nhuận. Doanh
nghiệp chỉ có thể dừng lại ở việc làm sao cho sản phẩm của mình có chất lượng tốt
nhất với mức giá rẻ nhất so với sản phẩm của doanh nghiệp khác trên cùng thị trường
sản phẩm liên quan để tăng khả năng cạnh tranh của mình, khiến người tiêu dùng ưu
tiên lựa chọn hàng hóa, dịch vụ của mình.
16


Giải pháp này thực sự có một giới hạn mà vượt qua nó giải pháp sẻ khơng cịn là
giải pháp nữa.
Thêm vào đó, ngay cả trong khi thực hiện biện pháp này cũng có thể thấy được
ý nghĩa của việc kết hợp nó với thực hiện tập trung kinh tế. Trong các hình thức tập
trung kinh tế thì tập trung kinh tế theo chiều dọc giúp doanh nghiệp tiết kiệm được rất
nhiều khoản chi phí đáng kể cho hoạt động của mình. Ví dụ như: hai doanh nghiệp có
quan hệ mua bán với nhau cùng một loại sản phẩm, doanh nghiệp A mua sản phẩm của
B làm nguyên liệu, khi A và B sáp nhập thành một, quá trình sản xuất của doanh
nghiệp mới hình thành sau khi sáp nhập không phải trải qua khâu trung gian là mua lại
nguyên liệu, tiết kiệm một khoản lợi nhuận phải trả doanh nghiệp khác từ việc mua
nguyên liệu đó.
Vấn đề xây dựng thương hiệu: ngày nay, việc xây dựng cho mình một thương
hiệu trở thành vần đề sống còn của doanh nghiệp, một nhãn hiệu nổi tiếng, được nhiều
người biết đến, tin tưởng có khả năng cạnh tranh hiệu quả hơn một doanh nghiệp vơ
danh trên thị trường. Nhưng để có một thương hiệu mạnh phải tốn nhiều thời gian,
công sức, tiền bạc… có những thương hiệu phải mất hàng chục năm, thậm chí là cả
trăm năm gầy dựng, bảo vệ, củng cố không ngừng mới đạt được. Việc xây dựng
thương hiệu phải được kết hợp với những giải pháp khác để có hiệu quả cao hơn, trong

đó có tập trung kinh tế, cụ thể hơn là khi xâm nhập vào một thị trường mới mà ở đó có
những thương hiệu nội địa đã có chỗ đứng thì việc xây dựng một thương hiệu mới để
cạnh tranh là không khả thi với tất cả nhà đầu tư. Khi đó việc mua lại doanh nghiệp nội
địa với thương hiệu sẵn có đem lại hiệu quả cao hơn việc bắt đầu từ vạch xuất phát.
Xây dựng, củng cố quy mô doanh nghiệp: quy mô doanh nghiệp được đánh giá
bằng tài sản, vốn, bộ máy nhân sự, trình độ của phương tiện kĩ thuật… Trong một số
điều kiện đặc biệt, có thể có những doanh nghiệp vừa ra đời đã là doanh nghiệp có quy
mơ lớn, có điều kiện cạnh tranh tốt trên thị trường, song, đó chỉ là một số trường hợp
đặc biệt như đã khẳng định ban đầu. Những doanh nghiệp còn lại phải có một q trình
tích lũy tư bản lâu dài mới trở thành doanh nghiệp lớn. Nếu không, con đường ngắn
nhất giúp doanh nghiệp có quy mơ lớn hơn đó chính là tập trung kinh tế. Ngồi ra, để
duy trì, phát huy vị thế của mình trên thị trường, củng cố, quy mơ doanh nghiệp thì tập
trung kinh tế cũng là một biện pháp đáng quan tâm hàng đầu
Người viết có thể khẳng định như vậy là vì:
- Tập trung kinh tế tạo ra mơ hình kinh doanh lớn nhằm mục đích tăng số lượng bán ra
để bù đắp cho phần lợi nhuận bị giảm đi vì phải đầu tư cho nghiên cứu; hoặc giảm chi
phí sản xuất và nghiên cứu cho mỗi đầu sản phẩm và tăng cường sức cạnh tranh; hoặc
tự bảo vệ trước nguy cơ bị nắm quyền kiểm sốt tài chính bởi một tập đồn khác.
- Tập trung kinh tế cho các doanh nghiệp phân phối hoặc khách hàng vào một mối để
đảm bảo tốt hơn nguồn cung ứng hoặc khả năng tiêu thụ sản phẩm.
- Tập trung kinh tế giúp triển khai các chiến lược tập trung vào một số hoạt động hoặc
đa dạng hóa hoạt động.

17


- Tập trung kinh tế giúp đáp ứng yêu cầu của các tập đoàn nước ngoài chiếm được chổ
đứng trên thị trường.
-Tập trung kinh tế tạo ra cơ hội xâm nhập vào các thị trường mới.
Đây chính là nguyên nhân khiến tập trung kinh tế trở nên phổ biến, trở thành

giải pháp được doanh nghiệp lựa chọn để nâng cao sức cạnh tranh.
Q trình tồn cầu hóa thương mại, sự gia tăng cạnh tranh xuất phát từ quá trình
tự do hóa kinh tế, việc mở cửa thị trường đối với một số hoạt động độc quyền và sự gia
tăng chi phí đầu tư cơng nghệ là những ngun nhân làm cho tập trung kinh tế trở
thành một vấn đề đặc biệt quan trọng trong chính sách cạnh tranh của các nước công
nghiệp phát triển. Trong các lĩnh vực công nghệ cao mà ở đó mức độ đầu tư và giá trị
gia tăng do cải tiến công nghệ mang lại là rất lớn, chi phí cố định cao mà chi phí phụ
thấp thì cạnh tranh khơng cịn diễn ra trên thị trường. Vấn đề doanh nghiệp quan tâm
hàng đầu không phải là tạo ra giá cả cạnh tranh mà là đảm bảo vị thế vượt trội của họ.
Trong cuộc đấu này, tập trung kinh tế cho phép rút ngắn thời gian, tăng cường tác dụng
mạng lưới và qua đó đẩy mạnh quay vòng đầu tư.
Ở một số quốc gia, Đặc biệt là ở Mỹ, hiện đang có trào lưu dỡ bỏ các tập đồn
lớn nhằm cải thiện khả năng thích ứng và năng lực sản xuất kinh doanh nhờ vào sự
mềm dẻo trong hoạt động và sự hứng khởi mới của các công ty độc lập được tách ra.
Tuy nhiên, hiện tượng này chắc chắn sẽ không mạnh mẽ bằng khuynh hướng tập trung
kinh tế, vốn được coi là con đường ngắn nhất để vươn tới những cơ hội mở rộng thị
trường. Hơn thế nữa, những cơng ty mới hình thành từ sự chia tách các tập đòan lớn
cũng rất dễ gắn kết lại với nhau; vì thế nên sự phi tập trung hóa thường chính là bước
khởi đầu cho những dự án tập trung kinh tế mới.
Tác động của tập trung kinh tế đối với thị trường là rất to lớn. Tập trung kinh tế
với tư cách là một hiện tượng đã từng được coi là trào lưu trong lịch sử phát triển kinh
tế thị trường và có những tác động đáng kể đến đời sống kinh tế. Điều đó được nhìn
nhận với hai góc độ khác nhau:
Dưới góc độ lợi ích của các doanh nghiệp tham gia:
- Tập trung kinh tế được coi là con đường ngắn nhất để giải quyết nhu cầu tích tụ các
nguồn lực thị trường của các nhà kinh doanh nhằm nâng cao năng lực kinh doanh và
năng lực cạnh tranh. Vì vậy, các biện pháp sáp nhập, hợp nhất, mua lại hoặc liên
doanh… được các lý thuyết kinh tế coi đây là cách thức khơng tốn kém nhiều thời gian
để hình thành nên quyền lực thị trường.
- Tập trung kinh tế tạo ra khả năng hợp tác sâu sắc trong kinh doanh. Thông qua các

hành vi mua lại, liên doanh, các doanh nghiệp tham gia hình thành nên các liên minh
kinh doanh hoặc các nhóm doanh nghiệp có mối quan hệ sở hữu hoặc đầu tư với nhau,
cho dù dưới góc độ pháp lý, chúng vẫn là những chủ thể có tứ cách độc lập. Sự tồn tại
của nhóm kinh doanh tạo ra các hình thức hợp tác kinh doanh khép kín nếu như sự tập
trung diễn ra theo chiều dọc (giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành kinh tế- kỹ
thuật nhưng ở những cơng đoạn khác nhau của q trình kinh doanh); hoặc hỗ trợ
18


trong quản lý, thực hiện chiến lược mở rộng, phát triển thị trường; hoặc hợp tác chia sẻ
rủi ro khi thị trường có những biến động lớn hịng tìm kiếm cơ hội vượt qua các cuộc
khủng hoảng.
- Khi tập trung kinh tế diễn ra giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành và ở cùng
một cơng đoạn của q trình kinh doanh (cùng thị trường liên quan), kết quả sẻ ln là
giữa chúng khơng cịn tồn tại cạnh tranh, bởi sau khi sáp nhập, hợp nhất các doanh
nghiệp đã hóa thân để hình thành một chủ thể duy nhất, hoặc tạo ra mối quan hệ một
nhà bằng hành vi mua lại hoặc liên doanh.
- Tập trung kinh tế có thể là giải pháp hiệu quả cho các doanh nghiệp trong việc cơ cấu
lại hoạt động kinh doanh. Sự tác động từ thị trường có thể tạo ra cho doanh nghiệp
nhiều khó khăn và thuận lợi trong kinh doanh mà từ đó, họ cần thực hiện các chiến
lược cơ cấu lại cho phù hợp với những thay đổi từ thị trường nhằm bảo đảm tính hiệu
quả của hoạt động kinh doanh.
Dưới góc độ của thị trường cạnh tranh:
Tập trung kinh tế làm thay đổi số lượng doanh nghiệp hiện có trên thị trường. Khi đó,
cơ cấu cạnh tranh vốn có sẽ thay đổi về mặt cấu trúc. Sự thay đổi trên có thể gây ra
những tác động đến thị trường như sau:
- Các nguồn lực thị trường sẽ được sử dụng một cách tập trung và hiệu quả hơn.
- Làm hình thành một, một số doanh nghiệp nắm giữ quyền lực thị trường với mơ hình
độc quyền nhóm, doanh nghiệp độc quyền trên thị trường liên quan. Từ đó, các doanh
nghiệp này có thể sử dụng quyền lực thị trường chi phối chính thị trường vì quyền lực

thị trường là khả năng của một doanh nghiệp hoặc một nhóm doanh nghiệp trong việc
tác động đến giá cả thị trường của một loại hàng hóa, dịch vụ mà họ bán hoặc mua3.
Chính tập trung kinh tế làm thay đổi tương quan cạnh tranh trên thị trường. Sự
tích tụ hoặc liên minh các nguồn lực kinh tế giữa các doanh nghiệp thông qua các biện
pháp tập trung kinh tế đã đột ngột làm xuất hiện một doanh nghiệp hoặc nhóm doanh
nghiệp có năng lực cạnh tranh là tổng năng lực cạnh tranh của tất cả doanh nghiệp
tham gia. Về căn bản, tập trung kinh tế sẽ khơng trực tiếp làm giảm vị trí cạnh tranh
trên thị trường của các doanh nghiệp không tham gia, song chúng lại làm thay đổi quan
hệ cạnh tranh giữa họ với doanh nghiệp sau khi tập trung kinh tế so với trước đó khi
thay đổi cấu trúc thị trường.
Các lý thuyết về thị trường đôi khi coi sáp nhập, hợp nhất, mua lại và liên doanh
như là các biện pháp cơ cấu lại thị trường. Những luận điểm được đưa ra để chứng
minh về vai trò cơ cấu lại thị trường của tập trung kinh tế là:
- Các biện pháp sáp nhập, hợp nhất, mua lại doanh nghiệp góp phần cơ cấu lại các
doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả song không làm giảm đi giá trị đầu tư của thị
trường. Trong pháp luật kinh doanh, các chế định về giải thể và phá sản doanh nghiệp
3

David W. Pearce “Từ điển kinh tế học hiện đại”, Nxb Chính trị quốc gia năm 1999, tr682.

19


được coi như những phương thức giải quyết số phận của các doanh nghiệp gặp khó
khăn và kinh doanh kém hiệu quả. Tuy nhiên, việc sử dụng triệt để hai biện pháp nói
trên có thể gây ra hậu quả là, sau khi các doanh nghiệp bị giải thể, phá sản, chấm dứt
tồn tại thì các giá trị đầu tư của họ sẽ chỉ được dùng để giải quyết trách nhiệm tài sản
của doanh nghiệp và trả lại cho các chủ đầu tư. Khi đó, giá trị đầu tư chung trên thị
trường liên quan sẽ giảm đi tương ứng. Trong khi đó, sự sáp nhập, mua lại, hợp nhất có
thể diễn ra với vai trị của q trình điều phối các nguồn lực kinh tế từ những người sử

dụng kém hiệu quả để tập trung vào doanh nghiệp có khả năng sử dụng tốt hơn. Khi
đó, số lượng doanh nghiệp có thể giảm đi song giá trị đầu tư của thị trường không giảm
sút.
- Sự manh mún của quy mô đầu tư có thể sẽ làm cho thị trường kém phát triển, lúc đó,
tập trung kinh tế lại được coi như giải pháp cho việc cơ cấu lại quy mô kinh doanh trên
thị trường;
- Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, việc phải đương đầu với các tập đoàn kinh
tế đa quốc gia có tiềm lực tài chính và kinh nghiệm kinh doanh lâu đời sẽ là thách thức
khá lớn đối với các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là các quốc gia có nền kinh tế thị
trường chuyển đổi. Một trong những biện pháp mà nhiều nước (trong đó có cả các
nước phát triển) sử dụng là tập trung các nguồn lực kinh tế để hình thành nên các tập
đồn hoặc liên minh có sức mạnh về tài chính, kỹ thuật, cơng nghệ.
Có thể chỉ ra tác động cụ thể của một số hình thức tập trung kinh tế đối với môi
trường cạnh tranh:
- Hợp nhất (sáp nhập) theo chiều ngang: Mục tiêu chính của hình thức hợp nhất này là
thực hiện hiệu quả theo quy mô (economies of scale), thực hiện mục tiêu chiến lược thị
trường (khống chế thị trường hoặc tạo rào cản thị trường) hoặc muốn tạo ý nghĩa chính
trị (hình thành một “đế chế”). Việc hợp nhất theo chiều ngang, về lý thuyết, có thể tạo
ra những tác động tích cực và tiêu cực. Theo lý thuyết cạnh tranh thì sự gia tăng hợp
nhất theo chiều ngang sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc phối hợp hành động giữa các
doanh nghiệp và từ đó dẫn đến hạn chế cạnh tranh theo giá.
- Hợp nhất (sáp nhập) theo chiều dọc thường nhằm giảm chi phí giao dịch (transaction
cost economies) hoặc thực hiện những mục tiêu chiến lược thị trường (đảm bảo nguồn
cung ứng hoặc tiêu thụ, ngăn cản đối thủ cạnh tranh mở rộng thị trường hoặc dựng rào
cản gia nhập thị trường). Hợp nhất theo chiều dọc có thể dẫn đến những tác động tiêu
cực ảnh hưởng đến cạnh tranh thông qua việc gây sức ép cho doanh nghiệp (cung ứng
hoặc tiêu thụ) khác.
- Hợp nhất (sáp nhập) theo đường chéo thường nhằm phân bổ rủi ro vào những thị
trường khác nhau hoặc xuất phát từ chiến lược thị trường của doanh nghiệp. Lợi thế
quy mơ thực sự của loại hình tập trung kinh tế này chỉ có thể xảy ra trong nghiên cứu

và triển khai, tổ chức và quản lý. Hình thức hợp nhất này có thể gây ra những tác động
tiêu cực đến môi trường cạnh tranh thông qua những lợi thế cạnh tranh trong lĩnh vực
tín dụng, thanh tốn, trong quan hệ đối ngoại.

20


- Doanh nghiệp chung (liên doanh) là hình thức hợp nhất đặc biệt có tác động được
đánh giá tương tự như tác động của các hình thức hợp nhất theo chiều ngang, chiều dọc
hoặc đường chéo.
Từ những phân tích về luận cứ cho việc tập trung kinh tế cũng như tác động của
chúng đối với thị trường, có thể đưa ra một vài đánh giá sau:
Việc thực hiện các hành vi tập trung kinh tế là quyền của doanh nghiệp. Dưới
góc độ kinh tế, các biện pháp sáp nhập, hợp nhất, liên doanh hay mua lại xuất phát và
phục vụ cho nhu cầu kinh doanh của doanh nghiệp, cho nên chúng thuộc phạm vi của
quyền tự do kinh doanh mà pháp luật đã thừa nhận và bảo hộ. Vì lẽ ấy, Luật Cạnh
tranh của các quốc gia đều không loại bỏ các hành vi tập trung kinh tế ra khỏi sinh hoạt
của thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, việc tập trung kinh tế là hoạt động bình thường
của các doanh nghiệp nhằm tăng cường tiềm lực kinh tế, phát huy thế mạnh trên thị
trường. Tuy nhiên việc một doanh nghiệp có nguồn tài chính và sức mạnh thị trường có
thể mua lại bất kỳ doanh nghiệp nào để trở thành độc quyền trên thị trường sẽ gây ra
bất lợi cho mơi trường cạnh tranh, thậm chí dẫn đến nguy cơ loại trừ khả năng cạnh
tranh, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế. Nhà nước đưa ra những quy định
về cấm tập trung kinh tế trong những trường hợp nhất định nhằm mục đích kiểm sốt
q trình dẫn đến độc quyền thông qua tập trung kinh tế.
Tập trung kinh tế là sự tập hợp các nguồn lực kinh tế bằng hành vi sáp nhập,
hợp nhất, mua lại hoặc liên doanh mà khơng phải là q trình tích tụ tư bản thơng
thường. Nói cách khác, thơng qua tập trung kinh tế, các doanh nghiệp nâng cao được
năng lực cạnh tranh song không phải từ hiệu quả kinh doanh của từng doanh nghiệp.

Do đó, như thực tế đã cho thấy, các biện pháp tập trung kinh tế đôi khi được sử dụng
để hình thành nên các thế lực thống lĩnh thị trường hoặc độc quyền.
Ở chừng mực nào đó, tập trung kinh tế đem lại cho thị trường hiệu quả nhất
định cho dù chúng có thể tạo ra các doanh nghiệp có khả năng chi phối thị trường . Do
đó, kinh tế học đã khuyến cáo rằng, khi kiểm soát các vụ việc về tập trung kinh tế, nhà
nước nhất thiết phải cân nhắc về tính hiệu quả của từng vụ việc cụ thể.
Tập trung kinh tế được sử dụng góp phần khắc phục các yếu điểm của những
giải pháp tăng cường cạnh tranh khác, nó bổ sung nhưng khơng thay thế hồn tồn vì
mỗi giải pháp có những ưu điểm mà cần phát huy, có tác động qua lại với tập trung
kinh tế. Sự phối hợp các giải pháp với nhau làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp hơn nữa, đảm bảo hiệu quả tập trung kinh tế. Bên cạnh đó, tập trung kinh tế chỉ
được phép thực hiện trong một giới hạn xác định bởi quy định pháp luật nên không thể
sử dụng giải pháp này một cách tùy nghi.
Khơng riêng gì doanh nghiệp coi tập trung kinh tế là cơng cụ của sự phát triển
mà chính các quốc gia cũng thấy rõ vai trò của tập trung kinh tế. Một nền kinh tế vững
mạnh phải có những doanh nghiệp vững mạnh. Nhất là quốc gia đang phát triển cần
tăng cường tiềm lực kinh tế nước mình thông qua việc tạo điều kiện xây dựng các

21


doanh nghiệp có quy mơ lớn, uy tín trên chính thị trường trong nước và Quốc tế bằng
con đường tập trung kinh tế.
Hành lang pháp lí Quốc gia tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện quyền của
mình nhưng vẫn bảo vệ được môi trường cạnh tranh cần thiết.
Một trong những chức năng nhiệm vụ của Nhà nước là quản lý kinh tế với tất cả
các lĩnh vực phong phú và phức tạp của các quan hệ kinh tế nói chung, tập trung kinh
tế cũng có một chế định pháp luật chuyên biệt để điều chỉnh với những đặc điểm, tính
chất riêng của nó. Vấn đề điều chỉnh tập trung kinh tế được đặt ra cho Pháp luật Việt
Nam bởi những nguyên nhân sẻ được lý giải cụ thể sau đây:

Như phân tích ở trên đã thể hiện khá nhiều ưu điểm, lợi ích mà tập trung kinh tế
mang lại, pháp luật ghi nhận những điểm tích cực đó đồng thời tạo dựng cơ sở pháp lý
cho doanh nghiệp thực hiện, phát huy vai trị tích cức của tập trung kinh tế. Song, tập
trung kinh tế cịn có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng nếu không thấy được tính
hai mặt của nó: tạo ưu thế cạnh tranh cho doanh nghiệp đồng thời cũng triệt tiêu cạnh
tranh.
Vai trò của cạnh tranh đối với nền kinh tế vô cùng quan trọng. Nếu ví nền kinh
tế là một guồng máy thì cạnh tranh chính là chất bơi trơn khơng thể thiếu để động cơ
hoat động được và hoạt động một cách hiệu quả. Điều này được hầu hết các quốc gia
thừa nhận, bảo vệ bằng pháp luật. Trong đó có những quy định điều chỉnh nhóm hành
vi hạn chế cạnh tranh- tập trung kinh tế là một trong số những hành vi có tác động lớn
đến cấu trúc thị trường, ảnh hưởng đến cạnh tranh trên thị trường, thậm chí cịn triệt
tiêu cả cạnh tranh.
Tại sao tập trung kinh tế lại triệt tiêu cạnh tranh?
Thuyết trung dung của Khổng Tử có thể được vận dụng để giải thích cho hiện
tương triệt tiêu cạnh tranh do hậu quả của tập trung kinh tế. Sự vật hiện tượng khi mất
đi trạng thái cân bằng-“trung dung” đều gây ra những tác động không tốt, các quan hệ
kinh tế cũng vậy.
Tập trung kinh tế giúp doanh nghiệp tăng cường sức cạnh tranh, chiếm lĩnh thị
trường. Song, q trình tập trung kinh tế diễn ra khơng ngừng sẻ phá vỡ cấu trúc cạnh
tranh trên thị trường, giảm số lượng doanh nghiệp cùng sản xuất kinh doanh hàng hóa
dịch vụ tương tự nhau, thu hẹp tính cạnh tranh của nền kinh tế thị trường; giảm uy lực,
đi đến loại trừ tác động của quy luật cung-cầu, cạnh tranh khi tập trung kinh tế dẫn đến
hình thành doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, thậm chí là độc quyền trên thị trường.
Cạnh tranh sẻ khơng cịn ý nghĩa nếu hầu hết sản phẩm cung ứng cho thị trường
đều bị thao túng bởi một hoặc một số ít doanh nghiệp, người tiêu dùng khơng cịn cơ
hội để lựa chọn sản phẩm. Điều này có nghĩa tập trung kinh tế dẫn đến tiêu diệt cạnh
tranh trên thị trường
Triệt tiêu cạnh tranh gây ra hậu quả như thế nào?


22


Hậu quả mà vấn đề triệt tiêu cạnh tranh gây ra là vơ cùng nghiêm trọng, đó
chính là thước đo để nhà làm luật cân nhắc các biện pháp nhằm tác động đến nguyên
nhân phá vỡ cạnh tranh, trong đó có tập trung kinh tế sao cho đảm bảo điều chỉnh có
lợi nhất cho sự phát triển. Có thể tóm lược một số vấn đề mà triệt tiêu cạnh tranh gây ra
như sau:
- Đối với thị trường:
Cùng với việc tăng cường khả năng cạnh tranh của một, một số doanh nghiệp
khi tiến hành tập trung kinh tế là số lượng doanh nghiệp cùng sản xuất, kinh doanh trên
thị trường giảm đi. Cấu trúc cạnh tranh vốn đang tồn tại bị thay đổi, một, một số doanh
nghiệp chiếm lĩnh nhiều thị phần hơn, chiếm ưu thế hơn. Theo đó dần hình thành
doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, thậm chí là độc quyền.
Vị thế giữa các doanh nghiệp biến đổi cùng với sự thay đổi cấu trúc thị trường.
Đối với những doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, độc quyền khả năng chi phối thị
trường của họ là rất lớn, cán cân cạnh tranh nghiên về phía họ vì quyền lực thị trường
nằm trong tay họ. Các hành vi lạm dụng gây hại đến cạnh tranh, thiết lập các rào cản
gia nhập thị trường dễ xảy ra và khó kiểm sốt hơn nếu lĩnh vực nào cũng xuất hiện
doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, độc quyền do tập trung kinh tế tạo nên.
Một doanh nghiệp muốn sản xuất kinh doanh hiệu quả thì phải nắm giữ được
nhiều thị phần, tăng sức cạnh tranh. Doanh nghiệp đó có thể sử dụng nhiều biện pháp,
bao gồm cả tập trung kinh tế. Vì đây là một giải pháp giúp doanh nghiệp nhanh chóng
đạt đươc mục đích. Các quốc gia đều thấy được mặt lợi mà tập trung kinh tế mang lại
cho kinh tế nước nhà, song, vấn đề kiểm sốt nó cũng được đặt ra, làm sao để tập trung
kinh tế phát huy điểm tích cực của nó đối với sự phát triển đồng thời không phá vỡ cấu
trúc thị trường một cách đột ngột, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiến hành các
hoat động phù hợp với quy định pháp luật, duy trì, bảo vệ một mơi trường kinh doanh
có tính cạnh tranh cần thiết.
- Đối với khách hàng:

Khi tập trung kinh tế diễn ra mạnh mẽ, khơng có sự kiểm sốt cần thiết dẫn đến
việc hình thành các doanh nghiệp thống lĩnh, độc quyền như phân tích ở trên cũng tác
động lớn đến khách hàng, người tiêu dùng. Tác động đó thể hiện bằng việc khách hàng
khơng có cơ hội để chọn lựa sản phẩm theo nhu cầu, khả năng của mình vì chỉ có một
hoặc một số ít nhà cung cấp sản phẩm trên thị trường. Dù muốn hay khơng họ vẫn phải
sử dụng sản phẩm đó.
Khi số lượng nhà cung cấp càng ít đi đồng thời kéo theo tiếng nói của người tiêu
dùng, khách hàng khơng cịn giá trị. Không chỉ cạnh tranh bị phá vỡ mà cả quy luật
cung- cầu cũng vô nghĩa. Các doanh nghiệp trở thành những “ông vua” với quyền lực
thị trường trong tay dễ dàng bóc lột khách hàng, biến họ thành những “nơ lệ”. Có thể
đưa ra ví dụ: các doanh nghiệp nắm trong tay quyền lực thị trường luôn mong muốn
tận dụng ưu thế đó để tác động lại thị trường sao cho có lợi nhất cho mình. Các hành vi

23


lạm dụng như: áp đặt giá bán, giá mua; chi phối số lượng hàng hóa cung ứng trên thị
trường… dễ dàng được tận dụng thu lợi.
Đên đây người viết đã có đủ cơ sở để khẳng định tập trung kinh tế là hành vi
hạn chế cạnh tranh mà cạnh tranh lại vô cùng quan trọng trong nền kinh tế thị trường,
khơng cịn cạnh tranh, khơng cịn động lực phát triển nên cần phải có những biện pháp
kiểm sốt tập trung kinh tế sao cho phát huy được lợi ích của tập trung kinh tế đồng
thời khắc phục, hạn chế, phòng ngừa những tác động tiêu cực có thể xảy ra. Kiểm soát
bằng quy định pháp luật, đồng thời phải thiết lập cơ kế kiểm soát tập trung kinh tế một
cách hiệu quả là giải pháp quan trọng nhất.

1.3 Giới thiệu một số mơ hình kiểm sốt tập trung kinh tế trên thế giới
Nhìn chung, trên thế giới tồn tại hai mơ hình chính của cơ chế kiểm sốt tập
trung kinh tế, đó là mơ hình của Mỹ và mơ hình của châu Âu, theo đó:
1.3.1 Mơ hình kiểm sốt tập trung kinh tế của Mỹ:

Có thể nói Mỹ là quốc gia đầu tiên trên thế giới có những quy định về sáp nhập,
hợp nhất doanh nghiệp. Từ đó, tư tưởng kiểm soát tập trung kinh tế lan truyền sang
Châu Âu, Châu Á cùng với xu hướng tồn cầu hóa nền kinh tế. Đến nay, Pháp luật Hoa
Kỳ về kiểm soát tập trung kinh tế vẫn còn sức ảnh hưởng đáng kể đến các hệ thống
Pháp luật khác. Trước khi ban hành Luật cạnh tranh 2004 của Việt Nam, Ban soan thảo
đã tổ chức các buổi Hội thảo về Luật cạnh tranh Hoa Kỳ để học hỏi kinh nghiệm từ
quốc gia đi đầu này. Tìm hiểu các quy định kiểm sốt tập trung kinh tế của Mỹ la rất
cần thiết cho việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam mặc dù Luật cạnh tranh Việt Nam
chịu ảnh hưởng từ mơ hình Châu Âu nhiều hơn, cũng như tạo nền tảng kiến thức pháp
luật cho các doanh nghiệp Việt Nam chủ động hơn khi đặt quan hệ kinh doanh với các
đối tác Hoa Kỳ.
Vào từng thời điểm, quan điểm của Chính phủ Mỹ về kiểm sốt sáp nhập doanh
nghiệp có sự khác biệt bởi sự tác động của nhiều nguyên nhân:
- Cách đánh giá về tác động của tập trung kinh tế đến nền kinh tế của Nhà nước căn cứ
vào mặt tích cực và tiêu cực của nó cùng với hệ quả mà nó gây ra cho thị trường vào
thời điểm nhất định đó có thể mang đến nhiều lợi ích mà cũng chính hệ quả đó vào thời
điểm khác lại hồn tồn bất lợi. Ví dụ: vào chiến tranh thế giới thứ II, phần lớn các
quốc gia trên thế lới đều bị cuốn vào vòng chiến tranh, các “đàn anh” về kinh tế tại
Châu Âu tập trung toàn lực vào cuộc chiến, tạo cơ hội cho Quốc gia non trẻ là Hoa Kỳ
phát triển kinh tế và lớn mạnh từng ngày. Các doanh nghiệp Hoa Kỳ tận dụng thời cơ,
liên kết với nhau hình thành các doanh nghiệp độc quyền- Trust lũng đoạn thị trường,
đây là thời kỳ mà tập trung kinh tế bùng phát tại Mỹ, góp phần xây dựng, củng cố vị trí
của cường quốc kinh tế này, khống chế thị trường thế giới. Cũng chính các Trust này
trong giai đoạn hiện nay lại bị kiểm soát chặt chẽ, thậm chí có nguy cơ bị chia tách nếu
đe dọa đến cạnh tranh, gây hại cho người tiêu dùng.

24


- Các ứng cử viên tổng thống Mỹ thường được các công ty Mỹ tài trợ trong chiến dịch

tranh cử của mình nên khi đắc cử, chính sánh kinh tế của họ thường chịu ảnh hưởng
nhất định từ chính các cơng ty này.
Mơ hình này được áp dụng ở Mỹ, Canada, Arghentina…
Hiện nay, hệ thống pháp luật cạnh tranh Mỹ bao gồm:
- Đạo luật Sherman năm 1980: với nội dung chủ yếu là cấm thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh.
- Đạo luật Clayton năm 1914: bổ sung luật Sherman với bốn hành vi sau
Cấm phân biệt đối xử về giá,
Cấm ký kết hợp đồng mang tính độc quyền hoặc có nội dung ràng buộc,
Cấm việc chiếm vốn giữa các công ty,
Cấm kiêm nhiệm chức vụ.
- Đạo luật về Ủy ban Thương mại Liên Bang (Federal Trade Commission-FTC)- thành
lập cơ quan cạnh tranh tại Mỹ năm 1914: trước đây, các vụ cạnh tranh tại Mỹ do cục
chống độc quyền thuộc Bộ Tư pháp thưc hiện. Sau khi thành lập Ủy ban Thương mại
Liên Bang, Ủy ban này giám sát việc thực thi luật cạnh tranh thuộc mảng dân sự. đạo
luật nay còn bổ sung thêm các hành vi cạnh tranh không lành mạnh như: làm hàng giả,
quảng cáo gian giối.
- Đạo luật Robinson-Patman năm 1936: bổ sung luật clayton về hành vi bán phá giá
hàng hóa trong nước.
- Đạo luât wheeler-Lea: bổ sung những hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
- Đạo luật Celler-Kefauver: đây là nguồn điều chỉnh các hành vi tập trung kinh tế tại
Mỹ, quy định về việc kiểm sóat sáp nhập, mua lại doanh nghiệp, làm rõ hơn quy định
tại luật Clayton, song với nguồn tài liệu khan hiếm nên người viết chưa có điều kiện
tìm hiểu sâu hơn về kiểm soát tập trung kinh tế tại Mỹ, nhất là nội dung cụ thể của đạo
luật này.4
Tuy nhiên, nói đến kiểm sốt tập trung kinh tế theo Pháp luật Hoa Kỳ là nói đến
Điều 7 luật Clayton vì đây là nguồn quan trọng hàng đầu để xem xét tính hợp pháp của
hành vi sáp nhập doanh nghiệp. Điều luật này quy định: mọi hành vi mua cổ phiếu hay
sáp nhập một công ty khác đều bị cấm nếu hậu quả của việc sáp nhập là một hoặc một
số doanh nghiệp trở thành độc quyền…, hay việc cạnh tranh trong một số ngành

thương mại tại một số khu vực trên thị trường có thể bị ảnh hưởng xấu dù trực tiếp hay

4

TS Phạm Trí Hùng, Tổng quan về kiểm soát tập trung kinh tế trên thế giới (Đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Bộ)
25


×