Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

hậu quả của taaph trung kinh tế theo pháp luật cạnh tranh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.65 KB, 14 trang )

MỞ ĐẦU
Tập trung kinh tế (TTKT) là nhu cầu tất yếu của đời sống kinh tế, thơng qua đó
các hãng có thể nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng quy mơ sản xuất để giảm
chi phí sản xuất hàng hố. Cũng thơng qua TTKT, các hãng sản xuất mới có
điều kiện tập trung nguồn lực vào nghiên cứu phát triển sản phẩm phục vụ cho
việc cạnh tranh trên thị trường. Pháp luật các nước và đặc biệt là pháp luật
nước ta đã có rất nhiều chính sách cũng như có những thay đổi nhằm hồn
thiện hơn về TTKT. Tìm hiểu vấn đề: “hậu quả của taaph trung kinh tế theo
pháp luật cạnh tranh” sẽ giúp chúng ta có thể hiểu hơn về vấn đề này.
NỘI DUNG
I. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của tập trung kinh tế.
1. Khái niệm và đặc điểm của tập trung kinh tế.
a) Khái niệm tập trung kinh tế.
Pháp luật Việt Nam không đưa ra khái niệm mang tính khái quát để định nghĩa
hành vi tập trung kinh tế mà chỉ liệt kê các hình thức TTKT. Theo Điều 16, 17 Luật
cạnh tranh 2004 thì TTKT là hành vi của doanh nghiệp bao gồm: sáp nhập doanh
nghiệp; hợp nhất doanh nghiệp, mua lại doanh nghiệp; liên doanh giữa các doanh
nghiệp và các hành vi TTKT khác theo quy định của pháp luật.
b) Đặc điểm của tập trung kinh tế.
Thứ nhất, chủ thể thực hiện hành vi TTKT doanh nghiệp. Dưới giác độ của pháp
luật chống hạn chế cạnh tranh, chỉ có các doanh nghiệp mới có thể là các chỉ thể của
TTKT.
Thứ hai, hành vi TTKT được thực hiện dưới những hình thức nhất định: TTKT có
thể được tiến hành thơng qua những con đường như sáp nhập, hợp nhất, mua cổ phần,
liên doanh….
Thứ ba, hậu quả của TTKT dẫn đến hình thành các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế
lớn mạnh, thay đổi cấu trúc trên thị trường và tương quan cạnh tranh trên thị trường.
2. Vai trò và những ảnh hưởng của TTKT.
a) Tác động tích cực.
TTKT là động lực thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất nói riêng và cả
nền kinh tế nói chung. TTKT góp phần làm tăng sức mạnh kinh tế và khả năng cạnh


tranh của các doanh nghiệp thơng qua việc hình thành những cơng ty lớn có khả năng
cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Với sự ra đời của các tập đoàn kinh
tế lớn, TTKT đã tạo điều kiện thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật vì các cơng tu lớn
mạnh được hình thành sẽ đủ sức đầu tư, nghiên cứu đổi mới công nghệ và triển khai
ứng dụng chúng trong sản xuất kinh doanh, 1 việc mà các công ty nhỏ khó có thể
thực hiện được. Khơng ai có thể phủ nhận được những vai trò quan trọng của TTKT
1


đến cạnh tranh trên thị trường. Nó có tác động tích cực thúc đẩy nền kinh tế phát
triển. Từ 1 nền sản xuất nhỏ đi lên, ở Việt Nam số lượng các doanh nghiệp vừa và
nhỏ chiếm đa số. Chính vì vậy đất nước ta rấ cần các doanh nghiệp lớn được hình
thành trong q trình tích tụ và tập trung tư bản. bên cạnh đó cùng với q trình mở
cửa thị trường thơng qua việc kí kết và gia nhập các hiệp định thương mại song
phương và đa phương đã và sẽ xuất hiện những công tu đa quốc gia hoạt động ở Việt
Nam. Với sức mạnh kinh tế của mỉnh, những cơng ty này có khả năng tạo lập được
vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền và trong bối cảnh đó, 1 bộ phận doanh nghiệp nội
địa Việt Nam với tiềm lực hạn chế đang bị loại bỏ dần khỏi đời sống kinh tế. Để khắc
phục những hạn chế trên thì TTKT là 1 cách thức dơn giản và hiệu quả và dễ thực
hiện. Bằng việc hợp nhát, sáp nhập, mua lại, liên doanh giữa các doanh nghiệp, các
nguồn vốn, kỹ thuật, công nghệ được tập trung vào 1 số doanh nghiệp nhất định. Từ
đó các cơng ty lớn, các tập đoàn kinh tế hùng hậu được hình thành, có đủ sức cạnh
tranh với các doanh nghiệp nước ngồi và vươn ra thị trường thế giới.
TTKT cịn thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật, góp phần vào sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. các toàn kinh tế hùng hậu chiếm thị phần lớn, có
thế mạnh về tài chính được hình thành mới đủ sức đầu tư phát triển khoa học kỹ
thuật, đi đầu trong lĩnh vực nghiên cứu đổi mới công nghệ và triển khai chúng vào
sản xuất kinh doanh, một việc mà cơng ty nhỏ khó có thể thực hiện được. Khoa học
công nghệ tiến bộ được áp dụng sẽ đem đến cho người tiêu dùng những sản phẩm
hàng hóa, dịch vụ tốt nhất với giá cả hợp lý nhất, nâng cao đời sống nhân dân.

TTKT đẩy nhanh q trình tích tụ, tập trung các nguồn lực để phát triển, tạo ra
những ngành kinh tế mũi nhọn. TTKT thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất
vì TTKT dẫn đến sự phát triển sâu rộng của phân công lao động xã hội, đến quy mô
sản xuất và kinh doanh. Sauk hi thực hiện TTKT, các doanh nghiệp sẽ có điều kiện
mở rộng quy mô sản xuất, áp dụng công nghệ hiện đại,đào tạo nhân lực. người lao
động Việt Nam được huấn luyện bài bản có trình độ tay nghề cia sẽ trở thành nguồn
lực chính của Việt Nam trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay
Như vậy, TTKT khơng những có tác dụng thúc đẩy sự phát triển nhiều mặt của
nền kinh tế nói chung mà cịn tăng cường tích tụ, nâng cao khả năng cạnh tranh nhằm
tối đa hóa lợi nhuận của các cơng ty nói riêng.
b) Tác động tiêu cực.
TTKT có thể dẫn tới hậu quả như hình thành các cơng ty độc quyền, gia tăng vị trí
thống lĩnh trên thị trường làm hạn chế cạnh tranh, gây tổn hại đến lợi ích người tiêu
dùng. Các công ty đa quốc gia đã tiến hành các vụ TTKT thông qua việc sáp nhập
,hợp nhất, mua lại doanh nghiệp hoặc thực hiện các hành vi dưới dạng liên doanh
nhưng sau đó chấp nhận lỗ hàng năm trời để làm cạn kiệt khả năng tài chính của

2


doanh nghiệp Việt Nam, sau đó mua lại phần vốn góp, chiếm lĩnh thị trường và tiếp
tục loại bỏ các doanh nghiệp đối thủ ra khỏi thị trường.
TTKT có xu hướng phân hóa các doanh nghiệp. Những doanh nghiệp có ưu thế sẽ
dành chiến thắng trong các cuộc cạnh tranh, uy tín được nâng cao, lợi nhuận kinh tế
thu được ở mức cao hơn. Cịn các doanh nghiệp khơng đủ năng lực cạnh tranh sẽ gặp
nhiều khó khăn, đi vào bế tắc, có nguy cơ dẫn đến phá sản. Đây cũng là nguy cơ dẫn
đến hiện tượng độc quyền, loại bỏ đối thủ cạnh tranh 1 cách vĩnh viễn. lúc này, họ
dùng sức mạnh độc quyền của mình tự do tăng giá bán, giảm giá mua hoặc áp đặt các
điều kiện ràng buộc bất hợp lý trong kinh doanh như ép mua, ép bán, mua kèm, bán
kèm những sản phẩm dịch vụ không cần thiêt để thu lợi nhuận siêu ngạch, gây ảnh

hưởng đến lợi ích của doanh nghiệp và người tiêu dùng. Độc quyền làm cho nền kinh
tế rơi vào trạng thái ngừng trệ tương đối, mặt nào đó đã làm yếu đi các lực lượng thị
trường và làm cho các quy luật kinh tế trong cơ chế thị trường vận động sai lệch, cản
trở nền kinh tế phát triển.
Người lao động có thể bị mất việc làm do hợp nhất, sáp nhập doanh nghiệp dẫn
đến lao động dôi dư hoặc do doanh nghiệp của họ bị thất thế trong q trình cạnh
tranh với các tập đồn lớn và đi đến phá sản, Người lao động bị thất nghiệp hàng loạt
tạo ra 1 gánh nặng lớn cho xã hội, cho Nhà nước, tạo ra sức ép đơi với các chính sách
kinh tế và xã hội của quốc gia.
II. Tập trung kinh tế theo quy định của pháp luật Việt Nam.
1. Các hình thức tập trung kinh tế.
Theo pháp luật cạnh tranh của Việt Nam, các hình thức TTKT bao gồm:
- Sáp nhập doanh nghiệp: Theo Khoản 1 Điều 17 Luật cạnh tranh năm 2004 thì:
“Sáp nhập doanh nghiệp là việc một số doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền,
nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang một doanh nghiệp khác, đồng thời chấm
dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập”. Như vậy, sau khi xoá tên trong sổ đăng
ký kinh doanh, doanh nghiệp bị sáp nhập khơng cịn tồn tại cịn doanh nghiệp nhận
sáp nhập được hưởng toàn bộ tài sản cũng như các quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp
pháp của doanh nghiệp bị sáp nhập.
- Hợp nhấp doanh nghiệp: Theo Khoản 2 Điều 17 Luật cạnh tranh năm 2004 thì:
“Hợp nhất doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản,
quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp mới,
đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các doanh nghiệp bị hợp nhất”. Như vậy, sau khi
đăng ký kinh doanh, các doanh nghiệp bị hợp nhất chấm dứt tồn tại, doanh nghiệp
hợp nhất được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp chịu trách nhiệm về các khoản
nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh
nghiệp bị hợp nhất.

3



- Mua lại doanh nghiệp: Khoản 3 Điều 17 Luật cạnh tranh định nghĩa: “mua lại
doanh nghiệp là việc 1 doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc 1 phần tài sản, cổ phần của
doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối hoạt động 1 hoặc toàn bộ ngành nghề
của doanh nghiệp bị mua lại”. Như vậy, mua lại doanh nghiệp gồm hai trường hợp:
mua lại toàn bộ và mua lại 1 phần doanh nghiệp. Mua lại toàn bộ doanh nghiệp về
bản chất chính là hình thức sáp nhập doanh nghiệp, bởi vì mua lại tồn bộ doanh
nghiệp, người mua trở thành chủ sở hữu doanh nghiệp cũng như tài sản của doanh
nghiệp, được hưởng các quyền, nghĩa vụ và tính hợp pháp của doanh nghiệp đó. Chỉ
có 1 điểm khác biệt giữa 2 hình thức này đó là việc doanh nghiệp bị mua lại có chấm
dứt tồn tại hay khơng? Tùy thuộc vào ý chí chủ quan của doanh nghiệp mua, nếu
doanh nghiệp bị mua chấm dứt tồn tại thì đó chính là sáp nhập, cịn nếu nó tiếp tục
hoạt động như 1 chủ thể kinh doanh độc lập thì sẽ trở thành cơng ty con trong 1 tập
đồn kinh tế.
- Liên doanh giữa các doanh nghiệp: Khoản 4 Điều 17 Luật Cạnh tranh quy
định : “liên doanh giữa các doanh nghiệp là việc hai hay nhiều doanh nghiệp cùng
nhau góp một phần tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình
thành nên doanh nghiệp mới”. Tại Việt Nam, liên doanh thường được hiểu là liên
doanh với người nước ngồi vì hình thức này được quy định trong luật đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam. Tuy nhiên, thuật ngữa liên doanh cũng xuất hiện ở một số văn
bản pháp luật khác như Luật Doanh nghiệp… nhưng khơng có định nghĩa cụ thể.
Luật cạnh tranh đã đưa ra khái niệm về liên doanh nhưng khơng nói đến quốc tịch
của các bên liên doanh, do đó có thể hiểu rằng việc liên doanh có thể tiến hành giữa
các doanh nghiệp Việt Nam với nhau hoặc giữa một hoặc nhiều doanh nghiệp Việt
Nam với một hoặc nhiều doanh nghiệp nước ngồi, miễn là có mục đích thành lập
doanh nghiệp mới.
- Các hành vi TTKT khác: Đây là cách xây dựng pháp luật phổ biến của Việt Nam
khi sở dụng phương pháp liệt kê những vẫn dự phòng một điều khoản mở cho phép
bổ sung khi cần thiết.
2. Hậu quả pháp lý của tập trung kinh tế.

a) Các trường hợp tập trung kinh tế phải thông báo với cơ quan quản lý cạnh tranh
trước khi thực hiện.
Việt Nam áp dụng kiểm sốt TTKT theo hình thức tiền kiểm và yêu cầu trong
trường hợp các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế có thị phần kết hợp từ 30%
đến 50% trên thị trường liên quan thì phải thơng báo với cơ quan quản lý cạnh tranh
trước khi thực hiện hành vi tập trung kinh tế. Trường hợp này bị áp dụng thủ tục kiểm
sốt bởi vì khi một doanh nghiệp có thị phần từ 30% trên thị trường liên quan sẽ bị
coi là có vị trí thống lĩnh và cần phải được kiểm soát.

4


Như vậy, nếu TTKT thuộc diện phải thơng báo thì thủ tục xem xét TTKT bao gồm
các bước:
- Bước 1: Thơng báo TTKT: Các doanh nghiệp TTKT có thị phần kết hợp từ 30%
đến 50% trên thị trường liên quan thì đại diện hợp pháp của các doanh nghiệp đó phải
thông báo cho cơ quan quản lý cạnh tranh trước khi tiến hành TTKT. Trường hợp thị
phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia TTKT thấp hơn 30% trên thị trường liên
quan hoặc trường hợp doanh nghiệp sau khi thực hiện TTKT vẫn thuộc loại vừa và
nhỏ theo quy định của pháp luật thì khơng phải thơng báo.
- Bước 2: Thụ lý hồ sơ thông báo TTKT. Trong thời hạn 7 ngày làm việc, kể từ
ngày tiếp nhận hồ sơ thông báo việc tiếp nhận hồ sơ, cơ quan quản lý cạnh tranh có
trách nhiệm thơng báo bằng văn bản cho doanh nghiệp nộp hồ sơ về tính hợp lệ, đầy
đủ của hồ sơ; trường hợp hồ sơ chưa đầy đủ, cơ quan quản lý cạnh tranh có trách
nhiệm chỉ rõ nhứng nội dung cần bổ sung.
- Bước 3: Trả lời thông bào về hồ sơ TTKT. Trong thời hạn 45 ngày, kể từ ngày
nhận được đầy đủ hồ sơ thông báo TTKT, cơ quan quản lý cạnh tranh có trách nhiệm
trả lời bằng văn bản cho doanh nghiệp nộp hồ sơ. Văn bản trả lời của cơ quan quan
rlys cạnh tranh phải xác định TTKT thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ TTKT không thuộc trường hợp bị cấm;

+ TTKT bị cấm theo quy định tại điều 18 Luật cạnh tranh; lý do cần phải được
nêu rõ trong văn bản trả lời.
Trường hợp TTKT có nhiều tình tiết phức tạp, thời hạn trả lời quy định có thể
được thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh gia hạn nhưng không quá 2 lần, mỗi lân
không quá 30 ngày và phải thông báo bằng văn bản cho doanh nghiệp nộp hồ sơ
chậm nhất là 3 ngày làm việc trước ngày hết hạn trả lời thông báo, nêu rõ lý do của
việc gia hạn.
- Bước 4: Thực hiện thủ tục TTKT tại cơ quan đăng ký kinh doanh. Đại diện hợp
pháp của các doanh nghiệp tham gia TTKT thuộc diện phải thông báo chỉ được làm
thủ tục TTKT tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về
doanh nghiệp sau khi được cơ quan quản lý cạnh tranh trả lời bằng văn bản về việc
TTKT không thuộc trường hợp bị cấm.
b) Các trường hợp tập trung kinh tế bị cấm.
Điều 18 Luật Cạnh tranh quy định: “cấm tập trung kinh tế nếu thị phần kết hợp
của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế chiếm trên 50% thị trường liên quan,
trừ trường hợp quy định tại điều 19 của Luật này hoặc trường hợp doanh nghiệp sau
khi thực hiện tập trung kinh tế vẫn thục loại doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định
của pháp luật”. Luật cạnh tranh quy định các trường hợp tập trung kinh tế bị cấm
nhằm tạo khung pháp lý cho các doanh nghiệp thực hiện hành vi tập trung kinh tế
một cách hợp pháp, tao cơ sở pháp lý cho cơ quan có thẩm quyền xác định hành vi
5


tập trung kinh tế trái pháp luật và là cơ sở cho việc xử lý các vụ việc tập trung kinh tế
theo luật định.
Theo điều 18 thì khơng phải tất cả các trường hợp TTKT đều bị cấm mà chỉ cấm
khi thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế chiếm trên 50%
trên thị trường liên quan. Quy định này là hoàn toàn hợp lý. Mục đích của quy định
này là nhằm ngăn cản việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại, liên doanh dẫn đến hậu quả
pháp lý là tạo ra một doanh nghiệp có khả năng khống chế thị trường. Bởi lẽ khi nắm

giữ trên 50% thị phần, doanh nghiệp có đủ khả năng hành động, thao túng thị trường
mà không cần quan tâm đến đối thủ dẽ dàng lạm dụng vị trí thống lĩnh để gây hạn chế
cạnh tranh cho các doanh nghiệp khác cũng ngành nghề. Việc ngăn cản hình thành
doanh nghiệp khống chế thị trường sẽ giúp duy trì mơi trường cạnh tranh lành mạnh,
có lợi cho người tiêu dung mà vẫn khơng ngăn cản việc hình thành các cơng ty lớn có
khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Ở Việt Nam hiện nay, chỉ
có một số ít tổng cơng ty chiếm thị phần trên 50% như điện lực, dầu khí, xăng dầu,
hàng khơng, đường sắt…và đây là độc quyền tự nhiên do lịch sử để lại. Ngay cả tổng
công ty thép hiện nay cũng mới chỉ chiếm 20% thị phần sản xuất phôi thép và gần
30% thị phần sản phẩm thép tại Việt Nam. Do vậy, theo Luật cạnh tranh thì tổng
cơng ty thép vẫn có quyền TTKT để mạnh hơn nữa.
Có hai trường hợp ngoại lệ theo Điều 18 là trường hợp theo Điều 19 Luật cạnh
tranh và trường hợp sau khi tham gia TTKT vẫn thuộc trường hợp doanh nghiệp vừa
và nhỏ. Trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay,các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tới
95% trong tổng số 80.000 doanh nghiệp thì nhu cầu liên kết với nhau để tăng cường
sức cạnh tranh là cần thiết và tất yếu. Pháp luật không cấm TTKT trong trường hợp
này là phù hợp với điều kiện kinh tế của Việt Nam.
c) Trường hợp miễn trừ đối với tập trung kinh tế bị cấm.
Các trường hợp TTKT được miễn trừ ở Việt Nam được ghi nhận tại điều 19 Luật
cạnh tranh. Điều luật này quy định các trường hợp TTKT có thể được xem xét miễn
trừ với mục đích hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình chuyển đổi nền
kinh tế, tạo thuận lợi cho việc hình thành những tập đồn kinh tế mạnh đủ khả năng
cạnh tranh trên thị trường quốc tế, nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế khu vực và
thế giới. Đó là các trường hợp TTKT bị cấm theo quy định tại Điều 18 nhưng có thể
được xem xét miễn trừ khi:
- Một hoặc nhiều bên tham gia TTKT đang trong nguy cơ bị giải thể hoặc lâm vào
tình trạng phá sản. bộ trưởng Bộ Thương mạu xem xét quyết định việc miễn trừ bằng
văn bản đối với trường hợp này. Ủy ban Thường vụ Quốc hộ giải thích quy định trên
như sau: Doanh nghiệp đang trong nguy cơ giải thể hoặc lâm vào tình trạng phá sản
là doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính hoặc mất khả năng thanh tốn chứ hồn

tồn khơng đồng nghĩa với việc doanh nghiệp dừng hoạt động và khơng có nghĩa là
6


xã hội khơng có nhu cầu sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp. Doanh nghiệp vần có
hệ thống phân phối và uy tín của sản phẩm và đặc biệt là vẫn có thị phần trên thị
trường do sự trung thành của khách hàng với sản phẩm của doanh nghiệp.
Theo Khoản 1 Điều 36 Nghị định 116/2005/NĐ-CP thì: “doanh nghiệp đang
trong nguy cơ bị giải thể là doanh nghiệp thuộc trường hợp giải thể theo quy định của
pháp luật hoặc theo điều lệ của doanh nghiệp nhưng chưa tiến hành thru tục giải thể
hoặc đang tiến hành thủ tục giải thể nhưng chưa có quyết định giải thể của cơ quan có
thẩm quyền theo quy định của pháp luật”. Theo Luật phá sản, doanh nghiệp đang lâm
vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp khơng có khả năng thanh tốn được các khoản
nợ đế hạn khi chủ nợ có yêu cầu.
- Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định việc miễn trừ bằng văn bản đối với
trường hợp TTKT có tác dụng mở rộng xuất khẩu hoặc góp phần phát triển kinh tếxã hội, tiến bộ kỹ thuật, công nghệ.
Trong hai trường hợp miễn trừ, việc TTKT mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội lớn
hơn bất lợi của nó đối với kinh tế. Trường hợp miễn trừ thứ nhất được áp dụng khi có
cơ sở để khẳng định rằng việc TTKT là nhằm cứu vãn 1 chủ thể kinh doanh đang trên
bờ vực giải thể hoặc phá sản, giữ được công ăn việc làm cho người lao động trong
doanh nghiệp. trong trường hợp miễn trừ thứ hai, nếu tập trung kinh tế vượt quá 50%
thị phần nhưng nhằm mục đích tạo ra thế mạnh trong cạnh tranh quốc tế, hoặc để
phát triển xuất khẩu thì vẫn được phép thực hiện vì lợi ích kinh tế của nó rõ ràng rất
lớn, có thể đền bù cho những hậu quả xấu nó gây cho cạnh tranh.
III. Thực tiễn thực hiện tập trung kinh tế ở Việt Nam và một số kiến nghị.
1. Thực tiễn thực hiện tập trung kinh tế ở Việt Nam.
Kể từ tháng 1/2007 Việt Nam trở thành thành viên của WTO. Sự kiện quan
trọng này đem lại cho Việt Nam cả những lợi ích cũng như những thách thức và
nghĩa vụ phải thực thi theo các cam kết gia nhập. Để đạt được mục tiêu trở thành một
nước cơng nghiệp vào năm 2020, Chính phủ đã thực thi hàng loạt các chính sách phát

triển kinh tế như tiếp tục phát triển cơ sở hạ tầng, tăng cường đầu tư vào nguồn nhân
lực, cải cách hành chính, sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước, thu hút đầu tư
nước ngoài, phát triển doanh nghiệp dân doanh, kiềm chế lạm phát, đảm bảo an sinh
xã hội.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng hiện nay, sự
gia tăng hoạt động của các tập đoàn đa quốc gia tại các quốc gia đang phát triển và
nhiều tiềm năng như Việt Nam là một xu thế tất yếu. Mặt khác, tiến trình tự do hố
thương mại, đầu tư được đẩy nhanh như là hệ quả tất yếu của quá trình hội nhập kinh
tế sẽ là giảm đáng kể các rào cản gia nhập thị trường. Bối cảnh khách quan này sẽ là
một yếu tố thúc đẩy nhanh quá trình tập trung kinh tế ở Việt Nam xét dưới góc độ
tiếp cận và gia nhập thị trường của các nhà đầu tư nước ngoài. Mặt khác, với thực
7


trạng một nền kinh tế mà trên 90% là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tiềm năng kinh tế
hạn chế, quy mô nhỏ, sức cạnh tranh kém, công nghệ lạc hậu hơn thế giới từ một đến
hai thế hệ, trình độ quản lý kém và khả năng tự đổi mới, cơ cấu lại doanh nghiệp
thấp... trong khi áp lực mở cửa nền kinh tế buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải
cạnh tranh một cách ngang bằng với các đối thủ quốc tế mạnh hơn về nhiều phương
diện, canh tranh không ngang sức trên một sân chơi nên áp lực buộc các doanh
nghiệp phải thực hiện TTKT để tăng quy mô kinh doanh, tận dụng những lợi thế của
nhau và cơ cấu, định vị lại vị trí trên thị trường. Đây là một điều kiện khách quan dẫn
đến việc sáp nhập, mua lại, thơn tính các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường, có
thể là trong cùng thị trường liên quan hoặc các thị trường liên quan khác nhau đơn
giản vì lý do tài chính.
Theo số liệu về doanh thu của các doanh nghiệp hoạt động trên thị trường Việt
Nam, 20 nhóm ngành có mức độ TTKT cao nhất đều có CR3 (tức tổng thị phần của 3
doanh nghiệp lớn nhất) trên 50%. Một số nhóm ngành đáng chú ý trong số đó là:
ngành xử lý ơ nhiễm và quản lý chất thải đặc biệt (100%), khai thác dầu thô và khí tự
nhiên (99,97%), viễn thơng (85.96%), vận tải hàng khơng (76,25%), sản xuất sản

phẩm thuốc lá (57,74%). 1 Có thể thấy chỉ số này đã phản ánh khá rõ thực trạng các
ngành công nghiệp của nước ta và cũng thể hiện được đặc điểm của một nước có nền
kinh tế chuyển đổi.
Theo Pricewaterhuose Coopers, hãng cung cấp dịch vụ tư vấn mua bán, sáp
nhập doanh nghiệp hàng đầu thế giới, số vụ M&A ở Việt Nam có tốc độ tăng nhanh
nhất trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Trong năm 2007, hoạt động TTKT đã
gia tăng mạnh mẽ cùng với sự phát triển liên tục và cải tiến mạnh mẽ về khuôn khổ
pháp lý đã hấp dẫn các nhà đầu tư vào Việt Nam, nhu cầu tái cơ cấu của nội tại các
doanh nghiệp, sự gia tăng nhanh của thị trường chứng khoán. Tổng giá trị của 113 vụ
được công bố trong năm đã đạt giá trị kỷ lục là 1,753 tỷ USD, so với con số chỉ 38 vụ
với giá trị 299 triệu USD được đưa tin trong năm 2006 và tăng gấp nhiều lần so với
năm 2005 (18 vụ với giá trị giao dịch là 61 triệu USD). Trên 3/4 tổng giá trị giao dịch
(Khoảng 1,350 tỷ USD) thuộc lĩnh vực dịch vụ tài chính. Tuy nhiên, đến nửa đầu
năm 2008, cả số lượng và giá trị các giao dịch được công bố đều giảm. Sở dĩ có hiện
tượng này là do: Thứ nhất, giai đoạn đầu năm thường là thời gian các giao dịch mua
bán và sáp nhập tương đối trầm lắng (tỷ lệ giá trị giao dịch của nửa đầu năm 2007 chỉ
chiếm 36% giá trị trong năm đó, năm 2006 thậm chí chỉ chiếm 18%); thứ hai, một số
diễn biến không thuận lợi của nền kinh tế làm cho nhiều giao dịch bị tạm dừng hoặc

Trang 41, Báo cáo tậo trung kinh tế tại Việt Nam: Hiện trạng và dự báo, Bộ Công thương, Cục Quản lý cạnh tranh,
năm 2009.
1

8


khơng cơng bố rộng rãi.2 Năm 2010, Việt Nam có 345 vụ (gấp 9 lần so với năm
2006) với tổng giá trị gần 1,8 tỷ USD (gấp 17 lần năm 2006). 3
Bên cạnh những lợi ích từ M&A như hợp lý hóa tổ chức sản xuất, kinh doanh
nhờ lợi thế kinh tế theo quy mơ và phạm vi, nhanh chóng tiếp cận thị trường mới,

nâng cao hiệu quả đầu tư cho sáng tạo,… con đường tăng trưởng ngoại sinh này của
doanh nghiệp có thể tiềm ẩn những vấn đề về cạnh tranh như sự hình thành nên các
doanh nghiệp có sức mạnh chi phối thị trường, triệt tiêu đối thủ cạnh tranh hoặc khả
năng hình thành nên các thỏa thuận gây hạn chế cạnh tranh do hiệu ứng phối hợp khi
số lượng “người chơi” trên thị trường giảm bớt.
Một số vấn đề phát sinh liên quan tới thể chế giám sát, kiểm soát TTKT tại
Việt Nam:
- Xuất phát từ đặc điểm quy mô doanh nghiệp tuyệt đại đa số là nhỏ bé, các vụ
giao dịch quy mô nhỏ và vừa vẫn chiếm đại đa số thì các vụ TTKT chịu sự điều chỉnh
của pháp luật cạnh tranh chưa nhiều. Tuy nhiên, trong thời gian tới, thực tế này có thể
thay đổi do tình hình kinh tế có nhiều biến động.
- Đa số các vụ TTKT có quy mơ đáng kể đều do các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngồi thực hiện4, do vậy khó tránh khỏi xu hướng TTKT chỉ tập trung vào
một vài lĩnh vực nào đó và nhằm cho phép một số ít cơng ty chi phối thị trường, tác
động tới môi trường cạnh tranh và hạn chế sự phét triển trong một số ngành, lĩnh vực
bị chi phối đó. Để kiểm sốt xu hướng này trong tương lai với cách tiếp cận là phát
hiện và có biện pháp ngăn ngừa các hành vi lạm dụng sức mạnh thị trường của những
doanh nghiệp có khả năng chi phối thị trường sau khi thực hiện TTKT. Việc xử lý và
điều tiết các giao dịch TTKT thuộc đối tượng phải kiểm soát sẽ được xem xét trên cơ
sở đánh giá tác động tổng thể của TTKT đối với lợi ích của xã hội và có sự phân tích
cân bằng giữa những tác động tích cực và tiêu cực. Thể chế giám sát hiện nay chưa
thể hiện được những vấn đề sẽ phát sinh trên thực tiễn như đã nêu.
- Thực tế cho thấy mặc dù số lượng các giao dịch M&A là rất lớn và cũng có
khả năng nhiều giao dịch có quy mơ lớn nhưng số lượng các giao dịch có thơng báo
đến Cục Quản lý cạnh tranh theo quy định của Luật cạnh tranh còn khá khiêm tốn.
Một phần vì quy mơ các doanh nghiệp hiện nay còn nhỏ nên mức độ kết hợp thị phần
còn nhỏ (dưới 30%). Nhưng điểm quan trọng là việc xác định thị phần kết hợp trên
thị trường liên quan là một vấn đề kỹ thuật khó, gây lúng túng cho các doanh nghiệp.
- Cần thống nhất một khái niệm và cách hiểu đúng về "kiểm soát tập trung kinh
tế", đây là khái niệm được đưa ra dưới góc độ của pháp luật cạnh tranh và là một

chức năng của Cục Quản lý cạnh tranh. Vì vậy, kiểm sốt TTKT khơng có nghĩa là
kiểm soát tất cả các hoạt động mua lại và sáp nhập trên thị trường mà chỉ kiểm soát
Trang 49 Báo cáo tậo trung kinh tế tại Việt Nam: Hiện trạng và dự báo, Bộ Công thương, Cục Quản lý cạnh tranh,
năm 2009.
3
/>4
Xem Bảng 1 Phụ lục.
2

9


những hoạt động thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật cạnh tranh, những giao dịch
mà có khả năng hình thành vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền dẫn tới nguy cơ lạm
dụng vị trí này và gay tổn hại tới mơi trường cạnh tranh. Do đó, việc xây dựng cơ sở
dữ liệu về bức tranh tổng quát mua lại và sáp nhập trên thị trường cũng hết sức quan
trọng để phục vụ cho việc phát hiện và giám sát các hoạt động TTKT thuộc đối tượng
kiểm sóat được thuận lợi và có tính khả thi cao.
2. Một số kiến nghị.
• Về xác định thị trường liên quan.
Xác định thị trường liên quan là nhiệm vụ đầu tiên và quan trọng nhất đối với
các cơ quan quản lý cạnh tranh trong việc kiểm soát TTKT. Tất cả các đánh giá về
TTKT và tác động của nó đến cạnh tranh đều phải dựa vào việc xác định thị trường
liên quan.
Pháp luật cạnh tranh Việt Nam cũng đưa ra các tiêu chí để xác định thị trường
liên quan bao gồm thị trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý liên quan. Tuy
nhiên, hiện nay việc xác định thị trường liên quan là một cơng việc rất khó khăn đối
với các cơ quan quản lý cạnh tranh. Quan tham khảo kinh nghiệm của các nước, các
nhà làm luật và cơ quan có trách nhiệm thực thi pháp luật cần lưu ý đến một vài vấn
đề sau:

Thứ nhất, không chỉ nhận dạng thị trường qua việc xác định trường liên quan
về không gian và đối tượng mà còn phải cân nhắc về thời điểm xác định thị trường
liên quan vì cơ sở thực tế của việc áp dụng pháp luật về chống hạn chế cạnh tranh là
nhận dạng hình thái của thị trường... Để nhận dạng được thị trường dưới tác động của
các hành vi hạn chế cạnh tranh cần phải xác định được thị trường thông qua 3 dấu
hiệu: đối tượng của thị trường, giới hạn không gian của thị trường và giới hạn thời
gian của thị trường. Phạm vi của thị trường liên quan và thị phần của từng doanh
nghiệp trên thị trường luôn biến đổi không ngừng, do vậy tại thời điểm hành vi TTKT
được thực hiện thì phạm vi thị trường liên quan có thể mở rộng hoặc hẹp hơn với thời
điểm tiến hành điều tra sau đó. Nên xem xét thị trường tại thời điểm các bên thực
hiện hành vi TTKT, nó sẽ tính tốn được chính xác thị phần kết hợp của các doanh
nghiệp tham gia TTKT; từ đó đảm bảo kiểm sốt được các hành vi TTKT mà vẫn
không can thiệp thái quá vào quyền tự do liên kết kinh doanh của các doanh nghiệp
bằng các lệnh cấm thực hiện TTKT không công bằng và ảnh hưởng đến kế hoạch
phát triển kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ hai, cơ quan quản lý nhà nước về cạnh tranh phải tham khảo nhiều phương
pháp khác nhau khi xác định thị trường liên quan và những phương pháp đó cần được
quy định chi tiết trong pháp luật cạnh tranh, và đóng vai trị là cơ sở pháp lý định
hướng cho cơng việc điều tra q trình TTKT của cơ quan quản lý nhà nước về cạnh
tranh.
10


• Bổ sung thêm tiêu chí vốn để kiểm sốt TTKT theo hình thức liên doanh.
Luật cạnh tranh Việt Nam mới chỉ chú ý đến liên kết theo chiều ngang vì chỉ
quan tâm đến thị phần của doanh nghiệp song chắc chắn khơng có cơ sở để ngăn
ngừa, cấm đốn việc liên doanh giữa các doanh nghiệp, vì liên doanh hình thành một
doanh nghiệp mới nên hồn tồn chưa có thị phần. Mặc khác, việc xác định thị phần
của các vụ TTKT theo chiều dọc hoặc hỗn hợp cũng rất khó xác định, ngay cả Pháp
cũng đã bỏ tiêu chí thị phần và thay vào đó bằng tiêu chí doanh thu để tính ngưỡng

kiểm sốt hành vi TTKT.
• Cần quy định cụ thể hơn trường hợp miền trừ theo quy định tại Khoản 2 Điều
19 Luật canh tranh 2004.
Khoản 2 Điều 9 Luật cạnh tranh quy định cho phép miễn trừ đối với các vụ
TTKT có tác dụng mở rộng xuất khẩu hoặc góp phần phát triển kinh tế - xã hội, tiến
bộ kĩ thuật, công nghệ. Quy định này sẽ dẫn đến cách hiểu không thống nhất bởi việc
đánh giá dự án TTKT có góp phần phát triển kinh tế - xã hội, tiến bộ kĩ thuật, công
nghệ hay khơng lại dựa trên sự suy đốn. Do vậy, nếu khơng có những tiêu chí cụ thể
xác định TTKT như thế nào là sẽ góp phần phát triển kinh tế - xã hội thì việc đánh
giá tiêu chí đó sẽ phụ thuộc nhiều vào ý chí chủ quan của cơ quan thực thi Luật cạnh
tranh và doanh nghiệp.
• Pháp luật về kiểm sốt TTKT cần được hồn thiện và vận hành theo những
nguyên tắc sau: Thứ nhất, pháp luật cần có những chuẩn mực hợp lý để phân tách
những trường hợp TTKT gây tổn hại thực sự cho thị trường cạnh tranh và nhưngc
trường hợp có tác dụng tích cực cho nền kinh tế; thứ hai, các thủ tục cần được thực
hiện khơng bị lạm dụng để gây khó khăn cho doanh nghiệp, không được cản trở các
chiến lược, kế hoạch kinh doanh hợp pháp của doanh nghiệp.
• Cần thống nhất và làm rõ các khái niệm về những hành vi TTKT, đặc biệt là
quan niệm về hành vi mua lại doanh nghiệp giữa các lĩnh vực pháp luật có liên quan.
Những quan niệm không đầy đủ trong pháp luật đầu tư, doanh nghiệp…cần được sửa
đổi cho phù hợp với nội dung tương ứng trong Luật cạnh tranh. Ngoài ra, khả năng
mở rộng khái niệm về TTKT cũng cần được nghiên cứu đối với những trường hợp
liên kết thông qua việc quản lý mà không là sở hữu vốn hay tổ chức lại. Chẳng hạn,
trong pháp luật đầu tư chỉ có một quy định đề cập đến vấn đề kiểm sốt TTKT dưới
gó độ của Luật Cạnh tranh: “khi sáp nhập, mua lại công ty, chi nhánh tại Việt Nam
phải tuân thủ các quy định của Luật Doanh nghiệp về điều kiện TTKT và pháp luật về
cạnh trạnh” (Khoản 2 Điều 10 Nghị định 108/2006/NĐ-CP). Quy định này cho thấy,
pháp luật đầu tư chưa có được những đánh giá chính xác về ảnh hưởng của các hình
thức đầu tư đến thị trường cạnh tranh. Với quy định như trên, dường như pháp luật
đầu tư chỉ coi hiện tượng sáp nhập, mua lại công ty, chi nhánh tại Việt Nam là những

hiện tượng có liên quan đến TTKT. Trong khi đó, phần lớn các hình thức đầu tư được
11


ghi nhận đều có thể sử dụng như biện pháp TTKT như liên doanh thành lập doanh
nghiệp giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi với doanh nghiệp có vốn trong
nước, giữa các doanh nghiệp trong nước với nhau và các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngồi với nhau, hình thức mua cổ phần, mua vốn góp để quản lý doanh
nghiệp…
• Để việc kiểm sốt TTKT được chủ động và hiệu quả, cơ quan quản lý cạnh
tran nên có những nghiên cứu và dự đốn trước những thị trường, những lĩnh vực
kinh tế có nguy cơ xảy ra hiện tượng TTKT, thậm chí những doanh nghiệp có khả
năng thực hiện hành vi thâu tóm thị trường bằng hình thức TTKT.
KẾT LUẬN
TTKT hiện nay là vấn đề khá phổ biến ở tất cả các quốc gia trên thế giới và ở
cả Việt Nam nhằm tăng cường tiềm lực kinh tế, tạo ra các doanh nghiệp mới có quy
mơ lớn hơn trước. Vì vậy TTKT có thể hình thành doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh
hoặc vị trí độc quyền. Khi ở vào vị trí này, doanh nghiệp có xu hướng lạm dụng vị trí
của mình thực hiện các hành vi gây ảnh hưởng xấu cho thị trường, cho doanh nghiệp
và cho người tiêu dung. Do đó, các hành vi TTKT cần phải được pháp luật kiểm soát.

PHỤ LỤC

12


Bảng 1. Một số giao dịch M&A điển hình 9 tháng đầu năm 2011

STT
1


Thời
điểm
7/6/2011

Bên mua

Bên bán

C.P Pokphand
(Trung Quốc)

C.P Viet Nam

2

26/4/2011

VimpelCom
(Nga)

GTEL - Mobile

3

25/8/2011

Unicharm
(Nhật Bản)


Diana Viet Nam

4

12/7/2011

CJ CGV
(Hàn Quốc)

Megastar Media

5

10/8/2011

6

18/2/2011

Fortis HealthCare
(Ấn Độ)
Marico
(Ấn Độ)

7

20/4/2011

8


29/7/2011

9

11/3/2011

Hoan My Medical
Group
International
Consumer Products
Corporation (ICP)
Tate & Lyte Nghe
An
Vietnam Postal
Savings Service
Company
Victoria Hotels &
Resorts

10

26/8/2011

TH Milk
(Việt Nam)
Lien Viet Bank
(Việt Nam)
Thien Minh
Tourist JSC
(Việt Nam)

Jollibee Foods
Corp (Philippine)

Viet Thai
International

Tỷ lệ sở
Ngành
hữu/Giá trị
giao dịch
Hàng tiêu dùng
70,8%
(609 triệu
USD)
Viễn thơng
49%
(196 triệu
USD)
Hàng tiêu dùng
95%
(128 triệu
USD)
Giải trí
73,8%
(73,6 triệu
USD)
Y tế
65%
(64 triệu USD)
Hàng tiêu dùng

85%
(60 triệu USD)
Mía đường
Tài chính

Du lịch &
khách sạn

100%
(45 triệu USD)

Nhà hàng

49%
(25 triệu USD)

Nguồn: Cơng ty truyền thơng tài chính Stoxplus.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật cạnh tranh 2004;
2. Luật doanh nghiệp 2005;
13

100%
(52 triệu USD)
100%
(50 triệu USD)


3. Trường đại học Luật Hà Nội, Tập bài giảng Luật Cạnh tranh , Hà Nội, 2011;

4. Trường Đại học Ngoại thương, Giáo trình Luật Cạnh tranh, NXB Giáo dục
Việt Nam;
5. Nguyễn Thị Phương Mai, Pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế, Khoá luận
tốt nghiệp, 2006;
6. Trần Thị Bảo Ánh, Một số vấn đề pháp lý về tập trung kinh tế theo luật cạnh
tranh Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học,2006;
7. Stoxplus, Báo cáo các Thương vụ mua bán doanh nghiệp Việt Nam năm 2011,
tầm ngắm của nhiều Tập đoàn Nhật Bản, Ấn bản 1, tháng 9 năm 2011;
8. Cục Quản lý cạnh tranh - Bộ Công Thương, Báo cáo tập trung kinh tế tại
Việt Nam - Hiện trạng và dự báo, 2009;
9. .

14



×