Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI VIỆT TRUNG NĂM 1979

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (901.62 KB, 30 trang )

ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LỊCH SỬ

Bài tập kết thúc học phần
“Quan hệ Quốc tế ở Đông Nam Á từ sau chiến tranh th ế gi ới thứ hai đ ến nay ”
Giảng viên phụ trách: TS. Lê Phụng Hoàng

Đề tài:
CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI VIỆT – TRUNG
NĂM 1979


CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI VIỆT - TRUNG NĂM 1979

Năm học 2018–2019

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I: Bối cảnh trước cuộc chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979
1.1 Quan hệ Việt Nam - Liên Xô - Trung Quốc
1.2 Quan hệ Việt Nam - Campuchia - Trung Quốc
1.3 Vấn đề biên giới, biển đảo và Hoa kiều
CHƯƠNG II: Chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979
2.1 Mục tiêu của Trung Quốc
2.2 Sự chuẩn bị cho chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979
2.3. Diễn biến của chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979

3
4
4
5


6
9
9
10
12

2.3.1 Giai đoạn 1
2.3.2 Giai đoạn 2

12
13

2.3.3 Các diễn biến liên quan
2.3.4 Phản ứng của Quốc tế

14
16

CHƯƠNG III: Kết quả và nhận xét về chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979
3.1 Kết quả của chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979
3.2 Nhận xét về chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979
KẾT LUẬN
Tài liệu tham khảo
Phụ lục

19
19
20
22
25

28

2


CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI VIỆT - TRUNG NĂM 1979
MỞ ĐẦU
Trong kho tư liệu về quan hệ quốc tế ở Đông Nam Á sau chiến tranh thế giới thứ
hai đến nay, có rất ít điều được nói về chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979 .Ý
nghĩa của nó xứng đáng nhận được nhiều sự chú ý hơn lâu nay.
Mối quan hệ Việt Nam và Trung Quốc trong th ời đi ểm sau chi ến tranh th ế gi ới
thứ hai là hai nước Xã hội Chủ nghĩa anh em. Tuy nhiên, niềm tin vào những người anh
em cùng chung ý thức hệ đã làm Việt Nam mất cảnh giác, không tin b ị tấn công trong c ả
hai cuộc chiến biên giới Tây Nam và phía Bắc. Chiến tranh biên giới 1979, hay thường
được gọi là Chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979, là một cuộc chiến ngắn nhưng
khốc liệt giữa Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam,
nổ ra vào ngày 17 tháng 2 năm 1979 khi Trung Quốc đưa qn tấn cơng Việt Nam trên
tồn tuyến biên giới giữa 2 nước. Chiến tranh biên gi ới Việt - Trung b ắt ngu ồn t ừ quan
hệ căng thẳng kéo dài giữa hai quốc gia, kéo dài trong khoảng một tháng v ới thi ệt h ại
về người và tài sản cho cả hai phía.
Chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979 đã thể hiện một cách rõ ràng quan
điểm của Lord Palmerston: “Thế giới này khơng có bạn bè mãi mãi, cũng khơng có k ẻ
thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích quốc gia là vĩnh cửu”. 1 Trong quan hệ quốc tế, lợi ích quốc
gia là cao nhất, trên cả tinh thần quốc tế vô s ản và nhi ều khi các bên s ẵn sàng s ử d ụng
vũ lực để đạt mục tiêu chính trị. Dù có một đi ều nhìn chung được cơng nh ận là Vi ệt
Nam đã dạy cho Trung Quốc một bài học quân sự trong năm 1979, đi ều cũng đúng
không kém là Trung Quốc đã dạy cho Việt Nam một bài h ọc chính tr ị. Bài học đầu tiên
mà Việt Nam học được là Trung Quốc sẽ sử dụng vũ lực khi c ần thi ết đ ể đạt đ ược các
mục tiêu chính trị quan trọng, bất kể các lời tuyên bố trong quá khứ về nguyên tắc.
Vì vậy, tìm hiểu bản chất Chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979 là điều

cần thiết. Đối với bản thân, việc làm bài tiểu luận này giúp tơi nh ận th ức m ột cách tồn
diện và sâu sắc hơn về những vấn đề lịch sử trong mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc,
lịch sử quan hệ quốc tế ở Đông Nam Á sau chiến tranh Thế gi ới th ứ hai và bổ sung ki ến
thức lịch sử Quan hệ Quốc tế.

1Nguyên văn: Nations have no permanent friends or allies, they only have permanent interests,
/>(truy cập ngày 02/05/2019)

3


CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI VIỆT - TRUNG NĂM 1979
CHƯƠNG I: BỐI CẢNH TRƯỚC CUỘC CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI VIỆT - TRUNG
NĂM 1979
1.1 Quan hệ Việt Nam – Liên Xô - Trung Quốc
Tuy nhận được sự giúp đỡ rất lớn của Trung Quốc trong chiến tranh Đông
Dương và Chiến tranh Việt Nam nhưng các rạn nứt trong quan hệ ngoại giao giữa Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa và Trung Quốc đã bắt đầu từ năm 1968. Việt Nam muốn giữ
quan hệ nồng ấm với cả Moskva lẫn Bắc Kinh trong khi mâu thuẫn giữa Liên Xô và
Trung Quốc đã lên cao. Bất đồng quan điểm giữa Việt Nam và Trung Qu ốc v ề cách th ức
tiến hành cuộc chiến với Mỹ tại miền Nam Việt Nam tr ở nên rõ r ệt. Trung Quốc muốn
Việt Nam chỉ tiếp tục chiến tranh du kích có giới hạn chống Mỹ, trong khi Việt Nam
muốn tiến hành chiến tranh quy mô để thống nhất đất nước. Sau s ự ki ện Tổng tấn
công Tết Mậu Thân, Việt Nam bắt đầu đàm phán trực tiếp với Mỹ, trong khi đó Trung
Quốc phản đối.
Năm 1972, chuyến thăm của Tổng thống Mỹ Nixon tới Bắc Kinh và thỏa thuận
giữa Mỹ và Trung Quốc được Việt Nam Dân chủ Cộng hòa xem là một sự phản bội. Từ
năm 1973, Ban lãnh đạo Trung Quốc đã có chỉ thị: “Bề ngoài ta đối xử tốt với Việt Nam
như đối xử với đồng chí mình, nhưng trên tinh thần phải chuẩn bị họ sẽ tr ở thành k ẻ
thù của chúng ta” 2. Năm 1974, Trung Quốc cho quân đánh chiếm quần đảo Hoàng

Sa (đang được Việt Nam Cộng hịa quản lí) trong sự làm ngơ của Mỹ. Năm 1975, trong
chuyến thăm Bắc Kinh, Tổng Bí thư Lê Duẩn nêu ra vấn đề Hoàng Sa và nhận lại sự
phản ứng không nhượng bộ của Trung Quốc. Lê Duẩn thẳng thừng từ chối việc
đưa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào liên minh chống Liên Xô của Trung Quốc và phủ
nhận quan niệm của Trung Quốc rằng “chủ nghĩa bành trướng của Liên Xô là mối đe
dọa đối với các nước cộng sản châu Á”. Trung Quốc bắt đầu nói về một Việt Nam “hắc
tâm”, “vô ơn”, “ngạo ngược”.3 Viện trợ của Trung Quốc sau đó giảm mạnh và đến
năm 1978 thì cắt tồn bộ. Điều kiện đầu tiên Trung Quốc đặt ra cho Việt Nam để nối lại
viện trợ là phải từ chối tất cả các khoản viện trợ của Liên Xô.
2 Edward C. O’Dowd (2007), Chinese Military Strategy in the Third Indochina War: The Last Maoist War Asian
security studies, Routledge, page 40.
3Duy Chiến (2014), “Con đường dẫn đến sự kiện đảo Ngạc Ma”, Vietnamnet, đăng ngày 16/6/2014.
[truy cập ngày
06/4/2019 lúc 9:34]

4


CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI VIỆT - TRUNG NĂM 1979
1.2 Quan hệ Việt Nam – Campuchia – Trung Quốc
Năm 1975, sau khi lên nắm quyền, Khmer Đỏ bác bỏ đề nghị đàm phán xây dựng
mối quan hệ đặc biệt từ phía Việt Nam do lo ngại Việt Nam âm mưu áp
đảo Campuchia và lôi kéo Campuchia vào một Liên bang Đông Dương. Khmer Đỏ tìm
đến Trung Quốc để có được sự hậu thuẫn và Trung Quốc đồng ý ủng hộ do nước này
cần một đồng minh tại Đông Nam Á để thay thế cho Việt Nam , đồng thời ngăn chặn
“nguy cơ bá quyền của Việt Nam”, nhưng tuyên bố rằng chính phủ m ới sẽ được d ẫn d ắt
bởi Sihanouk. Khmer Đỏ đổi lại sẽ ủng hộ tư tưởng “Ba Thế giới” của Trung Quốc và
hậu thuẫn Bắc Kinh chống lại Liên Xô.
Quan hệ Việt Nam - Campuchia ngày càng đi xuống, từ tháng 5/ 1975 khi Khmer
Đỏ đánh chiếm các đảo Phú Quốc và Thổ Chu và bắt đi hàng trăm dân thường, lên cao

trào những năm 1977 - 1978 khi Khmer Đỏ nhiều lần đánh sâu vào lãnh thổ Việt Nam,
tàn sát hàng chục nghìn dân thường. 4 Trong suốt thời gian đó và cả về sau, Trung
Quốc luôn là nước viện trợ đắc lực cho Khmer Đỏ. Chính phủ Việt Nam nhiều lần đề
nghị Trung Quốc giúp đỡ dàn xếp quan hệ giữa Việt Nam và Campuchia, song Trung
Quốc im lặng. Tuyên bố chủ quyền của nước Việt Nam thống nhất năm 1975 đối với
các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; cách ứng xử của Việt Nam đối với người Việt gốc
Hoa; và cố gắng của Việt Nam trong việc xây dựng quan hệ chặt chẽ gi ữa ba n ước Đông
Dương được Bắc Kinh xem là nỗ lực nhằm thống trị Đông Dương và là ví dụ về sự h ỗn
xược của Việt Nam.
Ngày 20/11/1977, Tổng bí thư Lê Duẩn sang thăm Trung Quốc. Lê Duẩn đề nghị
lãnh đạo Trung Quốc yêu cầu Campuchia Dân chủ chấp nhận một giải pháp cho cuộc
xung đột trên tuyến biên giới Tây Nam nhưng Trung Quốc không quan tâm. Tháng
12/1977, Phó Thủ tướng Trung Quốc tới thăm Campuchia và tun bố: “Khơng một lực
lượng nào có thể cản trở quan hệ hữu nghị giữa Trung Quốc và Campuchia, hai nước sẽ
là đồng chí với nhau mãi mãi”.5 Cuối năm 1977, các văn kiện của Quân khu Quảng Châu
luôn nhấn mạnh tinh thần “phải chuẩn bị các mặt để đánh Việt Nam”, tuyên truyền:
“Việt Nam là tay sai của Liên Xơ, có tham vọng xâm lược Campuchia, Lào, chiếm Đông
Nam Á, thực hiện bá quyền khu vực, phải đánh cho b ọn xét l ại Việt Nam, không đánh là

4Nayan Chanda (1986), Brother Enemy. The War after the War.Harcourt Brace Jovanovich, page 212.
5 Alice Cuddy and Daniel Pye (2015), “The Pol Pot dilemma”, The Phnompenh Post, May 29.
[truy cập ngày 07/4/2019 lúc 14:30]

5


CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI VIỆT - TRUNG NĂM 1979
không thể được và phải đánh lớn. Việt Nam là tiểu bá ở châu Á, xâm lược Campuchia,
xua đuổi người Hoa”.6
Tháng 01/1978, Thủ tướng Phạm Văn Đồng yêu cầu các nước Xã hội Chủ nghĩa

giúp đỡ giải quyết cuộc xung đột Việt Nam – Campuchia và Trung Quốc không đáp ứng.
Cũng trong tháng 01/1978, Trung Quốc ký một hiệp định xúc tiến viện trợ quân sự
cho Campuchia Dân chủ, bắt đầu chuyển vũ khí đến Campuchia. Trung Quốc cũng hủy
bỏ hiệp ước về lãnh sự với Việt Nam và yêu cầu các lãnh sự quán Việt Nam phải dời về
nước. Ngày 12/7/1978, lần đầu tiên, tờ Nhân dân Nhật báo của Trung Quốc cơng khai
buộc tội Việt Nam “tìm cách sáp nhập Campuchia vào một Liên bang Đông Dương dưới
sự thống trị của Việt Nam”. Cuối năm 1978, căng thẳng giữa Việt Nam với Campuchia,
Trung Quốc lên một đỉnh mới. Căng thẳng Việt Nam -Trung Qu ốc lên cao thì ở biên gi ới
phía Tây Nam của Việt Nam, chính quyền Khmer Đỏ, với sự bảo trợ của Trung Quốc,
cũng leo thang hoạt động quân sự xâm lấn miền Nam Việt Nam.
Các xung đột lẻ tẻ ở khu vực này đã nhanh chóng bùng n ổ thành Chiến tranh biên
giới Việt Nam - Campuchia với hệ quả là Việt Nam đưa quân vào Campuchia lật đổ
chính quyền diệt chủng Khmer Đỏ. Đứng trước tình hình đó, Trung Quốc quyết định tấn
cơng xâm lược Việt Nam với lý do “dạy cho Việt Nam một bài học ” (lời của Đặng Tiểu
Bình) nhưng mục đích chính là phân chia lực lượng quân đội của Việt Nam để giúp
chính quyền diệt chủng Khmer Đỏ. Sau khi Phnom Penh thất thủ, ngày 27/1/1979 tờ
Nhân dân Nhật báo có bài viết: “Sự thất thủ của Phnom Penh khơng có nghĩa là chiến
tranh chấm dứt mà chỉ là khởi đầu” và “vấn đề Campuchia đóng vai trị vật xúc tác để
đẩy các quan hệ với Việt Nam vượt quá một điểm không thể nào quay trở lại được
nữa”.7
1.3 Vấn đề biên giới, hải đảo và Hoa kiều
Cuộc đàm phán đầu tiên về biên giới, lãnh thổ giữa Việt Nam - Trung Qu ốc đ ược
tiến hành từ ngày 15/8/1974 đến ngày 2/11/1974 ở cấp Thứ trưởng Ngoại giao. Từ
giữa năm 1975, tình hình biên giới Việt Nam - Trung Quốc trở nên căng th ẳng do nh ững
hoạt động vũ trang từ phía Trung Quốc. Những xung đột ở biên giới Việt Nam - Trung
6 Nguyễn Thị Mai Hoa (2014), “Mâu thuẫn, xung đột trong quan hệ Việt – Trung và chiến tranh biên gi ới tháng 2
năm 1979”, Tạp chí Văn hóa Nghệ An, đăng ngày 15/02/2014.
[truy cập ngày 06/4/2019 lúc 9:51]
7 Edward C. O’Dowd (2007), Chinese Military Strategy in the Third Indochina War: The Last Maoist War Asian
security studies, Routledge, page 44.


6


CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI VIỆT - TRUNG NĂM 1979
Quốc tại khu vực Cao Bằng - Lạng Sơn vào cuối năm 1976 làm quan hệ Việt Nam Trung Quốc ngày càng xấu đi. Tháng 3/ 1977, Việt Nam và Trung Quốc tiến hành đàm
phán lần thứ hai về vấn đề biên giới Cao Lạng - Quảng Tây. Đoàn Việt Nam yêu cầu bàn
biện pháp chấm dứt các vụ vi phạm biên giới quốc gia và tr ở l ại đ ường biên gi ới l ịch s ử,
trong khi đó đồn Trung Quốc muốn giữ nguyên trạng để bàn về các biện pháp ngăn
ngừa xung đột, trong khi chờ Chính phủ hai nước đàm phán giải quy ết v ấn đ ề biên gi ới
Việt Nam - Trung Quốc.Từ năm 1978 đến đầu năm 1979, mức độ xâm phạm lãnh thổ,
hoạt động vũ trang mang tính khiêu khích tại biên gi ới Việt Nam của Trung Quốc ngày
càng nghiêm trọng. Theo thống kê của Việt Nam, công bố trong Bị vong l ục c ủa Bộ
Ngoại giao nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ngày 15/2/1979, s ố v ụ xâm
phạm vũ trang của Trung Quốc vào lãnh thổ Việt Nam năm 1978 là 583 vụ. Chính phủ
Việt Nam, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã nhiều lần ra tuyên bố và gửi công hàm ph ản đ ối
hành động xâm phạm biên giới Việt Nam tới Bộ Ngoại giao Trung Quốc.
Từ năm 1973, Liên Hiệp Quốc bắt đầu thảo luận về vấn đề chủ quyền của các
quốc gia đối với vùng đặc quyền kinh tế trên bi ển. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa quyết định tuyên bố chủ quyền với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa dựa theo
Hiệp ước Pháp - Thanh ký kết năm 1887. Về phía Trung Quốc, với cuộc khủng hoảng
dầu lửa những năm 1970, nước này đã tìm kiếm các nguồn khai thác dầu mỏ trên biển
Đông sát với Việt Nam, một hành động mà theo Việt Nam là chiến lược bao vây đất
nước họ. Tranh chấp giữa hai nước về hai quần đảo này đã bắt đầu ngay từ
năm 1975 sau khi Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với hai quần đảo này. 8 Ngày
10/9/1975, phía Trung Quốc gửi cơng hàm cho Việt Nam Dân chủ Cộng hịa khẳng định
chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa (tức là Hoàng Sa và
Trường Sa theo cách gọi của Trung Quốc). Tháng 9/ 1975, trong chuyến viếng thăm
Trung Quốc, Tổng Bí thư Lê Duẩn nêu vấn đề Trung Quốc dùng vũ lực chiếm Hoàng
Sa trong chuyến thăm, phía Việt Nam nêu vấn đề chủ quyền của mình đối v ới hai qu ần

đảo này. Trong cuộc gặp ngày 24/9/1975, nhà lãnh đạo Trung Qu ốc Đặng Tiểu
Bình tun bố phía Trung Quốc có đầy đủ chứng cứ để khẳng định qu ần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa là lãnh thổ Trung Quốc, nhưng cần theo nguyên tắc hiệp th ương h ữu ngh ị
để giải quyết bất đồng. Đặng Tiểu Bình cũng bày tỏ hai bên có th ể th ương l ượng đ ể
giải quyết vấn đề.. Ngày 3/12/1975, Đại sứ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Bắc
Kinh khẳng định với Bộ trưởng Bộ ngoại giao Trung Quốc chủ quyền của Việt Nam trên
8 Nayan Chanda (1986), Brother Enemy. The War after the War.Harcourt Brace Jovanovich, page 88.

7


CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI VIỆT - TRUNG NĂM 1979
hai quần đảo Hồng Sa và Trường Sa. Ngày 12/5/1977, Chính phủ Việt Nam ra tuyên bố
về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế 200 dặm và thềm l ục đ ịa Việt Nam,
bao gồm cả các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trung Quốc phản ứng mạnh mẽ với
tuyên bố này. Ngày 30/7/1977, Ngoại trưởng Trung Quốc Hoàng Hoa tuyên bố: “Khi thời
cơ đến chúng ta sẽ thu hồi toàn bộ quần đảo Nam Sa ( quần đảo Trường Sa) mà khơng
cần phải thương lượng gì hết”. 9 Ngày 28/9/1979, Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố Sách
trắng, giới thiệu 19 tài liệu chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối v ới Hoàng Sa và
Trường Sa.
Một lý do nữa khiến căng thẳng Việt Nam - Trung Quốc leo thang là v ấn đ ề Hoa
kiều tại Việt Nam. Người Hoa đặc biệt có ảnh hưởng ở miền Nam Việt Nam, nơi họ
hoạt động mạnh trong lĩnh vực kinh doanh thương mại. Năm 1955, ở miền Bắc Việt
Nam, theo thỏa thuận của Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc,
“người Hoa cư trú ở miền Bắc Việt Nam phải được đặt dưới sự lãnh đạo của Đ ảng
Cộng sản Việt Nam” và dần dần chuyển thành công dân Việt Nam, được hưởng những
quyền lợi như người Việt Nam và tự nguyện nhập quốc tịch Việt Nam. Năm 1956, chính
quyền Ngơ Đình Diệm đưa ra chính sách buộc người Hoa phải nhập quốc tịch Việt
Nam hoặc họ sẽ bị trục xuất khỏi lãnh thổ. Ngược lại, Hà Nội và Bắc Kinh đồng ý trên
nguyên tắc về việc cho phép Hoa kiều tự chọn lựa quốc tịch của mình. Tháng

4/1978, Việt Nam tiến hành cải tạo công thương nghiệp ở miền Nam. Trung Quốc coi
việc Việt Nam, trong q trình tiến hành cải tạo cơng thương nghi ệp, tịch thu tài s ản
của giới công thương người Hoa ở miền Nam Việt Nam là một sự thách th ức chính sách
bảo vệ Hoa kiều của Trung Quốc. Phản ứng lại chính sách cải tạo cơng thương của nhà
nước Việt Nam, một phong trào đòi lấy quốc tịch Trung Quốc trong người Hoa ở Việt
Nam nổi lên. Trung Quốc đưa ra chính sách “đồn kết v ới giai c ấp t ư s ản Hoa ki ều”, kêu
gọi chống lại chính sách “bài Hoa” của Việt Nam; đồng thời, loan truyền trong cộng
đồng người Việt gốc Hoa về một cuộc chiến tranh không th ể tránh khỏi gi ữa Vi ệt Nam Trung Quốc khiến cộng đồng người Hoa hoảng hốt. Trong năm 1978 cộng đồng người
Hoa ở Việt Nam đã ồ ạt kéo về Trung Quốc. Cho đến thời điểm xảy ra cuộc chiến đã có
chừng 160.000 Hoa kiều hồi hương từ Việt Nam. Việc ra đi ồ ạt của người Hoa chuyên
sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và hoạt động thương nghi ệp làm tăng thêm
tình trạng khan hiếm hàng hố tiêu dùng một cách gay gắt, ảnh h ưởng x ấu đ ến n ền
kinh tế Việt Nam.
9 Bộ ngoại giao Việt Nam (1979), Văn kiện: Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc 30 năm qua, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia - Sự thật, trang 72.

8


CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI VIỆT - TRUNG NĂM 1979

CHƯƠNG II: CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI VIỆT – TRUNG

NĂM 1979

2.1 Mục tiêu của Trung Quốc
Theo hồi ký của Châu Đức Lễ, Tham mưu trưởng Quân khu Quảng Châu, tháng
9/1978, tại văn phòng Tổng Tham mưu trưởng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc
diễn ra cuộc họp về “cách giải quyết vấn đề lãnh thổ bị quân Việt Nam chiếm đóng”. Đề
xuất tại cuộc họp muốn có một cuộc tấn cơng nhỏ vào một trung đoàn Việt Nam tại

Cao Bằng, Việt Nam giáp với Quảng Tây, Trung Quốc.10 Ngày 7/12/1978, Ủy ban Quân
sự Trung ương Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra quyết định mở một cuộc chiến hạn
chế ở biên giới Việt Nam - Trung Quốc, trong phạm vi 50 cây s ố từ biên gi ới và kéo dài
hai tuần. Quân khu Quảng Châu và Côn Minh được chỉ thị chuẩn bị đầy đủ lực lượng
trước ngày 10/01/1979 để thực hiện chiến dịch tấn công Việt Nam.
Tuyên bố chiến tranh của Bắc Kinh nói rằng đây là cuộc chiến để quân Trung
Quốc “phản cơng” chống lại các khiêu khích của Việt Nam. Phát ngơn viên của Tân Hoa
xã nói: “Các lực lượng biên phịng Trung Quốc đã hành động khi tình hình trở nên khơng
thể chấp nhận được và khơng cịn lựa chọn nào khác. Chúng tôi không mu ốn m ột tấc
đất nào của Việt Nam. Cái chúng tôi muốn là một đường biên giới ổn định và hịa bình.
Sau khi đánh trả các thế lực hiếu chiến đủ mức cần thi ết, các lực l ượng biên phòng c ủa
chúng tôi sẽ quay lại bảo vệ chặt chẽ biên giới của tổ quốc”. 11
Nhiều nhà sử học phương Tây cho rằng cuộc chiến có những mục đích khơng rõ
ràng, trong đó dễ thấy nhất là mục đích trừng phạt Việt Nam vì đã lật đổ chế độ Khmer
10Achives (1981), “Around the nation: China Reports Repelling Vietnam “Invadera””, New York Times, August 17.
[truy cập ngày 04/5/2019 lúc 18:47]
11 Grant Evans, Kelvin Rowley (1984), Red Brotherhood at War - Indochina since the Fall of Saigon, Lomdon Verso,
page 51.

9


CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI VIỆT - TRUNG NĂM 1979
Đỏ tại Campuchia - một đồng minh của Trung Quốc và là một trong những chế độ tàn
bạo nhất của thế kỷ XX. Về sau, một số nhà sử học suy đoán r ằng cu ộc chi ến có v ẻ là
một phần trong kế hoạch hiện đại hóa quân đội của Đặng Tiểu Bình khi nó thể hiện rõ
các khiếm khuyết của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Qu ốc. Nh ững ng ười khác cho
rằng Đặng Tiểu Bình gây ra chiến tranh để giữ cho quân đội bận rộn trong khi ông c ủng
cố quyền lực và loại bỏ các đối thủ cánh tả từ thời Mao Trạch Đông.
Tiến sĩ Xiaoming Zhang, từ trường Air War College, Hoa Kỳ cho rằng Đặng Tiểu

Bình quyết định tấn cơng Việt Nam vì “Liên minh của Hà Nội với Moskva khiến Đặng tin
rằng đe dọa của Liên Xơ khơng chỉ từ phía bắc mà cả từ phía nam... Các lãnh đ ạo Trung
Quốc tin rằng tấn công trừng phạt Việt Nam sẽ là cú địn đánh vào chiến lược bành
trướng tồn cầu của Liên Xơ. Rốt cuộc có lẽ Trung Quốc đã phản ứng thái q trước đe
dọa của Liên Xơ. Cịn có những yếu tố khác tác động quyết định gây chi ến của Đặng,
gồm chính trị trong nước và quan hệ với Mỹ. “Hành vi sai trái” của Việt Nam, đặc biệt là
liên minh với Liên Xô, làm người Trung Quốc giận dữ. Họ muốn trừng phạt đồng minh
phản bội sau nhiều năm Trung Quốc phải hy sinh giúp đánh Mỹ. Các va chạm biên giới
cũng khích động tình cảm người Trung Quốc. Yếu tố tình cảm đóng vai trị quan trọng
để tạo nên sự đồng thuận trong giới lãnh đạo chính trị và quân s ự ủng h ộ Đặng gây
chiến... Đặng tin rằng liên minh với phương Tây sẽ chứng tỏ Trung Quốc có giá trị trong
cuộc đấu tranh chống Liên Xô bành trướng và rằng để đổi lại, phương Tây sẽ giúp
Trung Quốc cải tổ kinh tế. Theo ông ta, làm thế sẽ khu ấy đ ộng ủng h ộ trong n ước và
nước ngồi, tạo nên mơi trường an toàn và ổn định để Trung Quốc hiện đại hóa”.12
Đối với Việt Nam, cuộc chiến là một phần trong kế hoạch bành trướng về phía
nam của Trung Quốc. Theo phân tích của phía Việt Nam, mục tiêu chính của Trung
Quốc trong hành động quân sự lần này gồm:13
Một là nhanh chóng chiếm đóng vùng biên gi ới Việt - Trung, đ ặc bi ệt là các th ị xã
trọng yếu gồm Lạng Sơn, Cao Bằng và Lào Cai để làm bàn đạp cho các cuộc tấn công
vào sâu nội địa Việt Nam.
12 Russlle D. Howard (1999), “ The China people’s liberation army: “short arms and slow legs”, Global Security,
September 28. . [truy cập 05/5/2019
lúc 07:54]
13 Nguyễn Trọng Tạo (2010), “Lê Duẩn nói về Trung Quốc”, tạp chí Cửa Việt, đăng ngày 31/10/2019.
/>%E1%BB%91c/ [truy cập ngày 04/5/2019 lúc 17:10]

10


CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI VIỆT - TRUNG NĂM 1979

Hai là tiêu hao lực lượng chủ lực và làm yếu khả năng phịng ngự phía Việt Nam.
Ba là hủy diệt cơ sở hạ tầng và nền kinh tế ở các vùng chi ếm đóng đ ể đưa
nền kinh tế Việt Nam tới chỗ sụp đổ.
2.2 Sự chuẩn bị cho chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979
Theo nguồn tin từ Cục tình báo Trung ương Mỹ CIA, thì từ giữa năm 1978, Trung
Quốc đã hoàn chỉnh các phương án tác chiến, các đơn vị quân đội Trung Quốc đã sẵn
sàng mở cuộc tiến công quân sự quy mô lớn chống Việt Nam, chỉ cần thời cơ đến là phát
động chiến tranh. 14 Từ giữa tháng 12/1978, Trung Quốc đã chọn lực lượng quân đội từ
năm quân khu và đưa áp sát biên giới Trung - Vi ệt và thực hiện hàng loạt các vụ tấn
cơng thăm dị vào các vị trí phịng thủ của Việt Nam tại biên giới, với mục đích thu thập
thơng tin tình báo, đe dọa qn Việt Nam và đánh lạc hướng khỏi mục tiêu chính của
chiến dịch sắp tới. Dấu hiệu đầu tiên của chiến tranh là vi ệc Trung Quốc cắt đứt tuyến
đường sắt Hữu Nghị nối liền hai nước vào ngày 22/12/1978.
Việc Trung Quốc lựa chọn thời điểm tấn công Việt Nam cũng hết sức thuận lợi
cho Trung Quốc. Đặng Tiểu Bình vừa kết thúc chuyến công du sang Mỹ, cùng v ới việc
ông ta lớn tiếng đe dọa “dạy cho Việt Nam một bài học”, Trung Quốc tỏ ra họ có được
hậu thuẫn từ Hoa Kỳ, hoặc ít nhất là Mỹ cũng im lặng tán thành. Ngoài ra vi ệc Trung
Quốc cắt nguồn viện trợ dầu cho Việt Nam vào cu ối năm 1978, vốn chiếm tới hơn một
nửa tiêu thụ dầu của Việt Nam, trong khi Liên Xô chưa kịp viện trợ bổ sung, cũng khiến
dự trữ dầu chiến lược của Việt Nam bị thiếu hụt trong thời đi ểm quy ết định khi qn
Trung Quốc tấn cơng.
Thêm

vào

đó,

việc

Trưởng


Ngân

khố

Mỹ

Blumenthal

của

chính

quyền Carter viếng thăm Trung Quốc vào 24 tháng 2 cũng có tác dụng như một lời
khuyến khích ngầm Trung Quốc, và có tác dụng phụ đảm bảo với Trung Quốc tình hình
tại vùng duyên hải Phúc Kiến đối diện với Đài Loan sẽ yên tĩnh trong thời gian đầu
năm 1979, khiến Trung Quốc có thể n tâm tái bố trí các lực l ượng tại Phúc Ki ến v ề
hướng biên giới phía nam với Việt Nam.
Ngày 16/02/1979, Trung Quốc tổ chức cuộc họp phổ biến ý nghĩa của cuộc chiến
tranh sắp tới chống Việt Nam cho cán bộ cao cấp nước này. Trong cuộc họp này, Đặng
14 Edward C. O’Dowd (2007), Chinese Military Strategy in the Third Indochina War: The Last Maoist War Asian
security studies, Routledge, page 44.

11


CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI VIỆT - TRUNG NĂM 1979
Tiểu Bình nhấn mạnh đây là cuộc phản kích tự vệ, hạn chế v ề th ời gian và không gian.
Để cảnh báo Liên Xô và cũng nhằm ngăn chặn bị tấn cơng từ hai mặt, Trung Quốc đặt
tồn bộ qn đội đóng dọc biên giới Trung - Xơ vào tình tr ạng báo đ ộng đ ồng th ời thi ết

lập một sở chỉ huy quân đội mới ở Tân Cương và di tản dân khỏi vùng biên giới với Liên
Xô. Để đối phó lại việc Trung Quốc tập trung bộ binh và vũ khí hạng nặng tại biên gi ới,
cũng như việc các cuộc đột kích vũ trang ngày càng gia tăng, Việt Nam tiến hành chuẩn
bị các vị trí phòng ngự, chuẩn bị tinh thần dân chúng s ẵn sàng m ột khi chi ến tranh x ảy
ra. Tuy nhiên Việt Nam tại thời điểm đó vẫn tin rằng Trung Quốc sẽ khơng tấn cơng
vì Trung Quốc là một nước Xã hội Chủ nghĩa anh em. Thêm nữa, Việt Nam tin rằng đa
phần nhân dân Trung Quốc không ủng hộ chiến tranh và sẽ phản đối chiến tranh n ổ
ra.15
Từ tháng 01/1979, Trung Quốc bắt đầu đẩy mạnh các hoạt đ ộng trinh sát vũ
trang dọc biên giới, gây ra 230 vụ xâm phạm vũ trang vào lãnh thổ Việt Nam, từ gây hấn
cho tới phục kích, bắt cóc người đưa về Trung Quốc, tập kích, bắn phá các đ ồn biên
phịng và trạm gác của cơng an, dân quân Việt Nam cũng nh ư các c ơ s ở s ản xu ất c ủa
người dân. Ngày 01/01/1979, theo chỉ thị của Thường vụ Quân ủy Trung ương Việt
Nam, các lực lượng vũ trang biên giới được lệnh chuy ển sang tr ạng thái s ẵn sàng chi ến
đấu cao.
Từ ngày 01 đến ngày 13/01/1979, phía Trung Quốc liên tiếp có nhiều phát biểu
và bình luận mà nội dung là tố cáo Việt Nam xâm lược, lên án Việt Nam chiếm đóng
Phnơm Pênh. Trung Quốc kêu gọi Campuchia Dân chủ đánh lâu dài và hứa sẽ ủng hộ
toàn diện. Trung Quốc đưa ra Hội đồng Bảo an Dự thảo ngh ị quy ết đòi Vi ệt Nam rút
quân, kêu gọi các nước chấm dứt viện trợ cho Việt Nam. Trước dư lu ận trong n ước và
quốc tế, Trung Quốc công khai tuyên bố: “Việt Nam là tiểu bá theo đại bá Liên Xô”,
“Trung Quốc quyết không để cho ai làm nhục”, cuộc tiến công của Trung Qu ốc vào Vi ệt
Nam sắp tới là nhằm “dạy cho Việt Nam một bài học”.16 Ngày 15/02/1979, Đặng Tiểu
Bình tuyên bố Trung Quốc chuẩn bị tấn công giới hạn Việt Nam.
2.3. Diễn biến của chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979

15Mark A. Ryan, David Michael Finkelstein, Michael A. McDevitt (2003), Chinese Warfighting: The Pla Experience
Since 1949, Bharat Rakshak Monitor, page 226 -228
16Bruce Elleman (1996), “Sino – Soviet Relations and February 1979 Sino – Vietnam Conflict”, Texas University,
April 20. [truy cập ngày

04/5/2019 lúc 18:47]

12


CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI VIỆT - TRUNG NĂM 1979
2.3.1Giai đoạn 1
5 giờ sáng ngày 17/02/1979, lực lượng bộ binh Trung Quốc với khoảng 120.000
quân bắt đầu tiến vào Việt Nam trên toàn tuyến biên giới, mở đầu là pháo, tiếp theo là
xe tăng và bộ binh. Cánh phía đơng có Sở Chỉ huy Tiền phương đặt tại Nam Ninh và mục
tiêu chính là Lạng Sơn. Có hai hướng tiến song song, hướng thứ nhất do quân đoàn 42A
dẫn đầu từ Long Châu đánh vào Đồng Đăng nhằm làm bàn đạp đánh Lạng Sơn, hướng
thứ hai do quân đoàn 41A dẫn đầu từ Tĩnh Tây và Long Châu tiến vào Cao Bằng và Đơng
Khê. Ngồi ra cịn có qn đồn tiến vào Móng Cái, thị xã Lào Cai, Hà Giang, Lai
Châu... Tổng cộng quân Trung Quốc xâm nhập Việt Nam trên 26 điểm.17 Quân Trung
Quốc vừa chiếm ưu thế về lực lượng, vừa chủ động về thời gian tiến công, lại cịn có
“lực lượng thứ năm” gồm những người Việt gốc Hoa trên đất Việt Nam.
Tiến nhanh lúc khởi đầu nhưng quân Trung Quốc nhanh chóng phải giảm tốc độ
do gặp nhiều trở ngại về địa hình và hệ thống hậu cần lạc hậu. Trong ngày đầu của
cuộc chiến, chiến thuật dùng biển lửa và biển người của Trung Quốc đã có kết quả tốt,
họ tiến được vào sâu trong lãnh thổ Việt Nam hơn 10 dặm và chiếm được một số thị
trấn. Tuy nhiên, hệ thống phòng thủ của Việt Nam dọc theo biên giới chắc chắn, quân
đội kháng cự rất mạnh và với tinh thần chiến đấu cao. Kết quả là Trung Quốc phải chịu
thương vong lớn. Quân Trung Quốc sau khi vượt sơng Hồng thì tiến chậm chạp, giành
giật từng đường hầm, từng điểm cao và cuối cùng cũng chiếm được Mường
Khương, Trùng Khánh và Đồng Đăng. Sau hai ngày chiến tranh, quân Trung Quốc đã
chiếm được 11 làng mạc và thị trấn, đồng thời bao vây Đồng Đăng, thị trấn có vị trí then
chốt trên đường biên giới Trung - Việt.
Trận chiến tại Đồng Đăng bắt đầu ngay từ ngày 17 và là trận ác liệt nhất. Đây là
trận địa phịng thủ của Trung đồn 12 Tây Sơn, Sư đoàn 3 Sao Vàng, Quân đội Nhân dân

Việt Nam. Lực lượng phịng thủ khơng được chi viện nhưng đã chiến đấu đến nh ững
người cuối cùng, trụ được cho đến ngày 22. Ngày cu ối cùng tại Pháo Đài, n ơi có h ệ
thống phịng thủ kiên cố nhất, không gọi được đối phương đầu hàng, quân Trung
Quốc chở bộc phá tới đánh sập cửa chính, dùng súng phun lửa, th ả lựu đạn, b ắn đạn
hóa chất độc vào các lỗ thông hơi làm thiệt mạng hầu hết thương binh cũng nh ư dân
quanh vùng đến đây lánh nạn. Tổng cộng trong trận Đồng Đăng, Trung Quốc thương

17King C. Chen (1987), China's War with Vietnam, 1979: Issues, Decisions, and Implications, Hoover Press, pgae 106.

13


CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI VIỆT - TRUNG NĂM 1979
vong 2.220 lính. Về phía Việt Nam, trong số 700 bộ đội, dân qn và cơng an phịng th ủ
tại pháo đài Đồng Đăng, chỉ có sáu người sống sót. 18
Đến 21/02, Trung Quốc tăng cường thêm 2 sư đoàn và ti ếp tục tấn công m ạnh
hơn nữa. Quân Trung Quốc chiếm thêm một số vùng tại Cao Bằng, Hà Tuyên, Lạng Sơn
và Quảng Ninh. Chiến sự lan rộng tới các khu đơ th ị ven bi ển ở Móng Cái. Về phía Việt
Nam, cùng lúc với việc triển khai phịng ngự quyết liệt, khoảng từ 3 đến 5 sư đoàn cũng
được giữ lại để thành lập một tuyến phòng ngự cánh cung từ Yên Bái tới Quảng Yên với
nhiệm vụ bảo vệ Hà Nội và Hải Phòng.
Ngày 23/02, Đặng Tiểu Bình nhắc về về “cuộc chiến tranh hạn chế” và nói sẽ rút
qn trong vịng 10 ngày hoặc hơn. Đây được xem là thông đi ệp nh ằm ngăn Liên Xô can
thiệp quân sự, đáp lại kêu gọi rút quân của Mỹ, xoa dịu các n ước đang lo ng ại v ề m ột
cuộc chiến lớn hơn và gây khó hiểu cho Việt Nam.
Ngày 26/02, thêm nhiều quân Trung Quốc tập kết quanh khu vực Lạng S ơn
chuẩn bị cho trận chiến đánh chiếm thị xã này. Tuy nhiên, do vấp phải sự phịng ngự có
hiệu quả của Việt Nam cũng như có chiến thuật lạc hậu so với phía Việt Nam nên quân
Trung Quốc tiến rất chậm và bị thiệt hại nặng. Qn Việt Nam cịn phản kích đánh cả
vào hai thị trấn biên giới Ninh Minh (Quảng Tây) và Malipo (Vân Nam) của Trung Quốc

nhưng chỉ có ý nghĩa quấy rối.
2.3.2 Giai đoạn 2
Giai đoạn 2 bắt đầu từ ngày 27/02. Chiến sự tập trung tại Lạng Sơn tuy giao
tranh tại Lào Cai, Cao Bằng và Móng Cái vẫn tiếp diễn. Trận đánh chiếm thị xã Lạng Sơn
bắt đầu lúc 6 giờ sáng cùng ngày. Việt Nam đã tổ chức phòng thủ chu đáo và phản ứng
mãnh liệt trước các đợt tấn công lớn của quân Trung Quốc. Tuy nhiên, 14 giờ ngày hơm
đó, 1 tiểu đồn Trung Quốc bí mật luồn qua phía sau bất ngờ đánh chiếm điểm cao 800,
nơi đặt đài quan sát pháo binh của sư đoàn 3 Sao Vàng. M ất đi ểm cao 800, th ế tr ận
phòng ngự của Việt Nam ở phía tây đường 1A từ Cốc Chủ đến điểm cao 417 bị ch ọc
thủng.19 Sau nhiều trận đánh đẫm máu giành giật các đi ểm cao quanh Lạng Sơn, mà có
18 Hải Minh (2015), “Ký ức 17/2/1979: Chuyện của người lính sống sót ở pháo đài tử thủ Đồng Đăng”, VTC News,
đăng ngày 16/02/2015. [truy cập 05/5/2019 lúc 14:54]
19 Nhiều tác giả (1999), Lịch sử Sư đoàn 3 Sao vàng, nxb Văn hóa, Chương 7, Mục 4: Trước cửa ngõ thị xã Lạng
Sơn.

14


CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI VIỆT - TRUNG NĂM 1979
trận quân phòng thủ Việt Nam đánh đến viên đạn cuối cùng, quân Trung Quốc bắt đ ầu
bao vây được thị xã Lạng Sơn.
Đến đây, phía Việt Nam đã điều động các sư đồn chủ lực có xe tăng, pháo binh,
khơng qn hỗ trợ áp sát mặt trận, chuẩn bị phản công giải phóng các khu v ực b ị chi ếm
đóng. Ngày 05/3/1979, Việt Nam ra lệnh tổng động viên toàn quốc. Trưa cùng ngày, Bắc
Kinh tuyên bố đã “hoàn thành mục tiêu chiến tranh”, “chi ến th ắng” và b ắt đ ầu rút quân.
Ngày hôm sau quân Trung Quốc rút về phía bắc sơng Kỳ Cùng. Ngày 07/3, Việt Nam
tun bố rằng để thể hiện “thiện chí hịa bình”, Việt Nam sẽ cho phép Trung Quốc rút
quân. Bộ Quốc phòng Việt Nam quyết định cho dừng chiến dịch phản công. 20
Mặc dù Trung Quốc tuyên bố rút quân, chi ến sự vẫn ti ếp di ễn ở m ột s ố n ơi. Dân
thường Việt Nam vẫn tiếp tục bị giết. Trong thời gian chuẩn bị rút quân, Trung

Quốc cịn phá hủy một cách có hệ thống tồn bộ các cơng trình xây dựng, từ nhà dân hay
cột điện, tại các thị xã, thị trấn Sapa, Đồng Đăng, Lạng Sơn. Ngày 16/3/1979, Trung
Quốc tuyên bố hoàn tất việc rút quân khỏi Việt Nam. Phía Quân đội Việt Nam để trả
đũa

cũng

đã

phản

kích

đánh

vào

hai

thành

ph ố biên

gi ới

của Trung

Quốc là Malipo và Ninh Minh. Sau đó rút qn về biên giới để phịng thủ.
2.3.3 Diễn biến liên quan
Chiến dịch dân vận của Trung Quốc

Theo truyền thống, Trung Quốc đề cao việc tuyên truyền chính trị cho binh sĩ và
dân chúng của mình về chính nghĩa của họ trong vi ệc cần thi ết ti ến hành cu ộc chi ến
trừng phạt Việt Nam. Trung Quốc tuyên truyền trong nhân dân rằng đây là cuộc chiến
phản công chống Việt Nam để bảo vệ lãnh thổ quốc gia; tuyên truyền với quân đội
rằng chiến dịch quân sự này được tiến hành để trừng phạt nhà cầm quyền Việt Nam,
cụ thể là “bè lũ Lê Duẩn” và rằng quân đội cần giành được sự ủng hộ của nhân dân Việt
Nam.21 Chiến dịch vận động quần chúng của Trung Quốc tỏ ra có kết quả với dân chúng
và cán bộ Trung Quốc tại vùng biên, khiến họ có thể huy động hàng chục vạn dân công
tham gia các hoạt động bảo đảm an ninh và ti ếp tế cho quân đ ội. Hi ện t ại sau 34 năm
vẫn có tới trên 90% người dân Trung Quốc quan niệm rằng, năm 1979 Quân đội Nhân
20 Bruce Elleman (1996), “Sino – Soviet Relations and February 1979 Sino – Vietnam Conflict”, Texas University,
April 20. [truy cập ngày
04/5/2019 lúc 18:47]
21 Edward C. O'dowd (2007), Chinese Military Strategy in the Third Indochina War, Routledge, page 134

15


CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI VIỆT - TRUNG NĂM 1979
dân Việt Nam đã vượt biên giới sang tấn công Trung Qu ốc và b ắt bu ộc Trung Qu ốc ph ải
tự vệ đánh trả, cuộc chiến 1979 chỉ là cuộc phản công trước sự xâm lược của Việt
Nam.22
Đối với dân thường Việt Nam, Trung Quốc bỏ ra nhiều công sức tuyên truyền lôi
kéo người dân vùng biên, đặc biệt là với các dân tộc thi ểu s ố s ống v ắt qua biên gi ới hai
nước. Kết quả là trong ngày đầu của cuộc chiến, có nơi, quân Trung Quốc đã được dẫn
vòng qua đồn biên phòng tiến sâu vào đất Việt Nam mà không bị phát hiện. Tuy nhiên,
chính sách dân vận của qn Trung Quốc khơng thành cơng đối với người dân Việt Nam
vì “người Việt Nam rất yêu nước, thấm nhuần tư tưởng chính trị, giỏi chịu đựng, không
dễ bị lung lạc”.23
Chiến dịch hỗ trợ của Liên Xô cho Việt Nam

Vào năm 1979, trước việc Trung Quốc tấn công Việt Nam, Liên Xô đã khẳng định
kiên quyết: Quân đội và nhân dân Xô Viết sẵn sàng s ử dụng các gi ải pháp cu ối cùng đ ể
thực hiện nghĩa vụ quốc tế của mình với đồng minh Việt Nam. Ngày 18/2/1979, Liên Xô
ra tuyên bố ủng hộ cuộc chiến đấu của Việt Nam: “Nhân dân Việt Nam anh hùng, lại
vừa trở thành nạn nhân của cuộc xâm lược hơm nay, có đủ khả năng đ ể qu ật kh ởi cho
chính họ một lần nữa, và hơn thế họ có những người bạn tin cậy được. Liên Xô sẽ
nghiêm chỉnh tôn trọng những cam kết theo Hi ệp ước Hữu nghị và H ợp tác gi ữa Liên
bang Cộng hịa Xã hội chủ nghĩa Xơ viết và C ộng hòa Xã h ội ch ủ nghĩa Vi ệt Nam” .24 Ý
định bảo vệ Việt Nam của Liên Xô là hết sức nghiêm túc nhưng nếu cuộc tấn công
của Trung Quốc vẫn nằm trong phạm vi đối phó của Việt Nam thì Liên Xơ sẽ khơng can
thiệp quân sự, chỉ khi Trung Quốc tiếp tục leo thang chiến tranh thì Liên Xơ m ới tham
gia giải quyết xung đột. Liên Xô đã cung cấp cho Vi ệt Nam m ột s ố thông tin quân s ự thu
được từ vệ tinh do thám.
Hai hoạt động trợ giúp quân sự đáng kể nhất của Liên Xô là giúp h ỗ tr ợ v ận
chuyển hàng không quân đội Việt Nam từ biên gi ới Tây Nam về phía Bắc và tri ển khai
một số tàu chiến ngăn chặn tàu Mỹ ở Bi ển Đông vào đầu tháng 3. Trong không đ ầy m ột
tháng, Liên Xô đã tiến hành cơ động 20 nghìn quân của Việt Nam, hơn 1.000 đ ơn vị
22 Russlle D. Howard (1999), “ The China people’s liberation army: “short arms and slow legs”, Global Security,
September 28. [truy cập 05/5/2019 lúc
07:54]
23 Edward C. O'dowd (2007), Chinese Military Strategy in the Third Indochina War, Routledge, page 138
24Mark A. Ryan, David Michael Finkelstein, Michael A. McDevitt (2003), Chinese Warfighting: The Pla Experience
Since 1949, Bharat Rakshak Monitor, page 230

16


CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI VIỆT - TRUNG NĂM 1979
trang thiết bị chiến đấu, 20 máy bay quân sự và máy bay tr ực thăng, h ơn 3 nghìn t ấn vũ
khí trang bị, đạn và cơ sở vật chất phục vụ chi ến tranh từ Campuchia tr ở v ề mi ền B ắc

Việt Nam. Trong giai đoạn đầu tiên của cuộc xung đột đến tháng 3/1979, theo đ ường
vận tải biển, Liên Xô đã chuy ển đến Việt Nam hơn 400 xe tăng và xe thiết giáp, xe bộ
binh cơ giới, 400 khẩu pháo và súng cối, 50 tổ hợp pháo phản lực Grad BM-21, hơn 100
khẩu pháo phòng khơng, 400 tổ hợp tên lửa phịng khơng vác vai và hàng nghìn tên lửa,
800 súng chống tăng RPG-7, 20 máy bay tiêm kích.25
2.3.4 Phản ứng Quốc tế
Ngay khi cuộc chiến nổ ra, Mỹ tuyên bố giữ vị trí trung lập và kêu gọi “sự rút quân
lập tức của Việt Nam khỏi Campuchia và Trung Quốc khỏi Việt Nam”, nói rằng “vi ệc
Trung Quốc xâm lược Việt Nam là sự tiếp nối của việc Vi ệt Nam xâm l ược Campuchia”. 26
Nhưng theo đánh giá của Nayan Chanda, Mỹ đã là quốc gia ph ương Tây duy nh ất g ần
như ủng hộ cuộc xâm lược Việt Nam của Trung Quốc; trái với lời lên án việc Việt Nam
tiến đánh Khmer Đỏ là “một mối đe dọa cho hịa bình và ổn định trong khu vực”, tuyên
bố của Mỹ về cuộc tấn cơng của Trung Quốc có hàm ý bào chữa rằng “việc Trung Qu ốc
thâm nhập biên giới Việt Nam là kết quả của vi ệc Vi ệt Nam xâm l ược Campuchia”. 27
Ngồi Mỹ thì đa số các quốc gia phương Tây phản đối mạnh mẽ hành đ ộng qn s ự c ủa
phía Trung Quốc, sự cơ lập này đã ảnh hưởng khá l ớn tới chính sách ngo ại giao b ước
đầu mở cửa của Bắc Kinh khi đó.
Ngày 18/02, Chính phủ Liên Xơ ra tun bố lên án Trung Quốc xâm lược Việt
Nam: “Việc Trung Quốc tiến công xâm lược Việt Nam chứng tỏ một lần nữa rằng, Bắc
Kinh có thái độ vơ trách nhiệm biết nhường nào đối với vận mệnh của hịa bình và Ban
Lãnh đạo Trung Quốc sử dụng vũ khí một cách tùy tiện, đầy tội ác biết nhường nào!...
Những hành động xâm lược đó trái với những nguyên tắc của Liên Hợp Quốc, chà đạp
thô bạo luật pháp quốc tế, càng vạch trần trước tồn thế giới chính sách bành tr ướng
của Bắc Kinh ở Đông Nam Á”.28 Liên Xô viện dẫn hiệp định ký với Việt Nam, thúc gi ục
25 John D.Ciorciari (20103), “China and Pon Pot regime”, Taylor and Francis online, June 24.
[truy cập
03/5/2019 lúc 07:54]
26 Mỹ Hịa (2016),“Chiến tranh biên giới 1979: Khơng thể lãng qn”, Vietnamnet, đăng ngày 17/02/2016,
[truy cập ngày 04/5/2019 lúc 20:23]
27 Nayan Chanda (1986), Brother Enemy. The War after the War.Harcourt Brace Jovanovich, page 359

28 King C. Chen (1987), China's War with Vietnam, 1979: Issues, Decisions, and Implications, Hoover Press, page 111

17


CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI VIỆT - TRUNG NĂM 1979
Trung Quốc “ngừng trước khi quá muộn” và đòi Trung Quốc rút quân lập tức và toàn bộ.
Trong thời gian xảy ra cuộc chiến, Liên Xô đã lên án cuộc tấn công của Trung Quốc là
“hành động man rợ bất chấp đạo lý của kẻ cướp”, đòi Trung Quốc lập tức chấm dứt
“cuộc chiến tranh xâm lược” và cảnh báo Trung Quốc về lịng trung thành c ủa Liên Xơ
đối với Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Liên Xô - Việt Nam . Ngồi ra, Liên Xơ khơng có
hành động can thiệp quân sự mà chỉ hỗ trợ vận chuy ển bằng hàng khơng, tri ển khai h ải
qn ngồi bờ biển Việt Nam và tăng cường gửi cố vấn và chuyên gia quân sự sang Việt
Nam nhằm tránh đổ vỡ quan hệ vốn đã căng thẳng với Trung Qu ốc. Liên Xô cũng cảnh
báo Trung Quốc về việc đặt các lực lượng vũ trang Xơ Viết ở Siberi vào tình tr ạng s ẵn
sàng chiến đấu số 1 đồng thời cung cấp cho Việt Nam các thông tin quân sự thu được từ
vệ tinh do thám.
Tại Liên Hiệp Quốc, tranh cãi kịch liệt xảy ra xung quanh vấn đề an ninh ở Đông
Nam Á. Hai sự kiện Việt Nam đánh vào Campuchia lật đổ chế độ Khmer Đỏ và Trung
Quốc đánh vào Việt Nam cùng được đưa ra bàn luận. Hội đ ồng B ảo an b ị chia rẽ sâu s ắc
sau các cuộc họp vào các ngày cuối tháng 2. Các nước ASEAN muốn tất cả các lực lượng
quân sự nước ngoài rút quân về nước. Mỹ ủng hộ lập trường này. Liên Xô tuyên bố
không ủng hộ bất cứ nghị quyết nào không lên án Trung Quốc và địi Trung Quốc rút
qn. Ngày 23/02, Liên Xơ cùng Tiệp Khắc đưa dự thảo nghị quyết trong đó lên án
Trung Quốc xâm lược, đòi Trung Quốc rút quân và bồi thường chiến tranh cho Việt Nam,
và kêu gọi cấm vận vũ khí đối với Trung Quốc. Cịn Trung Qu ốc thì ch ỉ trích Liên Xơ
“khuyến khích Việt Nam tấn công Trung Quốc và xâm lược Campuchi”. 29 Ngày 24/02,
Trung Quốc đưa dự thảo đòi Việt Nam “lập tức rút quân hoàn toàn kh ỏi Campuchia”.
Cuối cùng, Liên Hợp Quốc không đi đến được một nghị quyết nào.


29King C. Chen (1987), China's War with Vietnam, 1979: Issues, Decisions, and Implications, Hoover Press, page 108

18


CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI VIỆT - TRUNG NĂM 1979

CHƯƠNG III: KẾT QỦA VÀ NHẬN XÉT VỀ CHIẾN TRANH
VIỆT – TRUNG NĂM 1979

BIÊN GIỚI

3.1Kết quả cuộc chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979
Tuy Việt Nam và Trung Quốc đều tuyên bố chiến thắng trong cuộc chi ến nh ưng
cả hai bên đều phải chịu thiệt hại nặng nề về người và của. Cuộc chiến đặc biệt để lại
nhiều tác hại lớn cho phía Việt Nam, đặc biệt là nền kinh tế. Ngoài các thương vong về
con người, tổn thất cụ thể về cơ sở vật chất hạ tầng ở 6 tỉnh biên gi ới bị phá hủy do
trận chiến, Việt Nam cịn phải gánh chịu nhiều khó khăn, thi ệt h ại do thái đ ộ và chính
sách thù địch, vây hãm mà Trung Quốc và đồng minh của Trung Quốc gây ra trên các mặt
trận quân sự, kinh tế, ngoại giao,...
Theo nhà sử học Gilles Férier thì có khoảng 25.000 lính Trung Quốc thiệt mạng và
gần 500 xe bọc thép hoặc pháo bị phá hủy, con s ố này phía Việt Nam cũng là gần tương
tự nhưng thấp hơn một chút. Tháng 4/1979, Báo Quân đội Nhân dân của Việt Nam ước

19


CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI VIỆT - TRUNG NĂM 1979
lượng tổng thương vong của quân Trung Quốc là 62.500 người. Phía Việt Nam có hàng
nghìn dân thường chết và bị thương, theo tạp chí Time thì có khoảng dưới 10.000 lính

Việt Nam thiệt mạng (con số này phía Trung Quốc là trên 20.000). Phía Trung Quốc bắt
được khoảng 1.600 tù binh trong tổng số hơn 50.000 quân Việt Nam tham chiến tại
mặt trận Lào Cai, Cao Bằng, Lạng Sơn.30
Cuộc chiến cũng đã gây ra những thiệt hại nặng nề về kinh tế cho Vi ệt Nam: các
thị xã Lạng Sơn, Cao Bằng, thị trấn Cam Đường bị hủy diệt hoàn toàn, 320/320 xã,
735/904 trường học, 428/430 bệnh viện, bệnh xá, 41/41 nơng trường, 38/42 lâm
trường, 81 xí nghiệp, hầm mỏ và 80.000 ha hoa màu bị tàn phá, 400.000 gia súc b ị gi ết
và bị cướp. Khoảng một nửa trong số 3,5 triệu dân bị mất nhà cửa, tài s ản và phương
tiện sinh sống. Để được Liên Xô tăng cường viện trợ, từ 27 tháng 3 năm 1979, Việt Nam
quyết định cho tàu qn sự Liên Xơ đóng ở cảng Cam Ranh. Về phía Trung Quốc, cuộc
chiến ngắn ngày đã tiêu tốn của nước này khoảng 1,3 tỷ USD và làm ảnh h ưởng l ớn t ới
quá trình cải tổ kinh tế.31
Về lâu dài, cuộc chiến mở đầu cho hơn 10 năm căng th ẳng trong quan h ệ và xung
đột vũ trang dọc biên giới giữa hai quốc gia, buộc Việt Nam phải thường xuyên duy trì
một lực lượng quân sự khổng lồ dọc biên giới, gây hậu quả xấu đến n ền kinh tế. Sinh
hoạt và sản xuất của người dân vùng biên giới bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Ngoài ra,
nhiều cột mốc biên giới cũng bị quân Trung Quốc phá hủy, gây khó khăn cho việc hoạch
định biên giới sau này.
3.2

Nhận xét về chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979
Cả Việt Nam và Trung Quốc đều tuyên bố chiến thắng. Phía Việt Nam, lời nói đầu

Hiến pháp Việt Nam năm 1980 khẳng định “Vừa trải qua ba mươi năm chiến tranh giải
phóng, đồng bào ta thiết tha mong muốn có hồ bình để xây dựng Tổ quốc, nhưng l ại
phải đương đầu với bọn bá quyền Trung Quốc xâm lược cùng bè lũ tay sai của chúng
ở Campuchia. Phát huy truyền thống vẻ vang của dân tộc, quân và dân ta đã giành đ ược
thắng lợi oanh liệt trong hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ qu ốc ch ống b ọn ph ản đ ộng
Cam-pu-chia ở biên giới Tây Nam và chống bọn bá quyền Trung Quốc ở biên gi ới phía


30 Mark A. Ryan, David Michael Finkelstein, Michael A. McDevitt (2003), Chinese Warfighting: The Pla Experience
Since 1949, M.E. Sharpe, page 226 - 228
31 Zhang Xiaoming (2005), China's 1979 War with Vietnam: A Reassessment, China Quarterly, page 851–874

20


CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI VIỆT - TRUNG NĂM 1979
Bắc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mình”. 32
Phía Trung Quốc, Đặng Tiểu Bình khẳng định mặc dù có nhiều thất bại về quân sự
nhưng Trung Quốc “đã đạt được chiến thắng về chính trị và chi ến th ắng chung cu ộc
trọng nhất của Đảng Cộng sản Trung Quốc cùng với ”.33 Theo đánh giá của tác giả King
C. Chen, quân Trung Quốc có lẽ đã đạt được 50-55% các mục tiêu có gi ới hạn của
mình. Bên cạnh thành cơng trong việc bám theo được khá sát các k ế ho ạch ti ến quân và
rút quân, quân Trung Quốc đã không đạt được kết quả như các mục tiêu đã công b ố: h ọ
đã khơng tiêu diệt được sư đồn nào của Việt Nam; không chấm dứt được xung đột có
vũ trang tại vùng biên giới; khơng buộc được Việt Nam rút quân kh ỏi Campuchia; không
gây được ảnh hưởng lên chính phủ Việt Nam trong vấn đề Hoa kiều.34
Trên phương diện quan hệ quốc tế, cuộc chiến Việt - Trung cho th ấy r ằng Trung
Quốc, với sự ủng hộ từ phía Mỹ, sẵn sàng can thiệp quân sự vào Việt Nam - một quốc
gia cộng sản từng là đồng minh trong nhiều năm, kết quả chi ến tranh cũng cho
thấy Việt Nam đủ sức chống lại sự can thiệp qn sự đó mà khơng phải điều động qn
chủ lực từ biên giới Tây Nam và miền Nam Vi ệt Nam. Nh ững s ự ki ện từ cu ộc chi ến cho
thấy mối quan hệ ngoại giao phức tạp Liên Xô - Trung Quốc - Việt Nam với kết quả là
Trung Quốc khơng thể tung tồn bộ lực lượng vào cu ộc chi ến nhằm “d ạy cho Vi ệt Nam
một bài học” vì chịu sức ép từ phía Liên Xơ, đồng th ời Liên Xơ cũng khơng s ẵn sàng tung
quân đội vào tham chiến bảo vệ đồng minh mà ch ỉ tập trung vi ện tr ợ kinh t ế, quân s ự.
Điều này đã khiến cho rất nhiều người Việt Nam sau đó nghi ngờ về đồng minh Liên
Xô cũng như đối với Liên Xô thật sự là một sự thất bại về uy tín. Kết qu ả cu ộc chi ến
cũng cho thấy Trung Quốc bất lực trong việc hỗ trợ đồng minh Khmer Đỏ trong cuộc

chiến với Việt Nam và thất bại trong việc điều chỉnh quan hệ ngoại giao để tăng cường
ảnh hưởng ở khu vực Đông Nam Á.
Nhiều quan điểm khác cho rằng Trung Quốc đã thất bại về quân s ự nh ưng l ại
đạt được một số thành công về chiến lược, trong đó có vi ệc chứng tỏ cho các
nước Đông Nam Á rằng họ sẵn sàng dùng vũ lực nếu vị thế và uy lực của mình b ị thách
thức.\

32 HIẾN PHÁP NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM NĂM 1980, Quốc hội Việt Nam.
33 Grant Evans, Kelvin Rowley (1984), Red Brotherhood at War - Indochina since the Fall of Saigon, London, page 78.
34 King C. Chen (1987), China's War with Vietnam, 1979: Issues, Decisions, and Implications, Hoover Press, page 114 116

21


CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI VIỆT - TRUNG NĂM 1979
Tiến sĩ Trương Hiểu Minh, từ trường Air War College, Mỹ, là tác giả cuốn sách
Deng Xiaoping's Long War: The Military Conflict between China and Vietnam 1979-1991,
ra mắt năm 2015 đánh giá: “Đối với Đặng, dạy Việt Nam bài học là thông điệp không chỉ
gửi cho Việt Nam mà cả cho Liên Xô, Mỹ và các nước phương Tây. Phản ứng của Vi ệt
Nam trước cuộc xâm lược là phòng thủ biên giới phía bắc, ti ếp tục chính sách thù đ ịch
với Trung Quốc, dựa vào Liên Xơ để có hỗ trợ tài chính và kinh tế. Để đáp lại, Mỹ và
phương Tây từ 1979 có vẻ quan tâm hơn việc cung cấp hỗ trợ tài chính và cơng ngh ệ
giúp Trung Quốc cải cách kinh tế. Mỹ khơng cịn nghĩ Trung Qu ốc là đe d ọa, tuy ch ưa
phải là đồng minh. Vì thế Mỹ có thể dốc tồn lực để đánh bại Liên Xô trong th ập niên
cuối cùng của Chiến tranh Lạnh. Bên trong Trung Quốc, Đặng khơng chỉ củng cố được
quyền lực chính trị mà cũng thực hiện cả nghị trình cải tổ kinh t ế. Liên Xơ ở trong tình
thế nhiều khó khăn trong thập niên cuối của Chiến tranh Lạnh. Vừa phải cạnh tranh
với Mỹ trên toàn cầu, Moskva cũng đối diện thách thức của Trung Quốc ở châu Á. Từ góc
nhìn chiến lược, cả Việt Nam và Liên Xơ đều gặp khó khăn hơn Trung Quốc. Vì thế Liên
Xơ rốt cuộc nhận ra họ không thể tiếp tục hỗ trợ Việt Nam vào cu ối th ập niên 1980.

Việt Nam phải tìm đến Trung Quốc, thừa nhận sai lầm chính sách từ 1978. Rốt cuộc,
Trung Quốc đã vượt mặt Việt Nam cả về chính trị và chiến lược”.35

KẾT LUẬN
Mục tiêu tuyên bố của cuộc “phản kích tự vệ” là để dạy cho Vi ệt Nam m ột bài
học. Tuy nhiên, thay vì dạy cho Việt Nam một bài h ọc, Trung Qu ốc đã h ọc đ ược bài h ọc
quân sự đắt giá của chính mình. Đánh giá về hệ quả cuộc chiến tranh biên giới Việt –
Trung 1979 cần đối chiếu với các mục tiêu của các bên đề ra tr ước cu ộc chi ến.
Trung Quốc không thể “dạy cho Việt Nam một bài học” như l ời Đặng Ti ểu Bình
đã nói. Trung Quốc khơng tác động được đường lối đối ngoại độc lập tự chủ của Vi ệt
Nam. Họ đã không buộc được Việt Nam phải rút quân kh ỏi Campuchia, c ứu được chính
35 Colonel G.D. Bakshi (2000), The Sino-Vietnam War-1979: Case Studies in Limited Wars, Bharat Rakshak Monitor,
page 60 -61

22


CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI VIỆT - TRUNG NĂM 1979
quyền Pol Pot. Trung Quốc cũng không gây được ảnh hưởng lên chính ph ủ Vi ệt Nam
trong vấn đề Hoa kiều, chính sách của Việt Nam đối v ới Trung Qu ốc, v ới Liên Xô, v ới
Mỹ. Họ cũng không đánh bại được ý chí của người Việt Nam trong tranh ch ấp hai qu ần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cuộc chiến tranh này tiếp tục thể hiện truyền th ống Đại
Hán theo đó Trung Quốc là cái nơi của thế gi ới, các qu ốc gia nh ỏ bé khác bên ngồi
Trung Quốc, trong đó có Việt Nam, là man di và phải là những chư h ầu trong vùng ảnh
hưởng của Trung Quốc, chịu sự dạy dỗ của Trung Quốc. Trung Qu ốc không thay đ ổi
được đường biên giới Việt – Trung theo ý Trung Quốc nhất là tại nh ững n ơi Công ước
Pháp – Thanh chưa giải quyết triệt để.
Mục tiêu của Việt Nam trong cuộc chiến biên giới là bảo v ệ được ch ủ quy ền lãnh
thổ; tiếp tục ủng hộ nhân dân Campuchia tiêu diệt chế độ diệt chủng Pol Pot đ ồng th ời
bảo vệ được sườn phía nam đất nước; bảo vệ được tính độc lập trong chính sách đối

ngoại; giải quyết các tranh chấp thông qua đàm phán hịa bình. H ầu h ết các m ục tiêu
này đều đã đạt được. Về tầm nhìn chiến lược, Vi ệt Nam đã thành cơng trong c ứu mình,
cứu dân tộc Campuchia khỏi nạn diệt chủng của Khmer Đ ỏ. Dù mu ộn m ằn nhưng th ế
giới cũng đã nhìn nhận lại những cống hiến của Vi ệt Nam trong đ ấu tranh ch ống t ội ác
diệt chủng của Pol Pot và giúp dân tộc Campuchia hồi sinh trong nền hịa bình lâu dài.
Xét từ góc độ lý thuyết, trường hợp Campuchia là kết quả hoàn hảo của can thi ệp nhân
đạo từ ngồi vào, trong đó quốc gia được hỗ trợ đã hồi sinh và phát tri ển mạnh mẽ
trong hịa bình trong khi các trường hợp Aghanistan, Iraq, Nam Tư cũ, Syria v ới s ự can
thiệp của Mỹ, phương Tây, NATO, Nga đến nay vẫn chưa giải quyết xong hậu quả.
Tuy nhiên một lần nữa, lịch sử lại nhắc lại các bài học đáng giá cho Vi ệt Nam.
Bài học cảnh giác và lợi ích quốc gia trên hết. Niềm tin vào nh ững người anh em
cùng chung ý thức hệ đã làm Việt Nam mất cảnh giác, không tin b ị tấn công trong c ả hai
cuộc chiến biên giới Tây Nam và phía Bắc. Cuộc chiến 1979 cho thấy trong quan hệ
quốc tế, lợi ích quốc gia là cao nhất, trên cả tinh thần qu ốc tế vô s ản và nhi ều khi các
bên sẵn sàng sử dụng vũ lực để đạt mục tiêu chính trị. Dù có m ột đi ều nhìn chung đ ược
cơng nhận là Việt Nam đã dạy cho Trung Quốc một bài h ọc quân s ự trong năm 1979,
điều cũng đúng không kém là Trung Quốc đã dạy cho Vi ệt Nam m ột bài h ọc chính
trị. Bài học đầu tiên mà Việt Nam học được là Trung Quốc sẽ s ử dụng vũ l ực khi c ần
thiết để đạt được các mục tiêu chính trị quan trọng, bất k ể các l ời tuyên b ố trong quá
khứ về nguyên tắc

23


CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI VIỆT - TRUNG NĂM 1979
Bài học tự cường, độc lập trong các quyết định. Là nước nhỏ, Việt Nam rất cần sự
ủng hộ, giúp đỡ của các nước khác, cần đồng minh trong các m ối quan h ệ qu ốc t ế song
cũng cần tỉnh táo không nghiêng về bên nào, không đánh đổi độc l ập chủ quy ền l ấy m ột
sự giúp đỡ vật chất hay tinh thần. Cuộc chiến 1979 là hậu qu ả của hai tr ục quan h ệ, ở
cấp khu vực là Việt Nam – Campuchia – Trung Quốc, ở cấp qu ốc tế là tr ục Trung Qu ốc –

Liên Xô – Mỹ. Hiệp ước Việt – Xơ 1978 đóng vai trị phụ trong cu ộc chi ến. Liên Xô ch ỉ
tăng cường viện trợ kinh tế, quân sự và chưa sẵn sàng dùng quân đ ội giúp Vi ệt Nam
chống xâm lược. Bằng sự độc lập, tự cường và lịng u nước cao độ của mình, Vi ệt Nam
đã thoát khỏi thế là con tốt trong bàn cờ chính trị quốc tế. Chiến tranh 1979 đã t ạo c ảm
hứng cho chính sách đối ngoại của Việt Nam nh ững năm sau này; mu ốn làm b ạn và s ẵn
sàng làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, không phân bi ệt ý th ức hệ, th ể ch ế, trên
cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tơn tr ọng luật quốc tế. Đó cũng
là tiền đề cho chính sách “ba khơng” của quốc phịng Việt Nam: “không tham gia các liên
minh quân sự, không là đồng minh quân sự của bất kỳ n ước nào, không cho b ất c ứ n ước
nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia.”
Bài học phải tận dụng mọi thời cơ để giảỉ quyết dứt điểm vấn đề biên gi ới lãnh
thổ, tạo mơi trường hịa bình ổn định để phát tri ển đất nước. Tranh ch ấp biên gi ới lãnh
thổ ln là ngịi nổ cho hầu hết các cuộc chiến tranh. Khía c ạnh tranh ch ấp biên gi ới đã
bị các yếu tố khác của cuộc chiến làm lu mờ nhưng thực sự đó là vấn đề lớn. Vì vậy một
trong những nhiệm vụ đầu tiên sau bình thường hóa quan hệ là đàm phán gi ải quy ết
biên giới lãnh thổ.
Bài học về xây dựng đất nước. Muốn xây dựng đất nước phải giữ cho được “trong
ấm ngồi êm”. Việt Nam mạnh lên mới có th ể bảo đảm tránh đ ược các cu ộc xung đ ột vũ
trang, mới có tiếng nói và tự quyết định vận mệnh mình. Chính sách đ ối ngo ại c ủa Vi ệt
Nam phải tạo được môi trường hịa bình, ổn định thuận lợi cho phát tri ển kinh tế, xây
dựng tiềm lực cho đất nước.
Cuộc chiến 1979 là một vết đen trong quan hệ hai nước đã từng sát cánh giúp đ ỡ
nhau trong đấu tranh giành độc lập. Quan hệ hữu nghị không thù ngh ịch gi ữa nhân dân
hai nước không dễ thay đổi và một lần nữa lại vượt lên những bất đồng. Song nó khơng
cịn là quan hệ như trước vì vẫn cịn tồn tại những bất đồng về đánh giá cu ộc
chiến. Sau bình thường hóa quan hệ năm 1991, hai nước th ỏa thuận không tuyên
truyền nhiều về cuộc chiến 1979, khơng kỷ niệm chính thức cu ộc chi ến. Trung Qu ốc

24



CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI VIỆT - TRUNG NĂM 1979
không muốn gợi lại cuộc chiến với những yếu kém của quân đội; khơng muốn có nh ững
bằng chứng liên quan đến Khmer Đỏ khi Tòa án quốc tế xét xử tội ác di ệt ch ủng; không
muốn gây lại thù hằn với Việt Nam, đẩy nước này xích lại gần Mỹ. Việt Nam khơng
muốn lại tái hiện tình thế nằm giữa hai gọng kìm trên bộ và bi ển; khơng mu ốn b ị cô l ập
với thị trường lớn thứ hai thế giới và đóng vai trị quan trọng trong trao đổi thương mại;
khơng muốn các thế lực bên ngồi lợi dụng chủ nghĩa dân tộc gây m ất ổn đ ịnh. Nh ững
bài học rút ra từ hai phía là cần thiết, không phải đ ể nuôi d ưỡng h ận thù, mà đ ể tránh
những sai lầm lặp lại, vun đắp cho tình hữu nghị giữa hai nước láng giềng

TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
*Sách
1. Bộ ngoại giao Việt Nam (1979), Văn kiện: Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc
30 năm qua, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật.

25


×