Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Trong Thư gửi Ủy ban Nhân dân các Kỳ, Tỉnh, Huyện và Làng năm 1945 có đoạn “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” (Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 4, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 64).

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (235.51 KB, 16 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bài tiểu luận này, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến:
Khoa ………. Đại học …. vì đã tạo điều kiện về cơ sở vật chất với hệ thống
hiện đại, đa dạng, tài liệu thuận lợi cho việc tìm kiếm, nghiên cứu thơng tin.
Xin cảm ơn giảng viên bộ môn - Thầy ………. đã giảng dạy tận tình, chi
tiết để em có đủ kiến thức và vận dụng chúng vào bài thu hoạch này.
Do chưa có nhiều kinh nghiệm làm để tài cũng như những hạn chế về kiến
thức, trong bài làm chắc chắn sẽ khơng tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong
nhận được sự nhận xét, ý kiến đóng góp, phê bình từ phía Thầy để bài tiểu
luận được hồn thiện hơn.
Lời cuối cùng, em xin kính chúc Thầy nhiều sức khỏe, thành công và hạnh
phúc.


ĐỀ BÀI:
Trong Thư gửi Ủy ban Nhân dân các Kỳ, Tỉnh, Huyện và Làng năm 1945
có đoạn “nếu nước độc lập mà dân khơng hưởng hạnh phúc tự do, thì độc
lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” (Hồ Chí Minh (2011), Tồn tập, Tập 4, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 64). Anh/Chị hiểu và vận dụng
luận điểm trên như thế nào vào việc bảo vệ và xây dựng đất nước Việt
Nam hiện nay?


BÀI LÀM
A, PHẦN MỞ ĐẦU : GIỚI THIỆU VẤN ĐỀ CẦN LÝ LUẬN
“Độc lập” ở Việt Nam trong Cách mạng tháng Tám năm 1945 “đã giải phóng
đồng bào ta ra khỏi chế độ quân chủ chuyên chế và xiềng xích thực dân... xây
dựng cho nhân dân ta cái nền tảng Dân chủ Cộng hoà và thống nhất độc lập”.
“Độc lập” ấy của toàn dân tộc sau khi giành được đã nêu cao ý chí quyết tâm “Thà
hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nơ
lệ”; dù “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà


Nội, Hải Phịng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân
Việt Nam quyết khơng sợ! Khơng có gì q hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng
lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!”
Nhưng “Độc lập” không tách biệt với “Tự do”, “Hạnh phúc” mà phải gắn liền một
cách hữu cơ và biện chứng với nhau như những điều kiện và mục tiêu tối
thượng.Trong Thư gửi UBND các kỳ, tỉnh, huyện và làng (17/10/1945), Hồ Chủ
tịch nói rõ “Ngày nay, chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ cộng
hòa. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập
cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Phát biểu tại cuộc họp đầu tiên của Ủy ban Nghiên
cứu kế hoạch kiến quốc (10/1/1946), Người lý giải: “Chúng ta tranh được tự do,
độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng khơng làm gì. Dân
chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”.“Tự do”
và “Hạnh phúc” là kết quả của “Độc lập” nhưng phải là độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội, bởi vì “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem
lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng,
bác ái, đồn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người,
niềm vui, hịa bình, hạnh phúc”. Nói “Tự do” và “Hạnh phúc” là nói đến người
dân được hưởng đầy đủ đời sống vật chất và tinh thần do Chính phủ chăm lo và
bản thân mỗi con người biết mưu cầu chính đáng. “Tự do” và “Hạnh phúc” cơ
bản nhất, tối thiểu nhất theo cách nói của Hồ Chí Minh là “đồng bào ai cũng có
cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”; người dân từ chỗ có ăn, có mặc, được


học hành đến chỗ ăn ngon, mặc đẹp, đời sống sung túc và cống hiến… Điều đó
trong chế độ dân chủ cộng hịa thì mỗi người dân được pháp luật đảm bảo điều
kiện trong việc tự cải thiện đời sống riêng của mình, phát huy tính độc lập cá nhân
và phát triển toàn diện; việc mưu cầu hạnh phúc và đem lại phúc lợi xã hội cho
con người trở thành quyền cơng dân, mỗi người dân và tồn xã hội đều có nghĩa
vụ và trách nhiệm chung.Như thế ta hiểu tại sao 6 chữ “Độc lập - Tự do - Hạnh
phúc” cần có gạch nối 3 từ khơng thể tách biệt, như là điều kiện và mục đích của

nhau vậy. Kể từ năm 1945, đó là nhiệm vụ và quyền lợi của “tất cả đồng bào Việt
Nam, không phân biệt gái trai, già trẻ, giàu nghèo, tôn giáo, chủng tộc, cùng nhau
đoàn kết để giữ vững nền độc lập và mưu cầu hạnh phúc tự do”.
Thông qua nội dung “ nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do,
thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”, Bài tiểu luận sẽ góp phần cũng cố và khẳng
định việc bảo vệ và xây dựng đất nước Việt Nam trong thời kỳ đổi mới hiện nay
B. PHẦN NỘI DUNG : PHÂN TÍCH VẤN ĐỂ LÝ LUẬN
1, Cơ sở lý luận
Độc lập là quyền bất khả xâm phạm của một đất nước, một quốc gia, một dân tộc
bởi chính người dân sinh sống ở đó, có nghĩa có chủ quyền tối cao. Độc lập cịn
có thể hiểu là “sự khơng phụ thuộc” từ cá nhân, tập thể, xã hội, quốc gia hay dân
tộc nào vào cá nhân, tập thể, xã hội, quốc gia hay dân tộc khác
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thể hiện sự nhất quán trong tư duy
lý luận và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh. Từ khi trở thành người cộng sản
cho đến khi trở thành lãnh tụ, nguyên thủ quốc gia, mối quan tâm hàng đầu của
Hồ Chí Minh là gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội phù hợp với từng thời
kỳ của cách mạng Việt Nam. Hồ Chí minh chỉ rõ các bài viết của Người chỉ có
một “đề tài” là: chống thực dân đế quốc, chống phong kiến địa chủ, tuyên truyền
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội thì
giá trị Độc lập - Tự do - Hạnh phúc là nội dung cốt lõi. Trong đó, giá trị về hạnh
phúc luôn được Người đánh giá cao - đó là tiêu chí, thước đo về sự tiến bộ của
nhân dân và là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Vận dụng quan điểm của Người về


hạnh phúc, với vai trò lãnh đạo cách mạng, gắn với thành quả của công cuộc đổi
mới, Đảng ta luôn quan tâm hiện thực mục tiêu hạnh phúc trên thực tế. Chỉ số
hạnh phúc cũng là một trong những nội dung được thế giới hiện nay rất quan tâm
để đánh giá sự tiến bộ của một quốc gia.
Hồ Chí Minh khẳng định mưu cầu hạnh phúc là con đường, là mục tiêu của chủ

nghĩa cộng sản. Theo Người, mưu cầu hạnh phúc cho con người phải là con người
số đông, đó là con người hiểu theo nghĩa hẹp: gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn;
nghĩa rộng là cả nước, rộng hơn nữa là cả loài người. Người khẳng định: “Chỉ có
chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt
chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đồn kết, ấm no trên quả đất,
việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hịa bình, hạnh phúc”[4] Trên
cơ sở đó, ngay sau khi lãnh đạo nhân dân giành được chính quyền, Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hịa được thành lập nhằm thực hiện mục tiêu Độc lập – Tự
do – Hạnh phúc cho công dân của xã hội mới, cho Nhân dân của Nhà nước dân
chủ mới. Khi miền Bắc tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người
khẳng định: “xây dựng chủ nghĩa xã hội tức là xây dựng đời sống no ấm và hạnh
phúc cho nhân dân”
Cách mạng Tháng Tám thành công dẫn đến sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ
Cộng hòa. Đất nước ta, dân tộc ta bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, đã xuất hiện một bộ phận nhỏ cán bộ có
tư tưởng cơng thần, hách dịch, vun vén lợi ích cá nhân, thiếu sâu sát, quan tâm
đến đời sống của quần chúng nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm phát hiện và
Người viết bài đấu tranh, lên án gay gắt; đồng thời nghiêm khắc chấn chỉnh.
Suốt cuộc đời, Hồ Chí Minh ln mưu cầu cuộc sống tốt đẹp cho mỗi người,
quyền có cuộc sống ấm no, được học hành, được chăm sóc sức khỏe, trẻ em được
ni dưỡng, chăm sóc, người già, người nghèo, người tàn tật được giúp đỡ. Các
quyền con người về chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội được chú trọng và hoàn
thiện. Ở Bác, quyền dân tộc và quyền con người là thống nhất trong cả nhận thức
và hành động, trong quan điểm, đường lối, chính sách và pháp luật mà Người
mong muốn thực hiện. Khơng có độc lập chân chính, bền vững thì khơng thể thực


hiện được quyền con người và thực hiện ngày càng tốt hơn các quyền cơ bản, thiết
thực của con người.Quán triệt tư tưởng của Người, những năm qua, Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ cơng cuộc đổi mới vì mục tiêu

“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, quan tâm chăm lo nâng
cao đời sống mọi mặt của nhân dân; chú trọng phát huy nhân tố con người trong
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Những nhiệm vụ trọng tâm đó là sự thống nhất
giữa quyền và lợi ích dân tộc với quyền, lợi ích và nghĩa vụ của con người, của
cơng dân, như tâm nguyện của Bác kính u.
Học tập và làm theo lời Bác Hồ dạy, cấp ủy, chỉ huy các cấp trong quân đội luôn
tập trung lãnh đạo, chỉ huy đơn vị hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao,
xây dựng tổ chức đảng TSVM, đơn vị VMTD. Thường xuyên quan tâm, chăm lo
bảo đảm tốt đời sống vật chất, tinh thần của bộ đội; coi đây là trách nhiệm, là tình
cảm với bộ đội; hết lịng chăm lo xây dựng đơn vị, tôn trọng và thương yêu cấp
dưới, để bộ đội yên tâm công tác, xác định tốt nhiệm vụ, thật sự làm cho cấp dưới
kính trọng, tin tưởng, học tập và noi theo, góp phần giữ gìn và phát huy phẩm chất
cao đẹp Bộ đội Cụ Hồ
2, Xây dựng và bảo vệ đất nước trong thời kì hiện nay
Xây dựng và bảo vệ Đất nước là nhiệm vụ xuyên suốt trong các giai đoạn lịch sử
của cách mạng Việt Nam, từ khi ra đời Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam
Á, dưới sự lãnh đạo của Đảng cho đến nay. Ở Việt Nam, giải quyết mối quan hệ
này được chia làm hai thời kỳ rõ rệt, đó là khi đất nước cịn chiến tranh, vừa phải
chiến đấu đánh đuổi kẻ thù xâm lược, giành độc lập dân tộc và vừa xây dựng hậu
phương lớn phục vụ tiền tuyến. Tiếp đó là, thời kỳ đất nước được hồ bình, thống
nhất bên cạnh nhiệm vụ to lớn đưa nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội, thì bảo vệ Tổ
quốc vẫn ln được xác định là trọng yếu, thường xuyên. Bởi vậy, ở mỗi giai
đoạn, việc nhận thức và giải quyết hai nhiệm vụ chiến lược này là vấn đề hệ trọng,
có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, là một cơ sở để làm nên những thành tựu
to lớn, có ý nghĩa lịch sử ngày hôm nay.


Từ truyền thống lịch sử của dân tộc, dựng nước phải đi đơi với giữ nước là bài
học mang tính quy luật, được đúc kết qua hàng nghìn năm lịch sử. Ở Việt Nam,
trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội, vận dụng các quan điểm của chủ nghĩa

Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bài học này được Đảng ta khái quát thành một
quan điểm lớn, là nắm vững hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết
hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại hội lần
thứ IV của Đảng, khi đất nước đã độc lập, non sông thu về một mối, Đảng ta xác
định: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội phải đi đối với bảo vệ Đất nước”Từ khi đất
nước bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng ta vẫn nhất quán quan điểm luôn coi trọng
cả hai nhiệm vụ, nhưng bắt đầu đã có những điều chỉnh phù hợp với bối cảnh mới,
Đại hội VII, thông qua Cương lĩnh 1991 xác định:” Trong khi đặt lên hàng đầu
nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta ln ln nâng cao cảnh giác, củng cố
quốc phịng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các
thành quả cách mạng”
Tuy nhiên, u cầu mới địi hỏi phải cụ thể hố vị trí, vai trị của từng nhiệm vụ,
làm cơ sở cho việc hoạch định chủ trương, chính sách; xác định mục tiêu trong
từng thời kỳ, điều này cũng chính là bước phát triển mới về nhận thức lý luận, về
mối quan hệ của hai nhiệm vụ chiến lược cơ bản này. Đại hội VIII của Đảng tiếp
tục nhấn mạnh, việc chuyển hướng trọng tâm sang xây dựng, phát triển đất nước
nhưng vẫn không được coi nhẹ nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Trong điều kiện đất
nước đã có hồ bình, thống nhất, nhưng điểm xuất phát thấp, nguy cơ chiến tranh,
xâm lược từ bên ngoài vẫn tiềm tàng, hai nhiệm vụ này chỉ có thể giải quyết được
khi đất nước mạnh lên. Do đó, trong các nhiệm kỳ Đại hội IX, X, XI nhận thức lý
luận về hai nhiệm vụ chiến lược tiếp tục được hoàn thiện, xác định nhiệm vụ xây
dựng giữ vai trò nền tảng đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, rằng sự ổn định và
phát triển bền vững mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội là nền tảng vững chắc
của quốc phòng- an ninh. Đại hội XII khẳng định:” Gắn kết chặt chẽ và triển khai
đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó: Phát triển kinh tế- xã hội là nhiệm vụ trung tâm;
xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hoá- nền tảng tinh thần của xã hội; bảo
đảm quốc phòng và an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên”


Xây dựng và bảo vệ Đất nước ở nước ta hiện nay đang diễn ra trong bối cảnh hội

nhập quốc tế. Hội nhập quốc tế trước hết và cơ bản là hội nhập kinh tế quốc tế,
đồng thời là hội nhập trên tất cả lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Hội nhập quốc
tế chính là một hình thức phát triển cao của hợp tác quốc tế nhằm đạt được một
mục tiêu hoặc lợi ích chung nào đó. Đây là quá trình liên kết, gắn kết giữa các
quốc gia, vùng lãnh thổ với nhau thông qua việc tham gia các tổ chức, thiết chế,
cơ chế, hoạt động hợp tác quốc tế vì mục tiêu phát triển của bản thân mỗi quốc
gia, vùng lãnh thổ đó và nhằm tạo thành sức mạnh giải quyết những vấn đề chung
mà các quốc gia, các lực lượng xã hội cùng quan tâm.
Hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta đã và đang phát triển sâu rộng trên nhiều cấp
độ, đa dạng về hình thức, bằng việc ký kết nhiều hiệp định thương mại song
phương, đa phương thế hệ mới; hoạt động xuất, nhập khẩu, thu hút vốn đầu tư
nước ngoài tăng mạnh, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế và sự phát triển
của đất nước. Trong hội nhập quốc tế thì hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập
các lĩnh vực khác tạo điều kiện thuận lợi cho hội nhập kinh tế và góp phần tích
cực vào phát triển kinh tế-xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc,
củng cố quốc phịng, bảo đảm an ninh quốc gia.Chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế nhằm củng cố mơi trường hịa bình, tranh thủ tối đa các điều kiện quốc tế
thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân;
giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam XHCN; bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc; tăng cường sức
mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước; góp phần
tích cực vào sự nghiệp hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên
thế giới.Trải qua 35 năm thực hiện cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước, tư duy
lý luận, nhận thức và chỉ đạo thực tiễn của Đảng về mối quan hệ giữa xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc XHCN đã phát triển tồn diện, sâu sắc hơn, góp phần đưa sự
nghiệp đổi mới giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.Đất nước
ta đang bước vào giai đoạn tiếp tục đổi mới cả về chiều rộng và chiều sâu mạnh
mẽ hơn, toàn diện, triệt để hơn và hội nhập sâu rộng hơn, ở một tầm cao có tính
bước ngoặt nhằm thúc đẩy đất nước phát triển nhanh và bền vững. Trong bối cảnh



hội nhập quốc tế, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân ta, bên cạnh những thuận lợi là cơ bản, đã và đang đặt ra những yêu cầu
mới và đứng trước không ít khó khăn, thách thức cả về kinh tế, văn hóa, xã hội,
quốc phịng và an ninh, đối ngoại.
Để tiếp tục nhận thức và xử lý tốt mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Đất nước
trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, cần phải nắm vững và
thực hiện tốt những vấn đề chủ yếu sau đây:
Một là, tiếp tục nhận thức và xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa đối tác và đối
tượng, giữa hợp tác và đấu tranh trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Khi đất nước
đang hội nhập quốc tế sâu rộng thì mối quan hệ giữa đối tác-đối tượng càng trở
nên đa dạng, phức tạp và có những hình thức thể hiện mới trong mọi lĩnh vực đời
sống xã hội. Cần có cách nhìn biện chứng về đối tác-đối tượng để xác định những
hình thức thích hợp trong hợp tác và đấu tranh. Hội nhập quốc tế là quá trình vừa
hợp tác vừa đấu tranh; kiên định lợi ích quốc gia, dân tộc; chủ động dự báo, xử lý
linh hoạt mọi tình huống, khơng để rơi vào thế bị động, đối đầu về kinh tế, chính
trị, quân sự, ngoại giao. Thực hiện nền quốc phịng hịa bình, tự vệ theo nguyên
tắc “4 không”: Không tham gia liên minh quân sự; không đi theo nước này chống
nước khác; khơng cho nước ngồi đặt căn cứ qn sự trên lãnh thổ nước ta; không
sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực.
Hai là, kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với tăng cường quốc
phòng, an ninh (QPAN). Thực hiện kết hợp kinh tế, văn hóa, xã hội với QPAN
trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển của cả nước và trên từng
địa phương, chú trọng vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Kết hợp chặt chẽ
kinh tế với quốc phòng trong việc quy hoạch và phát triển các vùng kinh tế, các
ngành công nghiệp, lấy hiệu quả kinh tế gắn với yêu cầu bảo đảm QPAN làm cơ
sở cho những chủ trương cụ thể. Khắc phục triệt để những sơ hở, thiếu sót đã từng
xảy ra trong việc kết hợp phát triển kinh tế-xã hội và tăng cường QPAN tại một
số địa bàn, nhất là địa bàn chiến lược, trọng yếu về QPAN.
Thực hiện đổi mới mơ hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại nền kinh tế, coi đây

vừa là tiền đề, vừa là hệ quả của hội nhập kinh tế quốc tế, là giải pháp có tính


quyết định để nâng cao nội lực nhằm tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức của
giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế mới. Xử lý thỏa đáng mối quan hệ giữa độc
lập, tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng nền kinh tế có khả năng tự chủ
cao, ứng phó được với những biến động kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định kinh tế
vĩ mô, an ninh kinh tế, giữ định hướng XHCN.
Ba là, kết hợp chặt chẽ QPAN và đối ngoại. Tiếp tục hiện thực hóa tư duy mới
của Đảng về mối quan hệ giữa QPAN và đối ngoại trong bối cảnh toàn cầu hóa
và hội nhập quốc tế. Thực hiện tốt phương hướng, nhiệm vụ hoạt động đối ngoại
trong tình hình mới. Trên cơ sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh, hoạt động đối ngoại
nhằm phục vụ mục tiêu giữ vững môi trường hịa bình, ổn định, tranh thủ tối đa
các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân; kiên
quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN.
Tuân thủ các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia đi đôi với chủ động, tích cực
tham gia xây dựng và tận dụng hiệu quả các quy tắc, luật lệ quốc tế và tham gia
các hoạt động của các cấu trúc khu vực và quốc tế; chủ động đề xuất sáng kiến,
cơ chế hợp tác trên nguyên tắc cùng có lợi; củng cố và nâng cao vai trò trong cộng
đồng khu vực và quốc tế, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hịa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.Bốn là, kịp thời thể chế hóa
quan điểm của Đảng về mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cho phù
hợp với bối cảnh mới của hội nhập quốc tế. Để hiện thực hóa quan điểm của Đảng
về mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN trong điều kiện hội nhập
quốc tế, một trong những vấn đề đặt ra là thể chế hóa quan điểm của Đảng về mối
quan hệ này thông qua hệ thống luật pháp, chính sách, chế tài phù hợp nhằm giải
quyết đúng đắn mối quan hệ này. Xây dựng cơ chế phù hợp để các ngành, các
cấp, mọi tổ chức, lực lượng thực hiện hiệu quả việc kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế
với QPAN và QPAN với kinh tế.Tiếp tục quán triệt và tổ chức thực hiện tốt chiến

lược bảo vệ Tổ quốc, chiến lược quân sự, chiến lược quốc phòng, chiến lược an
ninh và các chiến lược chuyên ngành khác nhằm bảo vệ đất nước; giữ nước từ
sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy, bằng sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc kết


hợp với sức mạnh của thời đại. Xây dựng, củng cố lòng tin chiến lược với các
nước, nhất là các nước láng giềng, các nước lớn, bạn bè truyền thống, tạo thế và
lực mới cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
C. PHẦN KẾT LUẬN : LIÊN HỆ VAI TRÒ CỦA SINH VIÊN TRONG SỰ
NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY
1, Thành tựu:
Hiện nay , Việt Nam đang trên đà phát triển và hội nhập với xu thế tồn cầu về
kinh tế , văn hố , giáo dục và khoa học- kỹ thuật , ... Trong 76 năm qua , có thể
nói vai trị của học sinh , sinh viên trong việc phát triển và xây dựng đất nước là
hết sức quan trọng . Các thành tựu mà cho đến nay học sinh , sinh viên đạt được
có lẽ là nhờ công học tập , sáng tạo , mài giũa về ý chí , nghị lực đã đưa Việt Nam
, một quốc gia đang phát triển đến những bước ngoặt lịch sử , hiện đại về kinh tế
, xã hội và hội nhập với thế giới . Nhờ có tính siêng năng , năng động , sáng tạo
trong học tập và nghiên cứu , tiếp cận nhanh chóng những kiến thức , phương
pháp khoa học tiên tiến , hiện đại để ứng dụng vào thực tiễn mà học sinh , sinh
viên đã đạt được nhiều thành tích cao trong các giải quốc tế , góp phần đưa tên
tuổi Việt Nam ra quốc tế . Đất nước Việt Nam ta là một đất nước có 54 dân tộc
khác nhau , nhưng mỗi dân tộc đều mang những phong tục , tập quán riêng , điều
này đã tạo ra sự đa dạng , phong phú trong trang phục , ẩm thực và góp phần tạo
nên vẻ đẹp đơn thuần của con người Việt Nam . Để xây dựng , giữ gìn những
truyền thống văn hố đó , thì thế hệ trẻ Việt Nam đóng vai trị rất quan trọng trong
việc gìn giữ , kế thừa và phát huy bản sắc , quảng bá đến với các bạn bè quốc tế .
Nhiều học sinh , sinh viên khi du học ở nước ngồi đã khơng ngần ngại mà quảng
bá , giới thiệu tà áo dài , chiếc nón lá của nước mình đến với các bạn quốc tế .
2, Hạn chế

Bên cạnh những thành tựu nổi bật mà học sinh , sinh viên đã đóng góp cho đất
nước trong q trình phát triển và hội nhập với quốc tế thì cũng có một số ít các
hạn chế mà học sinh , sinh viên vẫn hay mắc phải Giới trẻ hiện nay có xu hướng
Khá Banh đi theo các thể loại âm nhạc hiện đại từ nước ngồi mà qn đi các
dịng nhạc truyền thống , dân ca , cách mạng dân tộc . Một số học sinh , sinh viên


hưởng ứng và có thái độ u thích đối với hình tượng “ thần tượng nổi ” trên
Youtube , Facebook , đăng tải những thông tin cổ suý , sai lệch .Điều này gây ảnh
hưởng đến nhận thức , mai một bản sắc dân tộc cũng như là lối sống của học ,Mặc
dù , mạng xã hội phát triển sinh , sinh viên Khơng ít học sinh , sinh viên hằng
ngày lao vào các trị chơi điện tử mang tính bạo lực , dẫn đến việc “ nghiện game
” , gây tác động xấu đến tinh thần , sức khoẻ và thời gian học tập . Điều này là
không phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc ta dẫn đến các hành động suy
đạo đức , suy văn hoá , vi phạm pháp luật . đem lại rất nhiều lợi ích cho chúng ta
, nhưng nó cũng ảnh hưởng khơng ít đến hành động , thái độ của học sinh , sinh
viên . Một số bạn trẻ ngày nay thường tiếp thu và hội nhập những văn hoá phẩm
đồi truỵ , tiêu cực trên Internet ; và có xu hướng “ bắt chước ” những văn hoá độc
hại đó như hiếp dâm , tiêm chích ma t .Một số ít bạn trẻ ngày nay thường có
thái độ thờ ơ , hiểu sai về chính trị , dễ bị lôi kéo vào các tệ nạn xã hội hay dễ bị
dụ dỗ bởi các thế lực phản động .
3, Giải pháp
Để giải quyết tình trạng thế hệ trẻ ngày càng có xu hướng lệch lạc về văn hố ,
nhận thức ; ảnh hưởng đến quá trình phát triển và bảo vệ Phát triển đất nước thì
em có một số giải pháp như sau :
Đối với vấn đề về việc giữ gìn văn hố âm nhạc , bản sắc truyền thống thì các
kênh phương tiện truyền thơng , chương trình giáo dục cần tuyên truyền , phát
huy những cái độc đáo , cái hay của văn hoá , âm nhạc mà ông cha ta đã truyền
lại để đến với thế hệ học sinh , sinh viên .
Cần có nhiều chương trình truyền hình liên quan đến âm nhạc dân tộc , cách mạng

, ẩm thực , trang phục truyền thống ... để tạo ra sự hứng thú , tò mò cho giới trẻ
Việt và góp phần quảng bá đến với bạn bè quốc tế . Mặc khác , cần có sự nghiêm
khắc của cơ quan công an , nhà nước đối với việc tuyên truyền sai lệch của các “
thần tượng nổi ” trên mạng để tránh gây ảnh hưởng tiêu cực đến với học sinh ,
sinh viên .
Cần có nhiều công tác thanh tra , quản lý chặt chẽ với vấn đề an ninh mạng ” , xử
lý nghiêm khắc đối với các hành vi phát tán những video , tin lan truyền sai lệch


trên Youtube hay các web xã hội mang hướng xấu đến nhận thức và hành động
của thanh , thiếu niên . Ngoài ra , các bậc cha mẹ phụ huynh cần quan tâm , dành
nhiều thời gian hơn đối với con của mình trong các hoạt động thể dục , thể thao ,
vui chơi , giải trí để tránh tình trạng “ nghiện game ” .
Các môn tư tưởng , chính trị , pháp luật nhà nước trong nhà trường cần tạo sự đa
dạng , phong phú trong cách dạy để tạo sự thích thú tìm hiểu của các bạn học sinh
sinh viên , góp phần nâng cao nhận thức đối với các hành vi chống phá , lôi kéo
của các thế lực thù địch nhằm mục đích xuyên tạc Đảng , Nhà nước ta .
Cần phải phê phán trào lưu viết ngôn ngữ lẫn lộn giữa tiếng Việt và tiếng nước
ngoài ; cần nâng cao nhận thức và đẩy mạnh việc viết tiếng Việt đúng nghĩa ,
tránh lẫn lộn để góp phần giữ gìn sự trong sáng , lành mạnh trong cách nói và cách
viết ngơn ngữ Việt .


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.136.
[2] Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 9, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.135
[3] Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 6, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr153
[4] Lênin, Toàn tập, tập 26, Nhà xuất bản tiến bộ Mát xcơ va1980, tr 174.
[5] Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002, tr 567
[6] Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002, tr 227

[7] Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002, tr 219
[8] Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002, tr 243
[9] Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002, tr 301
[10] Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002, tr 120
[11] Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002, tr 172
[12] Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002, tr 452
[13] Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002, tr 124
[14] Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002, tr466.
[15] Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002, tr 293
[16] Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002, tr 522
[17] Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002, tr30


[18] Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002, tr 7,8
[19] Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002, tr470
[20] Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002, tr 136
[21] Hồ Chí Minh, Tồn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002, tr 587
[22] ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ IX, NxbCTQG, H. 2001, Tr. 82
[23] ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ IX, NxbCTQG, H. 2001, Tr. 67,68
[24] ĐCSVN, VKHN lần thứ Tư Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb
CTQG, HN, 1998, tr 54.
[25] ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ IX của Đảng, NxbCTQG, Hà Nội,
2001, tr 166.
[26] ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ IX của Đảng, Nxb CTQG, Hà Nội,
2001, tr 67





×