Tải bản đầy đủ (.docx) (68 trang)

QUYỀN CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ TÂY NINH, TỈNH TÂY NINH.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (389.21 KB, 68 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HẰNG

QUYỀN CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TỪ
THỰC TIỄN THÀNH PHỐ TÂY NINH, TỈNH TÂY NINH

LUẬN VĂN THẠC SỸ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI - 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HẰNG

QUYỀN CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TỪ
THỰC TIỄN THÀNH PHỐ TÂY NINH, TỈNH TÂY NINH

Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. ĐINH THỊ MAI


LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tác giả. Các số liệu


ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học, kiến nghị và đề xuất của luận văn này
chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác./.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

NGUYỄN THỊ HẰNG


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................................1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ LẬP PHÁP VỀ QUYỀN CỦA
NGƯỜI BÀO CHỮA...............................................................................................................5

1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa về quyền của người bào chữa........................... 5
1.2. Cơ sở quy định về người bào chữa và quyền của người bào chữa trong tố tụng hình sự
14

1.3. Lịch sử lập pháp về quyền của người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam

19

1.4. Kinh nghiệm lập pháp về quyền của người bào chữa trong tố tụng hình sự của một số
nước............................................................................................................................21
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN
HÀNH VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI
THÀNH PHỐ TÂY NINH, TỈNH TÂY NINH.................................................................28

2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về quyền của người bào
chữa 28

2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật để thực hiện quyền bào chữa trong giai đoạn xét xử vụ án

hình sự ở thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh........................................................... 45
Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỤC HIỆN
QUYỀN CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TẠI THÀNH PHỐ TÂY NINH, TỈNH TÂY NINH 60

3.1. Yêu cầu nâng cao hiệu quả thực hiện quyền của người bào chữa tại thành phố Tây
Ninh 60

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện một số quyền của người bào chữa tại thành phố
Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh............................................................................................ 64
KẾT LUẬN.............................................................................................................................77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................79


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự

CQTHTT

: Cơ quan tiến hành tố tụng

HĐXX

: Hội đồng xét xử


NBC

: Người bào chữa

TA

: Tòa án

TAND

: Tòa án nhân dân

THTT

: Tiến hành tố tụng

TNHS

: Trách nhiệm hình sự

TTHS

: Tố tụng hình sự

VAHS

: Vụ án hình sự

VKS


: Viện kiểm sát

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhà nước Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN, hiện nay Nhà nước Việt Nam đang
xây dựng hệ thống pháp luật để ngày càng hoàn thiện và phù hợp với luật pháp quốc tế nhằm bảo
vệ các quyền con người và làm căn cứ điều chỉnh các quan hệ xã hội. Điều 14 của Hiến pháp
năm 2013 có quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người,
quyền cơng dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được cơng nhận, tơn trọng, bảo vệ,
bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Việc bảo vệ quyền con người muốn được thực hiện nhất
quán đòi hỏi phải được pháp luật quy định trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội, đặc biệt trong lĩnh
vực mà quyền con người có nguy cơ bị xâm phạm nhiều nhất là trong TTHS. Tại Điều 103 của
Hiến pháp năm 2013 còn ghi nhận: “Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích
hợp pháp của đương sự được bảo đảm”.
Điều 16 BLTTHS 2015 có ghi nhận: “Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật
sư hoặc người khác bào chữa; Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm
thơng báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ quyền
bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật này”. Nội dung của quy
định này nhằm bảo vệ đầy đủ các quyền và các lợi ích hợp pháp của bị cáo trong TTHS và đảm
bảo ngun tắc: “Khơng ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tịa án”. Đây cũng là
nội dung liên quan đến chủ trương và chiến lược của Đảng ta thể hiện trong Nghị quyết số:

49/NQ-TW ngày 02/6/2005, Nghị quyết số: 08/NQ-TW ngày 02/01/20012 của Bộ Chính trị về
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; với việc thực hiện các chủ trương và triển khai các
nhiệm vụ cải cách tư pháp mà một trong các nhiệm vụ trọng tâm của cải cách tư pháp đến năm
2020 được xác định là phải đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, nâng cao chất lượng tranh tụng
tại các phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn và trách nhiệm của người THTT, người
tham gia tố tụng theo hướng đảm bảo tính dân chủ, cơng khai, nghiêm minh, coi đây là khâu
đột phá của hoạt động tư pháp.
Pháp luật TTHS đã có các quy định khá chặt chẽ về quyền bào chữa củangười bị buộc tội,
nhưng trên thực tế trong thời gian qua trên địa bàn tỉnh Tây Ninh nói chung và địa bàn thành phố
Tây Ninh nói riêng, việc thực hiện quyền bào chữa chưa được CQTHTT thật sự tôn trọng và bảo
đảm thực hiện, cịn nhiều khó khăn, hạn chế; đặc biệt là trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự, giai đoạn mà quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo có nguy cơ bị xâm hại nhiều nhất.
Nhằm giảm bớt và dần loại trừ những bất cập, khó khăn, vướng mắc nói trên để từng bước thực
hiện tốt quyền bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm VAHS dựa trên tinh thần cải cách tư
pháp, việc hoàn thiện các quy định trong TTHS sẽ góp phần vào việc bảo đảm dân chủ trong
hoạt động xét xử của Tòa án, bảo đảm quyền con người trong hoạt động tư pháp, tạo cơ hội cho
bị cáo có thể tiếp cận với cơng lý. Vì vậy, tác giả quyết định chọn đề tài: “Quyền của người bào

6


chữa từ thực tiễn tại thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh” làm Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ luật
học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở nước ta đã có nhiều cơng trình nghiên cứu liên quan đến quyền bào chữa, chức năng
bào chữa như: Luận án tiến sĩ luật học: “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, so sánh
giữa luật tố tụng hình sự Việt Nam, Đức và Mỹ” của Lương Thị Mỹ Quỳnh; luận văn thạc sĩ:
“Các chức năng tố tụng cơ bản trong tố tụng hình sự” của Lê Tiến Châu; Luận văn thạc sĩ “Vai
trò của luật sư bào chữa trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự” của Nguyễn Cảnh Tuyến; Luận
văn thạc sỹ: “Quyền của người bào chữa” của tác giả Nguyễn Thành Công, luận văn thạc sĩ:

“Người bào chữa trong tố tụng hình sự” của Trần Văn Bảy và một số bài viết: “Người bào chữa
trong vụ án hình sự” của Nguyễn Mai Bộ, bài viết: Quyền bào chữa của người bị buộc tội theo
BLTTHS 2015 của thạc sĩ, NCS Tôn Thiện Phương, bài viết: “Các chức năng buộc tội, bào chữa,
xét xử trong tố tụng hình sự” của Hoàng Thị Sơn …
Nội dung của các đề tài, bài viết đã đi sâu phân tích, nghiên cứu các quy định của pháp
luật về nhiều khía cạnh của quyền của người bào chữa, chức năngbào chữa trong pháp luật
TTHS nhưng lại mang tính khái qt, giàn trải tồn bộ các giai đoạn của quá trình tố tụng hoặc
chỉ là một giai đoạn như giai đoạn điều tra, riêng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án, đặc biệt là
từ thực tiễn tại thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh thì chưa có cơng trình nghiên cứu nào.
Trong thực tế, những cơng trình khoa học nghiên cứu nêu trên phần nào đã là nguồn tài
liệu tham khảo để tác giả tham khảo và kế thừa có chọn lọc trong quá trình nghiên cứu cũng như
việc đánh giá số liệu thực tế để hồn thành luận văn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Từ việc nghiên cứu những vấn đề mang tính khái quát, nhận thức chung về quyền bào
chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây
Ninh; phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật về quyền bào chữa trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự quy định trong pháp luật TTHS Việt Nam và tìm hiểu thực tiễn áp dụng, để
tìm ra những vấn đề vướng mắc, bất cập những quy định chưa phù hợp. Để trên cơ sở đó, đề ra
những giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật cho việc áp dụng những quy định pháp luật về
bảo đảm quyền bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm VAHS có hiệu quả trên thực tế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quyền của người bào chữa và những đảm bảo về
quyền của người bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm VAHS.
Phạm vi nghiên cứu đề tài: đề tài chỉ tập trung về quyền của người bào chữa trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm VAHS mà không tập trung đến quyền của người bào chữa ở các giai đoạn
khác trong TTHS. Cơ sở thực tiễn của đề tài được đánh giá tại thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây
Ninh, giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2019.

7



5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng; chính sách,
pháp luật, chủ trương cải cách tư pháp của Nhànước và đặc biệt là quyền con người luôn được
pháp luật bảo vệ.
Để thu thập và xử lý thông tin, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
phân tích, tổng hợp, so sánh. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn cũng được sử dụng như:
phương pháp thống kê, phương pháp nghiên cứu vụ án điển hình nhằm góp phần làm rõ những
vấn đề nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Đây là cơng trình nghiên cứu về quyền của người bào chữa từ thực tiễn tại địa bàn thành
phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh. Luận văn góp phần vào việc hoàn thiện hơn về lý luận trong việc
thực hiện quyền của người bào chữa và những bảo đảm về quyền của người bào chữa trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, từ đó làm căn cứ để đề xuất bổ sung về quyền của người bào
chữa nhằm mục đích bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo có giá trị đối với
người thực hiện quyền bào chữa trong TTHS nói chung và người thực hiện quyền bào chữa trên
địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, danh mục từ viết
tắt, phần nội dung luận văn được cấu trúc thành ba chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và lịch sử lập pháp về quyền của người bào chữa.
Chương 2: Thực trạng quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về
quyền của người bào chữa và thực tiễn thực hiện tại thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh.
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quyền của người bào chữa
tại thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh.

8



Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ LẬP PHÁP VỀ
QUYỀN CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa về quyền của người bào chữa
1.1.1. Khái niệm người bào chữa và quyền của người bào chữa

1.1.1.1. Khái niệm người bào chữa
Trong một nền tư pháp dân chủ, khi mà các giá trị quyền con người được tơn vinh và là
đích đến của tồn bộ hệ thống tư pháp thì hoạt động bào chữa với sứ mệnh là bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người bị buộc tội, bảo vệ công lý, công bằng xã hội được xem là một đại lượng
để đánh giá uy tín và chất lượng của nền tư pháp đó. Hoạt động bào chữa là toàn bộ những hành
vi tố tụng được pháp luật TTHS quy định do người bị buộc tội và NBC thực hiện, xác định sự vô
tội của người bị buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho họ, bảo đảm quyền và lợi ích
hợp pháp của người bị buộc tội và góp phần xác định sự thật vụ án.
Xét về mặt lý luận và thực tiễn thì sự tham gia của NBC trong hoạt động TTHS là thật
sự cần thiết vì sẽ giúp CQTHTT dễ dàng làm rõ sự thật của vụ án, đảm bảo khách quan và
tránh oan sai. Người bị buộc tội ln ở trong tình trạng bị động về các thủ tục tố tụng, tâm lý
hoang mang, lo sợ về số phận pháp lý của mình. Họ thường là người bị hạn chế về kiến thức
pháp luật, thiếu kinh nghiệm trong các hoạt động tố tụng. Bên buộc tội gồm các CQTHTT và
NTHTT là những chủ thể đặc biệt, được Pháp luật trao quyền rất lớn để tiến hành các hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử theo quy định. Bản thân các chủ thể này được đào tạo bài bản, có kiến
thức pháp luật vững chắc,

có chun mơn, kinh nghiệm trong xử lý tội phạm. Đa số những

người bị buộc tội ít có kiến thức về pháp luật và bị áp dụng một trong những biện pháp ngăn
chặn nhất định, bị hạn chế một số quyền, … nên tâm lý của họ ln hoang mang, lo sợ. Vì thế
sự hiện diện của NBC để giúp cho người bị buộc

tội là một đòi hỏi tất yếu khách quan, tạo


thế cân bằng trong TTHS.
NBC hay bào chữa viên là thuật ngữ chỉ về những người có kiến thứcpháp luật và kinh nghiệm hoạt
động tố tụng thay mặt người bị buộc tội tham gia tố tụng trong vụ án hình sự để biện hộ, bảo vệ cho
thân chủ của mình để chống lại sự buộc tội, truy tố hoặc tố cáo, giúp làm giảm trách nhiệm hình sự
cho thân chủ của họ đồng thời cũng có thể giúp cơ quan có chức năng làm sáng tỏ các tình tiết vụ
án, họ có quyền tranh tụng với các chủ thể khác trong quá trình xử lý vụ án hình sự. Theo quy định
của pháp luật, NBC có thể là luật sư, người đại diện của người bị buộc tội, bào chữa viên nhân dân,
trợ giúp viên pháp lý.
Hiện nay có rất nhiều khái niệm khác nhau về người bào chữa.
Các nhà khoa học của Trường Đại học Luật Hà Nội thì quan niệm “Người bào chữa là
người tham gia tố tụng với trách nhiệm bảo vệ lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, họ được phép


sử dụng mọi phương tiện do luật định để bào chữa cho bị can, bị cáo về mặt pháp lý để đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của họ”.
Theo ý kiến của GS.TS. Võ Khánh Vinh thì “Người bào chữa là người tham gia tố tụng
với mục đích làm sáng tỏ những tình tiết của vụ án nhằm chứng minh sự vơ tội hoặc giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự của người bị tạm giam, bị can, bị cáo và giúp bị can, bị cáo về mặt pháp lý
cần thiết”.
Giải thích về thuật ngữ pháp lý của tác giả Nguyễn Mạnh Hùng “Người bào chữa là người
được bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo mời hoặc do Viện kiểm sát,
Toà án chỉ định để bào chữa và có những giúp đỡ cần thiết cho bị can, bị cáo về mặt pháp lý”.
Các nhà khoa học của Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh thì khái niệm người
bào chữa theo Quy định của BLTTHS năm 2015 “Người bào chữa là người được người bị buộc
tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người
có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa”.
Từ các quan điểm về NBC của các nhà khoa học, tác giả nhận thấy có điểm chung đó là
NBC chỉ là người tham gia TTHS. Thuật ngữ “tham gia” nói lên tính chất, vai trị của NBC, họ
tham gia dù dưới hình thức nào (được mời hay được cử) thì vẫn nhằm mục đích chứng minh sự

vơ tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội và giúp người bị buộc tội
về mặt pháp lýnhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ đồng thời góp phần bảo vệ pháp
chế XHCN. NBC chỉ thực hiện nghĩa vụ của mình trong hoạt động tố tụng, họ khơng có quyền
và lợi ích liên quan trong vụ án.
BLTTHS năm 2015 quy định những người tham gia tố tụng với tư cách là NBC bao gồm:
Luật sư; Người đại diện của người bị buộc tội; Bào chữa viên nhân dân; Trợ giúp viên pháp lý
trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng trợ giúp pháp lý.
Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật luật sư.
Quy định này nhằm bảo đảm tính chun nghiệp của luật sư, phịng ngừa tình trạng những người
khơng có đủ tiêu chuẩn, điều kiện vẫn tham gia tố tụng như luật sư, góp phần tăng cường quản lý
về hành nghề luật sư.
Người đại diện của người bị buộc tội là một khái niệm tương đối mới chưa được đề cập
nhiều trong khoa học pháp lý. Tuy nhiên, nếu xét ở góc độ dân sự thì người đại diện là người từ
đủ 18 tuổi trở lên, có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự và có đủ điều kiện làm
người đại diện theo quy định tại các Điều 134, 135 và 136 Bộ luật Dân sự năm 2015. Khác với
luật sư, người đại diện chủ động thực hiện chức năng bào chữa mà khơng cần có đề nghị hoặc
u cầu từ người bị buộc tội hoặc họ cũng có thể chủ động lựa chọn NBC.
Bào chữa viên nhân dân: là NBC được Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức
thành viên của mặt trận tổ quốc cử ra để bào chữa cho người bị buộc tội là thành viên của tổ chức
này. Nghị quyết số 03/NQ – HĐTP ngày 02/10/2004 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng


dẫn một người được coi là bào chữa viên nhân dân khi người đó được Ủy ban Mặt trận tổ quốc
Việt Nam, tổ chức thành viên của Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam cử ra bào chữa cho thành
viên của tổ chức mình. Mặc dù BLTTHS thừa nhận về hoạt động bào chữa của NBC là bào chữa
viên nhân dân nhưng trong thực tế hầu như bào chữa viên nhân dân không tham gia tố tụng để thực
hiện quyền bào chữa cho người bị buộc tội. Kiến thức về pháp luật TTHS và kinh nghiệm của bào
chữa viên nhân dân cịn hạn chế nên chưa có hiệu quả trong việc bào chữa, từ đó nhận thức về
NBC ln là luật sư.
Trợ giúp viên pháp lý: là một trong những chủ thể tham gia tố tụng hình sự bắt đầu ngay

từ giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm đến khi kết thúc việc xét xử với tư cách là người
bào chữa; Người bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi
tố, bị hại, đương sự. Hoạt động của trợ giúp viên pháp lý trong TTHS mang tính đặc thù bởi đây
là chủ thể đại diện để thực thi trách nhiệm cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí của Nhà nước đối
với nhóm đối tượng yếu thế trong xã hội.
Từ những nhận định, phân tích về NBC cũng như quy định NBC theo BLTTHS năm
2015, tác giả có thể đưa ra khái niệm NBC trong TTHS như sau:
Người bào chữa trong tố tụng hình sự là luật sư, người đại diện của người bị buộc tội,
bào chữa viên nhân dân, hoặc trợ giúp viên pháp lý được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc
do cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định tham gia tố tụng để chứng minh sự vô tội
hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội và giúp đỡ người bị buộc tội về
mặt pháp lý nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của họ..

1.1.1.2. Khái niệm quyền của người bào chữa
Theo từ điển Tiếng Việt, “quyền” là điều mà pháp luật hoặc xã hội cơng nhận, cho được
hưởng, được làm, được địi hỏi. Theo giải thích này có thể hiểu, “quyền” là khả năng thực hiện ý
chí của cá nhân được pháp luật, xã hội hoặc lẽ phải chấp nhận. Mở rộng hơn, “quyền lợi” là điều
mà pháp luật và xã hội cho phép hưởng thụ, vận dụng, thi hành, có thể địi hỏi nếu thiếu hoặc bị
tước đoạt.
Theo Từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý thì “Quyền là khái niệm khoa học pháp
lý dùng để chỉ những điều mà pháp luật công nhận và đảm bảo thực hiện đối với cá nhân, tổ chức
để theo đó cá nhân được hưởng, được làm, được địi hỏi mà khơng ai được ngăn cản, hạn chế.
Dấu hiệu đặc trưng nhất của quyền là phải có sự ghi nhận về mặt pháp lý và được bảo đảm thực
hiện bởi các quy định của pháp luật; thứ hai là phải có sự thừa nhận về mặt xã hội, gắn liền với
chủ thể, cá nhân, được thể hiện cụ thể trong thực tế đời sống thông qua các quan hệ xã hội cụ thể
của cá nhân trong một cộng đồng nhất định. Theo đó, quyền của cá nhân được phát sinh tăng hay
giảm tuỳ theo từng thời điểm của quá trìnhtồn tại và phát triển của xã hội …”. Dựa trên khái
niệm về quyền trong khoa học pháp lý thì quyền bào chữa là một trong những chế định quan trọng,
vừa mang tính lý luận, vừa mang tính thực tiễn cao. Trong TTHS quyền bào chữa thuộc về người



bị buộc tội, pháp luật cho phép họ sử dụng các biện pháp hợp pháp để tự bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của họ. Quyền bào chữa của người bị buộc tội được thực hiện dưới hai hình thức “tự bào
chữa” và “nhờ người khác bào chữa”. Trên thực tế, hầu hết người bị buộc tội đều bị sức ép tâm lý
từ phía bị hại và gia đình của bị hại, từ dư luận xã hội, từ NTHTT. Họ ln trong trạng thái bất an,
ít hiểu biết về pháp luật đồng thời khi bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng thì người bị
buộc tội khó có thể tự mình thực hiện quyền bào chữa. Do đó, việc người bị buộc tội nhờ người có
kiến thức pháp lý, có thể thay mặt mình tham gia vào q trình tranh tụng nhằm bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình là nhu cầu thiết yếu. Với sự am hiểu pháp luật, NBC góp phần đưa ra
những lý lẽ và chứng cứ mang tính phản biện nội dung buộc tội, giúp các CQTHTT phát hiện ra
những sai lầm, thiếu sót (nếu có), kịp thời khắc phục trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Tuy
nhiên cần khẳng định rằng nhiệm vụ chính của NBC là gỡ tội, là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người bị buộc tội, nhưng nhiệm vụ của NBC đối với người bị buộc tội là nhiệm vụ có giới hạn,
có điều kiện đó là phải tuân thủ theo pháp chế XHCN. Điều này có nghĩa NBC tham gia tố tụng
tương đối độc lập với ý muốn chủ quan của người bị buộc tội; NBC chỉ căn cứ vào các quy định
của pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, NBC khơng có nghĩa vụ
phải bào chữa theo yêu cầu của người bị buộc tội nếu những u cầu đó khơng có căn cứ, trái
pháp luật.
Để NBC có thể thực hiện tốt nhiệm vụ của mình trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người bị buộc tội và bảo vệ pháp chế XHCN, pháp luật TTHS đã quy định cho NBC có
quyền pháp lý nhất định. Các quyền này được thực hiện phụ thuộc vào ý chí của NBC, khơng bắt
buộc và được đảm bảo thực hiện mà không bị ngăn cản hay hạn chế bởi các chủ thể khác trong
q trình tố tụng.
Dựa vào những phân tích trên, tác giả có thể đưa ra khái niệm quyền của NBC như sau:
Quyền của NBC là những quyền mà pháp luật quy định và đảm bảo thực hiện đối với NBC, theo
đó NBC được hưởng, được làm và được thực hiện các quyền đó trong hoạt động gỡ tội, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội và bảo vệ pháp chế XNCN.
1.1.2. Đặc điểm quyền của người bào chữa
Trong TTHS chức năng bào chữa là một trong những chức năng tố tụng cơ bản, góp phần
bảo vệ pháp luật, bảo vệ sự thật, đảm bảo việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Chức

năng bào chữa chỉ nhằm chống lại sự buộc tội thiếu căn cứ, mang tính áp đặt chứ khơng nhằm
mục đích chống lại sự buộc tội có căn cứ và hợp pháp. Do đó, NBC phải hiểu và chấp hành
nghiêm các pháp luật trong quá trình thực hiện chức năng bào chữa của mình.
Thứ nhất, quyền của NBC được quy định trong Hiến pháp, pháp luật TTHS Việt Nam và
các luật liên quan:
NBC thực hiện cơng việc bào chữa của mình trên cơ sở các quy định của pháp luật. Quyền
của NBC phụ thuộc vào từng loại mơ hình TTHS. Mơ hình TTHS khác nhau sẽ quy định quyền và


nghĩa vụ của NBC cũng khác nhau, vì quyền của NBC được pháp luật quy định phải phù hợp với
mô hình tố tụng thì khi đó các quy định được áp dụng trên thực tiễn mới trở nên thiết thực và phù
hợp, không mâu thuẫn với quyền của các chủ thể khác, phát huy triệt để chức năng gỡ tội, đảm
bảo công bằng trong hoạt động TTHS và bảo đảm pháp chế XHCN.
Trong Hiến pháp, quyền của người bào chữa được quy định gián tiếp thông qua các chế
định về Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được
bảo đảm (Khoản 7, Điều 103 Hiến pháp 2013) và Khoản 4, Điều 31: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm
giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào
chữa.
Trong Bộ luật TTHS, liên quan đến người bào chữa và quyền của người bào chữa được
quy định tại 29 điều luật khác nhau/ trên tổng số 510 điều luật.
NBC và quyền bào chữa có mối liên hệ chặt chẽ, thống nhất biện chứng với nhau. Tư cách
NBC khơng tự nhiên hình thành mà nó xuất phát từ quyền bàochữa của người bị buộc tội, ngược
lại NBC lại là cơ sở bảo đảm thực hiện tốt nhất quyền bào chữa của người bị buộc tội. Đồng thời
quyền bào chữa cũng như NBC cũng khơng thể thực hiện cơng việc của mình nếu như pháp luật
không ghi nhận quyền cho NBC.
Khi tham gia vào hoạt động tố tụng, NBC không chỉ bảo vệ quyền lợi của người bị buộc
tội mà họ còn nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ pháp chế XHCN. Do đó, NBC phải tơn trọng sự
thật khách quan trong q trình bảo vệ quyền lợi của người bị buộc tội. Hay nói cách khác, trong
q trình bảo vệ quyền lợi của người bị buộc tội thì NBC vừa phải tơn trọng sự thật khách quan,
vừa phải tôn trọng và chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật. Ngược lại, muốn góp phần

vào việc bảo vệ pháp chế XHCN thì phải làm tốt nhiệm vụ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
người bị buộc tội trên cơ sở các quy định của pháp luật. Khi nhận bào chữa cho người bị buộc
tội, NBC cố gắng tập trung năng lực và tâm huyết của mình để hồn thành trách nhiệm bào chữa.
Họ có thể sẵn sàng làm tất cả mọi việc để có thể bảo vệ lợi ích hợp pháp của thân chủ mình, song
điều này khơng có nghĩa NBC khơng bị giới hạn về quyền hạn hay hồn tồn tự do làm bất cứ việc
gì. Pháp luật TTHS Việt Nam quy định những điều NBC không được phép làm nếu điều đó trái
với pháp luật và đạo đức. NBC không được phép hứa hẹn trước kết quả hoặc làm móp méo sự thật
để trục lợi, khơng được lợi dụng bào chữa để mơi giới hối lộ, kích động, xúi giục kiện tụng, cản trở
hoạt động của các cơ quan, tổ chức hoặc phỉ báng, xúc phạm đến chế độ, đến các CQTHTT,
NTHTT hoặc các cơ quan tổ chức khác có liên quan.
Ngồi Hiến pháp và Bộ luật TTHS, quyền của người bào chữa còn được quy định cụ thể
trong Luật Luật sư, Luật tạm giữ, tạm giam, và văn bản hướng dẫn thi hành, các Nghị quyết và
các văn bản pháp luật khác.
Với xu thế phát triển hiện nay, khi mà quyền con người, quyền công dân ngày càng được
quan tâm và bảo vệ, thì vấn đề oan sai trong hoạt động tố tụng sẽ được hạn chế. Điều này đồng


nghĩa bên cạnh việc nâng cao chất lượng xét xử thì quyền của NBC cũng được pháp luật quy
định mở rộng hơn, tạo điều kiện thuận lợi để NBC tham gia vào các hoạt động TTHS góp phần
bảo vệ quyền vàlợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, bảo vệ sự thật khách quan của vụ án, góp
nâng cao tiến trình cải cách tư pháp đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất
nước.
Thứ hai, quyền của NBC được pháp luật bảo đảm thực hiện:
Sự tham gia của NBC trong TTHS là một biểu hiện cụ thể nhằm thực hiện nguyên tắc
đảm bảo quyền bào chữa cho người bị buộc tội, một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp
luật TTHS nhiều nước trên thế giới nói chung và trong pháp luật TTHS Việt Nam nói riêng.
Điểm b và d Khoản 3 Điều 14 Cơng ước về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 của Liên
hiệp Quốc mà Việt Nam là nước thành viên, quy định: Trong quá trình xét xử về một tội hình sự,
mọi người đều có quyền được hưởng một cách đầy đủ và hồn tồn bình đẳng những bảo đảm tối
thiểu, trong đó có đủ thời gian và điều kiện thuận lợi để chuẩn bị bào chữa và liên hệ với NBC do

chính mình lựa chọn.
Chủ trương nâng cao vị trí, vai trị của NBC, đảm bảo các quyền và nghĩa vụ của NBC,
người bị buộc tội trong các giai đoạn tố tụng hình sự được thể hiện trong các Nghị quyết của
Đảng và Hiến pháp năm 2013 chính là nền tảng cho việc bảo đảm dân chủ hố hoạt động tố tụng,
tạo thế độc lập, bình đẳng với các chủ thể có chức năng buộc tội. Nghĩa là quyền bào chữa ln
được thực hiện khi có việc buộc tội, nhưng quyền bào chữa phải được đảm bảo đúng theo quy
định nhằm làm rõ sự thật vụ án một cách khách quan, toàn diện. Hơn nữa chế độ bào chữa trong
TTHS giúp cho công tác xét xử được tiến hành toàn diện và khách quan, xét xử được chính xác
bảo đảm đúng người, đúng tội.
Để NBC thực thi được chức năng của mình, BLTTHS quy định rất cụ thể vị trí, quyền và
nghĩa vụ của NBC. Tuy nhiên chúng ta đều biết rằng trong một quan hệ pháp luật thì quyền của
chủ thể này là nghĩa vụ của chủ thể kia và ngược lại. Do đó khi pháp luật quy định cho NBC
quyền thì đồng thời cũng sẽ quy định cho các chủ thể khác có liên quan như Điều tra viên, Kiểm
sát viên, Thẩm phán, Thư ký toà án…nghĩa vụ tương ứng để đảm bảo cho việc thực hiện quyền
của NBC. Do đó, khi NBC thực hiện quyền của mình mà bị cản trở bởi các CQTHTT hay người
có thẩm quyền THTT làm ảnh hưởng đến việc bào chữa vàhiệu quả bào chữa thì NBC có quyền
u cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền cưỡng chế bằng quyền lực nhà nước đối với bên có
nghĩa vụ đáp ứng yêu cầu theo quyền của NBC được pháp luật cho phép. Đây là căn cứ quan
trọng để quyền của NBC được đảm bảo thực hiện.
1.1.3. Ý nghĩa quyền của người bào chữa
Quyền của NBC chính là các quyền năng mà pháp luật cho phép NBC được thực hiện
thông qua hoạt động bào chữa của mình. Trong tư pháp hình sự, hoạt động bào chữa có ý nghĩa
quan trọng về chính trị, xã hội và pháp lý.


Về mặt chính trị, thực hiện hoạt động bào chữa của NBC chính là nhằm thực hiện chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về vấn đề bảo đảm quyền con người, vấn
đề cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền. Trong tiến trình cải cách tư pháp và xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, trong hoạt động tố tụng đòi hỏi phải đảm bảo tôn
trọng pháp luật, chống lại sự tuỳ tiện của những người có thẩm quyền, tăng cường tính tranh

tụng dân chủ, tạo khung pháp lý và điều kiện cần thiết khác để người bị buộc tội và NBC thực
hiện hoạt động bào chữa có hiệu quả. Ngược lại bằng hoạt động bào chữa, NBC góp phần vào
việc đảm bảo pháp chế, bảo đảm pháp luật được tôn trọng và thực thi một cách nghiêm minh, bảo
đảm quyền con người trong TTHS.
Về mặt xã hội, hoạt động bào chữa của NBC góp phần bảo đảm cho cơng lý được thực
thi, bảo đảm công bằng trong TTHS, bảo đảm tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của người bị
buộc tội. Việc quy định quyền của NBC còn thể hiện tính nhân đạo của pháp luật trong TTHS,
nhờ đó mà quyền bào chữa của người bị buộc tội đạt hiệu quả cao nhất, bảo vệ tốt nhất quyền và
lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội và hơn hết là bảo đảm quyền con người trong hoạt động tư
pháp. Đồng thời hạn chế sự làm quyền của CQTHTT và NTHTT để khơng làm oan người vơ tội.
Qua đó cũng cố lòng tin của người dân vào pháp luật, vào CQTHTT, góp phần ổn định trật tự xã
hội.
Về mặt pháp lý, hoạt động bào chữa của NBC là hoạt động cơ bản trong TTHS nhằm thực
hiện chức năng bào chữa. Quyền của NBC góp phần nâng caotính tranh tụng trong hoạt động
TTHS, đảm bảo quyền bình đẳng của các chủ thể tham gia vào quá trình tố tụng. Việc quy định
quyền cho NBC tạo điều kiện cho họ có cơ hội gặp người bị buộc tội; tiếp cận hồ sơ vụ án; thu
thập các tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án; tham gia vào các hoạt động điều tra khác như: lấy
lời khai người làm chứng, người bị hại; đối chất giữa các bị can với nhau hay giữa bị can và
người làm chứng; nhận dạng; khám nhà; kê biên tài sản; khám nghiệm hiện trường; thực nghiệm
điều tra;… để NBC có điều kiện nắm bắt nội dung vụ án một cách toàn diện, xác định được mấu
chốt vụ án, từ đó có cách lập luận quan điểm riêng của mình khi tranh luận tại phiên tồ. Hoạt
động bào chữa góp phần quan trọng trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án, kịp thời
yêu cầu sửa đổi, bổ sung hoặc kiến nghị các quyết định của CQTHTT để từ đó đảm bảo việc giải
quyết vụ án được cơng minh, tồn diện, đầy đủ, đúng pháp luật, góp phần bảo vệ pháp chế
XHCN, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, giáo dục ý thức tuân theo pháp luật, đấu
tranh phòng ngừa và chống tội phạm của nhân dân.
1.2. Cơ sở quy định về người bào chữa và quyền của người bào chữa trong tố tụng hình
sự
1.2.1. Cơ sở lý luận , pháp lý và thực tiễn.
Quyền tự bào chữa, nhờ Luật sư hoặc nhờ người khác bào chữa của người bị buộc tội là

quyền Hiến định được ghi nhận đầu tiên tại điều 67 Hiến pháp năm 1946. Hiến pháp 2013, nền


tảng cho việc bảo đảm dân chủ hóa hoạt động tố tụng, tạo thế độc lập, bình đẳng giữa Luật sư với
các chủ thể có chức năng buộc tội. Hiến pháp 2013 khơng có điều luật quy định trực tiếp về
quyền của người bào chữa nhưng quy định gián tiếp qua quyền của người bị bắt, quyền của bị
can, bị cáo tại Khoản 7, Điều 103 và Khoản 4, Điều 31.
Người bào chữa phát sinh từ quyền bào chữa nhằm bảo vệ quyền con người, quyền công dân
bị xâm hại, điều đó đồng nghĩa rằng ở đâu có việc buộc tội thì ở đó quyền bào chữa phải được thực
hiện và tôn trọng nhằm chứng minh bị can, bị cáo khơng phạm tội, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
hoặc miễn trách nhiệm hình sự. Trảiqua quá trình lập hiến hơn 70 năm, nguyên tắc này đã trở thành
nền tảng xuyên suốt trong q trình xây dựng và hồn thiện pháp luật về Luật sư ở nước ta.
Ngoài ra, bảo đảm quyền bào chữa chính là bảo đảm quyền con người, một trong những
quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm được Hiến pháp ghi nhận. Bảo đảm quyền bào chữa chính
là bảo đảm quyền con người, tuy nhiên quyền con người là khái niệm rất rộng, trong đó có quyền
con người trong TTHS. Đó là tất cả các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của con
người bị tác động bởi hoạt động đặc thù mang tính đậm nét của quyền lực nhà nước, đó là hoạt
động TTHS. Pháp luật TTHS trong Nhà nước pháp quyền đòi hỏi phải ưu tiên bảo vệ quyền con
người trong phạm vi cân bằng giữa mục đích làm rõ sự thật khách quan với việc không bỏ lọt tội
phạm, không làm oan người vơ tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự trong
giai đoạn điều tra VAHS.
Người bị buộc tội có quyền có NBC được ghi nhận và đảm bảo hầu hết trong các văn kiện
pháp lý quốc tế và Công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam có tham gia.
Khoản 1 Điều 11, Tun ngơn tồn thế giới về quyền con người năm 1948 nêu rõ “Mọi
người, nếu bị cáo buộc về hình sự, đều có quyền được coi là vơ tội cho đến khi được chứng minh
là phạm tội theo pháp luật, tại một phiên tồ xét xử cơng khai, nơi người đó được bảo đảm
những điều kiện cần thiết để bào chữa cho mình”
Điều 14 Cơng ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị với nội dung: một người bị cáo
buộc về một hành vi phạm tội sẽ có quyền được có khoảng thời gian hợp lý và các điều kiện đầy
đủ để chuẩn bị cho việc bào chữa và có quyền trao đổi với NBC do mình lựa chọn; có quyền tự

bào chữa hoặc thơng qua NBC do mình lựa chọn; trong trường hợp một người khơng có NBC thì
cơ quan có thẩm quyền THTT sẽ chỉ định NBC vì lợi ích chung của cơng lý, NBC sẽ được chỉ
định miễn phí nếu người bị buộc tội khơng có khả năng chi trả cho NBC.
Quyền có NBC còn được bảo đảm bởi văn bản pháp lý quốc tế khác có liên quan như Bộ
các nguyên tắc cơ bản của Liên hợp quốc về vai trò của luật sư.
Tại Việt Nam, Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa cho người bị buộc tội được quy định
tại Điều 16 Hiến pháp năm 2013 của nước CHXHCN Việt Nam là một trong những quyền cơ bản
của con người, của công dân, là quyền cơ bản trong số các quyền trong lĩnh vực tư pháp phải
được tôn trọng và triệt để thực hiện. Nếu quyền bào chữa bị xâm phạm thì cũng khó thực hiện


được các quyền tư pháp khác.
Nghị quyết 08 – NQ/TW của Bộ Chính trị về “một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư
pháp trong thời gian tới” đề ra “Khi xét xử, Tòa án phải đảm bảo cho mọi cơng dân đều bình
đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ khách quan; việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ
yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tịa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, tồn diện các chứng cứ, ý
kiến của Viện kiểm sát, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn dân sự và
những người có quyền lợi hợp pháp; các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo mọi điều kiện để
luật sư tham gia vào quá trình tố tụng: tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh
luận dân chủ tại phiên tòa;…”. Yêu cầu này đặt ra trách nhiệm của các CQTHTT, NTHTT trong
việc bảo đảm cho NBC được tranh luận dân chủ tại phiên tịa cần được hồn thiện theo hướng
mở rộng quyền của NBC và đảm bảo sự bình đẳng giữa bên buộc tội và NBC trong việc thu thập,
xuất trình chứng cứ, đề xuất yêu cầu và tranh luận dân chủ tại phiên tòa.
Như vậy, cơ sở pháp lý làm phát sinh hoạt động bào chữa của NBC là quyền bào chữa của
người bị buộc tội và ngược lại hoạt động bào chữa của NBC là phương thức để người bị buộc tội
và NBC thực hiện quyền bào chữa. Quyền của NBC được thể hiện bằng hiệu quả của hoạt động
bào chữa, mà điều này phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện pháp lý quy định về quyền và nghĩa vụ
của NBC. NBC thực hiện hoạt động bào chữa một mặt phải dựa vào các quy định của pháp luật để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội. Mặt khác, phải bảo vệ lợi ích của nhà
nước, cũng cố pháp chế XHCN, tuyên truyền pháp luật, giáo dục công dân ý thức tôn trọng pháp

luật. Các CQTHTT, NTHTT phải tôn trọng, bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội và
phải bảo đảm để hoạt động bào chữa cho người bị buộc tội của NBC được thực hiện một cách
thuận lợi.
Như vậy có thể thấy, địa vị pháp lý của Luật sư không thể thiếu quyền bào chữa. Quyền
bào chữa là phương tiện để Luật sư thực hiện chức năng nghề nghiệp của mình. Nếu không đặt ra
các chế định về quyền bào chữa cho Luật sư thì ý nghĩa của nghề Luật sư khơng cịn nữa.
1.2.2. Quy định trong luật Tố tụng hình sự và luật Luật sư
Quyền bào chữa nhằm không để bất kỳ người nào có thể bị hạn chế hay tước bỏ quyền
cơ bản này kể cả khi họ phạm tội được BLTTHS 2015 quy định tại điều 16 - Nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự.
Nội dung của quyền này cho phép người bị buộc tộicó quyền tự bào chữa, nhờ Luật sư hoặc
người khác bào chữa. Quyền bào chữa là quyền bác bỏ một phần, toàn bộ việc buộc tội hoặc
giảm nhẹ trách nhiệm cho người bị buộc tội. Quyền bào chữa của người bị buộc tội được thực
hiện thông qua việc họ tự bào chữa, nhờ Luật sư hoặc người khác bào chữa hoặc cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận
việc đăng ký bào chữa, bảo vệ. Lần đầu tiên, BLTTHS 2015 đã quy định về người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố ngay trước thời điểm khởi tố


VAHS. Quyền bào chữa chỉ chấm dứt khi việc buộc tội chấm dứt. Đồng thời, cùng với việc bảo đảm
quyền bào chữa của người bị buộc tội, nội dung của nguyên tắc trên còn bảo đảm, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự. Các CQTHTT, những người có thẩm quyền THTT có trách
nhiệm thơng báo, giải thích và đảm bảo cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ
quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của BLTTHS 2015. Trên cơ sở
nguyên tắc này, BLTTHS 2015 có những quy định cụ thể để bảo đảm thuận lợi cho người bị buộc
tội, bị hại, đương sự thực hiện tốt quyền của mình.
Luật sư là một nghề xuất hiện từ rất sớm, được hình thành từ nhu cầu bào chữa và trợ
giúp pháp lý, xuất hiện đầu tiên ở Châu Âu gắn liền với sự ra đời của Tòa án.
Tuy nhiên, ở Việt Nam nghề Luật sư mới hình thành và phát triển vào khoảng năm 1930,
thời gian đầu chủ yếu là do các Luật sư người Pháp hànhnghề bào chữa, sau khi thực dân Pháp tổ

chức Hội đồng Luật sư ở Hà Nội và Sài Gòn thì mới có thêm Luật sư là người Việt Nam. Sau khi
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 46/SL ngày
10- 10-1945 về Tổ chức Đoàn thể Luật sư dựa trên tổ chức cũ được duy trì với một số điểm sửa
đổi để phù hợp với tình hình mới. Sắc lệnh này quy định cho Luật sư quyền bào chữa và các điều
kiện trở thành Luật sư mà chưa quy định cho những người khác cũng có quyền bào chữa. Tiếp
theo là Sắc lệnh số 69/SL ngày 18-06-1949 mở rộng tổ chức bào chữa, cho phép công dân không
phải là Luật sư có thể bào chữa cho đương sự tại Tòa án về các vụ việc và thương mại, bào chữa
cho bị cáo trước Tịa xét xử về hình sự.
Pháp lệnh Tổ chức Luật sư năm 1987 ban hành ngày 18-12-1987. Đây là văn bản pháp
luật có ý nghĩa trong việc khôi phục nghề Luật sư mở đầu cho quá trình phát triển nghề Luật sư ở
nước ta trong thời kỳ đổi mới. Pháp lệnh Tổ chức Luật sư quy định tiêu chuẩn để được công nhận
là Luật sư, chức năng, nhiệm vụ và lĩnh vực giúp đỡ pháp lý của Luật sư. Pháp lệnh cũng quy
định về việc tổ chức Đoàn Luật sư ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Vào thời điểm
1987-1989, ở nước ta có 186 Luật sư.
Pháp lệnh Luật sư năm 2001 ban hành thay thế Pháp lệnh Tổ chức Luật sư năm 1987 thể
hiện quan điểm cải cách mạnh mẽ, tổ chức và hoạt động Luật sư ở nước ta theo hướng chính quy
hóa, chun nghiệp hóa đội ngũ luật sư, nghề Luật sư, tăng cường vai trò tự quản của tổ chức xã
hội nghề nghiệp Luật sư, tạo cơ sở pháp lý cho quá trình hội nhập quốc tế của nghề Luật sư ở
Việt Nam. Pháp lệnh Luật sư năm 2001 đã tạo bộ mặt mới và triển vọng phát triển mạnh mẽ nghề
Luật sư ở nước ta. Vào thời điểm 30-09-2001, ở nước ta có 2.100 Luật sư.
Luật Luật sư lần đầu tiên được thông qua năm 2006 và Luật Luật sư năm 2015 đã góp
phần nâng cao vị thế của Luật sư, tạo cơ sở pháp lý đẩy nhanh quá trình xây dựng đội ngũ Luật
sư, nghề Luật sư mang tính chuyên nghiệp, ngang tầm với Luật sư và nghề Luật sư các nước tiên
tiến trên thế giới. Đặc biệt Luật Luật sư đã quy định hoàn chỉnh hệ thống các tổ chức xã hội nghề nghiệp của Luật sư từ Trung ương tới các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.


Tại điều 22: Phạm vi hành nghề luật sư, quy định việc tham gia tố tụng với tư cách là
người bào chữa chỉ là một trong 6 lĩnh vực của luật sư khi hành nghề (gồm tham gia tố tụng với
các tư cách: (1) người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; (2) người bảo vệ quyền lợi
của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong

vụ án hình sự; (3) người đại diện hoặc là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn,
bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các vụ án về tranh chấp dân sự, hơn nhân và
gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính, việc về u cầu dân sự, hơn nhân và gia
đình, kinh doanh, thương mại, lao động và các vụ, việc khác theo quy định của pháp luật.(4)
người tư vấn pháp luật. (5) Đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng để thực hiện các cơng việc có
liên quan đến pháp luật. (6) Thực hiện dịch vụ pháp lý khác).
Như vậy, trong tố tụng hình sự nói riêng, luật sư có thể tham gia tố tụng với 1 trong 2 tư
cách: Là người bào chữa hoặc người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự.
Ngồi Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và luật Luật sư 2015 đã có quy định quan trọng là
“bãi bỏ quy định về việc cấp giấy chứng nhận người bào chữa tại khoản 3 và khoản 4 Điều 27
của Luật luật sư số 65/2006/QH11 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số
20/2012/QH13.”
Quy định này có ý nghĩa rất quan trọng quyết định tới vai trò và quyền của người bào
chữa trong tố tụng hình sự.
1.3. Lịch sử lập pháp về quyền của người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
Chế định NBC trong pháp luật TTHS nước ta là một trong những chế định quan trọng,
ra đời rất sớm và ln phát triển, hồn thiện phù hợp với q trình dân chủ hố các hoạt động
trong xã hội. Việt Nam là quốc gia có truyền thống pháp luật Châu Âu lục địa, nên hệ thống tư
pháp hình sự của Việt Nam về bản chất là hệ thống tố tụng thẩm vấn. Chế định bào chữa trong
luật TTHS Việt Nam là tập hợp các quy định về các quyền tố tụng cũng như các biện pháp tố
tụng mà qua đó bị can, bị cáo hoặc NBC của họ có thể sử dụng để chống lại sự buộc tội, đưa ra
lý lẽ và chứng cứ gỡ tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Ngay từ những ngày đầu thành
lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, quyền bào chữa của bị cáo gắn liền với nó là sự tham
gia tố tụng của NBC đã được ghi nhận trong các văn bản pháp luật và liên tục được hoàn thiện.
BLTTHS năm 1988 là một bước phát triển quan trọng của q trình pháp điển hố các quy định
pháp luật về TTHS ở nước ta. Chế định về quyền bào chữa của bị can, bị cáo và quyền của
NBC được quy định trong BLTTHS năm 1988 đã thể hiện được tính ưu việt so với các quy định
trước đây. Quyền của NBC được quy định chi tiết hơn, phạm vi quyền được mở rộng hơn, thực
quyền hơn và có biện pháp bảo đảm thực hiện rõ ràng được quy định tại Điều 36 BLTTHS năm

1988. Đồng thời cũng theo Điều 36 BLTTHS năm 1988: người bào chữa được tham gia tố
tụng từ khi cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can. Đây thực sự là một bước tiến mới


trong TTHS Việt Nam, vì trước đó NBC chỉ được tham gia tố tụng khi hồ sơ vụ án chuyển
sang tồ án. Người bị buộc tội có quyền bào chữa, đặc biệt là quyền nhờ người khác bào chữa
nên NBC cần tham gia ngay từ đầu
quá trình tố tụng để bảo vệ quyền cho người bị buộc tội đạt hiệu quả cao nhất.
Sau hơn 10 năm thi hành BLTTHS năm 1988, hoạt động của NBC đã góp phần nâng cao
hiệu quả tố tụng trong giải quyết các vụ án hình sự ở nước ta. Tuy nhiên với xu thế phát triển của
đất nước trong những điều kiện mới, các quy định trong BLTTHS năm 1988 đã hoặc tỏ ra lạc
hậu, không phù hợp hoặc hạn chế hiệu quả của hoạt động TTHS nói chung và hoạt động của
NBC trong TTHS nói riêng. Chẳng hạn như BLTTHS năm 1988 quy định cho NBC có quyền có
mặt khi hỏi cung nhưng chỉ được đặt câu hỏi với bị can khi điều tra viên đồng ý, đồng thời cũng
khơng có những quy định cụ thể tạo cơ chế để NBC thực hiện quyền, trách nhiệm của mình.
NBC bị gây khó khăn rất khó tiếp cận các tài liệu điều tra, thậm chí nhiều quyết định tố tụng liên
quan đến người bị buộc tội như trưng cầu giám định, kê biên tài sản…NBC không được biết.
Khắc phục tình trạng trên, BLTTHS năm 2003 được Quốc hội thông qua ngày 26/11/2003 đã
bổ sung nhiều quy định mới về quyền và nghĩa vụ của NBC, đặc biệt là mở rộng quyền của NBC
được tham gia tố tụng bảo vệ lợi ích của người bị tạm giữ kể từ khi có quyết định tạm giữ của Cơ
quan điều tra, quy định NBC cóquyền đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm
hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham
gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa; đọc, ghi chép, sao
chụp những tài liệu trong vụ án. Những quy định mới này đã tạo điều kiện thuận lợi cho NBC định
hướng rõ hơn trong việc tìm chứng cứ, tài liệu phục vụ cho công tác bào chữa, đảm bảo quyền bào
chữa của người bị buộc tội cũng như bảo vệ pháp chế XHCN, góp phần tìm ra sự thật khách quan
của vụ án, tránh xét xử oan sai từ CQTHTT. Đây là một điểm mới thể hiện tính dân chủ của pháp
luật TTHS Việt Nam trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền.
Nhu cầu sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật để hoàn thiện hơn, phù hợp hơn với
thực tiễn luôn được đặt ra với bất kỳ văn bản pháp luật nào, đặc biệt là những bộ luật có vai trị

quan trọng đối với công tác thực thi pháp luật ở mỗi quốc gia. Trên tinh thần ấy, Quốc hội đã
thông qua BLTTHS năm 2015 với nhiều quy định mới tháo gỡ được những hạn chế, vướng mắc
mang lại sự hoàn thiện hơn trong áp dụng pháp luật tố tụng để giải quyết vụ án hình sự. BLTTHS
năm 2015 quy định chặt chẽ về trình tự, thủ tục, quyền của NBC. Theo đó mở rộng thêm đối
tượng được đảm bảo quyền bào chữa, cho phép NBC tham gia tố tụng sớm hơn, cụ thể người bị
bắt có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa; bổ sung thêm NBC có thể là trợ
giúp viên pháp lý, trường hợp này được áp dụng đối với người bị buộc tội thuộc đối tượng được
trợ giúp pháp lý; bổ sung thêm một số quyền cho NBC như: có mặt khi lấy lời khai người bị bắt,
có quyền hỏi người bị bắt, người bị giữ, bị can sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có
thẩm quyền kết thúc, đề nghị thay đổi, huy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế, quyền
thu thập chứng cứ ...
1.4. Kinh nghiệm lập pháp về quyền của người bào chữa trong tố tụng hình sự của một số


nước
1.4.1. Quyền của người bào chữa theo pháp luật tố tụng hình sự Cộng hồ nhân dân Trung
Hoa (Trung Quốc)
Cùng nằm trong hệ thống pháp luật XHCN, pháp luật TTHS của nước Cộng hồ Nhân
dân Trung Hoa nhìn chung có một số nét tương đồng với pháp luật TTHS của nước ta. Vì thế các
quy định về quyền bào chữa của bị can, bị cáo và NBC trong TTHS của hai nước cũng có một số
nét giống nhau.
Quy định về các trường hợp cần phải có sự tham gia bào chữa bắt buộc của NBC ở Trung
Quốc cơ bản gần giống với quy định của Việt Nam. Ở đây luật TTHS Trung quốc nêu cụ thể
những nhược điểm thể chất nào cần được bảo đảm có NBC, đó là người bị mù, bị câm hoặc điếc.
Luật TTHS Trung Quốc năm 1996 quy định khá hạn chế các quyền mà luật sư có thể hỗ trợ
cho thân chủ của mình trong giai đoạn điều tra. Luật sư có quyền gặp gỡ và phỏng vấn nghi phạm
bị tạm giữ để tìm hiểu sự việc và các chi tiết liên quan tới vụ án. Riêng về quyền gặp gỡ thân chủ
thì có khá nhiều hạn chế trong luật cũng như trong thực tiễn. Một trong những hạn chế là việc tự
do gặp gỡ thân chủ. Luật TTHS Trung Quốc năm 1996 quy định rằng “trong trường hợp liên quan
tới bí mật quốc gia, việc luật sư phỏng vấn nghi phạm bị tạm giam giữ phải do cơ quan phải do cơ

quan điều tra phê duyệt.”. Trên thực tế các vụ việc không liên quan tới bí mật quốc gia cũng vẫn
phải do cơ quan điều tra phê duyệt. Năm 2007 Luật Luật sư của Trung Quốc được sửa đổi. Điều 33
của Luật này đã cố gắng thay đổi tình hình và quy định rằng luật sư do nghi phạm hoặc họ hàng
của anh ta th có quyền gặp thân chủ của mình khi xuất trình được thẻ luật sư, thư uỷ quyền của
thân chủ hoặc giấy giới thiệu của cơ quan trợ giúp pháp lý. Theo tinh thần của quy định này có thể
thấy rằng cuộc gặp của luật sư với thân chủ của mình khơng cần phải được cơng an phê duyệt. Tuy
vậy, sau khi Luật Luật sư sửa đổi có hiệu lực, cơng an nói rằng họ có ít phịng họp nên nếu luật sư
muốn gặp thân chủ thì phải đăng ký, đây chính là tiểu xảo để cuộc gặp của luật sư với nghi phạm
phải được công an phê duyệt. Tuy nhiên, theo hướng dẫn của Bộ công an Trung Quốc về áp dụng
pháp luật tố tụng hình sự: đối với vụ án khơng liên quan đến bí mật quốc gia, NBC gặp gỡ người bị
tình nghi phạm tội thì không cần qua phê chuẩn, cơ quan điều tra không được ra quyết định khơng
phê chuẩn vì lý do cần phải giữ bí mật trong q trình điều tra. Cơ quan điều tra phải bố trí cuộc
gặp gỡ trong vịng 48 giờ sau khi luật sư đưa ra đề nghị gặp gỡ người bị tình nghi phạm tội; đối
với vụ án đồng phạm lớn và phức tạp như có tổ chức, các vụ án do các tổ chức xã hội đen thực
hiện, tổ chức khủng bố hoặc phạm tội buôn lậu, phạm tội ma tuý, phạm tội tham ô hối lộ… thì
trong vịng 05 ngày sau khi luật sư đưa ra đề nghị


gặp gỡ người bị tình nghi phạm tội, Cơ quan điều tra phải cho phép gặp. Trong giai đoạn này, Cơ
quan điều tra có thể theo dõi cuộc hội thoại khi luật sư gặp thân chủ của mình. Luật TTHS năm
1996 quy định rằng tuỳ thuộc vào hoàn cảnh và điều kiện cần thiết mà điều tra viên có thể hiện
diện trong cuộc phỏng vấn.
Về thu thập chứng cứ: Theo quy định của pháp luật TTHS Trung Quốc năm 1996 thì chỉ
có CQTHTT là TAND, VKSND và Cơ quan điều tra mà cụ thể là NTHTT trong các cơ quan này,
đó là thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên mới có quyền thu thập chứng cứ.
Đối với NBC, để thực hiện quyền của mình trong hoạt động bào chữa, họ được quyền gặp
gỡ, trao đổi với người đang bị tạm giữ, bị cáo; trích, sao các tài liệu từ khi VKS bắt đầu thẩm tra tư
pháp; thu thập thông tin liên quan đến vụ án; yêu cầu triệu tập nhân chứng mới tới phiên toà, thu
thập chứng cứ mới, giám định bổ sung và các yêu cầu khác; được hỏi người làm chứng và người
giám định.

Bộ Luật TTHS Trung quốc năm 2012 đã có những bước tiến bộ nhất định. Theo đó, các
CQTHTT phải đảm bảo cho bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác được hưởng
quyền bào chữa và các quyền tố tụng khác theo quy định của pháp luật. Những người được chỉ
định làm NBC phải là luật sư. Trong trường hợp luật sư bào chữa yêu cầu trao đổi thư từ hay gặp
gỡ người bị tình nghi hình sự hay bị can bị giam giữ, cơ sở giam giữ phải thu xếp cuộc gặp đó
trong vịng 48 giờ. Mặc dù pháp luật không quy định sự đảm bảo chung về liên lạc bí mật giữa
người bị tình nghi hay bị can và luật sư bào chữa, luật cũng cấm việc giám sát cuộc gặp giữa luật
sư bào chữa và người bị tình nghi hay bị can đang tạm giữ. Trong giai đoạn truy tố, luật sư bào
chữa có thể tiếp cận, trích và sao tài liệu được thu thập trong vụ án, có thể xác minh bằng chứng
với người bị tình nghi. Tại phiên tồ, luật sư bào chữa có thể trình bày các tài liệu và ý kiến chứng
minh cho sự vô tội của bị cáo hay giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hoặc bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp của bị can. Luật sư bào chữa có thể đề nghị Toà hay Viện kiểm sát yêu cầu đưa đến trước
tồ những bằng chứng có thể chứng minh sự vô tội của bị cáo. Một quy định tiến bộ là Luật TTHS
2012 Trung Quốc cho phép luật sư bào chữa vào bất kỳ giai đoạn nào của quá trình tố tụng nếu
thấy rằng cơ quan công quyền hay cán bộ của các cơ quan đó gây trở ngại cho việc thực hiện
quyền tốtụng, họ có quyền khiếu nại lên cơ quan kiểm sát, hay cơ quan cao nhất tiếp theo, cơ quan
này sau đó có nghĩa vụ phải khẩn trương xem xét việc khiếu nại và nếu đã xác minh đúng thì phải
xử lý hành vi cản trở đó.
1.4.2. Quyền của người bào chữa theo pháp luật tố tụng hình sự của Cộng hồ liên bang
Đức
Cộng hồ liên bang Đức là quốc gia thành viên của Liên minh Châu Âu. Do đó pháp luật
TTHS Đức chịu ảnh hưởng của pháp luật TTHS quốc tế. Công ước Châu Âu về quyền con người
(ECHR) và những quyết định của Toà án nhân quyền Châu Âu (ECtHR) được giải thích là cần
thiết cho pháp luật Đức tuân theo và có giá trị áp dụng trực tiếp trong luật Đức, giống như các
nước thành viên khác của Công ước về nghĩa vụ quốc tế của các quốc gia thành viên của Công


ước là phải tuân thủ Công ước Châu Âu về quyền con người. Theo đó, quyền tố tụng của người
bị tình nghi và bị cáo được cam kết bảo đảm. NBC đóng vai trị như người giám sát các trình tự
tố tụng được thực hiện bởi một bên là nhà nước và một bên là quyền lợi của thân chủ của mình.

Quyền của NBC theo quy định của pháp luật TTHS Đức rất rộng, họ được tiếp xúc với
khách hàng của mình ngay từ khi bị cảnh sát thẩm vấn, được tiếp xúc riêng tư với khách hàng bất
cứ lúc nào, hình thức nào (qua điện thoại, gặp trực tiếp…) và cuộc trao đổi khơng bị nghe trộm.
Các phịng gặp mặt của NBC với thân chủ của họ được bố trí riêng biệt, khơng có phương tiện và
người giám sát, theo dõi hoặc ghi âm, vì luật Đức quy định bí mật giữa luật sư và khách hàng
phải được tơn trọng tuyệt đối. Các thư tín gửi từ trại giam ra cho luật sư và của luật sư gửi vào
cho khách hàng đều được giữ bí mật.
Về quyền thu thập chứng cứ, NBC được phép thu thập chứng cứ nếu việc thu thập chứng
cứ đó khơng gây áp lực cho nhân chứng và được tiến hành theo quy định của pháp luật. NBC thu
thập chứng cứ về phải trình báo cho cơ quan cảnh sát những chứng cứ đã thu thập được, khơng
được giữ kín đến phiên tồ vì nếu khơng trình báo thì chứng cứ đó sẽ khơng được chấp nhận.
Những chứng cứ có lợi cho thân chủ mới phải báo cáo, những chứng cứ khơng có lợi cho thân
chủ khơng buộc phải báo cáo.
Ngồi ra, NBC có quyền đề nghị công tố viên tiến hành thu thập những chứng cứ nhất
định, mặc dù vậy, công tố viên cũng có thể khơng thực hiện những u cầu từ phía NBC trừ khi
cơng tố viên thấy rằng điều đó là cần thiết cho việc điều tra. Có thể nói, quyền quan trọng nhất
của NBC trong giai đoạn tiền xét xử đó là quyền được tiếp cận với tồn bộ hồ sơ vụ án, bao gồm
cả những chứng cứ có lợi hay bất lợi đối với thân chủ của họ.
Mơ hình TTHS của Đức là mơ hình tố tụng thẩm vấn, diễn biến phiên tồ gần giống như
mơ hình TTHS của Việt Nam, trong đó vai trị chính yếu thuộc về thẩm phán trong quá trình giải
quyết vụ án. Tại phiên tồ, NBC có quyền thẩm vấn nhân chứng và người giám định sau khi
những người này được thẩm vấn bởi thẩm phán chủ trì. Luật sư bào chữa cũng có thể đề nghị
trực tiếp toà án xem xét những chứng cứ được các bên bổ sung tại phiên toà.
1.4.3. Quyền của người bào chữa theo pháp luật tố tụng hình sự của Mỹ
Nếu như TTHS của Đức mang đặc trưng của mơ hình tố tụng thẩm vấn thì pháp luật
TTHS của Mỹ được xây dựng trên mơ hình tố tụng tranh tụng. Trong khoa học pháp lý của Mỹ
luôn nhấn mạnh tới vai trị của NBC trong việc duy trì và nâng cao hệ thống tố tụng tranh tụng.
Họ cho rằng khi bên bị buộc tội không cân bằng với bên buộc tội thì rủi ro của hệ thống tố tụng
gây ra những lỗi đáng tiếc rất là lớn. NBC rõ ràng đóng vai trị quan trọng trong TTHS Mỹ và vai
trò này bắt nguồn từ bản chất của hệ thống tranh tụng. NBC trong hệ thống tư pháp Mỹ không

chỉ là đại diện của người bị buộc tội mà còn là người kiểm tra việc thực thi quyền lực của các cơ
quan chính phủ, thơng qua việc bảo đảm rằng các quyền của người bị buộc tội được bảo vệ.
Để đảm bảo quyền của người bị buộc tội, quyền của luật sư bào chữa, theo pháp luật TTHS


Mỹ, luật sư giúp điều tra sự thật, đàm phán với cơng tố viên, gặp gỡ nhân chứng, trình bày các lập
luận về pháp lý cũng như thực tiễn của vụ việc và tiến hành kháng cáo. Phương pháp tố tụng được
sử dụng trong tồn bộ q trình giải quyết vụ án hình sự là phương pháp đối tụng. Luật sư có quyền
gặp và nói chuyện với thân chủ sớm nhất có thể trước khi thẩm vấn sơ bộ hoặc trước ngày hẹn triệu
tập để xét xử. Luật sư có quyền thu thập và đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật,yêu cầu; trình bày ý
kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật, liên quan; củng cố các chứng cứ gỡ tội; … để bào chữa. Ngồi
ra, luật sư có quyền đề nghị giảm mức hình phạt và có quyền bình đẳng với cơng tố viên cụ thể là
có quyền trình bày ý kiến để phản biện lại ý kiến của KSV tại phiên Tòa.
Hoạt động lập pháp của mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào các yếu tố về kinh tế, chính trị,
văn hóa. Mỗi một quốc gia có đặc thù riêng thì quy định của pháp luật của ở các quốc gia cũng
khác nhau. Tuy nhiên, mẫu số chung trong hoạt động lập pháp của các nước đều hướng tới là bảo
vệ quyền con người, nên việc tham khảo kinh nghiệm lập pháp của các nước, tiếp thu những tư
tưởng tiến bộ, những kinh nghiệm thực tiễn là điều cần thiết.
Tiểu kết chương 1
Qua nghiên cứu một số vấn đề lý luận về NBC cũng như quyền của NBC, có thể rút ra
một số nhận định sau:
NBC là người được Nhà nước trao cho quyền được tham gia vào quá trình tranh tụng để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội. Thông qua những quyền năng và nghĩa
vụ pháp lý của mình, NBC thực hiện công việc bào chữa cho bị can, bị cáo nhằm giúp họ chứng
minh sự trong sạch của mình hoặc giảm nhẹ tội, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Vai trò của NBC
còn thể hiện ở việc bảo vệ pháp chế XHCN; bảo vệ công bằng xã hội; bảo vệ lẽ phải; đồng thời
cịn có vai trị phổ biến, tuyên truyền pháp luật, giám sát hoạt động tư pháp của các CQTHTT.
Quyền của NBC là những quyền mà pháp luật quy định và đảm bảo thực hiện đối với
NBC, theo đó NBC được hưởng, được làm và được thực hiện các quyền đó trong hoạt động gỡ
tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội và bảo vệ pháp chế XNCH.

Chức năng bào chữa tồn tại song song với chức năng buộc tội như một nhu cầu tất yếu khách
quan để đạt được mục đích xác định sự thật của vụ án hình sự.
Trong bối cảnh cải cách tư pháp tập trung vào trọng tâm là đổi mới hoạt động xét xử thì
địa vị pháp lý cũng như vai trò của luật sư bào chữa ngày càng


được nhìn nhận đúng mực. Trên cơ sở nhận thức được tầm quan trọng của NBC trong hoạt động
TTHS không đơn thuần là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, mà còn tạo ra
cơ chế phản biện giúp cho các hoạt động điều tra, truy tố của CQTHTT và NTHTT được chính
xác hơn, khách quan hơn.
Trên thực tế việc nhờ người khác bào chữa mang lại những hiệu quả nhất định nên Đảng
và Nhà nước ta ngày càng chú trọng và hoàn thiện hơn các quy định của pháp luật về mở rộng
quyền và nghĩa vụ của NBC, tạo cơ chế cho họ thực hiện quyền của mình, đảm bảo sự bình đẳng
trong hoạt động tranh tụng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội, điều này được thể hiện cụ thể trong
các quy định của pháp luật TTHS nước ta và tác giả sẽ phân tích cụ thể ở Chương 2.


×