Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

BÀI tập lớn môn KINH tế CHÍNH TRỊ mác lê NIN đề tài KINH tế THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG CHỦ NGHĨA xã hội ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.38 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
-------***-------

BÀI TẬP LỚN MÔN
KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC LÊ-NIN
ĐỀ TÀI: KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
Họ và tên SV: Phùng Nhật Minh
Lớp tín chỉ: Kinh tế chính trị_Kế toán
TT62_AEP(220)_05
Mã SV: 11202585

GVHD: PGS.TS NGUYỄN THỊ THANH HIẾU

.
HÀ NỘI, NĂM 2020
1


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...............................................................................................................2
CHƯƠNG I: LỊCH SỬ RA ĐỜI KINH TẾ THỊ TRƯỜNG THEO ĐỊNH HƯỚNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM............................................................................................. 3
1. Đại hội IV 1986....................................................................................................................................... 3
1.1. Bối cảnh lịch sử................................................................................................................................ 3
1.2. Hoạt động của đại hội về kinh tế.........................................................................3
2.Sự thay đổi trong tư duy của Đảng ta từ Đại hội IV đến đại hội XII......................3
CHƯƠNGII:THỰCTIỄNPHÁTTRIỂNNỀNKINHTẾTHỊTRƯỜNGTHEOĐỊNH
HƯỚNGXÃHỘICHỦNGHĨAỞ VIỆT NAM.............................................................. 9
1.1 Mơ hình phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế của thời đại................................... 9
1.2 Những vấn đề cần tiếp tục xem xét và hoàn thiện........................................................................ 10



CHƯƠNG III: PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG THEO ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM QUA VIỆC SỬ DỤNG TỐT
NGUỒN NHÂN LỰC........................................................................................................................... 13
1.1 Tại sao cần phát triển tốt nguồn nhân lực.......................................................... 15
1.2 Kinh tế thị trường và vấn đề nhân lực trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.16
KẾT LUẬN.................................................................................................................... 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................ 19

2


LỜI MỞ ĐẦU
Đại hội VI năm 1986 đã đánh dấu một trang mới trong lịch sử của dân tộc Việt Nam.
Việc thực hiện đường lối và chính sách đổi mới của đảng đã tạo nên một tác động vô
cùng to lớn cho nền kinh tế của nước ta. Từ một đất nước với nền kinh tế lạc hậu, đời
sống của người dân Việt Nam đã ngày một nâng cao và dần sánh ngang với những quốc
gia đang phát triển trên thế giới.
Mặc dù vậy Việt Nam vẫn là nước có thu nhập bình quân thấp, tỉ trọng của nền kinh
tế nơng nghiệp vẫn chiếm phần lớn tỉ trọng. Ngồi ra, tệ nạn xã hội cũng như nạn tham
ô, tham nhũng vẫn cịn tồn đọng. Chính vì vậy mỗi người dân chúng ta phải cùng với
Đảng và nhà nước tìm ra những phương hướng, lối đi mới để khẳng định quyết tậm cơng
nghiệp hố – hiện dại hố đất nước. Hơn thế nữa, trong thời kì hội nhập kinh tế như hiện
nay, chúng ta cần phải bồi dưỡng kiến thức và nhạy bén với những thứ mới để có thể áp
dụng vào nền kinh tế thị trường theo chủ nghĩa xã hội – chính sách đổi mới có tuổi 25
năm đã giúp đất nước của chúng ta thốt khỏi tình cảnh đói nghèo, lạc hậu cho tới một
quốc gia có nền kinh tế vững mạnh.
Với sự ngưỡng mộ và mong muốn tìm hiểu về những chính sách của Đảng và nhà
nước về công cuộc đổi mới và kiến thiết đất nước, em chọn đề tài: “Kinh tế thị trường
theo định hướng XHCN ở Việt Nam”. Bài tiểu luận của em sẽ phân tích tư duy, góc nhìn

của Đảng về nền kinh tế thị trường qua các thời kỳ cũng như sự phát triên kinh tế thị
trường ở Việt Nam và cuối cùng là nguồn nhân lực trong nền kinh tế thị trường – một thứ
mà theo em là “chìa khố vàng” để dẫn tới sự thành công của nền kinh tế thị trường. Em
rất mong được nghe ý kiến và sự chỉ bảo của các thầy cô!


CHƯƠNG I: LỊCH SỬ RA ĐỜI KINH TẾ THỊ TRƯỜNG THEO
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
1.Đại hội VI 1986
1.1.Bối cảnh lịch sử
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam VI diễn ra trong bối cảnh sai lầm của đợt tổng cải
cách cuối năm làm cho càng trở nên khó khăn (tháng 12 năm giá bán lẻ hàng hóa tăng
845,3%). Việt Nam đã không thực hiện được mục tiêu đề ra là cơ bản ổn định tình
hình - xã hội, ổn định đời sống nhân
dân. Số người bị thiếu đói tăng, bội chi lớn. Nền kinh tế Việt Nam lâm vào khủng hoảng
trầm trọng. Tình hình này làm cho trongvà ngồi xã hội có nhiều ý kiến tranh luận xoay
quanh ba vấn đề lớn:
-

Cơ cấu sản xuất
Cải tạo xã hội chủ nghĩa
Cơ chế quản lý kinh tế

1.2.Hoạt động của đại hội về kinh tế
Xóa bỏ kinh tế bao cấp, thực hiện cơ cấu kinh tế nhiều thành phần
Đổi mới về cơ chế quản lý kinh tế: cơ chế kế hoạch hóa theo phương thức hạch tốn kinh
doanh xã hội chủ nghĩa.
Đổi mới về nội dung và cách thức công nghiệp hóa, thực hiện 3 chủ trương kinh tế:
-


Sản xuất lương thực, thực phẩm
Sản xuất hàng tiêu dung
Sản xuất hàng xuất khẩu

2.Sự thay đổi trong tư duy của Đảng ta từ Đại hội IV đến đại hội X
Đây là giai đoạn hình thành và phát triển tư duy của Đảng về kinh tế thị trường.
So với thời kì trước đổi mới, nhận thức về kinh tế thị trường có sự thay đổi căn bản và
sâu sắc.
Kinh tế thị trường không phải là cái riêng của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu


phát triển chung của nhân loại. Lịch sử phát triển nền sản xuất xã hội cho thấy sản xuất
và trao đổi hàng hoá là tiền đề quan trọng cho sự ra đời và phát triển của kinh tế thị
trường. Kinh tế thị trường đã có mầm mống từ trong xã hội nơ lệ, hình thành trong xã hội
phong kiến và phát triển cao trong chủ nghĩa Tư bản. Chủ nghĩa Tư bản khơng sản sinh ra
kinh tế hàng hố. Do đó, kinh tế thị trường với tư cách là kinh tế hàng hố ở trình độ cao
khơng phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa Tư bản mà là thành tựu phát triển chung của
nhân loại. Kinh tế thị trường lấy khoa học, công nghệ hiện đại làm cơ sở và nền sản xuất
hố cao.
Có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Các chủ thể kinh tế có tính độc lập, có quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh, lỗ, lãi
tự chịu. Giá cả cơ bản do cung cầu điều tiết, hệ thống thị trường phát triển đồng bộ và
hồn hảo. Nền kinh tế có tính mở cao và vận hành theo qui luật vốn có của kinh tế thị
trường: qui luật giá trị, cung cầu, cạnh tranh, qui luật lưu thơng tiền thị trường Có hệ
thống pháp quy kiện tồn và sự quản lý vĩ mơ của Nhà nước.
Đảng xác định: Nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa là mơ hình
kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa là “Một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo qui luật của kinh tế
thị trường vừa dựa trên cơ sở và chịu sự dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất
cùa chủ nghĩa xã hội”. Nội dung cơ bản của định hướng Xã hội chủ nghĩa trong phát triển

kinh tế thị trường ở nước ta thể hiện ở 4 tiêu chí:

Về mục đích phát triển: mục tiêu kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở nước ta nhằm thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”

giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất và không ngừng nâng cao đời sống nhân dân,
đẩy mạnh xố đói, giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng,
giúp đỡ người khác thốt nghèo và từng bước khá giả hơn.
Về phương hướng phát triển: phát triển nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế nhằm giải phóng mọi tiềm năng trong mọi thành phần kinh tế,
trong mọi cá nhân và mọi vùng miền... phát huy tối đa nội lực để phát triển nhanh nền
kinh tế. Trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là
công cụ chủ yếu để nhà nước điều tiết nền kinh tế, định hướng cho sự phát triển vì mục
tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.


Về định hướng xã hội và phân phối: thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước phát triển và chính sách phát triển, tăng trưởng kinh tế gắn kết chặt chẽ
và đồng bộ với phát triển xã hội, văn hoá, giáo dục và đào tạo, giải quyết vấn đề xã hội vì
mục tiêu phát triển con người. Hạn chế tác động tiêu cực của kinh tế thị trường.
Trong lĩnh vực phân phối, định hướng xã hội chủ nghĩa được thể hiện qua chế độ
phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế phúc lợi xã hội. Đồng thời để
huy động mọi nguồn lực kinh tế cho sự phát triển chúng ta còn thực hiện phân phối theo
mức đóng góp và các nguồn lực khác.
Về quản lý: phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân. Bảo đảm vai trò quản
lý, điều tiết nền kinh tế của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Tiêu chí này thể hiện sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa
với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế
mặt tiêu cực của thị trường, bảo đảm quyền lợi chính đáng của mọi người.
Trước đổi mới, chúng ta coi kinh tế xã hội chủ nghĩa và kinh tế tư bản chủ nghĩa

(hay kinh tế thị trường) là hai phương thức kinh tế khác nhau về bản chất và đối lập với
nhau cả về chế độ sở hữu, chế độ quản lý, chế độ phân phối và mục đích phát triển.

Kinh tế xã hội chủ nghĩa vận động theo các quy luật của chủ nghĩa xã hội, cịn kinh tế tư
bản chủ nghĩa thì vận động theo các quy luật của chủ nghĩa tư bản (tất nhiên trong khi
nói đến kinh tế kế hoạch chúng ta cũng đã từng nói đến hạch tốn và kinh doanh xã hội
chủ nghĩa, vận dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ, coi lợi ích vật chất và khuyến khích vật
chất là một động lực của sự phát triển).
Sau đổi mới, tư duy của chúng ta về kinh tế có nhiều sự phát triển so vớitrước.
Nhìn khái qt đã có những sự thay đổi lớn như sau:
Từ quan niệm chủ nghĩa xã hội chỉ có một chế độ sở hữu duy nhất là chế độ công
hữu về tất cả các tư liệu sản xuất (bao gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể) đã đi đến
quan niệm nền kinh tế của ta hiện nay và sau này có ba chế độ sở hữu cơ bản là tồn dân,
tập thể, tư nhân, trên cơ sở đó, hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần
kinh tế khác nhau như kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ,
tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi.


Từ quan niệm cho rằng để xây dựng được quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa phải
nhanh chóng hồn thành việc cải tạo kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế rằng trong xây
dựng chủ nghĩa xã hội, phải ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, còn cải tạo quan hệ sản
xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới nhất thiết phải phù hợp với từng bước phát triển
của lực lượng sản xuất.
Từ quan niệm hai thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, với việc xóa
bỏ nhanh chóng các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, ngay từ đầu đã là nền tảng
của nền kinh tế quốc dân, đã đi đến quan niệm rằng muốn cho hai thành phần kinh tế ấy
ngày càng trở thành nền tảng vững chắc thì phải trải qua một quá trình dài xây dựng, đổi
mới và phát triển với những bước thích hợp; trong khi đó, vẫn khuyến khích phát triển
các thành phần kinh tế tư nhân, coi như thành phần này là động lực quan trọng của phát
triển kinh tế và phát triển lực lượng sản xuất.

Từ quan niệm nhà nước phải chỉ huy toàn bộ nền kinh tế theo một kế hoạch tập
trung, thống nhất với những chỉ tiêu có tính pháp lệnh áp đặt từ trên xuống, đã đi đến
phân biệt rõ chức năng quản lý nhà nước về kinh tế với chức năng quản lý kinh doanh;
chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và chủ sở hữu tài sản cơng là thuộc nhà nước, cịn
chức năng quản lý kinh doanh thì thuộc về doanh nghiệp. Từ chỗ tuyệt đối hóa vai trị
của kế hoạch, phủ nhận vai trị của thị trường đã đi đến thừa nhận thị trường vừa là căn
cứ, vừa là đối tượng của kế hoạch; kế hoạch chủ yếu mang tính định hướng và đặc biệt
trên bình diện vĩ mơ, cịn thị trường giữ vai trị trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa
chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất, kinh doanh.
Từ chỗ chỉ thừa nhận một hình thức phân phối duy nhất chính đáng là phân phối
theo lao động đã đi đều quan niệm thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối
theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức
đóng góp các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi
xã hội. Công bằng xã hội thể hiện không phải ở chủ nghĩa bình quân trong kinh tế mà là
ở chỗ phân phối hợp lý tư liệu sản xuất và kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi

người đến có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình. Khơng ngăn cấm mọi sự
làm giàu mà trái lại khuyến khích mọi người làm giàu chính đáng theo đúng pháp luật,
đồng thời thực hiện xóa đói giảm nghèo, hạn chế phân cực quá đáng hai đầu.


CHƯƠNG : THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG THEO
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
1.Mô hình phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế của thời đại
Ở Việt Nam, sau hơn 30 năm đổi mới, nền KTTT định hướng XHCN đã hình thành, phát triển,

đến nay đã có những yếu tố của một nền KTTT hiện đại, hội nhập quốc tế và bảo đảm định
hướng XHCN. Đó là nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần; có sự phát triển
đầy đủ, đồng bộ các loại thị trường, thị trường trong nước gắn kết với thị trường quốc tế. Thị
trường đã phát huy vai trò trong việc xác định giá cả, phân bổ nguồn lực, điều tiết sản xuất và

lưu thơng hàng hóa; nền kinh tế đã vận hành theo các quy luật của KTTT.
Đồng thời, nền KTTT có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN; Nhà nước vừa xây dựng
và hoàn thiện thể chế, tạo khung khổ pháp luật, môi trường ổn định, thuận lợi cho kinh tế phát
triển, vừa sử dụng các nguồn lực kinh tế của Nhà nước để điều tiết, thúc đẩy nền kinh tế phát
triển theo định hướng XHCN, phát triển bền vững cả kinh tế, xã hội, môi trường; gắn phát triển
kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”. Những yếu tố này hoàn toàn tương đồng với các định hướng xã hội
của các nền KTTT hiện đại trên thế giới.
Như vậy, từ thực tiễn và lý luận, có thể khẳng định, KTTT định hướng XHCN là mơ hình KTTT
hiện đại, hội nhập quốc tế khơng chỉ phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế của thời đại, mà
cịn là mơ hình kinh tế phù hợp với các nước kinh tế chưa phát triển quá độ lên CNXH.
Về kinh tế: Sự phát triển của Việt Nam trong hơn 30 năm qua rất đáng ghi nhận. Cơng cuộc đổi
mới từ năm 1986 đã nhanh chóng đưa Việt Nam từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế
giới trở thành quốc gia thu nhập trung bình thấp. Giai đoạn 2002-2019, GDP đầu người tăng 2,7
lần, đạt trên 2.700 USD năm 2019, với hơn 45 triệu người thoát nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo giảm
mạnh từ hơn 70% xuống còn dưới 6% (3,2 USD/ngày theo sức mua ngang giá). Đại bộ phận
người nghèo còn lại ở Việt Nam là dân tộc thiểu số, chiếm 86%.
Năm 2019, kinh tế Việt Nam tiếp tục có khả năng chống chịu cao, nhờ nhu cầu trong nước và
sản xuất định hướng xuất khẩu được duy trì ở mức cao. GDP thực tăng ước khoảng 7%, tương tự
tỷ lệ tăng trưởng trong năm 2018, điều này cho thấy Việt Nam là một trong những quốc gia có
tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực.
Năm 2020, với độ mở về kinh tế và sự hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, kinh tế Việt
Nam bị tác động nặng nề bởi đại dịch Covid-19. Tăng trưởng GDP đạt 1,8% trong nửa đầu năm,
dự kiến cả năm đạt 2,8%. Việt Nam là một trong số ít quốc gia trên thế giới khơng dự báo suy
thoái kinh tế, nhưng tốc độ tăng trưởng dự kiến năm nay thấp hơn nhiều so với dự báo trước
khủng hoảng (6-7%). Tuy nhiên, tác động của dịch Covid-19 rất khó đốn định, tùy thuộc vào
quy mơ và thời gian kéo dài của dịch bệnh. Sức ép lên tài chính cơng sẽ gia tăng do thu ngân
sách giảm, trong khi chi ngân sách tăng lên để kích hoạt các gói hỗ trợ các hộ gia đình và doanh
nghiệp giảm thiểu tác động của đại dịch Covid-19.



Về xã hội: Việt Nam đang chứng kiến sự thay đổi nhanh về cơ cấu dân số và xã hội. Dân số Việt
Nam đã đạt 96,5 triệu dân vào năm 2019 và dự kiến sẽ tăng lên 120 triệu dân tới năm 2050. Hiện
nay, 70% dân số có độ tuổi dưới 35, với tuổi thọ trung bình gần 76 tuổi, cao hơn những nước có
thu nhập tương đương trong khu vực. Tầng lớp trung lưu đang hình thành, hiện chiếm khoảng
13% dân số và dự kiến sẽ tăng lên đến 26% vào năm 2026.
Trong giai đoạn 2010-2020, Chỉ số vốn nhân lực của Việt Nam tăng từ 0,66 lên 0,69. Một em bé
Việt Nam được sinh ra ở thời điểm hiện nay khi lớn lên sẽ đạt mức năng suất bằng 69% so với
cũng đứa trẻ đó được học tập và chăm sóc sức khỏe đầy đủ. Như vậy, Việt Nam là quốc gia có
Chỉ số Vốn con người cao nhất trong số các quốc gia có thu nhập trung bình, tuy nhiên vẫn cịn
tồn tại khoảng cách giữa các địa phương, nhất là ở nhóm dân tộc thiểu số.
Y tế của nước ta cũng đạt nhiều tiến bộ khi mức sống ngày càng cải thiện. Trong giai đoạn 19932017, tỷ suất tử vong ở trẻ sơ sinh giảm từ 32,6 xuống còn 16,7 (trên 1.000 trẻ sinh). Tuổi thọ
trung bình tăng từ 70,5 lên 76,3 tuổi trong giai đoạn 1990-2016. Chỉ số bao phủ chăm sóc sức
khỏe tồn dân là 73, cao hơn mức trung bình của khu vực và thế giới, với 87% dân số có bảo
hiểm y tế. Tuy nhiên, tỷ lệ chênh lệch giới tính khi sinh còn ở mức cao và ngày một tăng, điều
này cho thấy tình trạng phân biệt giới tính vẫn cịn tồn tại. Bên cạnh đó, Việt Nam là một trong
những quốc gia có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất, dự báo đến năm 2050 nhóm tuổi trên 65 sẽ
tăng gấp 2,5 lần.
Trong 30 năm qua, việc cung cấp các dịch vụ cơ bản đã có sự thay đổi tích cực. Khả năng người
dân tiếp cận hạ tầng cơ sở được cải thiện. Tính đến năm 2016, 99% dân số sử dụng điện chiếu
sáng, cao hơn rất nhiều so với tỷ lệ 14% năm 1993. Tỷ lệ tiếp cận nước sạch nông thôn cũng
được cải thiện, từ 17% năm 1993 lên 70% năm 2016, trong khi tỷ lệ ở thành thị là trên 95%.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, đầu tư cơ sở vật chất tính theo phần trăm GDP của Việt Nam
nằm trong nhóm thấp nhất trong khu vực ASEAN. Điều này tạo ra thách thức không nhỏ đối với
sự phát triển liên tục của các dịch vụ cơ sở hạ tầng hiện đại cần thiết cho giai đoạn tăng trưởng tiếp
theo (Việt Nam xếp thứ 89 trong số 137 quốc gia về chất lượng cơ sở hạ tầng).

1.2 Những vấn đề cần tiếp tục xem xét và hoàn thiện
Nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta được hình thành và phát triển trên cơ sở phát huy vai
trò làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước

pháp quyền XHCN do Đảng lãnh đạo.
Nhà nước ngày càng tăng dần vai trò chủ thể quản lý và thu hẹp dần vai trò chủ thể về kinh
tế. Theo đó, Nhà nước thực hiện quản lý nền kinh tế, định hướng, điều tiết, thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội (KT-XH) bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và
lực
lượng vật chất, bảo đảm cho thị trường phát triển, tuân thủ các quy luật của KTTT, tương thích
với thơng lệ quốc tế; kiến tạo được môi trường vĩ mô; xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở và bảo
đảm an sinh xã hội; ban hành cơ chế chính sách về phân bổ nguồn lực, phân phối và phân phối
lại theo hướng bảo đảm tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội; bảo vệ môi
trường.
Đồng thời, Nhà nước bảo đảm được vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, hồn thiện các cơng cụ
quản lý kinh tế vĩ mô, tăng cường kỷ luật kỷ cương trong việc chấp hành các chế độ chính sách,


sử dụng các chương trình đầu tư tín dụng để tạo điều kiện và hướng dẫn sự phát triển của
các ngành, các địa phương và các thành phần kinh tế.
Các chủ trương, chính sách kinh tế và tổ chức thực hiện chính sách của Nhà nước cần thiết kế
để phù hợp với cơ chế thị trường, mang lại lợi ích và công bằng xã hội, ổn định và tăng trưởng
kinh tế hợp lý, ngăn ngừa tình trạng độc quyền, lạm dụng và nhân danh KTTT để can thiệp làm
méo mó thị trường, lệch lạc các nguồn lực và tổn hại lợi ích cộng đồng, hạn chế các hoạt động
cạnh tranh không lành mạnh…
Giải quyết quan hệ giữa Nhà nước và thị trường trong xây dựng nền KTTT định hướng XHCN là
một sự nghiệp chưa có tiền lệ trong lịch sử và là một q trình mở, địi hỏi sự sáng tạo và bản
lĩnh cách mạng của Đảng, trên cơ sở nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy
luật khách quan của KTTT, thông lệ quốc tế, phù hợp với điều kiện phát triển của Việt Nam.
Thực tế cho thấy, dưới sự lãnh đạo của Đảng, về cơ bản, Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục
chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang nền KTTT định hướng
XHCN với những thành tựu KT-XH ngày càng to lớn. Thể chế KTTT, đặc biệt là hệ thống luật
pháp và bộ máy quản lý ngày càng được xây dựng, hoàn thiện theo hướng tiến bộ, phù hợp.
Công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế được triển khai sâu rộng và hiệu quả. Dân chủ trong xã

hội tiếp tục được mở rộng. Chính trị-xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững.
Tuy nhiên, do phát triển KTTT định hướng XHCN là một sự nghiệp, một q trình chưa có tiền
lệ nên có những vấn đề đặt ra trong điều kiện hiện nay cần phải được tiếp tục xem xét và hoàn
thiện, cụ thể:
Thứ nhất, nền KTTT định hướng XHCN mà Việt Nam đang xây dựng là một nền kinh tế mang
tính đặc thù, phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa và những giá trị XHCN đất nước
đang phấn đấu. Thế nhưng, vấn đề cần xem xét là liệu chúng ta có thể nghiên cứu để áp dụng
nhiều hơn, đầy đủ hơn những quy luật, những giá trị chung của thể chế KTTT nhằm tạo thuận lợi
sự phát triển vừa nhanh hơn, vừa bền vững hơn.
Thứ hai, định hướng của Đảng và Nhà nước và thực tiễn vừa qua đã chứng minh rằng, để phát
triển nền kinh tế Việt Nam không thể chỉ dựa vào một thành phần kinh tế nào, mà cần phải khơi
dậy được mọi tiềm năng, mọi nguồn lực của đất nước, với một khát vọng chung là xây dựng đất
nước Việt Nam hùng cường. Để hiện thực hóa điều đó, cả nước đang phát động tinh thần khởi
nghiệp với mục tiêu đến năm 2020, Việt Nam sẽ có khoảng 1 triệu DN.
Như vậy, nịng cốt để phát triển kinh tế Việt Nam, là chỗ dựa bền vững cho kinh tế đất nước,
phải chăng là mọi thành phần kinh tế trong nước, bao gồm cả: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập
thể và KTTN? Như vậy, về định hướng vĩ mô, liệu chúng ta cần có sự thay đổi nào khơng để
khơi dậy được mọi tiềm lực kinh tế của đất nước; tạo ra một sân chơi thực sự cơng bằng, bình
đẳng, trong thụ hưởng chính sách, được tiếp cận các nguồn lực và việc tuân thủ luật pháp?
Thứ ba, bảo đảm rằng sự phát triển của đất nước là sự phát triển có tính bao trùm và không
quá thiên lệch, tạo ra sự phân biệt về giàu nghèo quá lớn giữa các vùng miền, giữa các thành
phần, đối tượng trong xã hội.


Thứ tư, cần có chiến lược cùng những giải pháp hữu hiệu như thế nào để việc phát triển kinh tế
của đất nước bảo đảm hài hòa 2 yếu tố, đó là: Phát triển “nhanh” và “bền vững”. Đây là hai yêu
cầu song hành, bởi với một nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam nếu khơng có giải pháp để
đạt một tốc độ phát triển ở mức cao thì rất dễ bị tụt hậu, rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”. Nhìn
chung, động lực và triển vọng hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp
tục phụ thuộc vào những nhận thức và hành động thực tiễn mới, đầy đủ, sâu sắc hơn về phát triển

KTTT định hướng XHCN.


CHƯƠNG I: PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG THEO
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM QUA VIỆC
SỬ DỤNG TỐT NGUỒN NHÂN LỰC
1.1 Tại sao cần phát triển tốt nguồn nhân lực
Kinh tế thị trường là thành quả của văn minh nhân loại, được Đảng và Nhà nước Việt Nam
vận dụng một cách đúng đắn, khách quan, khoa học, sáng tạo, trở thành nền kinh tế


thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó nhấn mạnh vị trí, vai trị của con người
chính là động lực và cũng là mục tiêu cao nhất của sự phát triển.
Kinh tế thị trường là thành quả của văn minh nhân loại, được Đảng và Nhà nước Việt
Nam vận dụng một cách đúng đắn, khách quan, khoa học, sáng tạo, trở thành nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó nhấn mạnh vị trí, vai trị của con
người chính là động lực và cũng là mục tiêu cao nhất của sự phát triển.
Việt Nam là một nước có nguồn nhân lực rất lớn với hơn 90 triệu dân số; chính vì vậy
nước ta có nguồn lực vô cùng dồi dào. Tận dụng tốt nguồn nhân lực dồi dào sẽ giúp cho
chúng ta tối ưu hố được nền kinh tế nước nhà và là chìa khoá để nước ta vươn lên sánh
vai với các cường quốc năm châu.
1.2. Kinh tế thị trường và vấn đề nhân lực trong nền kinh tế thị trường tư bản
chủ nghĩa
Sự phát triển của xã hội loài người được đánh dấu bằng nhiều tiêu chí, trong đó có tiêu
chí về sự phát triển kinh tế ở những thời kỳ, những giai đoạn khác nhau. Từ chỗ ban đầu
thực hành một “nền kinh tế cướp đoạt” (theo cách nói của Ph. Ăng-ghen), con người đã
phải trải qua hàng vạn năm để biết dùng lửa nấu chín thức ăn và sưởi ấm, biết thuần hóa
súc vật, biết chăn ni, biết làm nghề nông, biết chế tạo ra những vật phẩm đơn giản đáp
ứng nhu cầu đơn giản và rất hạn chế trong một phạm vi cộng đồng nhỏ hẹp. Dần dần, khi
một cộng đồng có thừa một loại sản phẩm nào đó đã được làm ra nhưng lại cần đến

những loại sản phẩm khác mà cộng đồng khác dư thừa thì sự trao đổi bắt đầu diễn ra. Sản
xuất phát triển thì sự trao đổi ấy diễn ra ngày càng thường xuyên hơn trên phạm vi ngày
càng mở rộng hơn. Như vậy, từ hình thái kinh tế tự nhiên, nhân loại chuyển dần lên một
hình thái kinh tế cao hơn là sản xuất hàng hóa - đó là kinh tế hàng hóa. Nền kinh tế hàng
hóa ra đời là một bước tiến lớn trong lịch sử nhân loại, đánh dấu sự phát triển của nền
kinh tế, cho tới nay nó đã phát triển và đạt tới trình độ rất cao đó là nền kinh tế thị trường
hiện đại.
Nền kinh tế thị trường là một loại hình kinh tế - xã hội mà ở đó các quan hệ kinh tế, sự
trao đổi, sự mua bán các sản phẩm và nhất là sự phân chia lợi ích, tìm kiếm lợi nhuận,...
đều do các quy luật của thị trường điều tiết và chi phối. Không thu được lợi nhuận thì
người sản xuất, kinh doanh khơng còn động lực để tiếp tục, nhất là để thúc đẩy công việc
sản xuất và kinh doanh của họ, do đó sự trì trệ của xã hội là khó tránh khỏi. Cho nên có
thể nói kinh tế thị trường là thành quả quan trọng của sự phát triển lâu dài trong nền văn
minh của toàn thể nhân loại từ khi nó xuất hiện chứ khơng phải là của riêng hoặc là độc
quyền của một hình thái kinh tế - xã hội nào. Đặc biệt, như C. Mác viết, trong nền kinh tế
thị trường của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thì việc tìm kiếm “lợi nhuận là quy
luật tuyệt đối của phương thức sản xuất này”(1). Trong nền kinh tế thị trường, rõ nhất là
trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, lợi nhuận là yếu tố trung tâm, là động lực
tuyệt đối thúc đẩy phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động và tăng hiệu quả của hoạt
động sản xuất, kinh doanh. Kinh tế thị trường là thành quả, là sản phẩm của sự phát triển
của kinh tế toàn thế giới trải qua nhiều thế kỷ và được chủ nghĩa tư bản hiện đại nâng lên
một tầm cao mới chứ không phải chỉ là sản phẩm của riêng chủ nghĩa tư bản.


Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường, kể cả nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hiện đại,
không phải khơng có những hạn chế, những nhược điểm rất cơ bản, thậm chí cả những
khuyết tật khơng dễ gì sửa chữa. Như C. Mác đã chỉ ra, quy luật tuyệt đối của các nhà tư
bản là tìm kiếm lợi nhuận tối đa. Nếu không thu được lợi nhuận tối đa thì chẳng có một
nhà tư bản nào lại chịu bỏ vốn ra để sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, theo C. Mác, dưới
chủ nghĩa tư bản, “lợi nhuận chỉ là hình thái thứ sinh, phái sinh và được biến đổi của giá

trị thặng dư, là hình thái tư sản trong đó đã xóa hết những nguồn gốc của nó” (2), còn giá
trị thặng dư và tỷ suất giá trị thặng dư “là biểu hiện chính xác của mức độ tư bản bóc lột
sức lao động, hay mức độ nhà tư bản bóc lột người cơng nhân”(3). Nói cách khác, trong
nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, chính lao động thặng dư của người công nhân là
nguồn gốc đem lại lợi nhuận và làm giàu cho nhà tư bản.
Như một quy luật, khi mà lợi nhuận kếch xù và sự giàu có tập trung về phía các nhà tư
bản thì tất nhiên là sự khốn cùng và sự nghèo đói sẽ đổ dồn về phía những người lao
động làm th, về phía những người vơ sản. Nói cách khác, trong nền kinh tế thị trường
tư bản chủ nghĩa kể cả ở giai đoạn hiện nay, của cải vẫn đang ngày càng tập trung về một
phía, cịn nghèo khó thì vẫn đổ dồn về phía người lao động. Ở đây, người lao động tuy là
lực lượng chủ yếu làm ra của cải cho xã hội nhưng lại được hưởng rất ít thành quả do
chính họ làm ra. Vì vậy, sẽ khơng q nếu nói rằng, trong nền kinh tế thị trường tư bản
chủ nghĩa, người lao động không phải là mục tiêu hay đối tượng của sự phục vụ của nền
kinh tế.
1.3.Nguồn nhân lực trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Trên cơ sở nhận thức kinh tế thị trường là sản phẩm, là thành quả chung trong sự phát
triển của xã hội loài người, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa không khắc phục được
những khuyết tật của nó và người lao động vẫn chưa được hưởng những thành quả xứng
đáng với sự đóng góp của họ, Đảng và Nhà nước Việt Nam chủ trương phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Dù rằng trong xã hội còn có những ý kiến
băn khoăn hoặc chưa thật sự đồng tình, thậm chí cịn có người lợi dụng cho rằng, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã từ bỏ con đường xã hội chủ nghĩa (!).
Nền kinh tế thế giới hiện nay có nhiều loại mơ hình kinh tế thị trường, như kinh tế thị
trường tự do, kinh tế thị trường xã hội, kinh tế thị trường hỗn hợp. Mỗi loại mô hình
trong số ấy đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng. Nghiên cứu, tham khảo kinh
nghiệm vận hành và phát triển của các mơ hình này trên thế giới, xuất phát từ đòi hỏi và
thực tiễn phát triển của đất nước đang đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra đường lối
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Và để đi đến sự nhận thức
tương đối thống nhất về con đường phát triển đất nước bằng và qua kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa cần một quá trình nghiên cứu, thảo luận khoa học và đúc kết

từ thực tiễn một cách nghiêm túc và sâu sắc.
Khái niệm nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được chính thức sử dụng
trong các văn kiện Đại hội IX (tháng 4-2001) của Đảng; theo đó, “Đảng và Nhà nước ta


chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”(4) . Đại
hội X của Đảng (tháng 1-2016) tiếp tục bổ sung, phát triển: “Nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy
luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với
từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập
quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” (5). Đây là bước đột
phá dũng cảm nhưng hết sức khoa học về tư duy lý luận của Đảng ta.
Từ góc độ lịch sử chúng ta thấy, trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, suốt một
thời gian dài, cả về mặt lý luận và thực tiễn, người ta đã đem đối lập một cách tuyệt đối
và siêu hình chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản; coi những gì có trong chủ nghĩa tư
bản thì chủ nghĩa xã hội phải xóa đi hết và ngược lại, trong đó có kinh tế thị trường vốn
là thành quả phát triển của lịch sử loài người. Cần nhận thức rõ rằng, xã hội cộng sản
với tính cách một hình thái kinh tế - xã hội khơng thể có sẵn mọi thứ trong lòng xã hội tư
bản nhưng cũng đã có những tiền đề về nhiều mặt quan trọng cho sự ra đời của một hình
thái kinh tế - xã hội mới. Một trong những tiền đề ấy là nền kinh tế thị trường đã rất phát
triển nhờ sự phát triển hết sức cao và mạnh mẽ của lực lượng sản xuất. Chính V.I. Lê-nin
cũng đã sớm nhận ra sai lầm nóng vội khi đề ra và thực hiện Chính sách cộng sản thời
chiến nên đã kịp thời sửa chữa sai lầm ấy bằng cách đề ra Chính sách kinh tế mới (NEP)
để nước Nga chấp nhận phát triển nền sản xuất hàng hóa nhiều thành phần và bước đầu đi
vào nền kinh tế thị trường. Về điều này, V.I. Lê-nin đã khẳng định mạnh mẽ rằng, “chúng
ta không hình dung một thứ chủ nghĩa xã hội nào khác hơn là chủ nghĩa xã hội dựa trên
cơ sở tất cả những bài học mà nền văn minh lớn của chủ nghĩa tư bản đã thu được” (6).
Việc dứt khoát từ bỏ chế độ kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp để chính thức đi vào nền

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn khách quan, sáng tạo, độc
lập và phù hợp với xu thế vận động chung của nền kinh tế thế giới hiện đại. Chúng ta
thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng một đất
nước tất cả đều vì con người và do con người. Một nền kinh tế như vậy, một mặt, tôn
trọng và tuân theo các quy luật khách quan của kinh tế thị trường; nghĩa là sản xuất và
kinh doanh phải thu được lợi nhuận, phải chấp nhận cạnh tranh theo pháp luật để thúc
đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển; mặt khác, quan trọng hơn là nền kinh tế ấy phải tạo
được một lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, trong đó con người vừa phải là động
lực, vừa phải là mục tiêu của sự phát triển. Đồng thời, nền kinh tế thị trường mà chúng ta
chủ trương xây dựng phải được hướng dẫn bởi các nguyên tắc thuộc bản chất của chủ
nghĩa xã hội về quyền sở hữu, về cách thức tổ chức sản xuất và về phương thức phân
phối thành quả lao động.
Đảng và Nhà nước ta chủ trương và nhất quán vận hành nền kinh tế thị trường chủ yếu
bằng cơ chế thị trường và thông qua cơ chế thị trường nhưng coi trọng sự quản lý và sự
điều tiết của Nhà nước, thực hiện phân phối công bằng, nhưng không cào bằng thành quả
thu được cho mọi thành viên để không ai, kể cả những người yếu thế, bị bỏ lại phía sau.


Đó chính là định hướng cực kỳ quan trọng cho tồn bộ q trình phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, sự kết hợp các mặt này hồn tồn khơng phải là sự
lắp ghép một cách tùy tiện, chủ quan, duy ý chí như một số người ngộ nhận hoặc cố tình
quy kết. Đây là sự lựa chọn dựa trên cơ sở đúc kết những kinh nghiệm quý báu đã được
thực tiễn lịch sử xác nhận; nắm bắt xu thế khách quan của thời đại, nhằm tiếp thu những
gì đã được coi là tốt nhất của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa; tiếp thu một cách chọn
lọc thành tựu của văn minh nhân loại; phát huy vai trị tích cực và các động lực của kinh
tế thị trường trong việc thúc đẩy phát triển sức sản xuất, xã hội hóa lao động, áp dụng
nhanh nhất các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới, đồng thời cũng để từng bước
hạn chế và dần dần khắc phục những khiếm khuyết, những bất công mà nền kinh tế ấy đã
không thể làm được từ khi nó ra đời cho đến nay.



KẾT LUẬN
Qua 3 chương vừa qua , ta có thể thấy rằng nền Kinh tế thị trường theo hướng
CNXH đã thực sự tạo ra được những ảnh hưởng to lớn tới nên kinh tế Việt Nam, nền
kinh tế thị trường đã đưa Việt Nam từ một nước vô cùng nghèo nàn, lạc hậu với nền kinh
tế quan liêu, bao cấp trở thành một quốc gia có nền kinh tế vững mạnh, hơn, có sức cạnh
tranh với các quốc gia đã và đang phát triển khác. Ngồi ra, càng phân tích sâu, ta càng
thấy được tính đúng đắn của Đảng khi đưa ra những quyết định, thay đổi về kinh tế. Đảng
đã học hỏi, đã đúc kết ra được kinh nghiệm từ các quốc gia trên thế giới cũng như áp
dụng đúng đắn lý tưởng và những tinh hoa của chủ nghĩa Mác Lê-nin. Một trong số
những lý do thành công của Đảng đó là khả năng thay đổi, thích ứng trong giải đoạn mà
thế giới chứng kiến sự đổi thay từng ngày từng giờ như hiện nay. Đó cũng là một thứ vũ
khí lợi hại trong tương lai. Cuối cùng là cách sử dụng nguồn nhân lực trong nền kinh tế
thị trường. Nước ta với nguồn nhân lực to lớn sẽ mang đến một nguồn tiền khổng lồ cho
nhà nước, ngồi ra các cơng ty, tập đồn lớn cũng nên chú trọng tạo ra thêm nhiều cơ hội
việc làm mới để tối đa hoá nguồn nhân lực.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
i

-

Tạp chí cộng sản

-

Báo Tài chính

-


Báo Quân đội nhân dân

-

Saigontimes

-

Vnexpress

i

i

i

i

i

i

i

i

i

i


i



×