ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP HỒ CHÍ MINH ĐẠI HỌC BÁCH
KHOA
BÀI TẬP LỚN
MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HÔỊKHOA HOC
ĐỀ TÀI:
DÂN CHỦỦ̉ VÀ DÂN CHỦỦ̉ XÃÃ̃ HÔI CHỦỦ̉ NGHĨÃ̃A. THỰC TRẠNG
VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN DÂN CHỦỦ̉ TRONG NỀN GIÁO DỤC
Ở TP.HCM HIỆN NAY
LỚP L03 --- NHÓM 9 --- HK 211
NGÀY NỘP ………………
Giảng viên hướng dẫn: ThS.Đăngg̣ Kiều Diễm
Email:
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đềề̀ tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng “Dân chủ là cái quý báu nhất của nhân dân, chìa
khóa vạn năng đề giải quyết mọi khó khăn”. Và chúng ta lại càng thấy rõ hơn về ý
nghĩa của dân chủ hơn nữa trong môi trường giáo dục, trong môi trường tri thức, thấy
được giá trị nhân văn sâu sắc của dân chủ trong cộng đồng xã hội có tầm ảnh hưởng
lớn trong trường học và học sinh, sinh viên là thế hệ tương lai của đất nước, là tiền đề
xây dựng một đất nước văn minh, tiến bộ, dân chủ.
Trong các trường học luôn xác định việc thực hiện dân chủ là yếu tố quan trọng để
phát huy nội lực của mỗi cán bộ giáo viêc, nhân viên, học sinh, sinh viên trong việc
thực hiện tốt mục tiêu của các nhà trường phát huy và đảm bảo quyền làm chủ, sức
sáng tạo trong nhà trường và các hoạt động khác, các lĩnh vực khác ngoài xã hội, mặt
khác nâng cao hơn nữa trách nhiệm, tầm quan trọng của học sinh, sinh viên là những
người cơng dân tương lai, tạo ra bầu khơng khí dân chủ, cởi mở đồn kết nội bộ góp
phần giữ vững kỷ cương, duy trì nề nếp trong nhà trường và các hoạt động trong tổ
chức, xây dựng một xã hội văn minh, tiến bộ.
Đồng thời cũng có rất nhiều câu hỏi được đặt ra trong việc thực hiện dân chủ trong
giao dục hiện tại như thế nào, đã đáp ứng được yêu cầu thực tiên của học sinh, sinh
viên chưa? Và việc xây dựng dân chủ trong các cơ sở giáo dục là từng bước hoàn thiện
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong các lĩnh vực khác
trong thực tế cuộc sống. Nhận thức được tầm quan trọng của việc thực hiện dân chủ
đầu tiên là trong giáo dục hiện nay nên nhóm chúng tôi đã lựa chọn đề tài liên quan
đến việc thực hiện dân chủ trong lĩnh vực giáo dục nhằm góp phần……….
2. Đối tượng nghiên cứu
Lĩnh vực giáo dục.
3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: Bao gồm các cơ sở giáo dục trên địa bàn TP.HCM.
2
Phạm vi thời gian: Từ năm 2015-2020.
4. Mục tiêu, nhiệm vụ của đềề̀ tài
Thứ nhất, làm ro dân chủ và sự ra đời, phát triển của dân chủ.
Thứ hai, làm ro quá trình ra đời và bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, làm ro thực trạng, những mặt tích cực và mặt hạn chế của việc thực hiện dân
chủ trong giáo dục hiện nay.
Thứ năm, đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao việc thực hiện dân chủ trong
lĩnh vực giáo dục.
5. Phương pháp nghiên cứu
Chủ nghĩa xã hội khoa học là một mơn chính trị - xã hội do đó khi nghiên cứu phải
sử sử dụng nhiều phương pháp có tính liên ngành nên ngoài việc sử dụng phương pháp
lịch sử, phương pháp logic nhóm chúng tơi cịn vận dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
- Phương pháp thống kê mô tả.
- Phương pháp so sánh.
6.Kết cấu của đềề̀ tài
Ngoài mục lục, phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài gồm 02 chương:
- Chương 1: Dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa.
-
Chương 2: Thực trạng và giải pháp thực hiện dân chủ trong nền giáo dục ở TP
HCM hiện nay.
3
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: DÂN CHỦỦ̉ VÀ DÂN CHỦỦ̉ XÃÃ̃ HỘI CHỦỦ̉ NGHĨÃ̃A
1.1. Dân chủ và sự ra đời, phát triển của dân chủ
1.1.1 Quan niệm về dân chủ
Dân chủ là quyền lực của nhân dân, thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ nhân của
nhà nước.
Dân chủ là một hình thức hay hình thái nhà nước là chính thể dân chủ hay chế độ
dân chủ.
Dân chủ là một loại nguyên tắc.
Dân chủ là một giá trị xã hội phản ánh những quyền cơ bản của con người, là một
hình thức tổ chức nhà nước của giai cấp cầm quyền, có q trình ra đời, phát triển
cùng với lịch sử xã hội nhân loại.
1.1.2 Sự ra đời và phát triển của các nền dân chủ
Chế độ cộng sản nguyên thủy: chưa có nền dân chủ.
Chế độ chiếm hứu nơ lệ: nền dân chủ nô.
Chế độ phong kiến: nền quân chủ phong kiến chuyên chế.
Chế độ tư bản chủ nghĩa: nền dân chủ tư sản.
Chế độ xã hội chủ nghĩa: nền dân chủ vô sản (XHCN).
Chế độ xã hội cộng sản chủ nghĩa: nền dân chủ mất đi vì giai cấp, nhà nước khơng
cịn.
Lê-nin: con đường biện chứng của q trình phát triển dân chủ là “Từ chuyên chế
đến dân chủ tư sản, từ dân chủ tư sản đến dân chủ vơ sản, từ nhân chủ vơ sản đến
khơng cịn dân chủ nữa”.
1.2 Dân chủ xã hội chủ nghĩa
4
1.2.1 Quá trình ra đời của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Giai đoạn 1: Giai cấp công nhân làm cách mạng để giành lấy dân chủ.
Giai đoạn 2: Giai cấp công nhân dùng dân chủ tổ chức nhà nước của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động – Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa ra đời từ sau cách mạng tháng mười Nga (1917).
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là: nền dân chủ cao hơn về chất so với nền dân chủ tư sản,
là nền dân chủ mà ở đó mọi quyền lực thuộc về nhân dân, dân là chủ dân làm chủ, dân
chủ và pháp luật nằm trong sự thống nhất biện chứng, được thực hiện bằng Nhà nước
pháp quyền XHCN, đặc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
1.2.2 Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Là thủ tiêu tình trạng áp bức giai cấp, dẫn tộc, giải phóng con người một cách triệt
để, toàn diện, thực hiện quyền tự do, bình đẳng của con người.
Đảm bảo quyền lực thực sự thuộc về nhân dân.
*Bản chất chính trị
- Mang bản chất giai cấp công nhân.
- Do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
- Thừa nhận chủ thể quyền lực của nhà nước là nhân dân.
*Bản chất kinh tế
- Sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất là chủ yếu
- Chủ thể phát triển lực lượng sản xuất và thụ hưởng lợi ích là nhân dân
*Bản chất tư tưởng văn hóa xã hội
- Hệ tư tưởng chủ đạo trong xã hội là chủ nghĩa Mác – Lê-nin.
- Kế thừa giá trị của các nền văn hóa trước đó.
- Thực hiện giải phóng con người triệt để và phát triển tồn diện cá nhân.
5
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nhất nguyên về chính trị, đảm bảo vai trị duy nhất của
Đảng Cộng sản, chính sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện cho dân chủ xã hội chủ nghĩa
ra đời, tồn tại và phát triển.
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN DÂN
CHỦỦ̉ TRONG NỀN GIÁO DỤC Ở TP.HCM HIỆN NAY
2.1 Đăcg̣điểm việc thực hiện dân chủ trong nềề̀n giáo dục ở TP.HCM hiện nay
2.1.1 Đặc điểm chung
Dân chủ trong ngành giáo dục luôn được xã hội và nhà nước đặc biệt quan tâm. Tuy
nhiên, trong thời gian qua, việc thực hiện dân chủ tại nhiều cơ sở giáo dục, đào tạo cịn
hình thức, sơ sài, chưa hiệu quả, chất lượng chưa cao, vẫn cịn xảy ra tình trạng mất
dân chủ. Tuy trường nào vể hình thức cũng có khẩu hiệu, hô hào về công khai và dân
chủ, kết thúc các cuộc họp, ai cũng nhất trí nhưng trong lịng cịn bộn bề tâm tư, nghĩ
suy về việc đánh giá giáo viên không công bằng, về thưởng phạt, phân công, chi tiêu
mua sắm công, xây dựng cơ sở vật chất, thái độ của hiệu trưởng đối với giáo viên…
Điều đáng ngại là sự im lặng ngồi nghe về những khoản thu chi sai luật, mua sắm bất
minh, thu của học sinh những món tiền vơ lý. Quyền lợi của tập thể và quyền lợi của
chính bản thân bị xâm phạm.
Thực tế nhiều năm qua, việc “trên nói dưới gật” bất kể đúng sai không hề hiếm
trong môi trường giáo dục. Giáo viên khơng dám nói khác, chứ chưa nói là nói trái ý
của hiệu trưởng, dẫn đến việc mọi người che giấu ý kiến, quan điểm của mình. Ở mơi
trường thiếu dân chủ, chỉ cần khác đi sẽ được lãnh đạo “chú ý”. Nhiều trường học trở
thành một “ốc đảo” khép kín về thơng tin, thiếu hẳn tư duy phản biện, nhiều nơi bùng
nổ đấu đá phe phái mất đoàn kết triền miên,chủ yếu không thống nhất với nhau về
quyền lợi. Rất nhiều quy định, chủ trương tháo gỡ cho giáo viên đưa xuống trường học
bị “tắc nghẽn” ở... ban giám hiệu. Luật vua không qua nổi lệ làng, như về giảm tải hồ
sơ sổ sách, về không bắt buộc thi giáo viên giỏi, về không được thu các loại tiền
trường... chỉ nằm trên báo cáo. Giáo viên nào thuộc diện “hay ý kiến ý cị” thì càng dễ
bị “gạch đít”, cho vào “sổ bìa đen”, đến thời điểm nâng lương hay xét, cho đi bồi
dưỡng nghiệp vụ lúc đó sẽ… tính sổ. Nói chung là có hiện tượng trù dập với ai dám
6
đấu tranh. Ban giám hiệu, nhất là hiệu trưởng quyết thế nào thì sẽ như thế, nói khác đi
sẽ rước họa vào thân. Những tiếng nói chỉ được xầm xì, bàn tán sau buổi họp. Giữa
hiệu trưởng và giáo viên ngày càng có khoảng cách. Có ý kiến cho rằng, nhà trường
khơng chỉ mất dân chủ mà cịn nhiều nơi có sự “khiếp nhược”! Đúng là giáo viên
khiếp nhược, sợ bị trù úm vì họ phải “chạy việc”, nhỡ ra mất việc thì khốn khổ cả nhà.
Hiệu trưởng thừa biết điều này nên dễ thao túng. Giáo viên trẻ mong được hiệu trưởng
ưu ái, mong có điều kiện thuận lợi thăng tiến nên đa phần chọn thái độ im lặng, thậm
chí a dua theo những sai trái của hiệu trưởng, cịn giáo viên già thì thì làm thinh để n
ổn chờ đến ngày nghỉ hưu. Ở đây, đấu tranh vì sự trong sáng dân chủ bị thủ tiêu.
Trong khi đó, Hội đồng trường - một chế định để kiểm soát các cam kết, thực hiện
quy định của nhà trường - hiện nay chỉ có khơng đến 20% cơ sở thành lập. Nhiều nơi
thành lập lấy lệ và hoạt động còn hình thức. Các mối quan hệ giữa hiệu trưởng và giáo
viên, giữa hiệu trưởng với các tổ chức đoàn thể, giữa giáo viên và học sinh… ở nhiều
nơi bị méo mó. Nhà trường thiếu dân chủ khó triển khai cải cách giáo dục.
Cùng với xu thế phát triển dân chủ của xã hội, dân chủ trong nhà trường ngày nay
cũng đã tiến bộ hơn nhiều so với trước đây. Cán bộ quản lý nhà trường gần gũi, cởi mở
hơn với giáo viên, nhân viên, lắng nghe được nhiều hơn những ý kiến, những tâm tư
nguyện vọng của anh chị em đồng nghiệp, phụ huynh và học sinh trong nhà trường.
Những mâu thuẫn trong nhà trường xuất phát từ sinh hoạt thiếu dân chủ giảm thiểu
hầu như khơng cịn. Giới hạn chính hiện nay là đời sống thu nhập của giáo viên vẫn
cịn khó khăn, ảnh hưởng lớn đến mức độ cống hiến của đội ngũ cho công cuộc đổi
mới phát triển nhà trường. Những thói quen, nề nếp cũ thiếu tiến bộ trong nhà trường
chưa thực sự được tích cực đấu tranh xóa bỏ, tình trạng nể nang hay ngại khó vẫn cịn
tồn tại. Việc thực hiện cơ chế dân chủ chưa đầy đủ và chưa thường xuyên ở một số nhà
trường do áp lực công việc mỗi ngày một cao hơn đang làm ảnh hưởng khơng ít đến
q trình thực hiện dân chủ.
Dân chủ thường được đề cập đến như một tính chất của một xã hội hay một cộng
đồng, đơn vị. Nhưng thường chúng ta chỉ nhận thức nó như một mối quan hệ đơn
thuần giữa cấp quản lý và người bị quản lý chứ chưa cảm nhận hết được giá trị nhân
văn sâu sắc của dân chủ trong cộng đồng xã hội như đã nói ở phần mở đầu trên đây.
7
Chân lý ấy cịn có ảnh hưởng lớn trong học sinh, thế hệ tương lai của đất nước, một
đất nước văn minh, dân chủ. Cho nên chúng ta phải thể hiện sự dân chủ như là một lẽ
sống, không chỉ là mối quan hệ bình thường để có thể đối phó hoặc giả tạo với nó. Cơ
chế dân chủ trong nhà trường thường thể hiện ở kỳ họp định kỳ (Liên tịch, giao ban,
họp Hội đồng sư phạm…), qua sinh hoạt đoàn thể, qua họp thư, qua lịch tiếp dân và
hiệu quả nhất là gặp gỡ trao đổi. Nếu không thực hiện thường xun thì dân chủ của
đơn vị khó được phát huy.
Trước hết là sự đồn kết, đồng lịng của tồn thể hội đồng nhà trường, tất cả vì sự
tiến bộ chung. Ở đó, người lãnh đạo quản lý tồn tâm tồn ý để có tầm nhìn đúng cho
sự phát triển và có tâm để cảm thơng, chia sẻ và đủ sức thuyết phục mọi người phát
huy thế mạnh và khắc phục điểm yếu để đưa đơn vị phát triển, tiến bộ một cách văn
minh và khoa học nhất. Giáo viên, nhân viên trong đơn vị nhận thức được đầy đủ ý
nghĩa và giá trị của mọi hoạt động trong nhà trường, xem đó như một phần máu thịt,
trách nhiệm của mình để cùng chia sẻ một cách tự giác và chủ động; khơng né tránh,
co thủ, đối phó. Các đoàn thể trong trường thể hiện đầy đủ và thực chất chức năng đại
diện của mình một cách hiệu quả và thiết thực. Cơ chế hoạt động dân chủ trong nhà
trường được thực hiện một cách nề nếp, chất lượng. Chúng ta phải hết sức cảnh giác
tình trạng “bằng mặt mà khơng bằng lịng” hay “dân chủ hình thức”, có thể khơng xảy
ra mâu thuẫn hay đổ vỡ lớn nhưng thực chất là mất dân chủ, không phát huy được sức
mạnh chung và bản chất văn minh tiến bộ của nhà trường.
Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Thị Nghĩa thừa nhận có thực tế văn bản quy chế dân
chủ rất nhiều nhưng việc thực hiện tại nhiều cơ sở GD-ĐT cịn hình thức, sơ sài, chưa
hiệu quả, chất lượng chưa cao. Một số cơ sở giáo dục vẫn còn xảy ra tình trạng mất
dân chủ, cá biệt có cá nhân vi phạm đạo đức nhà giáo. Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đề
nghị Thứ trưởng Nguyễn Thị Nghĩa đánh giá thẳng thắn việc mất dân chủ, tình trạng
khiếu kiện ở một số cơ sở giáo dục được phản ánh thời gian qua là cá biệt hay là tương
đối nhiều trong các nhà trường. “Chúng ta nhìn thẳng vào những bất cập cũng phải rất
nỗ lực mới khắc phục được nhưng nếu khơng nhìn thẳng vào thì chắc chắn khơng bao
giờ khắc phục được” - Phó Thủ tướng nhấn mạnh. Trả lời câu hỏi này, bà Nghĩa cho
rằng vai trò của người đứng đầu rất quan trọng trong thực hiện dân chủ trong cơ sở
8
giáo dục. Đơn cử tình trạng khiếu kiện vượt cấp ở một số trường ĐH hay vụ việc
Trường Tiểu học Nam Trung Yên vừa qua là bài học kinh nghiệm về dân chủ, về trách
nhiệm của người đứng đầu nhà trường. Cũng theo bà Nghĩa, việc lập hội đồng trường,
một cơ cấu để giám sát, phân chia quyền lực với người đứng đầu nhằm ngăn chặn sự
mất dân chủ trong nhà trường theo quy định của pháp luật chưa được coi trọng. Hiện
mới có 16 trường ĐH trong số các trường do bộ quản lý thành lập hội đồng trường
song hoạt động vẫn cịn hình thức. Kết luận hội nghị Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam yêu
cầu việc thực hiện quy chế dân chủ trong môi trường giáo dục phải đi trước để lan tỏa
tinh thần dân chủ trong toàn xã hội.
Để phát triển, mỗi dân tộc, khơng cịn con đường nào khác là bắt đầu từ chính con
người. Một nền giáo dục tốt là một nền giáo dục phong phú, gần cuộc sống và ln
thích ứng với những địi hỏi của cuộc sống. Môi trường giáo dục tốt phải là vườn ươm
nhân cách, kỹ năng.
2.1.2 Giáo viên, giảng viên, cán bộ quản lý
Trong công tác quản lý, việc phân công nhiệm vụ cho các thành viên trong nhà
trường hàng năm do hiệu trưởng quyết định. Việc bố trí giáo viên chủ nhiệp lớp, khu
vực hay phân hiệu thường được thực hiện một cách dân chủ qua các bước. Thứ nhất là
xem xét hồn cảnh gia đình, trình độ chun mơn, sở trường, khí chất. Tiếp theo là tổ
chức cuộc họp liên tịch, hiệu trưởng thông qua dự kiến phân công chuyên môn trong
cuộc họp chi bộ để chi bộ có hướng chỉ đạo và thăm dị lắng nghe ý kiến phản biện của
các đảng viên để làm cơ sở. Bên cạnh đó là xem xét quyết định phân cơng chuyên môn
của tất cả các năm học trước, kết quả xét thi đua, xét công chức, kết quả công tác trong
suốt quá trình, đánh giá điểm mạnh và điểm yếu của từng cá nhân, xem xét hồn cảnh
gia đình, tình hình sức khỏe… Các đối tượng khơng được phân cơng theo nguyện
vọng sẽ được mời trao đổi, phân tích, giải thích, đồng thời có hướng động viên, khích
lệ, lưu ý đến việc biểu dương thành tích của họ…Cuối cùng là tổ chức cuộc họp hội
đồng Sư phạm để công bố quyết định phân công chuyên môn đầu năm học và lắng
nghe ý kiến của cán bộ, giáo viên, nhân viên, đồng thời phân công nhiệm vụ, sắp xếp
buổi dạy, thời khóa biểu một cách khoa học. Hiệu trưởng có quyền quyết định khi có
quan điểm khơng thống nhất trong phân cơng nhiệm vụ. Hiệu trưởng phải có tính tốn
9
tốt và khả năng quyết đoán, cũng như dự báo trong một năm học để tránh thay đổi do
tách lớp, ghép lớp, nhận giáo viên mới, có giáo viên chuyển đi, giáo viên nghỉ sản và
các qui định mới của Nhà nước về biên chế, bố trí chức danh..., có biện pháp tốt đối
với những trường hợp “Khẩu phục, tâm chưa phục” trong việc chấp hành phân cơng
nhiệm vụ. Đó là quy trình phân cơng nhiệm vụ một cách khoa học và thể hiện rõ nét
tính dân chủ trong nhà trường.
Việc tổ chức cuộc họp liên tịch để bàn bạc điều chỉnh phân công nhiệm vụ một cách
phù hợp nhất để từng cá nhân phát huy tốt sở trường và được sự đồng ý cao của các
thành viên tham dự. Nhưng thực tế, cuộc họp liên tịch nhà trường cũng chỉ là thủ tục.
Bởi vì, người đứng đầu các tổ chức, đồn thể (Đồn thanh niên, Cơng đồn cơ sở)
trong nhà trường lại là giáo viên, vì nhiều lý do họ khơng thể đứng ra để bênh vực một
cách chính đáng cho đồn viên của mình. Tiếng nói của họ, trên thực tế khơng có
nhiều “trọng lượng” và hơn thế nữa họ cũng “lo thân mình cịn chưa xong”. Cuối
cùng, người giáo viên phải chấp hành mọi sự phân công của hiệu trưởng. Mọi đề xuất,
nguyện vọng chính đáng đều không được xem xét. Sự mất dân chủ trong việc điều
hành, quản lý còn nhiều nguyên nhân khác nữa. Nhưng chung quy lại, việc thiên lệch,
mối quan hệ gia đình, và những vấn đề tế nhị đã dẫn đến sự lạm quyền, xem nhẹ các
đoàn thể trong nhà trường, từ đó làm mất niềm tin của giáo viên đối với tập thể, đối
với lãnh đạo. Dân chủ được giáo viên coi như vấn đề cao xa, mà người giáo viên
không “với” đến được.
Vậy nên, dân chủ cần thể hiện rõ ở phẩm chất của người đứng đầu, là người lãnh đạo
biết lắng nghe và tiếp thu những ý kiến cá nhân, đồn thể trong nhà trường, biết thu thập
thơng tin đa chiều và không vụ lợi, biết cách giải quyết kịp thời về chế độ chính sách,
khơng câu nệ những quy định rập khuôn. Đặc biệt, dân chủ thể hiện tốt hơn trong việc
thực hiện chế độ công khai tài chính theo quy định, hiện nay đây là vấn đề rất “nhạy
cảm”, định kỳ cơng khai các chế độ chính sách và quyền lợi đối với thành viên trong nhà
trường. Cuối cùng, người lãnh đạo tốt là người thực hiện thường xuyên quy chế dân chủ,
biết đi đầu trong việc đấu tranh chống những biểu hiện như cửa quyền, sách nhiễu, thành
kiến, trù dập và làm trái nguyên tắc. Biết xây dựng nhà trường thành biểu tượng của
“thương hiệu”: dân chủ, kỷ cương, tình thương và trách nhiệm.
10
Chính vì nhiều năm qua quyền dân chủ đáng có của nhiều giáo viên, giảng viên vẫn
chưa được thực hiện tốt, nên đến nay, bộ Giáo Dục đã ban hành Nghị định
24/2021/NĐ-CP quy định việc quản lý trong cơ sở giáo dục mầm non và cơ sở giáo
dục phổ thông cơng lập, trong đó, quy định trách nhiệm, quyền hạn của hiệu trưởng,
giáo viên khi thực hiện dân chủ trong hoạt động giáo dục.
Trách nhiệm và quyền hạn của người đứng đầu cơ sở giáo dục (hiệu trưởng). Tổ
chức cho cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên, người lao động tham gia xây dựng kế
hoạch tuyển sinh, kế hoạch giáo dục của nhà trường, kế hoạch quản lý tài chính, tài
sản, tổ chức bộ máy và thật sự của cơ sở giáo dục; trình Hội đồng trường phê duyệt
các kế hoạch trước khi tổ chức thực hiện. Tổ chức thực hiện kế hoạch tuyển sinh, kế
hoạch giáo dục của nhà trường, kế hoạch quản lý tài chính, tài sản, tổ chức bộ máy và
nhân sự của cơ sở giáo dục; quản lý, sử dụng các nguồn lực xã hội hóa, bảo đảm đúng
mục đích, cơng bằng, cơng khai, minh bạch. Tổ chức đánh giá và kiểm định chất
lượng giáo dục của cơ sở giáo dục theo quy định; tổ chức cho cán bộ, giáo viên, nhân
viên, người lao động tham gia đánh giá chất lượng giáo dục và kiểm định chất lượng
giáo dục của cơ sở giáo dục. Công khai mục tiêu chất lượng giáo dục, điều kiện bảo
đảm chất lượng giáo dục, kết quả tuyển sinh, kết quả giáo dục, kết quả đánh giá và
kiểm định chất lượng giáo dục của cơ sở giáo dục theo quy định của pháp luật. Thực
hiện trách nhiệm và quyền hạn khác theo quy định của pháp luật về thực hiện dân chủ
trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập.
Trách nhiệm và quyền hạn của giáo viên, nhân viên, người lao động trong cơ sở giáo
dục. Tham gia xây dựng và thực hiện kế hoạch tuyển sinh, kế hoạch giáo dục của nhà
trường, kế hoạch quản lý tài chính, tài sản, tổ chức bộ máy và nhân sự của cơ sở giáo
dục theo chức năng, nhiệm vụ được phân công. Tham gia tổ chức tuyển sinh, tổ chức
hoạt động giáo dục, quản lý tài chính, tài sản, tổ chức bộ máy và nhân sự của cơ sở
giáo dục theo chức năng, nhiệm vụ được phân công. Tham gia giám sát việc tổ chức
tuyển sinh, tổ chức hoạt động giáo dục, quản lý tài chính, tài sản, tổ chức bộ máy và
nhân sự của cơ sở giáo dục theo quy định của pháp luật. Thực hiện trách nhiệm và
quyền hạn khác theo quy định của pháp luật về thực hiện dân chủ trong hoạt động của
cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập.
11
2.1.3 Học sinh, sinh viên
Những năm qua, nhiều chính sách được đưa ra nhằm để học sinh, sinh viên thực
hiện quyền dân chủ của mình. Tuy nhiên, mục tiêu đạt được rất ít ỏi vì hầu hết học
sinh, sinh viên khá rụt rè, e ngại, lo sợ để công khai thể hiện ý kiến, quan điểm của
mình. Vì các học sinh, sinh viên đều có quan điểm rằng những quy định, nội quy đó
của nhà trường là ý kiến, sự tán thành chung của các bậc thầy cô hay là những học
sinh khác chấp nhận được mình cũng chấp nhận được. Chính vì lẽ đó, cần phải xóa bỏ
tư tưởng sai lệch của học sinh, sinh viên để họ thực hiện quyền dân chủ chính đáng
của mình.
Từ đó, ngành giáo dục đã cho phép học sinh được đóng góp ý kiến để xây dựng: Nội
quy, quy định của nhà trường có liên quan đến học sinh. Tổ chức phong trào thi đua và
các hoạt động khác trong nhà trường có liên quan đến học sinh. Việc tổ chức giảng dạy
của giáo viên, học tập của học sinh trong nhà trường có liên quan đến quyền lợi học
tập của học sinh. Những ý kiến đóng góp của học sinh, sinh viên ngày nay cũng có thể
khơng cần phải bày tỏ cơng khai mà có thể gặp riêng hay đóng góp với tư cách ẩn
danh. Chính những điểm mới này sẽ tạo nên cơ hội tốt đề dân chủ được thực hiện.
Nhằm phát huy quyền dân chủ một cách mạnh mẽ và tồn diện, nhiều trường phổ thơng
ở thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện chương trình “Đối thoại mùa xuân” vào thời điểm
học sinh chuẩn bị nghỉ Tết Nguyên đán. Cụ thể, sau khi học sinh kiểm tra xong học kì 1,
các trường tổ chức chương trình này nhằm lắng nghe tiếng nói của các em qua nhiều
phương diện. Học sinh tự do bày tỏ ý kiến của mình về việc dạy của giáo viên, các hoạt
động phong trào của trường lớp và những mong muốn khác mà các em gửi gắm. Trước
khi chương trình “Đối thoại mùa xuân” diễn ra khoảng một tuần, lớp trưởng của từng lớp
tiến hành khảo sát ý kiến của các thành viên sau một học kì. Học sinh tự do nêu ý kiến của
mình về phương pháp giảng dạy, cách ứng xử của giáo viên, nhân viên nhà trường. Các
em cũng có quyền đánh giá các hoạt động phong trào của trường, lớp hoặc điều kiện vui
chơi giải trí nơi mình đang theo học. Cùng với đó, học sinh cũng có thể đề xuất những
cách làm hay có hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng học tập, sinh hoạt. Ý kiến riêng của
thành viên được xem như ý kiến chung của tập thể lớp nên học sinh khơng phải lo sợ lộ
danh tính cá nhân. Sau đó, lớp trưởng tập hợp các
12
ý kiến, phân loại thành những nội dung chính và trực tiếp gửi cho Ban Giám hiệu nhà
trường. Với cách làm này, giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn gần như không can
thiệp đến học sinh khi các em có ý kiến trái chiều về thầy cơ, trường lớp. Cũng nhờ
cách làm này, học sinh đã có nhiều ý kiến đóng góp thiết thực, chân tình cho thầy cơ,
kể cả Ban Giám hiệu.
2.2 Thực trạng thực hiện dân chủ trong nềề̀n giáo dục ở TP.HCM hiện nay
2.2.1. Những mặt đạt được và nguyên nhân
Những thành tựu đã đạt được trong thực hành dân chủ ở nhà trường đại học Việt
Nam hiện nay:
*Về thực hành dân chủ trong nội dung, chương trình giảng dạy
Với phương châm đào tạo “lấy người học làm trung tâm”, ngành giáo dục- đào tạo
đang tiến hành đổi mới nội dung chương trình và quy trình đào tạo nhằm tăng khả
năng chủ động, sáng tạo, kích thích năng lực tự học, độc lập nghiên cứu của sinh viên.
Những đổi mới này có ảnh hưởng trực tiếp đến kế hoạch giảng dạy của các trường đại
học, đến kế hoạch dạy học của giảng viên và sinh viên.
Các chương trình đào tạo đại học thường xuyên được cải tiến, được xây dựng lại
theo hướng tăng cường tính liên thơng giữa các chương trình đào tạo gần ngành với
nhau, tăng cường các mơn tự chọn giúp sinh viên có thể chọn học những môn hợp sở
trường, nguyện vọng của mình. Các trường đại học ở nước ta vẫn đang trong quá trình
chuyển đổi triệt để quy trình đào tạo từ niên chế sang học chế tín chỉ. Quy trình này
cho phép sinh viên tự chọn kế hoạch học tập riêng cho mình, phát huy tối đa quyền
làm chủ của cả người học và người dạy. Tuy nhiên, cần có thời gian và những điều
kiện tối thiểu để từng bước làm quen với mơ hình đào tạo mới này.
Thực tiễn giảng dạy cho thấy, đội ngũ giảng viên đã hoàn thành tương đối tốt nhiệm
vụ của mình. Họ tơn trọng chương trình, tơn trọng người học, chuyển tải đủ nội dung
theo những chương trình thích hợp với chức năng, nhiệm vụ đào tạo của của trường
mình. Đây là yếu tố quan trọng để tạo nên sự đồng thuận trong mục tiêu đào tạo chung
giữa các trường, vừa phát huy được những thế mạnh của từng trường trong việc giảng
dạy.
13
*Thành tựu thực hành dân chủ trong đào tạo, nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế
ở các nhà trường đại học nước ta
Thực hiện dân chủ trong nhà trường, trước hết là tạo cơ chế để mỗi cán bộ, giảng
viên được tham gia vào quá trình hoạt động chuyên môn của nhà trường, làm cho họ
thực sự trở thành những người làm chủ trong nhà trường. Trường đại học là cơ sở đào
tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước, đồng thời là cơ sở nghiên cứu khoa
học và chuyển giao công nghệ cho các lĩnh vực hoạt động kinh tế- xã hội của cả nước.
Trường đại học phải chịu trách nhiệm trước toàn xã hội về các sản phẩm khoa học,
cơng nghệ của mình, trong đó sản phẩm đặc biệt là các chuyên gia thuộc các lĩnh vực
kinh tế, văn hóa, xã hội khác nhau. Trong bối cảnh của cuộc vận động “hai không” với
bốn nội dung của ngành giáo dục và đào tạo hiện nay: khơng bệnh thành tích; khơng
tiêu cực trong thi và kiểm tra; không đào tạo không đạt chuẩn và không theo nhu cầu
xã hội; không vi phạm đạo đức nhà giáo thì việc tồn thể cán bộ, giảng viên tham gia
vào q trình hoạt động chun mơn của nhà trường càng trở nên quan trọng hơn bao
giờ hết. Hơn nữa, việc trao quyền tự chủ cho các trường đại học trong việc xác định
quy mô đào tạo, tuyển sinh, chất lượng đào tạo địi hỏi các nhà trường phải có năng
lực tự quản tốt, nếu không sẽ bị đào thải.
Vấn đề dân chủ trong quá trình đào tạo ở các trường đại học nước ta thời gian qua đã
từng bước được cải thiện và đạt được những thành tựu bước đầu quan trọng. Quy trình
tuyển sinh dần dần được cải tiến theo hướng công khai, công bằng, dân chủ hơn. Quy
mô đào tạo mở rộng tương đối hợp lý, tạo điều kiện cho phần lớn thanh niên có đủ
điều kiện tham gia học tập tại các trường đại học.
Vấn đề tuyển dụng sinh viên sau khi ra trường vào làm việc tại các các cơ sở cũng
được cơng khai hóa. Nhiều trường đại học đã phối kết hợp với các cơ sở tuyển dụng để
thực hiện “đào tạo theo nhu cầu xã hội”, thực hiện “ba cơng khai”, nhờ đó người học
và gia đình họ có điều kiện thuận lợi trong việc chọn trường, chọn nghề, chọn nơi làm
việc sau khi ra trường.
*Thực hiện tốt vấn đề dân chủ trong quản lý tài chính và cơ sở vật chất của nhà
trường
14
Quá trình thực hiện dân chủ trong lĩnh vực quản lý những năm qua ở các trường đại
học nước ta đã đạt được một số bước phát triển quan trọng, góp phần làm cho nhà
trường ngày càng lớn mạnh. Các lĩnh vực quản lý của nhà trường đã dần dần được
cơng khai hóa, minh bạch hóa và có hiệu quả ngày càng cao, được cán bộ, giảng viên
trong trường ghi nhận. Hầu hết các trường đại học đều thực hiện tốt “ba công khai”,
“bốn kiểm tra”.
Trước hết là về quản lý tài chính, chi tiêu trong nhà trường. Tài chính của một trường
đại học bao gồm các nguồn thu chính là: nguồn thu do ngân sách nhà nước cấp; nguồn thu
học phí; nguồn thu từ đào tạo ngồi ngân sách (đào tạo hợp đồng, đào tạo tại chức, v.v.);
nguồn thu từ các hoạt động khoa học, công nghệ; các nguồn tài trợ khác. Do các nguồn
thu khá đa dạng nên đây là lĩnh vực dễ nảy sinh tiêu cực. Hiệu trưởng là người chịu trách
nhiệm toàn bộ về các nội dung thu, chi tài chính trong trường cho nên cũng dễ xảy ra tình
trạng độc đốn, chun quyền, mất dân chủ trong lĩnh vực này. Đây còn là nội dung nhạy
cảm do nó liên quan trực tiếp đến thu nhập và cuộc sống của mỗi người nên thường được
mọi người quan tâm. Mỗi khoản thu, chi không hợp lý hay những thủ tục thanh tốn rườm
rà đều gây bất bình cho cán bộ, giảng viên. Hiện nay, các nhà trường đã có nhiều cố gắng
trong việc cơng khai các khoản thu chi trong các báo cáo tại đại hội công nhân viên chức
trường hàng năm, các khoản thu chi đều có giải trình rõ ràng. Trong việc mua sắm trang
thiết bị, xây dựng cơ bản trong trường đều được công khai hóa, khách quan hóa trong việc
đấu thầu, đấu giá. Những cơng việc liên quan đến tài chính và cơ sở vật chất (phịng kế
hoạch tài chính, phịng quản trị của các trường) đều được giao cho những người có
chuyên môn để giúp đỡ ban giám hiệu, hiệu trưởng trong quản lý tài chính và cơ sở vật
chất của nhà trường.
*Thực hành dân chủ trong công tác quản lý cán bộ
Việc thực hiện chính sách đối với cán bộ, giảng viên và việc tuyển dụng, sử dụng, bổ
nhiệm, quản lý đào tạo cán bộ đã được các trường từng bước thực hiện có hiệu quả.
Các hoạt động này đã được thực hiện đúng quy trình, đảm bảo cơng khai, dân chủ nên
được cán bộ, giảng viên ghi nhận.
Việc công khai hóa và thực hiện đúng các chính sách đối với cán bộ, giảng viên luôn
là ưu tiên hàng đầu trong các trường đại học vì nó tác động trực tiếp đến thái độ làm
1
5
việc và bầu khơng khí dân chủ trong trường. Rất nhiều chế độ, chính sách đối với cán
bộ, giảng viên được thực hiện kịp thời và hiệu quả như tăng lương đúng chế độ, các
chính sách ưu đãi nghề nghiệp, thanh toán vượt giờ, tiền hỗ trợ tăng thêm, hỗ trợ học
tập, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, chi cho nghiên cứu khoa học của cán bộ, giảng
viên, v.v. Những việc làm cụ thể mà các trường đại học đã thực hiện được góp phần
đáng kể vào việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho cán bộ, giảng viên trong
trường, kích thích tính tích cực của cán bộ, giảng viên thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị
của nhà trường.
Vấn đề tuyển chọn, bố trí, sử dụng và điều động cán bộ cũng từng bước được cơng
khai hóa về chỉ tiêu, tiêu chuẩn, quy trình tuyển dụng và bố trí cán bộ. Quy trình bổ
nhiệm cán bộ lãnh đạo các cấp trong trường dần dần được xác lập hợp lý, vừa đảm bảo
quyền dân chủ, vừa có định hướng, lãnh đạo thống nhất từ trên xuống, từ khâu quy
hoạch cán bộ, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nguồn kế cận đến tiến trình bầu cử đều có kế
hoạch rõ ràng và có sự thăm dị ý kiến, lấy phiếu tín nhiệm của cán bộ, giảng viên
trong trường (tùy vào từng chức danh và căn cứ vào điều kiện cụ thể mà các trường
lựa chọn mức độ phổ cập của việc lấy phiếu tín nhiệm - trực tiếp hoặc đại diện).
*Trong công tác quản lý sinh viên
Sinh viên là lực lượng đông đảo nhất trong các trường đại học nước ta hiện nay. Với
phương châm đào tạo là lấy người học làm trung tâm thì dân chủ trong sinh viên là
một trong những nội dung rất quan trọng của việc thực hiện dân chủ trong nhà trường.
Để sinh viên hiểu hơn về quyền và trách nhiệm thực hiện dân chủ của mình trong nhà
trường, các trường đại học đã tổ chức tuần sinh hoạt công dân, tuần sinh hoạt chính trị
đầu khóa, các buổi nói chuyện chun đề, hội thảo, v.v. Thông qua những hội nghị, hội
thảo này, sinh viên được học tập, phổ biến các quy chế, quy định của ngành và nhà
trường, các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, qua
đó nắm bắt được quyền và nghĩa vụ của mình. Ngồi ra, các trường còn cung cấp cho
sinh viên các tài liệu về quy chế đào tạo, cung cấp nguồn tư liệu để sinh viên tìm hiểu
thêm về các chính sách, pháp luật liên quan đến quyền và nghĩa vụ của sinh viên trong
nhà trường đại học.
16
Dân chủ trong sinh viên phụ thuộc chủ yếu vào quá trình thực hiện dân chủ của khoa
chủ quản, của nhà trường đại học. Trong đó, sát với sinh viên nhất là tập thể lớp, chi
đoàn, đây là nơi sinh viên thể hiện quyền làm chủ của mình. Với quy trình đào tạo
theo niên chế thì tập thể lớp là nơi sinh viên gắn bó trong suốt q trình học đại học
của mình. Hiện nay, nhiều trường thực hiện sinh hoạt lớp hành chính định kỳ 4 lần
trong một năm học để giảng viên cố vấn học tập tư vấn các hoạt động cho lớp, hướng
dẫn lớp trong việc thực hiện tự quản các hoạt động của sinh viên, qua đó phát huy tối
đa quyền dân chủ, tính năng động, sáng tạo của sinh viên thông qua sự điều hành của
ban cán sự lớp và chi đoàn sinh viên.
Bên cạnh việc tạo điều kiện cho sinh viên được tham gia làm chủ tập thể, làm chủ
nhà trường, các trường đại học đồng thời cũng nghiêm túc và thực hiện kịp thời các
quy định về khen thưởng, kỷ luật trong sinh viên nhằm giáo dục những sinh viên chậm
tiến, động viên những sinh viên tích cực trong học tập và sinh hoạt.
*Nguyên nhân của những thành tựu
Quá trình thực hiện dân chủ trong các trường đại học ở nước ta đã đạt được những
thành tựu đáng kể. Môi trường dân chủ đã được hình thành và ngày càng đi vào thực
chất ở các trường đại học để kích thích khả năng sáng tạo và cống hiến của cán bộ,
giảng viên. Nhận thức và ý thức dân chủ cũng như năng lực và hành vi làm chủ của
các chủ thể ngày càng được nâng cao. Để đạt được những thành tựu đó là do có nhiều
nguyên nhân:
-
Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, dân chủ là một giá trị của văn minh nhân loại, là một xu thế tất yếu của
thời đại. Nó đang tác động lên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội trên toàn thế
giới. Việt Nam đang tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế, vì vậy, các xu thế chung
của thời đại không thể không tác động lên đất nước ta.
Thứ hai, dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống u nước thương nịi, đồn kết, yêu
thương giúp đỡ lẫn nhau, cho nên dân chủ đã trở thành truyền thống lâu đời của các
thế hệ người Việt, tuy chưa thật sự rõ nét.
17
Thứ ba, quan điểm, đường lối, chính sách dân chủ của Đảng và Nhà nước ta được
xây dựng trên nền tảng của chủ nghĩa Mác –Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh ngày
càng hồn thiện hơn, có hệ thống và đúng đắn hơn. Trong suốt quá trình cách mạng,
Đảng ta ln đề cao vai trị của nhân dân, coi cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân
và vì dân. Thắng lợi của cách mạng chính là thắng lợi của phong trào quần chúng dưới
sự lãnh đạo của Đảng. Đảng ta đã rút ra được bài học kinh nghiệm quý báu “lấy dân
làm gốc, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân”. Trong thời kỳ đổi mới,
Đảng ta đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết quan trọng về dân chủ, lãnh đạo Nhà
nước xây dựng quy chế dân chủ và quy chế dân chủ ở cơ sở. Các chỉ thị, nghị quyết
đúng đắn và khâu chỉ đạo thực hiện khá sát sao đã góp phần quan trọng vào quá trình
thực hiện dân chủ ở cơ sở trong đó có các loại hình cơ sở ngành giáo dục.
-
Nguyên nhân chủ quan
Bên cạnh những nguyên nhân khách quan thì từ phía các chủ thể thực hiện dân chủ
trong nhà trường cũng đã có những cố gắng nỗ lực để mở rộng bầu khơng khí dân chủ
trong nhà trường
Một là, trường đại học là loại hình cơ sở có trình độ dân trí cao nên rất thuận lợi
trong việc xây dựng và phát huy dân chủ. Dân chủ luôn gắn liền với dân sinh, dân trí.
Trình độ dân trí càng cao thì địi hỏi dân chủ càng phải được mở rộng. So với các loại
hình cơ sở khác thì trường đại học là loại hình có trình độ dân trí cao. Đội ngũ cán bộ
giảng dạy có trình độ từ đại học trở lên; đội ngũ cán bộ công chức phục vụ giảng dạy
cũng có trình độ học vấn và chuyên môn cao; đội ngũ cán bộ quản lý trong trường đại
học đều có trình độ sau đại học, nhiều vị trí đặc biệt phải có trình độ tiến sĩ. Đội ngũ
này có đầy đủ năng lực và điều kiện làm chủ và họ đang góp phần đắc lực vào quá
trình thực hiện dân chủ trong các trường đại học. Đội ngũ người học là những thanh
niên ưu tú, có trình độ và năng động, ln nhạy cảm với cái mới. Đội ngũ cán bộ,
giảng viên, sinh viên của nhà trường là nhân tố quan trọng góp phần vào việc xây
dựng và mở rộng dân chủ trong các trường đại học ở nước ta hiện nay. Đội ngũ thanh
niên ưu tú này sẽ là chủ nhân tương lai của đất nước và họ đang góp phần đắc lực vào
quá trình làm chủ nhà trường và làm chủ bản thân.
18
Hai là, trường đại học là loại hình cơ sở có cơ cấu tổ chức chặt chẽ và thống nhất
nên rất thuận lợi cho việc triển khai và tổ chức thực hiện dân chủ. Hệ thống chính trị
trong các trường đại học (công lập) nước ta hiện nay bao gồm các tổ chức đảng, chính
quyền và các đồn thể quần chúng (cơng đồn, đồn thanh niên, hội sinh viên, hội cựu
chiến binh). Ngồi ra cịn các hoạt động giám sát của quần chúng thông qua ban thanh
tra nhân dân và ủy ban kiểm tra. Hoạt động của các tổ chức và cơ quan trong nhà
trường tuân thủ nguyên tắc chung là: “Đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý và nhân
dân làm chủ”. Đây là những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những thành tựu của việc
thực hiện dân chủ trong các trường đại học ở nước ta.
Ba là, việc tăng cường quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội cho các trường đại học
góp phần thúc đẩy mạnh mẽ quá trình thực hiện dân chủ trong các nhà trường. Quản lý
nhà nước đối với giáo dục đại học hiện nay chủ yếu nhằm vào việc xây dựng chính
sách, chiến lược phát triển, môi trường pháp lý cho giáo dục đại học; triển khai và chỉ
đạo thực hiện các chính sách và chiến lược; giám sát và thanh tra quá trình thực hiện;
điều tiết vĩ mô về quy mô phát triển các trường... Bản thân các trường đại học, học
viện được trao nhiều quyền tự chủ về đào tạo, nghiên cứu khoa học, tổ chức nhân sự,
tài chính, hợp tác quốc tế; tập trung phần lớn thẩm quyền ban hành quyết định cho cấp
trường, nâng cao trách nhiệm xã hội của các trường đại học nhằm tăng cường khả
năng cạnh tranh của nhà trường. Trách nhiệm xã hội là trách nhiệm cơng khai hóa các
hoạt động của nhà trường với các nhóm người liên quan như: Nhà nước, nhà tài trợ,
giáo chức và viên chức, sinh viên và gia đình của họ... Q trình này địi hỏi các
trường đại học nước ta phải tăng cường hơn nữa quyền làm chủ của các chủ thể thực
hiện dân chủ trong trường.
Ngồi ra cịn phải nói đến vai trị cá nhân của các đồng chí lãnh đạo Đảng, chính
quyền, đồn thể quần chúng trong trường, vai trị của các quần chúng tích cực, các cá
nhân điển hình từ các phong trào quần chúng khác trong trường. Những cá nhân tiêu
biểu này đã và đang góp phần kích thích tính tích cực và năng lực làm chủ của các chủ
thể khác trong trường.
2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân
19
Tuy đã đạt được những thành tích bước đầu quan trọng, nhưng quá trình thực hiện
dân chủ trong nhà trường đại học nước ta vẫn còn nhiều hạn chế, thiếu sót. Hạn chế
này thường được biểu hiện trên hai phương diện chính là: dân chủ tùy tiện, thiếu định
hướng dẫn đến vi phạm các nguyên tắc, quy định về dân chủ của cấp trên; hoặc ngược
lại, vận dụng một cách cứng nhắc các văn bản, quy định, quy chế dân chủ được áp đặt
từ trên xuống vào quá trình thực hiện dân chủ trong nhà trường nên khơng thấy được
tính đặc thù của q trình này trong khn khổ nhà trường đại học, dẫn đến hiện tượng
rập khuôn giáo điều; vẫn cịn những biểu hiện dân chủ hình thức trong một số hoạt
động của nhà trường. Qua quá trình nghiên cứu, khảo sát có thể rút ra những hạn chế
chủ yếu như sau:
*Hạn chế của hệ thống chính trị trong thực hiện dân chủ ở các trường đại học ở nước
ta
Nhiều cấp ủy đảng, chính quyền cịn né tránh vấn đề dân chủ, dẫn đến tình trạng
bng xi, làm mất trật tự, kỷ cương hoặc dân chủ bị bóp nghẹt; hoạt động của các
đồn thể quần chúng trong trường cịn mang tính thụ động, thiếu độc lập và sáng tạo
nên việc phát huy dân chủ cịn nhiều hạn chế.
Việc đồn kết nội bộ trong tập thể đảng ủy, ban giám hiệu nhà trường là một vấn đề
tiên quyết đảm bảo tiến trình thực hiện dân chủ trong nhà trường. Có khơng ít trường
hợp hiệu trưởng và bí thư đảng ủy mâu thuẫn với nhau, hiệu trưởng và phó hiệu
trưởng khơng đồng quan điểm với nhau, dẫn đến tranh giành, khiếu kiện lẫn nhau, làm
cho nội bộ lục đục, quần chúng bất bình, nhà trường khủng hoảng, nguyên tắc tập
trung dân chủ bị phá vỡ, quyền làm chủ của cán bộ, giảng viên bị vi phạm..
Vấn đề thực hiện “Ba công khai” vẫn chưa đi vào thực chất. Chủ yếu mới chỉ công
khai về chỉ tiêu tuyển sinh, kế hoạch đào tạo. Còn vấn đề liên quan đến đời sống của
cán bộ, giảng viên là tài chính thì việc cơng khai cịn hạn chế. Hội nghị cơng chức
hàng năm của các đơn vị thường có mục cơng khai tài chính nhưng các số liệu chủ yếu
là “tổng thu, tổng chi” chứ chưa cơng khai cụ thể, rõ ràng. Có trường hợp, do đảng ủy,
ban giám hiệu không cung cấp đầy đủ và kịp thời những thơng tin cần thiết, khơng có
sự giải thích thỏa đáng cho nên, mặc dù các quyết định được đưa ra là đúng đắn nhưng
vẫn không được quần chúng ủng hộ. Có trường hợp, lãnh đạo tìm cách che giấu thông
20
tin hoặc cung cấp thơng tin khơng chính xác để hướng quần chúng theo những quyết
định chủ quan của mình, khi bị quần chúng phát hiện lại tìm cách bao biện, nhiều khi
bất chấp dư luận. Điều đó làm giảm sút lòng tin của quần chúng đối với lãnh đạo, dân
chủ bị vi phạm. Những hiện tượng mất dân chủ, hạn chế dân chủ hay dân chủ hình
thức như trên vẫn tồn tại trong hoạt động của đảng ủy, ban giám hiệu một số trường
đại học, cho nên tín nhiệm từ phía quần chúng đối với các cơ quan lãnh đạo và quản lý
cao nhất này chưa phải là tuyệt đối.
*Hạn chế trong nhận thức về dân chủ của cán bộ, giảng viên và sinh viên
Nhận thức về dân chủ của các đối tượng quần chúng trong nhà trường còn chưa đầy
đủ, mơ hồ, chung chung, cho nên thực hiện chưa đúng quyền và nghĩa vụ của mình;
dân chủ đơi khi cịn mang tính áp đặt từ trên xuống thơng qua hệ thống văn bản, chưa
thật sự phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của quần chúng.
Tuy nhiên, nếu coi đại học là mơi trường có trình độ dân trí cao so với các loại hình
cơ sở khác thì nhận thức dân chủ của một bộ phận cán bộ, giảng viên, sinh viên chưa
đáp ứng được yêu cầu mà thực tế địi hỏi.
*Về nội dung, chương trình giảng dạy tại các trường đại học nước ta hiện nay
Thực hiện dân chủ trong quá trình học tập, nghiên cứu khoa học của sinh viên là một
vấn đề được ngành giáo dục- đào tạo và các trường hết sức quan tâm. Trên thực tế,
ngành giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng, thời gian qua đã có những nỗ
lực để đổi mới, kết cấu lại khung chương trình từ nội dung cho đến phương pháp giảng
dạy.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nội dung, chương trình đào tạo đại học hiện nay
vẫn còn một số tồn tại cần khắc phục như: nội dung kiến thức truyền đạt nhiều khi còn
chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; ở một số nội dung thuộc các ngành lý luận chính trị cịn
mang nặng tính kinh viện, chưa cập nhật kiến thức thực tiễn, thiếu sức thuyết phục đối với
người học. Đây là một hạn chế lớn cần khắc phục vì nội dung, chương trình mơn học là
yếu tố ảnh hưởng rất mạnh đến việc tạo ra hứng thú học tập cho sinh viên. Bài giảng
khơng có sức hấp dẫn chính là nguyên nhân đầu tiên dây mất hứng thú học tập, giảm hiệu
quả tiếp thu tri thức. Việc không quan tâm đến việc bổ sung chương
21
trình giảng dạy chứng tỏ nhà trường và cán bộ giảng dạy ít quan tâm đến nhu cầu tiếp
thu tri thức của sinh viên, không tôn trọng thực tiễn, kiến thức học ở nhà trường và
thực tiễn sau khi đi làm có q nhiều chênh lệch dẫn đến tình trạng sinh viên ra trường
không đáp ứng được yêu cầu của xã hội và phải trải qua một thời gian đào tạo lại, điều
này ảnh hưởng rất lớn đến uy tín của nhà trường đối với cơ sở tuyển dụng.
*Trong nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế và quản lý giáo dục
Trong nghiên cứu khoa học, dân chủ nhiều khi chỉ mang tính hình thức, tính phản
biện của hoạt động này chưa cao vì phần lớn phụ thuộc vào uy tín cá nhân. Các đề tài
khoa học, dự án khoa học trong nhiều trường hợp vẫn cịn mang tính ban phát, phải
khuôn theo những “định hướng nghiên cứu” nhất định hoặc nằm trong “chế độ ưu
tiên” nên cịn thiếu cơng bằng trong xét duyệt, tính sáng tạo chưa cao, hiệu quả thấp.
Sự tham gia của cán bộ, giảng viên vào cơng tác đào tạo cịn khiêm tốn. Phần đơng
trong số họ mới chỉ được biết và thực hiện các nhiệm vụ được giao chứ chưa được
quyền quyết định các vấn đề này, chỉ một số ít người được tham gia bàn bạc. Vấn đề
xây dựng chương trình đào tạo, giáo trình, đề cương bài giảng thường bị hạn chế bởi
những văn bản pháp quy là đặc quyền của một số ít người, số đơng cịn lại chỉ là người
thực hiện cho nên chưa phát huy triệt để tính sáng tạo của đội ngũ giảng viên có học vị
thấp nhưng giàu kinh nghiệm.
Ngồi những thiếu sót chủ yếu trên, q trình thực hiện dân chủ trong các trường đại
học nước ta, có nơi, có lúc vẫn cịn một số hạn chế khác như: quy chế cịn rườm rà,
khó nhớ, khó thực hiện; hoạt động của ban thanh tra nhân dân còn lúng túng, chưa
phát huy hết vai trị của mình; nội dung của các quy chế, quy định về dân chủ còn
chung chung; hoạt động của ban chỉ đạo thực hiện quy chế dân chủ còn chưa thường
xuyên và chưa rõ nét...
*Nguyên nhân của những yếu kém
Có nhiều nguyên nhân khác nhau dân đến những bất cập trong quá trình thực hiện
dân chủ trong nhà trường đại học ở nước ta hiện nay. Việc xác định đúng đắn những
nguyên nhân này là cơ sở để đề xuất các giải pháp khả thi nhằm nâng cao hiệu quả quá
22
trình thực hiện dân chủ trong nhà trường. Trong số những nguyên nhân gây nên tình
trạng yếu kém, bất cập trên, có nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan,
nhưng nguyên nhân chủ quan vẫn là chủ yếu.
-
Nguyên nhân khách quan
Một là, những tàn dư phong kiến vẫn còn tồn tại và ảnh hưởng sâu sắc trong xã hội
nước ta nói chung và mơi trường giáo dục nói riêng. Kiểu gia đình truyền thống với
chế độ gia trưởng đã tồn tại ở nước ta hàng ngàn năm, không dễ dàng xóa bỏ trong
ngày một ngày hai và nó trở thành một lực cản rất lớn đến quá trình thực thi và mở
rộng dân chủ trong đời sống xã hội. Trong nhà trường đại học, các mối quan hệ giữa
thủ trưởng và nhân viên, cán bộ và giảng viên, giảng viên và sinh viên cũng bị ảnh
hưởng bởi quan niệm truyền thống này.
Hai là, thực hiện dân chủ trong nhà trường là một quá trình lâu dài, thường xuyên và
liên tục. Dư luận vẫn thường nói về chế độ lãnh đạo ở Việt Nam cịn mang nặng tính
chất nhiệm kỳ tức là những chính sách của thủ trưởng nhiệm kỳ cũ sẽ ít được áp dụng
vào những nhiệm kỳ sau, trước đây, nhiệm kỳ của một số tổ chức thường rất ngắn (chi
ủy 2,5 năm, nhiệm kỳ đoàn thanh niên và cơng đồn thường là 2-3 năm, có khi chỉ kéo
dài trong vòng 1 năm)... nên nhiều người kế nhiệm cịn chưa nắm bắt kịp thời đã hết
nhiệm kỳ cơng tác, khâu bàn giao còn nhiều lơi lỏng.
Ba là, việc thực hiện dân chủ trong nhà trường còn nhiều bất cập. Nhiều vấn đề lý
luận và thực tiễn của của dân chủ còn chưa được làm rõ như chế độ dân chủ và chế độ
thủ trưởng, công khai dân chủ và cạnh tranh, quyền và nghĩa vụ, v.v. Các yêu cầu về
nâng cao đời sống nhân dân, nâng cao trình độ dân trí, bồi dưỡng văn hóa dân chủ,
cung cấp thơng tin địi hỏi một nguồn kinh phí khá lớn, vượt qua khả năng tài năng tài
chính của các nhà trường.
-
Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, một số cấp ủy, lãnh đạo nhà trường và các đoàn thể quần chúng trong
trường còn nhiều hạn chế về nhận thức dân chủ hoặc có nhận thức đúng nhưng hành
động khơng đúng. Do chưa nhận thức sâu sắc, đầy đủ về mục đích, ý nghĩa của quá
trình thực hiện dân chủ và tác động của Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động
23
của nhà trường, cho nên dẫn đến tình trạng một số trường đại học đã giao khoán cho
một vài người theo dõi việc thực hiện Quy chế. Những người được giao nhiệm vụ triển
khai, theo dõi việc thực hiện Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà
trường lại làm việc thiếu kế hoạch, không thường xuyên, thiếu sự kiểm tra, giám sát và
khơng có tổng kết, đánh giá.
Thứ hai, sự phối hợp chỉ đạo thực hiện Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động
của nhà trường và cuộc vận động dân chủ ở một số trường đại học chưa tốt.
Sự phối hợp giữa đảng ủy, ban giám hiệu và các đoàn thể quần chúng ở một số trường
trong việc chỉ đạo việc thực hiện Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà
trường còn chưa đồng bộ, chưa thống nhất, thiếu cụ thể, rành mạch nên dẫn đến hiện
tượng đợi chờ hoặc chồng chéo. Do việc phối hợp giữa đảng ủy và ban giám hiệu
trong việc chỉ đạo và thực hiện Quy chế dân chủ trong hoạt động của nhà trường chưa
tốt, thiếu quy chế cụ thể và rõ ràng, khi gặp vướng mắc thì lúng túng, đổ lỗi cho nhau.
Điều này cũng ảnh hưởng đến hoạt động của các đoàn thể quần chúng khi thường
trông chờ vào các quy định của đảng ủy và ban giám hiệu, trong khi đó các quy định
lại khơng rõ ràng dẫn đến tình trạng ỷ lại. Chính điều này đã làm cản trở việc phát huy
dân chủ trong nhà trường, đặc biệt là việc phát huy vai trò của cán bộ, giảng viên và
sinh viên.
Sự thiếu đồng bộ trong chỉ đạo đơi khi cịn dẫn đến những chồng chéo, mâu thuẫn về
văn bản hướng dẫn từ các cấp, các ngành. Chỉ đạo của cơ sở không thống nhất với chỉ
đạo của Trung ương và Bộ Giáo dục và Đào tạo; chỉ đạo của đảng ủy khác với chỉ đạo
của chính quyền và đồn thể; chỉ đạo chung của ngành khác với chỉ đạo theo ngành
dọc. Điều này làm cho quần chúng lúng túng, không biết làm chủ bằng cách nào và
như thế nào?
Thứ ba, hoạt động của ban chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ trong hoạt động của
nhà trường ở một số trường đại học cịn mờ nhạt, chưa thường xun, thiếu hiệu quả.
Cũng có những trường hợp ban chỉ đạo chỉ tồn tại trên danh nghĩa, có quyết định
thành lập rồi bị lãng quên, hồn tồn khơng phát huy được vai trị của mình. Việc sơ
kết, tổng kết việc thực hiện Quy chế dân chủ thường được lồng ghép một cách qua loa
24
trong các bản tổng kết của đảng ủy, chính quyền và các tổ chức chính trị- xã hội trong
trường.
Thứ tư, năng lực tổ chức thực hiện dân chủ của đội ngũ cán bộ cơ sở trong các
trường đại học còn nhiều hạn chế. Cán bộ lãnh đạo Đảng, chính quyền và đoàn thể
quần chúng trong các trường đại học nước ta phần lớn cịn thiếu trình độ quản lý nhà
nước, thiếu đào tạo bài bản về công tác này nên khả năng lãnh đạo, khả năng tổ chức
còn nhiều bất cập. Chính vì vậy mà hiệu quả cơng tác quản lý và tổ chức thực hiện
chưa cao. Trong công tác thực hiện dân chủ hóa hoạt động quản lý và tổ chức giảng
dạy do đó chất lượng cũng chưa cao.
Năng lực hoạt động của cán bộ thuộc cơ quan dân chủ đại diện như ban thanh tra
nhân dân, các tổ chức chính trị- xã hội cũng thiếu chun nghiệp, khơng thiết thực,
kém hiệu quả, không làm tốt chức năng đại diện của mình.
Thứ năm, trường đại học tuy là một mơi trường dân trí cao so với các loại hình cơ sở
khác, nhưng trình độ khơng đồng đều ở những đối tượng khác nhau với trình độ và
nhận thức khác nhau.
Năng lực thực hiện dân chủ của cán bộ, giảng viên, sinh viên ở một số trường đại
học còn chưa cao. Do chưa nhận thức được đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của mình
trong quá trình thực hiện dân chủ nên một bộ phận nhỏ cán bộ, giảng viên cịn địi hỏi
q mức, khơng đúng quy định. Một bộ phận quần chúng chỉ quan tâm đến quyền mà
ít quan tâm đến nghĩa vụ, dẫn đến tình trạng dân chủ quá trớn, vi phạm kỷ cương, nền
nếp, nội quy, quy chế của nhà trường. Một số phần tử lợi dụng vấn đề dân chủ để kích
động, gấy rối, mất đồn kết nội bộ.
Một bộ phận không nhỏ cán bộ, giảng viên, sinh viên lại có thái độ nể nang, ngại va
chạm, không dám đấu tranh với các hiện tượng mất dân chủ trong trường.
Phần đơng sinh viên vẫn cịn có thái độ “sợ” thầy cô, sợ ảnh hưởng đến kết quả học
tập của mình nên cũng khơng giám đấu tranh bảo vệ quyền làm chủ của mình, thụ
động trong quá trình học tập cũng như các hoạt động khác của nhà trường, thậm chí
nhìn thấy những hiện tượng tiêu cực trong học tập và thi cử nhưng không giám tố cáo.
2
5